Tản mạn năm Thân

Cao Nguyên

Thấm thoát Đông qua Xuân đến, thời gian cứ thế trôi đi như nước qua cầu, hết Mùi qua, Thân đến. Năm nay Xuân về sớm, mới chào tân niên 2016 đầu tháng thì cuối tháng lại đưa ông Táo về trời để chuẩn bị đón mùa Xuân Bính Thân lại về.
Trong lịch Gregory, năm Thân là năm chia hết cho 12. Năm Thân là một chi trong 12 địa chi âm lịch và tương ứng với con Khỉ :
Tuổi Thân con khỉ ở lùm,
Chuyền qua chuyền lại, lọt ùm xuống sông!
Rồi tủi thân than thở
Người ta tuổi Ngọ tuổi Mùi
Sao tôi cứ mãi ngậm ngùi tuổi Thân ?
Và còn bị chê trách :
Chẳng ai trách Ngọ trách Mùi
Mà sao lại cứ ngậm ngùi trách Thân
Như trong bài dân ca Phú Yên:
Thân trách thân, thân sao lận đận
Mình trách mình số phận gian nan

Tuổi Thân cầm tinh con khỉ. Phương Tây cho con khỉ theo thuyết tiến hoá của Charles Darwin thành người, còn Đông phương cho con khỉ biến hoá thành thần như Tề Thiên tu luyện nghìn năm thành người trong Tây du ký. Dù Đông hay Tây, khỉ muốn biến hoá thành người thì phải cần đến triệu năm nhưng từ người thành khỉ thì chỉ cần vài chục năm ở trong khu là thành một đàn khỉ đỏ đít ngay thôi.
Thế đấy, đầu năm mà nói chuyện khỉ (!) thì... e rằng không nên, vì rằng chuyện khỉ gió, khỉ khọt là chuyện tào lao, bông lơn không đứng đắn (!), nhưng năm Thân không nói chuyện khỉ thì phải nói chuyện gì bi giờ ?!
Con khỉ, nói cho ngay, được nhắc đến trong những câu thành ngữ như bố khỉ! có cái khỉ khô, khỉ mốc gì đâu!, làm trò khỉ, rung cây nhát khỉ, khỉ ho cò gáy, bắt chước như khỉ, nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà, nhăn nhó như khỉ ăn mắm tôm; khỉ ăn gừng... Khỉ chê khỉ đỏ đít, chó chê chó lắm lông (!) Khỉ bồng con lên non kiếm trái, Cảm thương nàng phận gái mồ côi. Tán kiểu này thì đúng là đồ... khỉ gió.
Và chắc chắn anh em hướng đạo không bao giờ ưa thích đám con cháu nhà Bandar-Log này đâu. Bằng chứng là chẳng ai dám có tên rừng là Khỉ dù là Khỉ ngăn nắp, Khỉ đảm đang, Khỉ láu lỉnh, Khỉ khôn ngoan hay Khỉ gió... gì gì đi nữa.
Thế nhưng những danh nhân trong lịch sử nước ta như Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh, Đào Duy Từ, Nguyễn Tri Phương, Phan Chu Trinh, Phạm Hồng Thái... đều là những người sinh vào năm Thân đấy.

Thời tiền chiến, tác giả các nhạc phẩm được nhiều thế hệ thanh niên yêu thích như "Cô hàng cà phê" (Ở chợ Dầu có hàng cà phê, có một cô nàng be bé xinh xinh. Cô hay cười hồn xuân phơi-phới, cứ xem dáng người mới chừng đôi mươi. Làn thu ba cô liếc nghiêng thành, mùi hương lan thơm ngát vương bên mình...) hay bài "Đi với tôi" (“Ði với tôi đến chốn trời xa. Bên suối mơ là nhà của ta, Tay đàn miệng ca và mơ màng ta múa, Gót chân theo nhịp bước thần tiên. Có ai hát hay như tôi tuy không có dài hơi. Người nào chán và buồn tình đời đều cùng yêu tôi...”). Đó là nhạc sĩ Canh Thân sinh năm 1920 (canh thân) và không rõ năm mất và cũng không biết rõ tên thật của ông. Nhưng nhắc đến ông vì có lẽ ông cũng là một tráng sinh hướng đạo vào thời đó như nhạc sĩ Hoàng Quý (tác giả các bài Trên sông Bạch Đằng, Gọi bạn lên đường, Tiếng chim gọi đàn, Bóng cờ lau, Nước non Lam Sơn...) trong nhóm Đồng Vọng. Nhóm Đồng Vọng xuất phát từ những tráng sinh biết âm nhạc của phong trào Hướng đạo. Theo nhạc sĩ Tô Vũ: " Nhóm Đồng Vọng được thành lập vào năm 1939 do nhạc sĩ Hoàng Quý làm nhóm trưởng, thành viên là các nhạc sĩ: Phạm Hổ, Canh Thân, Hoàng Phú và sau đó là Văn Cao.".." Các thành viên của nhóm Đồng Vọng sáng tác với hai mảng nội dung: Nội dung về thanh niên lịch sử - viết về những sinh hoạt lành mạnh vui tươi đó là những bản nhạc được công khai phổ biến trong những tập nhạc của Đồng Vọng. Bên cạnh đó còn có những bài nhạc mà nhạc sĩ Hoàng Quý gọi là nhạc tâm tình, ngày nay chúng ta thường gọi là nhạc lãng mạn, tình ca... Những bản nhạc này không phổ biến rộng rãi, không in vào những tập nhạc Đồng Vọng mà chỉ phổ biến trong phạm vi hẹp với những bạn bè tri kỷ."
“Nhóm Đồng Vọng được nhà xuất bản Lửa Hồng rồi tạp chí Tri Tân ở Hà Nội giúp đỡ. Lửa Hồng đã ấn hành 12 tập nhạc, mỗi tập có từ 8 đến 12 bài như các tập: Bên sông Bạch Đằng, Nước non Lam Sơn, Tiếng chim gọi đàn, Bóng cờ lau, Nắng tươi, Chiều quê của Hoàng Quý, Về đồng quê của Văn Cao, Ngày xưa của Hoàng Phú... chủ yếu theo xu hướng nhạc hùng có nội dung ca ngợi đất nước, ca ngợi truyền thống anh hùng của dân tộc.
Ngoài những bản hùng ca viết cho thanh niên, phong trào khỏe và hướng đạo, nhóm Đồng Vọng còn đề lại nhiều bài tình ca khác. Cùng với nhóm Nhóm Tổng hội Sinh viên của Lưu Hữu Phước, Đồng Vọng đã để lại những ảnh hướng lớn tới tân nhạc Việt Nam.”

Chúng ta cũng đã có những năm Thân đáng ghi nhớ trong lịch sử oai hùng của dân tộc điển hình như:
Năm Giáp Thân 1284, Hội Nghị Diên Hồng do Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông triệu tập để trưng cầu ý dân về chủ trương HÒA hay CHIẾN với quân Nguyên Mông. Cũng năm đó, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã truyền “Hịch tướng sĩ” chuẩn bị chống 50 vạn quân Nguyên Mông lúc đó toan tính sang xâm lược nước ta lần thứ II.
Năm Bính Thân 1416, Lê Lợi tổ chức Hội thề Lũng Nhai (Thanh Hóa), cùng 18 vị anh hùng hào kiệt tổ chức lễ tế cáo trời đất, khởi nghĩa đánh giặc Minh.
Năm Mậu Thân 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu Quang Trung rồi xuất quân ra Bắc lần thứ hai đã đánh bại 29 vạn quân Thanh xâm lược và đã chiến thắng oai hùng ngay trong mùa xuân Kỷ Dậu 1789 sau đó.
Nhưng năm Thân chúng ta lại nhớ đến biến cố Tết Mậu Thân 1968 là một mùa xuân lửa máu, tang tóc cho đồng bào các tỉnh thành miền Nam, nhất là tại Huế. Ngoài cái tang chung của dân tộc, Hướng Đạo Việt Nam còn mất đi hai Trưởng tiền bối tài ba và đức độ của Phong Trào và Trưởng Gà hùng biện Trần Điền và Trưởng Hồng sơn dã mã Võ Thanh Minh. Hai vị đã bị Cộng sản sát hại dã man trong những ngày Tết Mậu Thân 68 chúng chiếm Huế.

Lần dở những trang sử đau thương của đất nước để nhớ lại mùa Xuân Mậu Thân 48 năm về trước, chúng ta không khỏi ngậm ngùi tưởng nhớ hai trưởng tiền bối Võ Thanh Minh và Trần Điền.

Trưởng Hồng Sơn Dã Mã Võ Thành Minh (1906-1968)
Là một Trưởng huyền thoại của Hướng Đạo Việt Nam, được quí trọng và kính ngưỡng vì cuộc đời lạ lùng của ông; đời thường cũng như đời HĐ: Độc thân. Lang thang. Tự lập.
Là người VN đầu tiên dùng xe đạp du hành vòng quanh xứ Đông Dương, trong bộ đồng phục HĐ để cổ võ cho phong trào.
Là người đưa phong trào Hướng đạo đến miền Trung VN, là Tổng Ủy viên đầu tiên của Hướng Đạo Trung Kỳ. Là Tổng Thư ký đầu tiên của Hướng Đạo Đông Dương.
Một trong những Huynh Trưởng có Huy Hiệu Rừng đầu tiên của HĐVN.
Thành lập tráng đoàn Bạch Mã ở Huế. Là Người Tráng sinh khai mở ngành Đường (Tráng) Việt Nam (năm 1935, Trưởng Hồng Sơn Dã Mã Võ Thành Minh là người đầu tiên được lên đường ở VN, 1936 Trưởng Gà Hùng biện Trần Điền).
Năm 1954 tại Thụy Sĩ, trưởng ngồi thổi sáo tuyệt thực bên hồ Leman để phản đối việc chia cắt đất nước.
Sau Hiệp định Genève đất nước bị chia đôi, ông buồn bã lang thang ở các nước phương Tây như Pháp, Anh, Hà Lan, Bỉ, Tây Đức và sang cả Mỹ để vận động hòa bình cho đất nước VN thân yêu.
Trưởng Dã Mã Võ Thành Minh là người suốt đời dâng trọn tâm huyết của mình cho tổ quốc và Tết Mậu Thân 1968 "ông đã bị cộng sản bắt theo với ba nghìn dân Huế đưa vào rừng. Ở đấy người ta đã hành quyết ông. Người đệ tử cuối cùng của cụ Phan Bội Châu. Người Nho sĩ Việt Nam cuối cùng của thế kỷ XX".

vo thanh minh
Trưởng Võ Thành Minh (Hồng Sơn Dã Mã)

Trưởng Gà Hùng Biện Trần Điền(1911-1968)
Dòng dõi quan Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành, một bậc danh quan trung hậu triều Tự Đức, nhà Nguyễn. Trưởng là một nhà hoạt động thanh niên và xã hội nổi tiếng từ 1934 trong Phong Trào Hướng Đạo Việt Nam. Là một trong những người đầu tiên lập tráng đoàn Hướng Đạo tại Huế và tổ chức trại huấn luyện trung ương ở Bạch Mã (Thừa Thiên). Năm 1934, Trưởng chủ trương tạp chí "Bạn Đường" tại Thanh Hóa, ngoài mục đích huấn luyện Hướng đạo sinh, còn thêm phần nghị luận về văn chương và xã hội. Trưởng cũng đã thành lập một Ban Văn Nghệ của Hướng Đạo để đi trình diễn nhiều nơi, rất thành công. Là một trong những trưởng Hướng Đạo đầu tiên được lãnh "Bằng Rừng" và đã tham dự trại họp bạn quốc tế của tổ chức Hướng Đạo tại Úc (1952), được bầu chức Tổng ủy viên Hướng Đạo toàn quốc năm 1966 Trưởng được anh em Hướng Đạo quý mến như là bậc đàn anh đáng kính. Tết Mậu Thân Trưởng và toàn gia phải chạy lánh nạn tại dòng Chúa Cứu Thế (Huế) và đã bị CS sát hại dã man.
Trưởng Sói Lịch Thiệp trong bài "Những người đã chết không chết uổng, nhớ trường Trần Điền" đã kết luận:
"Trưởng Trần Ðiền đã chết với danh nghĩa một nghị sĩ. Một đại biểu của dân. Trưởng chết như một chiến sĩ, giống như những người lính khác bị bắn trước mũi súng bên địch. Trong cuộc nội chiến vì ý thức hệ bất đồng diễn ra tại nước Việt Nam trong thế kỷ 20, Trần Ðiền đã chọn đứng về một phe vì trưởng tin vào lý tưởng mọi người có quyền sống tự do, bình đẳng, sống chính trực không cần gian dối..."
"Tưởng niệm Trưởng Trần Ðiền và những đồng bào đã chết, các chiến sĩ tử vong trong Tết Mậu Thân, chúng ta có thể nhớ lại một câu của Abraham Lincoln, trong bài diễn văn ngắn ngủi tại Nghĩa Trang Gettysburg, năm 1863, cuối thời nội chiến Nam Bắc ở Mỹ. Lincoln ca ngợi các tử sĩ: “Chính chúng ta, những người còn sống, phải hết sức làm tiếp những việc đang làm dở mà những người chết ở đây đã chiến đấu để cố đạt được... Chúng ta phải quyết tâm làm sao cho những người đã chết không chết uổng... để một chính quyền của dân, do dân và vì dân sẽ không tàn lụi trên trái đất này.”

tran dien
Trưởng Trần Điền (Gà Hùng Biện)

Vâng, rất đúng! thưa Trưởng; những cái chết như Trưởng Võ Thành Minh, Trần Điền cũng như rất nhiều anh hùng, anh thư dân tộc không là những cái chết uổng phí bao giờ!
Năm Bính Thân lại về , chúng ta hãy tạm quên đi dư âm đau thương của Tết Mậu Thân xa xưa để hướng về một tương lai tươi sáng cho đất nước như câu sấm Trạng Trình
"Thân Dậu niên lai kiến thái bình".

Xuân Bính Thân 2016
GÀ TỒ

vo thanh minh
Trưởng Võ Thành Minh ( Hồng Sơn Dã Mã) đứng nói chuyện ở Đạo Quán An Hải ( Đà Nẵng) hai tuần trước Tết Mậu Thân 68. Sau đó ông ra Huế cứu trợ nạn nhân chiến cuộc và đã bị CS bắt tại nhà thờ Cụ Phan Bội Châu và bị thủ tiêu mất tích.

cao ngọc cường, đđsn
 

Trích: Giải khăn sô cho Huế - Nhã Ca

Chương 5
Người ở Từ Đàm về kể chuyện
Bốn ngày liền, tôi nằm dưới hầm tối và trong bốn ngày, tôi đã phải nhịn ăn hết hai. Sáng hôm nay, đứa em gái bò lên khỏi hầm lục lọi đâu được khúc bánh tét đã mốc meo. Nó bò xuống, lột lá và cứ đút từ miệng người này cắn một miếng tới miệng người khác.
Tôi đã chán ngán tuyệt vọng lắm rồi. Trước đó vài tiếng đồng hồ, tôi có cảm tưởng cứ nhịn đói như thế này cho tới lúc mệt lả, thiếp đi, rồi đi vào một giấc ngủ vĩnh viễn thì thật là sung sướng. Dù sao cũng sung sướng hơn cõi sống mà chúng tôi đang hứng chịu. Nhưng khi nghe mùi thơm của nếp, mùi mốc của lá, và miếng bánh tét đưa đến gần, miệng tôi bỗng mở ra toác hoác, một niềm sung sướng đến hoan lạc, một hạnh phúc chất ngất khi miếng bánh đã nằm trong miệng.
Nước miếng trào ra và cứ quấn quít ve vãn quanh mùi nếp mịn và thơm ngát đến lịm người.
Không, cái chết thật là tàn nhẫn, không làm cho người ta sung sướng như tôi tưởng. Mặc kệ những tiếng nổ ình ình bên ngoài, mặc kệ tiếng đào xới ngay trên đất, như trên đầu mình, mặc kệ cái ám ảnh anh lính giải phóng trẻ tuổi gác trước cổng nhà luôn luôn đưa mũi súng nhắm quanh sẵn sàng nhả đạn. Miếng bánh trong miệng tôi như một hạnh phúc tuyệt đối mà chỉ có người may mắn nhất, hy hữu nhất, mới được bắt gặp trong đời mình một lần. Miếng bánh càng nhỏ đi, nước miếng trong miệng càng tưới chảy và không dừng được hoan lạc, ham hố, tôi nhai ngấu nghiến. Lúc đó, tôi tỉnh lại đôi chút, tôi nói như rên lên:
"Còn miếng mô nữa không, cho tui miếng nữa."
Cô em gái còn miếng bánh chót định đưa lên miệng, nghe tiếng nói của tôi liền ngừng lại:
"Anh ăn đi."
Tôi nhìn thấy đôi mắt nó hết sức buồn rầu qua ánh nến thắp tít trong góc hầm.
"Ăn đi chứ."
Tôi không kịp đưa tay ra lấy mà chỉ há miệng. Một miếng bánh nữa, một hạnh phúc tuyệt vời nữa tới. Tôi thật sung sướng quá, hai lần hạnh phúc tới chỉ cách nhau trong giây phút.
Lúc này thì tôi tỉnh người lại rồi. Tôi vươn vai, mới biết là xương sống mình nhức mỏi một cách kỳ lạ. Nhưng cùng lúc đó tôi bỗng nghe thấy tiếng đàn hát vọng xuống. Tiếng đàn bầu, đàn tranh, đàn nguyệt và có cả tiếng ngâm thơ nữa.
"Ai đó hỉ?"
Em gái tôi thì thầm:
"Ôn Võ Thành Minh đó."
Võ Thành Minh, con người trào lưu cũ, của thời Phan Bội Châu, Kỳ ngoại hầu Cường Ðể, còn lưu lạc lại giữa thời đại này để chịu chung số phận với thành phố, đã làm gì vậy? Hình như hôm qua, em gái tôi cũng đã thì thầm kể cho cả nhà đang ở dưới hầm nghe về nhân vật kỳ lạ này, nhưng tôi đói lả, tôi có nghe gì đâu. Tiếng đàn lúc này nổi lên thật rõ dù tiếng đại bác vẫn ầm ầm nổ khắp nơi và mọi người trong hầm ôm chặt lấy nhau. Con em gái tôi đeo cứng ở một bên vai tôi và run lập cập:
"Kêu con Trúc xuống chớ má."
Má tôi lắc đầu:
"Kệ nó, ai mà nói nổi."
Tiếng hát tiếng đàn, tiếng ngâm thơ ngưng bặt sau một vài tiếng nổ gần đến nỗi như ngay trên mái nhà, trên đầu mình. Nhiều tiếng hô lớn:
"Xuống hầm."
Ðám người trong hầm nhích chật lại, vài người trườn xuống. Má tôi hỏi nhỏ:
"Con Trúc có đó không?"
Tiếng con Trúc trả lời:
"Con đây nì má."
Tôi nghe tiếng Trúc thì thầm với con Oanh:
"Thằng đó chạy núp trong nhà mình, chắc nó tìm chị."
Con Oanh làm thinh. Tôi đoán con Trúc ám chỉ tên lính Việt cộng gác ở trước nhà. Mỗi lần đại bác câu tới, hắn thường núp trong nhà chớ ít khi xuống hố cá nhân như đồng đội. Ngay khu nhà này có một tổ ba người coi gác và hình như hắn là tổ trưởng. Một người nào đó gắt:
"Khỉ, đừng xì xầm nữa."
Mọi người im lặng, nín thở, những giây phút căng thẳng tột cùng này, chúng tôi đã chịu đựng rất nhiều giờ qua.
Tôi biết ông Minh không xuống hầm chúng tôi. Tôi đoán ông đang núp ở một hầm nào khác. Có tiếng đàn bà khóc. Trúc thì thầm:
"Bà giáo sư Lê Văn Hảo đó. Anh nì, bà nói với em ông chồng bà biết có đánh nhau, trước Tết dặn bà mua mấy tạ gạo để sẵn."
Oanh gắt:
"Kệ mụ, cứ khóc trù trù. Răng ông chồng đi cổ động la hét cho quân giải phóng mà để vợ con chết sợ trong hầm ni rứa. Nghe nói thêm ghét."
Nhưng tôi không ác như Oanh, tiếng khóc của người đàn bà làm tôi càng thương hại. Mấy ngày tôi không dám ra khỏi hầm, sợ mấy anh lính giải phóng biết tôi núp trong hầm này. Kệ, ai bảo tôi hèn thì bảo, tôi lo lấy mạng sống của tôi trước đã.
Tuy kẹt cứng dưới hầm, nhưng chuyện xảy ra trên mặt đất tôi đều được hai cô em gái tường thuật đầy đủ. Nhà bên bác Bảy đã sập, trường tiểu học bỏ không, lính Xây dựng Nông thôn về canh gác mấy bữa Tết đã quăng súng mà chạy. Ở ngã ba nào có cờ giải phóng treo. Ông thợ may già trong xóm bị giết, xác vùi nông trong khu đất trường tiểu học Cộng đồng.
Bà Hảo, vợ ông giáo sư đang vang danh với cuộc giải phóng cố đô Huế, vẫn cả ngày khóc lóc, đi đứng không vững, đeo lấy áo ông Võ Thành Minh. Cả đến lũ con, bà cũng không đủ sức săn sóc nữa. Bao nhiêu hào hùng, bao nhiêu gan dạ, can đảm trong một người đàn bà đã bị ông chồng hút hết rồi chăng. Dù nghĩ vậy, tôi cũng không giận bà.
Khi tiếng súng thưa bớt, tôi lại nghe tiếng đánh máy chữ trên miệng hầm lóc cóc. Chắc mấy anh bộ đội vớ được máy chữ, làm ra điều quan trọng, đánh tờ trình hoặc báo cáo chăng? Không phải, tôi nghe tiếng người già ho húng hắng, rồi tiếng ông Minh gọi:
"Con Oanh mô rồi, lên đây ông nhờ chút mi."
Oanh chui lên khỏi miệng hầm, má tôi kéo lại:
"Ðừng có lên."
Nhưng con bé cứng đầu:
"Hết bắn rồi mà mạ sợ chi."
Nói xong nó đã khuất dạng. Tôi ló đầu lên theo. Má tôi ghì đầu tôi lại:
"Tui lạy anh, anh chui xuống cho."
Nhưng tôi vẫn cứ ló đầu ra khỏi miệng hầm. Bốn ngày, tôi đâu nhìn thấy mặt trời. Tôi thèm một chút không khí bên ngoài, và ao ước được nhìn thấy một ngọn lá cây lay động để còn biết được mình chưa bị cách biệt với sự sống, với cỏ cây, với mọi hơi thở. Dù ao ước vậy, tôi vẫn chả trông thấy gì hết, căn nhà thờ tối lù mù, một ngọn nến nhỏ bị che khuất sau một cái cột lớn. Oanh, cô em của tôi đã bò tới tận góc nhà, nơi ngọn nến lung lay sáng.
Tôi phải dụi mắt hai ba lần mới nhìn quen được mọi vật trong khu nhà thờ. Ông Võ Thành Minh đang ngồi trên một cái ghế bông, trước mặt là một cái ghế thấp kê bàn máy đánh chữ. Ông không đánh máy mà có vẻ ngồi ngẫm nghĩ. Oanh ghé sát mặt đọc gì trên tờ giấy. Tôi cố nhìn ra phía cửa sổ, nhưng không thấy gì hết. Cánh cửa sổ đóng kín mít. Tôi muốn bò lên ghê lắm nhưng tay má tôi vẫn túm lấy vai áo sẵn sàng kéo tôi trở vào.
Có tiếng la thét ở ngoài. Tiếng đập cửa khẩn cấp. Lúc này không đợi má tôi kéo nữa, người tôi chui xuống hầm rất nhanh, rồi chui vào cái kẹt riêng dành cho tôi. Có cái ngách nhỏ này, nếu họ rọi đèn pin xuống hầm cũng khó kiếm thấy tôi. Má tôi nhất định bắt tôi trốn, không để họ trông thấy.
Có tiếng mở cửa ở bên trên, nhiều tiếng chân vào nhà. Con Oanh chui xuống, nó lết lại phía tôi, thì thầm:
"Họ vô đầy nhà."
"Họ có hố cá nhân, vô mần chi?"
"Hết bắn rồi, họ vô nhà lục soát."
Oanh nói chưa hết câu thì tiếng chân đã đi tới miệng hầm. Một ánh đèn pin chiếu xuống, Oanh vội dúi tôi vào vách, kéo mép chiếu trải hầm che lại rồi ngồi tựa lưng vào. Tiếng người ở trên hầm vọng xuống:
"Lên hết trên nhà để kiểm soát."
Tiếng ông Võ Thành Minh hết sức bình tĩnh:
"Cả nhà lên hết đi. Toàn đàn bà con nít mà sợ chi. Lẹ lên đi."
Má tôi chui ra trước, rồi trẻ con, người lớn, bà già đều lên theo. Oanh lên cuối cùng, ánh đèn pin quét qua quét lại mấy lượt. Tim tôi như ngừng đập. Tiếng người trên hầm dõng dạc:
"Còn ai nữa, lên hết đi."
Giọng má tôi run run:
"Dạ hết rồi."
Tiếng ông Võ Thành Minh:
"Không tin mấy anh cứ xuống mà soát. Sợ hơn thì bắn vào một loạt đạn cho ăn chắc."
Tôi lạnh cả người, tay chân cố giữ mà vẫn run lập cập. Nhỡ nó bắn vào thật thì làm sao. Tôi muốn kêu thét lên nhưng tay tôi đã tự bịt kín lấy miệng mình.
"Má ơi, má ơi."
Tiếng kêu thầm trong đầu tôi đầy rẫy tuyệt vọng. Nhưng tiếng cười trên miệng hầm đã giúp tôi yên tâm đôi chút:
"Thôi, đứng sắp hàng lại đi. Anh em ai đó mở giùm cửa sổ cho sáng."
Tôi thở phào, nhưng ngực còn nặng như bị đè bởi tảng đá nghìn cân. Chưa thoát đâu. Tôi nép sát vào ngách hầm. Hơi đất lạnh ngấm vào người tôi buốt giá. Tiếng nhiều người trên nhà lao xao.
"Ðàn bà con nít hết hả. Bà ni răng khóc dữ rứa?"
"Dạ, tui bị lạc mất chồng tui."
"Ði họp hả?"
"Dạ chồng tui là ông giáo sư Hảo."
Giọng ông Võ Thành Minh:
"Chồng chị ni đi lập mặt trận Liên Minh Dân Tộc hay Hòa Bình hòa biếc chi đó mà không chịu đi đón vợ con. Các đồng chí có gặp thì nhắn ông ta về rước vợ rước con để vinh nhục cùng chịu chớ. Ông ham làm cách mệnh chi mà vợ con chết sống không biết rứa."
Giọng tên tổ trưởng nói có vẻ dịu hơn trước:
"A. Vậy ra gia đình này là của giải phóng rồi. Ðồng chí cả mà. Vậy có gì giúp đỡ cho quân giải phóng không?"
"Còn gì, chúng tôi đã đói từ mấy hôm nay rồi."
"Còn gạo không?"
"Các ông tìm mà lấy."
Tiếng một người khác nói:
"Báo cáo đồng chí tổ trưởng, ở góc kia hai bao gạo còn nguyên."
"Anh ghi có mượn ở nhà này hai bao gạo. Ghi vào sổ về sau trả lại và tuyên dương công trạng với mặt trận."
Im lặng vài giây, tôi nghe giọng quen thuộc đó nói tiếp:
"Còn hai cô này phải đi họp, chiều nay hai giờ họp ở Chùa nghe. Ðàn ông xóm này phải đi học tập hết rồi, phụ nữ cũng nên học tập đường lối của mặt trận."
"Chúng nó sợ quá rút gân rồi mần răng đi."
"À, còn cụ. Xin mời cụ đi gặp cấp chỉ huy chúng tôi."
"Cấp chỉ huy mô?"
"Cấp chỉ huy vùng này. Tôi chỉ là tổ trưởng của nhóm ba anh em chúng tôi canh gác quanh khu vực nhà này."
"Rứa hỉ!"
"Cụ đi với chúng tôi. Xin cụ mang theo mười lăm lon gạo."
"Ðem gạo mần chi rứa?"
"Ðem gạo để ăn. Học tập trong ba hôm rồi về."
"Cái chi mà phải học với tập?"
"Lấy cái bị hay cái túi mà đựng gạo. Ðem theo dư ra càng tốt."
"Họp chi mới được chớ?"
"Học tập, đã nói là học tập mà. Mời ông đi theo."
"Tao không đi."
Giọng chắc nịch bất ngờ của ông Minh làm tôi chưng hửng. Chắc từ hôm quân giải phóng tới Huế tới giờ chưa ai dám nói một câu như thế. Tôi thầm lo cho tính mệnh ông. Thấy không ai để ý đến chiếc hầm này nữa, tôi rời khỏi cái ngách nhỏ, ngồi tựa vào thành hầm. Tôi không nhìn rõ mặt tên tổ trưởng nhưng tôi nghe được tiếng hắn cười gằn:
"Ông làm chi cho địch?"
"Ðịch nào?"
"Mỹ Ngụy."
Giọng ông Võ Thành Minh ngạo nghễ:
"Nói gì tầm bậy vậy! Tao mà theo Mỹ, mi về hỏi ông Hồ Chí Minh nhà mi đã dám nói với tao giọng đó chưa. Tao không đi nghe không. Muốn mời tao họp phải có giấy Hồ chủ tịch chớ cái mặt trận giải phóng của tụi bây mà ăn nhằm gì. Tụi bây biết tao là ai không?"
Có lẽ tên tổ trưởng nể ông già gân thật, tôi không nghe hắn nói thêm gì hết. Một giọng khác đỡ lời:
"Bác đi theo chúng cháu tới gặp cấp chỉ huy. Gần đây là bộ chỉ huy mà bác."
"Không đi, muốn nói gì thì kêu cấp chỉ huy của bay lại. Tao ở đây, đây là nhà thờ cụ Phan, tui bây lạ chi mà không biết. Tao sẽ tuyệt thực, xuống ngồi dưới cầu Bến Ngự phản đối lối giải phóng của tụi bay. Tao chống cả Mỹ, cả cộng sản."
Tôi đợi một lúc mới nghe giọng ông nói tiếp:
"Còn bà Hảo, có nhắn chi cho chồng thì nhắn. Nên nhắn hắn về mang đi mà hưởng vinh quang nghe."
Tiếng người đàn bà khóc sụt sùi. Tiếng mấy người giải phóng chào và tiếng chân đi ra. Oanh và Trúc chui xuống hầm trước. Nó ghé sát tai tôi:
"Sợ không?"
Tôi không trả lời, dĩ nhiên là chúng đã đoán được tôi sợ hay không rồi. Dù tôi đã nghe hết cuộc đối đáp ở trên nhưng tôi vẫn cứ bắt Oanh kể lại. Trúc cười nhỏ nói có tên giải phóng mê chị Oanh, hắn nhìn chị chằm chằm. Mấy ngày rồi mà hắn lơ không bắt chị Oanh đi học tập. Việt cộng mà cũng biết mê gái rứa tề.
Trúc cười. Má tôi mắng:
"Ðồ con quỷ sứ. Mi cười chi rứa? Chết tới nơi mà không lo."
Như sực nhớ tới hoàn cảnh, Trúc nín bặt. Oanh kể cho tôi nghe chuyện ông Minh. Nó nói:
"Khi em lên em thấy ôn thắp đèn đánh máy. Ôn viết thư gửi ông Hồ Chí Minh, gửi tổng thống Mỹ, yêu cầu ngưng chiến. Ôn viết : Nhà thờ Phan tiên sinh ngày... tháng... năm... Khi tôi viết thư này gửi tới các ông thì trên đầu tôi máy bay rền rĩ, súng đạn gầm thét long trời lở đất, thành phố Huế chìm trong tiếng khóc than oán hận... Ôn viết rồi ôn xé, ôn đọc cho em nghe, ôn nói ôn kêu gọi cả thế giới nữa..."
"Lúc bình thường không kêu gọi, bây chừ gọi ai nghe..."
Oanh tin tưởng:
"Ê, đừng nói bậy. Ôn định kêu gọi thanh niên sinh viên xuống cầu ngồi tuyệt thực phản đối nữa."
"Phản đối ai?"
"Thì phản đối chiến tranh là vô nhân đạo, là tàn ác, không có chính nghĩa nào ở chiến tranh hết."
Câu nói của cô em gái thật bình dị, ngớ ngẩn như làm tim tôi thắt lại. Mấy hôm nay thành phố có bao nhiêu người chết, bao nhiêu kẻ bị thương. Xác chết sình thúi trong nhà, phơi ngoài đường không ai chôn cất. Rồi những người đi học tập đợt đầu chưa thấy ai về hết. Họ còn sống hay đã chết rồi? Tôi nghĩ mà thương cho ông già thổi sáo bên bờ hồ Genève ngày nào. Ông phản đối việc chia da chẻ thịt cắt đất nước Việt Nam. Nhưng rồi chỉ một mình ông, tiếng kêu trở nên nhỏ bé. Bây giờ tiếng kêu ấy lại cất lên còn yếu ớt thêm biết bao nhiêu nữa!
Một lúc sau tôi lại nghe tiếng lóc cóc đánh máy. Suốt cả ngày, mặc bom đạn, mặc đói khát, ông vẫn cứ ngồi bên bàn máy đánh chữ với ngọn nến mù mờ. Buổi chiều có mấy thanh niên chạy tới trú ẩn, ông cùng với họ đào hầm.
Tiếng cuốc đất thình thịch, tiếng máy bay liệng trên bầu trời. Khi tiếng máy bay vừa đi xa thì lại tiếng đại bác câu tới.
Cứ mỗi lần nghe có tiếng máy bay nào bay tới gần là súng trường, súng tiểu liên, đại liên lại bắn như mưa lên bầu trời. Các anh giải phóng núp ở hố cá nhân kháo nhau là hạ được nhiều máy bay lắm, nhưng kỳ thực tôi chả nghe tiếng động nào gần khu vực tôi ở để có thể tưởng ra có một chiếc máy bay rớt.
Buổi tối, mặc bên ngoài súng bắn như mưa, súng lớn nhỏ nhắm bắn máy bay, mặc trời mưa tí tách lạnh buốt, mặc bom đạn, mặc hỏa châu, ông Minh gọi hết thanh niên lên nhà, ngồi đánh đờn và ca hát. Tôi mặc má tôi năn nỉ khóc lóc cũng chui lên khỏi hầm nhập bọn. Ông Minh thật giỏi, không biết ông thổi được nồi cơm từ lúc nào. Ăn cơm với nước mắm kho mặn mà sao ngon thế, tưởng cả đời mình chưa có bữa cơm nào ngon hơn. Giọng ông Minh vẫn tin tưởng:
"Mình cứ kêu gọi hòa bình, cứ kêu gọi thế giới. Ngày mai tao viết thư gửi nữa. Tao tổ chức tuyệt thực phản đối Mỹ, phản đối Việt cộng, đứa nào dám theo không?"
Mọi người ngồi nhìn nhau, nửa muốn hưởng ứng vì thấy giọng ông đầy hăng hái, nửa muốn phì cười vì đầy tính chất mỉa mai khôi hài. Còn tôi, lúc đó chỉ muốn được yên thân, quốc gia hay cộng sản lúc này chả có tý nghĩa lý gì hết nếu tôi không sống được.
Cả thành phố Huế đang dẫy chết, đang kêu than. Cả thành phố bụi mù bom đạn. Vậy mà những buổi học tập của các anh giải phóng, theo lời các em tôi kể lại thì không còn màn trình diễn nào khôi hài tài tình hơn. Học tập về đường lối đảng, về hòa bình trong lúc bên ngoài sân, sau vườn đầy tiếng kể tội, tiếng hô giết bỏ, thủ tiêu, tiếng rú não nùng của người dân vô tội. Hắn làm công chức? Hắn làm bồi sở Mỹ. Tội nặng chất ngất mây xanh. Giết. Một loạt súng, những xác người dãy dụa với bao nhiêu tội lỗi mà không hiểu, không nhắm mắt được.
Thấy chúng tôi tần ngần nhìn nhau, ông Minh lại nói:
"Tụi bây không đi, tao đi một mình. Tao đi đánh lại cái đơn."
Nhưng rồi ông chưa đánh đơn lại vội. Ông lại bày trò ca hát, đánh đờn. Sợ mà tới khi chết cũng chết. Cứ ca hát, ngâm thơ cho đỡ sợ hãi.
Rồi ông lại đề nghị:
"Ðứa nào có ống sáo không? Tao thổi lại bài hồi xưa tao thổi bên bờ hồ Lơ Man ở hội nghị Giơ Neo."
Chả có anh nào dám mò đi lấy ống sáo cho ông thổi. Cả bọn ngồi sát góc tường dày nhất sát miệng hầm để nhỡ có gì thì chui xuống hầm cho nhanh. Trời bên ngoài mưa rả rích, chúng tôi ngồi sát nhau mà vẫn thấy lạnh run.
Ðại bác vẫn câu lên đều đều. Có tiếng anh chàng giải phóng trẻ tuổi hỏi vọng vào:
"Sao không chui xuống hầm mà đàn hát ồn ào thế? Ðịch nó biết nó thả bom xuống đó."
Chỉ có ông Minh dám trả lời:
"Cả thành phố chỗ nào mà chẳng có bom đạn. Chú em có muốn sống mấy phút cuối cho vui thì quăng súng đi, vô đây ca hát chơi."
Anh chàng giải phóng bên ngoài im bặt. Mấy sinh viên kể chuyện thì thầm về anh chàng này, cho biết mấy hôm nay hắn có vẻ trầm tư lắm. Chắc hắn đã nhìn thấy cảnh máu đổ thịt rơi và động lòng chăng. Ông Minh cười:
"Con người cộng sản làm gì có tình cảm. Chúng nó chỉ có mục đích là thắng, diệt, tiến tới. Tao ở với chúng nó lâu rồi tao biết."
Ông nói thêm:
"Phải nhìn nhận chúng nó tổ chức giỏi nhưng về mặt tình cảm thì bết lắm."
"Vậy ông là người quốc gia rồi."
"Tao không ủng hộ Mỹ, tao không chịu cộng sản. Tao chống lung tung hết."
"Ông chống một mình."
Dưới ánh nến, khuôn mặt ông Minh rắn chắc lại và nổi lên nhiều đường nhăn, ông nhìn về phía bệ thờ cụ Phan. Tiếng súng bên ngoài lại nổ. Họ tấn công chăng? Ðánh nhau chăng? Thà đánh nhau khốc liệt đi để hoặc chúng tôi sống hoặc chết. Cứ ngồi dưới hầm, nghe các em nghe mạ tôi kể lại những người chết bên ngoài tôi như ngồi trên đống lửa đỏ. Tôi cũng không cần biết sự trốn tránh chui nhủi như thế này có hèn không nữa.
Có tiếng động ở cửa hầm, bà Hảo lại bò ra nhìn ông Minh, khóc:
"Ôn ơi, đêm ni coi bộ dễ sợ quá."
Một giọng thì thầm bên tai tôi:
"Không biết ông giáo sư của chúng ta lúc này đang làm gì. Chắc đang họp cách mệnh với cách miệng."
"Ông mà bắt được mày chắc ông chả nhớ tình thầy trò nữa đâu."
Ông Minh dỗ cho người đàn bà đi xuống hầm. Tôi lần mò ra tới cửa nhìn ra ngoài bóng đêm. Bóng đêm nặng nề dầy đặc những bí mật, những đe dọa chết chóc, u uất tử khí. Nhưng tôi cũng hình dung ra được ở góc nào là cái bể nước, ở góc nào là hàng chè tàu, góc nào là khóm mía. Những lá cây đen bóng lung linh như kêu gọi tôi tưởng tượng đến đủ thứ. Giá lúc này tôi được hòa mình vào bầu trời đêm, được đứng trước sân ngẩng mặt lên trời hứng những giọt mưa đầu xuân mát rượi, ngọt lịm. Giá tôi được đi dạo trong khu vườn rộng này một mình như những tối mới trước Tết đây, dạo trong vườn và ngửa mặt nhìn bầu trời đen để tưởng tượng ra khuôn mặt người yêu.
Có tiếng động ở ngoài vườn. Tiếng chân người di chuyển. Chắc các anh giải phóng đang liên lạc với nhau. Khu vườn đất mịn màng trải đầy lá cây khô còn đâu nữa. Tất cả đã bị đào xới thành những hầm hố, hoặc bị cày nát từ lâu vì những mảnh đạn. Một thân cây nào đó trong vườn gẫy mắc qua mắt tôi. Cây vú sữa, cây mãng cầu hay cây nhãn lồng gì đó. Tôi đoán ra sự không còn nguyên vẹn của khu vườn, và ao ước một buổi sáng còn sống để đi ra vườn, đi ra cổng nhìn con đường, nhà cửa quen thuộc.
"Ngày mai tao không thể ở nhà được nữa. Người chết nhiều rồi, tao phải đi tải thương, đi cứu trợ. Tụi bây đi với tao hí."
Tôi không nghe tiếng một cậu nào trả lời hết. Có mấy thanh niên ở trong nhà này, nhờ sự bướng bỉnh cứng rắn của ông Minh mà chưa bị họ bắt đi. Tôi nghĩ tại vùng này vẫn còn ở trong sự kiểm soát của họ, sinh mạng người dân còn chặt trong tay họ, họ chưa ra tay đó thôi. Em tôi kể: họ đem rất nhiều người ở xóm khác về rồi tuyên án thủ tiêu, xử tử ngay tại đây. Những xác chết được vùi lấp vội vàng không có một tấm chiếu để gói.
Ðã đến giờ cú rúc. Tôi đi lùi lại. Ông Minh nói thôi giải tán rồi thổi phựt ngọn đèn. Các thanh niên sinh viên khác về hầm ngủ. Chỉ có ông Minh không chịu ngủ hầm. Tôi thận trọng bò vào hầm, bò qua má tôi, các em tôi rồi nhiều chân người khác nữa mới tới cái ngách hầm, nơi trú ẩn mà đối với tôi lúc này là an toàn nhất. Tôi vừa mệt mỏi, vừa chán nản nên đặt mình xuống là ngủ ngay.
Sáng ngày ra, tôi nghe tiếng lao xao trên miệng hầm. Mọi người đã ra ngoài hầm hết. Tôi định chui ra nhưng má tôi la: Khoan đã. Trúc chui vào báo cho tôi biết từ sáng tới giờ không thấy đại bác câu tới nữa. Quân giải phóng cũng rút lên phía nghĩa địa, chỉ còn một số canh giữ từ dưới cầu lên khỏi dốc thôi.
Ông Minh nói chuyện rất lớn giọng:
"Chắc chúng nó đi tập hợp gì đó."
Một lúc sau Trúc xới cho tôi một bát cơm và dặn đừng có lên. Bên kia trường học, mấy thanh niên bị họ bắt lên trên đó hết rồi. Tôi hỏi mấy thanh niên sinh viên bên kia hầm thì sao. Trúc cho biết họ đã tản mát hết, ông Minh đã lo sẵn chỗ núp cho họ. Tôi nghĩ tới tiếng đàn tiếng hát giữa trưa, giữa đêm. Mấy anh giải phóng gác ở bên ngoài biết tê đi là bên trong nhà thờ có thanh niên trú ẩn. Nhưng tôi cũng chẳng lo lắng lâu hơn nữa vì tôi nghe thấy tiếng lợn kêu và tiếng mọi người lao xao. Một con lợn bị giết. Bữa cơm trưa này chắc sẽ có món ăn ngon. Giữa lúc này mà có một miếng thịt lợn thì thật là may mắn, món ăn cao lương mỹ vị sang trọng quá chừng.
Tôi nhấp nhỏm ở miệng hầm:
"Má, ai mần thịt heo rứa?"
"Khỉ, vô trong đi."
"Thịt heo há má?"
"Bên nhà chị Tính, ôn Tôn mần heo đó. Chút nữa chia một ít kho để dành ăn."
Tôi reo như trẻ con:
"Má nhớ lấy phần ít mỡ kho mặn nghe má."
"Thôi khỉ, vô đi, chết đến nơi mà không lo, ăn với uống."
Tuy nói vậy nhưng má tôi cũng lần mò sang nhà bên cạnh để chia một phần thịt heo. Trưa hôm đó tôi nằm dưới hầm ngửi mùi thịt kho thơm phức muốn ngạt cả mũi. Tôi quên hết mọi khổ ải, mọi lo sợ. Cứ thế này chắc sắp yên ổn rồi. Từ sáng tới giờ thỉnh thoảng có vài tiếng đại bác câu rất xa, như ở phía Trúc Lâm, Tây Thiên gì đó. Xa lắm mà.
Nồi thịt như thấm mặn thật lâu, sự chờ đợi làm tôi bồn chồn cả ruột gan nhưng cũng làm cho tôi thêm phần sung sướng. Trúc hích tôi:
"Anh ngửi mùi thịt mê chưa? Em nghĩ tới lúc miếng thịt... ngon lắm hỉ?"
Tôi chưa kịp phát biểu ý kiến thì Oanh thò đầu vào:
"Ê, họ về đông lắm. Họ đào thêm hầm hố và chia giữ các ngã đường, các vườn."
Trúc trầm ngâm:
"Sáng họ rút rồi mà."
"Họ mang theo nhiều súng đạn lắm. Có cả xe bò chở đạn nữa. Ðậu ngoài ngõ mình a tề."
Rồi giọng nó run run:
"Dễ sợ lắm anh ơi, khi hồi em chui qua nhà ông Tôn coi chia thịt heo với má, thấy có con chó tha khúc tay hay chân chi của trẻ con, nó gặm thịt sống. Thấy rứa em sợ thịt heo quá trời."
Trúc kêu lên:
"Dễ sợ." Rồi nó co người lại: "Rứa mà chị cứ chạy qua ôn Tôn được."
"Mô có. Tao sợ quá tao nhảy lùi lại. Nghe tiếng động, tên lính giải phóng canh ở ngoài chạy vô bồng súng định bắn. Tao sợ quá la lên. Hắn thấy con chó đang nằm gặm xương, hằm hè nhìn, hắn nhăn răng cười rồi hỏi có muốn qua bên đó tui dẹp đường cho. Tao sợ quá làm thinh. Hắn nói: Cô đừng sợ, chắc con chó tha ở đâu đến đó. Rồi hắn cầm đá liệng con chó cong đuôi chạy mất, cái khúc thịt đó còn ở nơi bụi đó, dễ sợ quá chừng."
"Hắn noái chi với chị nữa khôn?"
"Hắn nhìn chị. Chị vừa sợ vừa dị. Dị òm rứa thê. Rồi hắn noái: Cô sợ tui lắm hả? Tao phải noái: Dạ sợ chi mà sợ. Không biết mần răng hắn cũng mần thinh luôn. Rồi lủi đi ra cửa lại. Tao chạy một mạch vô nhà. Khi hồi má bắt tao xắt thịt heo để kho, tao buồn mửa mấy lần."
Oanh vừa nói vừa đưa tay che miệng muốn oẹ. Mùi thịt kho vẫn bay vào quyện lấy mũi tôi, hết sức hấp dẫn. Câu chuyện của Oanh chả làm tôi gớm sợ mùi thịt kho chút nào. Ðã lâu rồi, không ngày nào tôi được ăn no, có ngày nhịn đói nữa.
Oanh cầm tay tôi nói:
"Anh nghe cho coi, họ đào hầm đó."
Tôi nghe tiếng cuốc đất, tiếng chân người đi lại. Tiếng mệ Khái nói đóng hết cửa ngõ. Tôi nghĩ thầm, đóng kín cửa để che người nhưng đâu có che mùi thịt kho. Dám mấy anh giải phóng vào thăm vì mùi thịt kho lắm. Tôi cũng không nghe tiếng ông Minh nữa. Em tôi cho biết ông đã tải cái bị gạo leo xe đạp đi từ hồi sáng rồi. Chúng nói ông đi phát gạo. Một lúc có tiếng người ở ngoài vọng vào:
"Các mẹ giải phóng làm ơn tắt giùm bếp, sợ khói máy bay nó biết nó bắn."
Má tôi cũng là mẹ giải phóng rồi đó. Bếp tắt cái rụp nhưng mùi thịt kho đâu có tắt nổi. Tôi tưởng tượng ra nhiều cái miệng đang nuốt nước bọt xuống cổ. Tôi lại ló đầu ra:
"Má, chín thịt rồi chớ má?"
"Khỉ, vô đi. Ðể cho nó thấm chút đã nào. Con Trúc mô rồi, ra lấy nồi cơm nguội khi hôm ra đây hâm lại mà ăn."
Trúc vừa dợm dậy thì có tiếng hô to ở bên ngoài:
"Xuống hầm hết, máy bay tới."
Khi tiếng hô vừa mới gióng lên tôi vẫn thấy bầu trời êm tịnh, vậy mà liền đó đã có tiếng máy bay ào tới, phút chốc đã ở trên đầu rồi lượn vòng. Chỉ mấy phút sau rốc két bắn xuống như mưa. Mọi người tràn xuống hầm hết. Một con chó mực mắt xanh lè cứ hầm hè muốn chui xuống hầm. Mệ Khái phải cầm con dao liệng kêu cái kẻng, con chó mới chịu chạy ra lối khác.
Tiếng rốc két bắn như mưa, đạn như đang trút xuống đầu chúng tôi vậy. Chúng tôi ôm chặt nhau, người này sát vào người kia như tìm thêm ở nhau chút nương tựa. Có tiếng sụp đổ phía trước, phía sau, có tiếng kêu khóc ở nhà bên cạnh, tiếng hô của các anh giải phóng, cả tiếng thét lên như bị cắt họng nữa. Lúc nẫy, con heo bị chọc tiết cũng kêu lên bi thảm như thế, sao tôi chả thấy gì cả.
Ầm một tiếng. Có nhiều miếng ngói lở, rồi tiếng bụi cát rơi rào rào. Tiếng hô, tiếng gọi nhau của mấy anh giải phóng ở ngoài vườn. Tôi nghĩ chắc họ có nhiều người bị thương lắm. Một lát sau, tiếng súng dưới đất bắn trả kịch liệt. Tiếng đạn từ trên trời trút xuống cấp bách hơn. Tôi chìm đi, tai ù, ngực như nghẹt thở và cứ nằm bẹp dí ở góc hầm, tay chân không còn cất lên được nữa.
Ðộ hai phút sau thì tiếng súng trên trời thưa dần mà máy bay cũng đi mất, chỉ còn tiếng súng dưới đất bắn lên thì vẫn đì đẹt nổ thêm vài phút nữa, cho tới khi có lệnh truyền:
"Ngưng."
Tiếng ngưng đi từ góc vườn này qua góc vườn khác, vang vang trên mặt đất và tiếng súng cũng tắt dần, dồn về vài tiếng lẻ trước khi ngưng hẳn. Má tôi dặn không được đứa nào trồi lên miệng hầm hết. Có tiếng đấm cửa:
"Có ai trong nhà ra công tác giùm."
Tôi đoán chắc lại bắt đi khiêng xác chết, xác bị thương. Má tôi ra dấu cho mọi người im lặng. Nhưng không được, cánh cửa bị báng súng dọng mở toang, nhiều tiếng chân đi vô nhà:
"Tất cả lên khỏi hầm hết."
Má tôi lên trước, rồi tới mấy bà già, mấy chị đàn bà ôm con. Trúc ở lại với tôi, còn Oanh cực chẳng đã phải chuồi lên. Một bà già đưa cho nó đứa nhỏ mới đầy năm, mẹ nó đã chết từ hôm tiếng súng đầu tiên nổ. Oanh bọc kín đứa nhỏ trong tấm khăn bông, run rẩy lên khỏi miệng hầm. Tôi nghe tiếng đàn ông hỏi:
"Ai không có con dại?"
Hình như vài chị đàn bà phải đi. Có tiếng anh chàng giải phóng trẻ tuổi vẫn gác ngoài ngõ nói:
"Cô này mới đẻ dậy, đang yếu."
Vậy là thoát được rồi. Hú hồn cho con Oanh. Một lát sau tôi thấy nó bế đứa nhỏ xuống, tay chân nó vẫn như còn run rẩy. Tôi đỡ đứa bé cho nó và mừng thầm là đứa nhỏ đã ngoan ngoãn không khóc. Tôi nào ngờ nó thiếu sữa, đói lả, không còn sức để khóc nữa. Bởi lẽ ấy, đêm đêm, nhiều khi tôi nghe tiếng trẻ khóc nhỏ, yếu ớt như tiếng mèo kêu.
Tôi hỏi Oanh:
"Chúng nó bắt những ai?"
Giọng tôi hỏi thật nhỏ, nhưng Oanh đưa tay ra dấu ngăn tôi lại. Tiếng chân đi ra khỏi nhà. Vừa lúc đó, tôi nghe như có tiếng xe đạp đỗ ở ngoài sân, rồi giọng ông Minh vào gần dần:
"Răng? Ở nhà có ai bị chi không? Tao lo quá."
Tiếng người đàn bà vợ ông giáo sư Hảo khóc thút thít. Tiếng má tôi tường thuật lại chuyện nhà. Giọng ông Minh vẫn rổn rảng:
"Coi, xuống hầm hết đi, máy bay tới chừ đó. Các nơi nát hết rồi. Chắc quân bên này đang dàn trận vào thành phố."
Tôi lắng tai nghe. Giọng ông Minh hơi nhỏ xuống:
"Tởm lắm. Tao đi từ dưới đường lên đây mà gặp đầy xác chết. Tụi họ không rứa bây. Chết trong hố, chết bên cạnh tường, chết nằm sấp mặt xuống đường. Tao đi từ ngoài ngõ vô đây mà thấy đầy máu. Tao cứ kêu trời: Ôi thôi, xong rồi, ở nhà còn chi nữa. Khi vô nhà, thấy tụi nó đi ra theo lối sau vườn. Răng, không có ai bị thương chớ?"
Tôi ló đầu lên, hỏi:
"Ôn, tình hình bên ngoài ra răng?"
"Tao gặp bọn chỉ huy của chúng nó rồi."
Ông cười, móc ra cái giấy:
"Nó rủ tao ghê lắm, nhưng tao bảo tao chống lung tung hết. Tao không sợ bên nào. Mục đích của tao lúc này là đi cứu thương, đi phát gạo, cứu được ai thì cứu. Cái thằng chỉ huy vùng ni, nó có vẻ khôn lanh lắm. Nó cấp cho tao cái giấy đi đường, đi trong vùng họ kiểm soát lúc mô cũng được. Ðây nì..."
Ông đưa cái giấy về phía tôi. Nhưng má tôi đã nạt:
"Thằng ni thiệt, xuống dưới nớ ngồi không mi? Thôi ôn ơi, hay ho chi giấy tờ quỉ nớ mà khoe. Có nó thêm mệt."
Ông Minh cười đôn hậu:
"Tau đã noái tau là người quốc tế mà. Cộng sản cũng không làm chi được tau, tụi bây thấy khôn?"
Tôi tò mò muốn đọc tờ giấy đó lắm nhưng má tôi đã nhìn tôi gằm gằm. Sợ bà buồn tôi vội chui xuống hầm. Oanh lại thò đầu lên:
"Ôn mần rằng mà tải thương đó ôn?"
"Tau đặt họ lên xe đạp đẩy đi. Nhà thương bỏ hoang rồi, tau đưa đại họ vô mấy trạm cứu thương bắt băng bó. À này Oanh, mi tìm cho tau mấy thằng sinh viên y khoa. Quanh mấy nhà này, tau biết tụi nó trốn thiếu chi. Mi đi liên lạc dùm hỉ?"
"Ông nội con cũng không dám. Ra ngoài cho bị đạn chết hả?"
"Con ni nhát quá, thôi để tau lo."
Tiếng má tôi bỗng la lên thảng thốt:
"Thôi rồi..."
"Chi rứa?"
"Thôi rồi, chết rồi..."
Giọng Oanh hốt hoảng:
"Chi rứa má?"
"Trách thịt kho..."
Tôi không dằn được, tranh với Oanh thò đầu lên khỏi miệng hầm:
"Răng má?"
"Ðổ bể hết rồi, còn chi nữa..."
Tôi nhìn lại phía bếp dầu, ngay trên trần nhà, một mảng ngói bị vỡ, trách thịt bằng đất cũng vỡ, những miếng thịt trộn lẫn với gạch cát nằm lăn lóc. Từ nãy giờ mãi căng thẳng vì nhiều biến cố dồn dập, tôi cũng quên mất hẳn nồi thịt kho. Ðến bây giờ thì thôi hết rồi. Thấy mấy mẹ con tôi tiếc ngẩn ngơ, ông Minh cười:
"Ôi, tiếc chi mấy chút đó. Tau có hái về mấy trái su đây nì. Tau lên thấu trên rẫy chớ chơi mô."
"Ôn lên thấu trên đó. Trời, trên đó ra răng ôn?"
"Thì ai vẫn ở yên nhà đó. Họ đóng hẳn trong nhà dân à nghe. Có mấy cái nhà dưới độn bỏ không, tau thấy mấy dàn su ngon quá. Tau hái được nhiều lắm, phát hết rồi, còn mấy trái đứa mô lấy thì lấy."
Oanh reo lên:
"Ðẹp quá. Trái su đẹp quá."
Tôi chả thấy trái su đẹp đẽ gì. Nồi thịt đã vỡ, nhưng mùi thịt kho vẫn còn phảng phất. Tôi nuốt nước miếng và buồn bã chui xuống.
"Anh tiếc nồi thịt lắm hả?"
"Ờ."
"Em thì chỉ thích yên cho rồi. Mấy bữa, họ nói chỉ ở chơi với dân một tuần lễ, răng họ ở lâu rứa?"
"Ai biết đâu đó, con nhỏ này thật tin người."
Oanh lại nói tiếp:
"Mấy ngày đầu, mấy cô cán bộ tập xe đạp vui quá, mà họ chả biết chi hết anh hí, đồng đội của họ chết rần rần mà họ cứ giỡn hớt vui chơi như không. Mấy hôm đầu, mấy cô nói với em sẽ tổ chức văn nghệ liên hoan nữa, rồi họ tổ chức chi mô!"
"Bắn nhau như mưa rứa mà liên hoan chi."
"Mà họ xử tử người ghê quá anh. Em thấy họ bắn hai học sinh hay sinh viên chi đó trong vườn bác Bốn tề. Ðể em kể cho nghe. Chính cái tổ trong vườn mình bắn chứ ai. Em nghe cái thằng nhỏ nhỏ ngoài cổng hay nhìn em đó, nó noái có xử thì để cấp chỉ huy hay tòa án nhân dân xử, đừng có thủ tiêu. Mấy tên kia nói đồng chí chỉ có tinh thần chủ bại. Rồi họ bắn. Trời ơi, em nhắm mắt."
Oanh nói gì thì nói, tôi vẫn còn tiếc nồi thịt kho. Gần tuần lễ ăn kham khổ bữa đói bữa no, bao tử tôi như đã teo lại. Tôi nằm mọp xuống chiếu miệng sùi bọt mép. Cơn đói lại kéo tới hành hạ làm tôi khổ sở điêu đứng. Con gái nhịn đói thật tài, Oanh và Trúc bữa ăn bữa không mà vẫn tỉnh như sáo sậu. Còn tôi sắp phải thiếp đi rồi đây.............

...........................

Chương 8

.....Đám đông đang bàn tán bỗng chạy ào ra đường. Một đám đông khác đang tụ tập đầu hẻm. Thái kéo tôi chạy ra. Đám đông này đang bu quanh một cô gái nhỏ bị thương nặng. Cô gái được đặt nằm trên tấm bố cũ, trải trên lề cỏ ướt.
Theo người ta bàn tán, nhà cô nhỏ này ở trên đường rầy. Tảng sáng, một trái đại bác đã rơi trúng sau vườn và mảnh đạn ghim vào người cô. Một mảnh đạn đã trúng bụng và đám ruột lòng thòng chảy ra ngoài. Cả người cô được bao kín bằng tấm mền cũ nhưng máu thấm ra ướt mèm tưởng vắt thành giọt được. Mặt cô bé tái xanh, hai mắt mở lờ đờ. Người cha ngồi xổm bên đứa con gái vừa khóc vừa lạy van:
“Lạy bà con cô bác, làm ơn kiếm xe dùm chở con tui xuống Phú Bài cho bệnh viện Mỹ nó cứu.”
Nhưng đường sá chẳng có chiếc xe nào, trừ những đoàn người tản cư không biết từ mạn nào, kéo về và cứ đi thẳng theo quốc lộ 1. Thái cúi xuống xem xét vết thương của cô gái rồi lắc đầu. Một người nói:
“Cứu liền may ra kịp.”
Nhưng cô gái vẫn nằm chờ bên đường cho tới trưa, cố nhướng đôi mắt đã lạc thần lên nhìn người cha, nấc lên một tiếng rồi trợn ngược mắt.
Người cha khóc ầm ỹ, ôm lấy xác con và cứ thế, ông chạy miết dọc theo quốc lộ, vừa chạy vừa la khóc thê thảm. Mấy người lính gác đồn Trường Bia chạy ra ngăn ông lại, nhưng không còn ai ngăn nổi ông nữa. Chạy được một quãng, ông ta ngồi lại bên lề đường đợi chờ từng phút hơi thở con gái yếu dần. Thái nói:
“Thôi vô nhà đi chị.”
Chúng tôi đi trở về, dọc đường, Thái hỏi một đoàn người chạy lại:
“Ở mô về đó bác?”
“Từ Đàm.”
“Bác ở mô?”
“Bến Ngự.”
Thái reo lên và cầm chặt tay tôi kéo chạy. Vào tới nhà. Thái la lớn:
“Trên Từ Đàm tản cư về. Có người về.”
Nhưng khi má tôi chạy ra được thì đoàn người đã đi xa. Những đoàn người khác tiếp tục kéo về. Họ ở những vùng khác. Bên phố, trên Bến Ngự, trên ga, Phú Cam. Một người ở Bến Ngự cho biết là trên Từ Đàm kẹt lắm, bộ chỉ huy Việt cộng vẫn đóng ở đó. Và quân Mỹ đã dàn tới bên kia cầu Bến Ngự.
Má tôi lại thất vọng. Buổi trưa, dù có đồ ăn ngon dưới Thủy Dương gửi lên, không ai cảm thấy ngon. Hình ảnh cô bé với đống ruột lòng thòng chờ chết từng giây từng phút bên lề đường làm tôi xốn xang.
Khi chúng tôi ăn cơm xong, ở ngoài đường lại thấy từng tốp lính từ phía quốc lộ đi vào thành phố, qua An Cựu. Họ mang ba lô, súng ống, người này cách người kia chừng nửa thước, và hoàn toàn im lặng. Họ không ngó ngang hai bên nhà cửa đường phố. Thái nhận ra là lính Biệt động quân, rồi một đoàn nữa là lính Nhảy dù, rồi Thủy quân lục chiến. Dù má tôi ngăn mấy, hắn cũng chạy ra đường, giơ tay vẫy. Tôi cũng chạy theo Thái. Ở một vài sân nhà khác, cũng có nhiều người ra đứng giơ tay vẫy và hỏi thăm. Những người lính này như ở xa đến, người họ còn đầy bụi và có vẻ lo lắng mệt mỏi. Họ mỉm cười trả lời những bàn tay vẫy, những lời thăm hỏi. Thái ra sát đường:
“Anh ơi, anh ở mô tới đó?”
“Tụi này ở Sè gòng mới ra.”
Một người vừa trả lời vừa đi. Người đi tiếp theo thò tay vào ba lô lấy ra hai hộp nhỏ liệng vào chân Thái:
“Biếu bạn. Mừng bạn còn sống.”
Người đi tiếp theo lôi ra một gói thuốc, người tiếp theo nữa lại liệng thêm ít đồ hộp. Tôi chạy theo trả lại:
“Các anh cầm đi mà ăn, còn đánh nhau nhiều mà.”
“Thôi cô cầm đi. Chúng tôi biết có sống mà ăn không! Đi quyết tử mà.”
Vài nụ cười, vài cái nhún vai. Tôi đứng sững người nhìn theo. Mấy hôm nay có nhiều tin tung ra: lính tới vùng nào an ninh là vơ vét, chở đồ của dân bỏ lại chạy loạn. Người ta hối hả trở về để giữ của, và vì sự vội vàng mà nhiều người chết oan. Nhưng đoàn quân này sao khác hẳn. Một thỏi kẹo nữa văng tới chân tôi. Tôi không còn đủ sức cúi xuống nhặt nữa.
“Mừng các bạn còn sống.”
Mấy người lính đi sau tiếp tục la hét. Những bàn tay vẫy đưa trả lại, những nụ cười chào nhau tiếp theo. Đoàn lính đi qua dần, tôi đã cúi xuống được, cầm chặt thỏi sô cô la trong tay và bóp vụn nát lúc nào không biết nữa. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy những người lính dễ thương như thế. Họ là lính miền xa đến để chết ở Huế. Họ người Sài Gòn, người Bắc di cư, người các tỉnh miền Nam, miền Trung, miền Bắc. Họ đến để chết với Huế. Trời ơi, tôi nghĩ tới những người lính địa phương, một số đã bỏ đồn chạy về ngay từ hôm đầu, một số đợi hơi yên là xổ ra, đi vác gạo, đi vào những căn nhà bỏ không lấy đồ. Những món ăn béo bở Việt cộng đã khuân đi từ mấy ngày đầu xẩy ra biến loạn, những món cặn thừa còn lại dành cho kẻ thừa nước đục thả câu. Tôi đã thấy hai người lính khiêng chiếc xe Honda, vài người khác khiêng tủ, khiêng ghế, hoặc bọc những vật dụng lấy trong các nhà đổ nát, còn hôi rình xác chết. Thái đã ôm mấy hộp đồ lên tay và giục tôi trở vào. Khi nghe kể chuyện, má tôi cảm động muốn khóc.
“Tội nghiệp, lấy của họ mần chi, để họ ăn cho có sức mà đánh.”
Dì Vạn cứ suýt soa hoài:
“Họ tốt quá hí. Rứa mới biết là họ dễ thương chớ mô có như mấy thằng mắc dịch ở trong xóm, ăn cắp, thừa nước đục thả câu mà. Tụi nó lại sống nhăn mà mấy anh đó lại cực khổ dầm vào chỗ tên đạn mới tội chớ.”
Có tiếng súng ở xa xa vọng lại rồi. Chắc lại đánh nhau. Tôi nghĩ tới những người lính vừa liệng cho chúng tôi những hộp thịt, những thỏi kẹo. Họ cười đó, nhưng lúc này đã có người ngã xuống. Huế sẽ làm gì cho họ trong những ngày sắp tới. Không, Huế cũng đã trơ xương da rồi, tan nát hết rồi. Nhưng chắc chắn Huế sẽ còn, dù bằng tàn lửa, bằng tro nguội, bằng xương người. Các anh sẽ có người còn sống còn trở về lại quê nhà và còn trở lại để giữ Huế.
Thái đã đốt một điếu thuốc. Nó thả khói thành những vòng tròn, đốm lửa đầu thuốc lập lòe khi thu nhỏ, khi bùng lớn, như nỗi hy vọng đang dần dà phấn khởi rồi thắt lại trong hồn tôi.
Đúng lúc ấy, tôi bỗng bàng hoàng vì có tiếng động ngoài sân. Rồi có tiếng gọi:
“Má ơi.”
Giọng con gái. Má tôi ngồi rột dậy. Cả nhà túa ra miệng hầm. Má ơi, má ơi, má ơi, má ơi... Tiếng gọi má ơi không dứt. Cánh cửa mở tung. Chiếc xe đạp rơi bịch xuống đất và Hà nhảy xổ vào nằm gọn trong lòng má tôi: Má, má, má...
“Con, con... Ui cha con Hà. Ba hồn bảy vía con Hà... Con về được, con về được.”
Tôi chợt nhìn ra sân, một ông già mặc áo dài đen, đang đứng cầm ghi đông xe đạp nhìn vào nhà mà mỉm cười.
Má tôi kêu lên:
“Ôn Minh. Ôn về răng rứa?”
Rồi má tôi khóc, khóc sung sướng, khóc ồn ào:
“Ôn ơi, ôn vô đây. Ôn vô đây ôn.”
Ông già bình tĩnh dựng xe đạp, vuốt lại vạt áo dài đen rồi bước lên từng bực cấp đi vào nhà. Má tôi vẫn còn ôm chặt cứng Hà trong tay. Ông già mà má tôi gọi là ôn Minh chỉ vào Hà:
“Tui đem con lỏi xuống cho bác đó. Mấy hôm ni hắn đòi đi, hắn hành tui bất tội thân mà.”
“Ông đem con xuống đó má.”
Ông Minh vừa ngồi xuống ghế vừa nhìn quanh nhà:
“May phước, nhà không bị hư hại chi nặng hết.”
Má tôi vừa giục tôi pha nước vừa hỏi:
“Ôn ơi, tụi còn ở trên ra răng ôn?”
“Không răng. Tụi nó còn ở trên. Thầy Lễ thầy nóng lòng lắm, cứ nhất định đòi đi xuống dưới ni tìm bác. Tui phải cản. Hai ôn con tui ngày mô cũng tìm cách đi xuống dưới ni mà đi khôn được đó chớ.”
“Có đứa mô bị...”
Má tôi dừng lại, mặt tái xanh chờ đợi. Ôn Minh uống một ngụm nước:
“Không răng. À, chỉ có con Hy bị trúng một miểng đạn vô chân. Mà không răng, trên đó có mấy tên y khoa, hắn băng bó cho rồi.
Nhờ có ông già mặc áo the đen và Hà thuật lại, tôi biết thêm rất nhiều về tình hình trên Từ Đàm. Gia đình anh tôi phải bỏ sang lánh nạn bên nhà thờ cụ Phan. Xung quanh đã gần tan tành hết. Chùa Từ Đàm nơi chính diện cũng sập mái, nhà giảng thì bị đại bác câu tới tấp, tan tành. Mấy ngày đầu, Việt cộng chiếm chùa để trú ngụ và làm trạm cứu thương, nhưng về sau họ rút dần lên phía trên núi, chỉ có cắt quân canh gác và đào hầm chiến đấu. Ôn Minh cho biết hiện ở chùa có hàng trăm người tỵ nạn và xung quanh đó, nhiều nhà đã sập hoàn toàn. Con đường từ nhà thờ cụ Phan xuống tới cầu Bến Ngự, hai bên nhà cửa không còn một căn nguyên vẹn. Gia đình anh tôi chạy qua hết bên nhà cụ Phan cùng với nhiều gia đình và những người tỵ nạn khác. Hà chỉ vào ông già:
“Chị biết ai đây không? Ông Võ Thành Minh đó.”
Thấy tôi ngơ ngác, nó nói thêm:
“Ông là người thổi sáo bên hồ Genève phản đối chia đôi đất nước hồi 54 tề, chị.”
Tôi nhìn ông già, ông đang bận kể chuyện cho má tôi nghe. Hà nói tiếp:
“Ông Minh mà chị không biết há? Ông còn tên là Võ Song Thiết đó.”
Tôi hỏi nhỏ:
“Bây giờ ông làm gì?”
“Ông giữ nhà thờ cụ Phan, ông là đồng chí của cụ Phan mà chị. Mấy ngày đánh nhau, nhờ có ông mà nhiều người khỏi chết đó nghe. Vui lắm.”
Tôi trợn mắt:
“Mày nói vui? Trời ơi, chết như vậy mà mày nói vui sao?”
“Ông Minh nói ở hoàn cảnh mô, mình cũng cố gắng vui sống. Ông Minh có sợ chết mô. Ông đi hoài cả ngày chị. Ông đi phát gạo, đi tải thương, đi thăm các nơi...”
Tôi nhìn kỹ ông già. Ông mặc áo the đen, quần vải trắng, đầu đội chiếc mũ bê rê đen.
Không biết má tôi kiếm đầu ra trầu mà bà đem ra mời ông nhai trầu bỏm bẻm. Khuôn mặt ông thông minh, hiền lành. Nhìn ông, người ta dễ bắt nhạy cảm tình hơn là nghi kỵ, dò xét. Hai chiếc xe đạp vẫn còn ngoài sân. Mưa phùn vẫn chưa dứt và tiếng súng vẫn vọng xa xa. Má tôi lại hỏi:
“Ôn đi ngả mô xuống đây?”
“Hai ôn con tui đi cùng các đường. Mấy bữa ni rồi. Có bữa đi xuống quá Lầu Đua Ra lại thấy đánh nhau, bắn nhau quá phải trở về. Con Hà nó nóng ruột lắm.”
Má tôi đưa đôi mắt đầy trách móc nhìn em gái tôi. Nó cúi đầu và hơi mỉm cười.
Ông Minh tố thêm:
“Biểu nó ở nhà đố nghe đi. Ôn đi là con đi với, con đi với ôn. Mấy ngày trước, hai ôn con lên núi Ngự Bình coi đánh nhau, định tìm đường về dưới ni nữa. Gặp lúc họ đánh nhau, đại bác câu lên núi yểm trợ ầm ầm, hai ôn con lăn từ giữa lưng chừng núi lăn xuống, rồi nằm vùi nơi một hố bom. Khiếp thiệt. Rứa mà con Hà hắn thích lắm. Con ni gan nó là gan cách mạng mà.”
Má tôi chăm chú nghe ông Minh kể, khuôn mặt lúc tái lúc vui. Bà thở ra khi nhìn Hà đang nhìn bà mà cười:
“Mi thiệt á!”
“Ừ, hai ôn con lên Lầu Đua Ra, lấy được đôi giày còn mới nguyên.”
“Dễ sợ quá ôn hí. Cả Lầu Đua Ra toàn máu khôn à.”
“Khỉ, rứa mà cứ đi. Con ni thiệt...”
Có lẽ sợ má tôi lo lắng, Hà nói lơ sang chuyện khác:
“Ôn nì, chị con đây ôn nì.”
Tôi lại phải gật đầu chào ông Minh. Vừa gặp ông, tôi đã có cảm tình ngay. Nhớ những lời lẽ do người thanh niên tránh nạn về kể lại bữa trước, tôi không thấy xa lạ với ông chút nào hết.
“Hà nó noái chuyện về chị luôn đó.”
Tôi cười:
“Ôn ơi, ôn đừng gọi con bằng chị nữa. Coi con như Hà rứa.”
Ông Minh gật đầu:
“Phải đa. Rứa cho nó dễ gọi. Tội nghiệp, con ra đây mắc kẹt phải không?”
“Dạ.”
“Mấy con rồi?”
“Dạ hai.”
“Tội nghiệp.”
Hà chen vào:
“Ông Minh nghệ sĩ lắm nghe chị. Ở trên Từ Đàm đánh nhau, bắn nhau rầm rầm mà ôn cứ họp thanh niên trốn trong nhà thờ cụ Phan lại đàn hát cả ngày.”
Tôi hỏi:
“Quân giải phóng để yên cho ôn làm ồn vậy răng?”
“Mấy ngày đầu cơ chớ. Về sau thì lo mà trốn cho kỹ. Ôn noái mấy anh thanh niên xuống cầu Bến Ngự đòi tuyệt thực phản đối chiến tranh.”
Tôi tức cười:
“Ôn nói chơi.”
Hà nháy mắt ra dấu bảo tôi đừng nói nữa. Rồi nó quay sang ông Minh:
“Ông cho chị con coi cái giấy do Mặt trận giải phóng cấp cho ông đi đường.”
Ông cười hiền hòa:
“Hà, mi noái tầm bậy. Giấy đó ăn thua chi. Tao đi bên mô cũng được vì tao có làm nô lệ cho ai mô. Tao chống hết, chiến tranh là tao chống.”
Hà mách tiếp:
“Ôn còn viết thư phản đối Hồ Chí Minh, cả tổng thống Mỹ và kêu gọi thế giới nữa.”
“Tao mần một mình mà ăn nhằm chi. Rứa nhưng cũng cứ mần, phải không con?”
Ông đưa mắt sang tôi và mỉm cười. Tôi gật đầu. Ông nói tiếp:
“Con có dám ra cầu ngồi phản đối chiến tranh với ôn không?”
“Ôn nói dỡn hoài.”
Má tôi lại chen vào:
“Ôn làm răng đưa Lễ với vợ con nó về dưới ni giùm đi ôn!”
“Thì ôn con tui đang dò đường đi đây nì. Khó thoát lắm. Bữa ni phải đi vòng Lầu Đua Ra, rồi vòng xuống ngã đường rầy không được. Hai ôn con lại vòng ngã Tây Thiên. Trên rứa, đại bác như mưa rứa, đi miết lên Tây Thiên mới ngớt tiếng nổ.”
Thấy nước mắt má tôi chảy dài, ông an ủi:
“Có người ta có mình. Còn tui thì không lo chi hết nghe.”
Hà thêm:
“Chị đi ra ngoài xe đạp ôn a tề. Đó, có cái bị đựng gạo. Bao nhiêu gạo tốt, ôn đem phát hết rồi, đó toàn là tấm khôn đó thôi. Thôi thì cả ngày ôn đi phát gạo, đi tải thương. Ôn chỉ có cái xe đạp đó.”
Chiếc xe đạp của ông được dựng bên cái cột bằng giàn hoa, trên ghi đông treo lủng lẳng một cái bị bằng vải căng tròn. Tôi nhìn lại ông, ông bỏ cái mũ ra rồi lại vội vàng đội lên đầu:
“Thôi, chắc tui phải đi. Phải lên lại Từ Đàm.”
Má tôi nài nỉ:
“Ôn ở lại ăn cơm đã rồi lên. Chừ nghe mô đang đánh nhau mà ôn.”
“Đánh nhau kệ cha chúng. Tui lên. Coi chiều ni còn đi tải thương nữa. Đi tải thương nì, đi kiếm thức ăn nì, trên nớ tụi nó hết đồ ăn rồi.”
Hà nói:
“Khi mô ôn xuống?”
“Mơi.”
“Mơi ôn xuống, con lên lại với ôn hỉ.”
Má tôi nạt:
“Mi tưởng chuyện giỡn há, răng mà đòi đi.”
Ông Minh bênh Hà:
“Can chi, sống chết có số cả mà bác. Con ni dạn lắm nghe. Tui mà còn làm cách mạng, tui cho nó theo liền.”
Má tôi nể ôn Minh, làm thinh. Hà dặn đi dặn lại: mai ôn nhớ về. Tôi và Hà đưa ông ra tận ngoài ngõ:
“Thôi bây vô đi. Đứng ở ngoài nguy hiểm lắm.”
“Ôn ơi, lên tới, nói cho anh con biết kẻo anh con lo nghe ôn. Noái má con với cả nhà ở dưới ni yên lành hết.”
“Ừ.”
“Ôn nhớ mai xuống nhe ôn!”
“Ừ.”
Ông leo lên xe đạp và đạp đi, chiếc áo đen khuất dần nơi nghẹo. Hà ngẩn ngơ. Tôi nói:
“Thôi vô.”
“Dưới ni yên quá chị hỉ!”
“Ừ yên.”
Tôi không nỡ kể cho em tôi nghe về những trái đại bác câu lạc lúc gần sáng. Tôi cũng dấu luôn chuyện đụng độ mỗi ngày xảy ra trên quốc lộ. Chỉ cần sau ruộng, sau xóm có một vài phát AK, hay vài quả B40 bắn ra là cả con đường này có thể tan tành hết. Ngay ngày đầu tiên nổ súng, quân Mỹ cũng lên được tới An Cựu coi tình hình để rồi sau đó về nằm yên một nơi cho Việt cộng hoành hành. Khi đi ngang qua khỏi nghẹo, một phát súng ở đâu phía sau Miểu Đại Càng bắn ra. Đoàn quân Mỹ dừng lại, một vài người Mỹ đi vào nhà gần nhất lôi ra một thanh niên. Anh này biết nói tiếng Anh, là một giáo sinh trường sư phạm Quy Nhơn về thăm nhà. Anh đưa giấy tờ, nói chuyện với người Mỹ. Nhưng họ đâu cần biết. Một phát súng nổ, người thanh niên tội nghiệp ngã xuống đất, co dúm người lại. Người Mỹ leo lên xe lái về Phú Bài. Trong căn nhà gần đó, mọi người đổ túa ra ôm lấy xác thanh niên khóc lóc. Một vài anh giải phóng đang đóng quân trong những nhà mặt sau tiến ra:
“Đả đảo quân Mỹ tàn ác giết dân.”
“Chúng tôi xin chia buồn. Đây là một cái chết anh dũng, một người vì dân vì nước.”
Một lá cờ màu mạ nhỏ được đắp lên mặt người chết. Một lúc sau mọi người rút đi hết. Chỉ còn thân nhân của xác chết vẫn chưa ngớt gào khóc, nhưng rồi tiếng khóc của họ cũng chìm dần trong tiếng súng nổ ran bốn phía. Còn nhiều nữa, làm sao tôi có thể kể cho em tôi nghe hết. Mới mấy ngày trước đây, quân Mỹ mất một khẩu súng đã giật đổ một căn nhà lầu. Mới mấy ngày trước đây, dãy nhà bên kia đường có một gia đình mới về. Đêm hôm đó quân giải phóng về bắt người chủ gia đình đi mất. Người này làm gác dan hay giữ xe gì đó cho một chi nhánh cảnh sát. Ông ta đã già và chắc tới nay đã ra người thiên cổ..............

(Giải khăn sô cho Huế - Nhã Ca)

 

Đăng ngày 02 tháng 02.2016