Một lời chứng


trước khi lật qua một trang sử thảm khốc của dân tộc

Lê Trọng Quát

Tuy là kinh đô của Việt Nam từ lúc Vua Gia Long thống nhất  đất nước cho đến ngày cộng sản Việt minh cướp chính quyền tháng 8, 1945, Huế không lớn lắm và dân cũng không đông nên từ thành phần trung lưu trở lên, gần như ai cũng biết ai dù không quen.
Tôi biết ông Võ Đình Cường và anh Trác «  điên » mà thỉnh thoảng tôi gặp, đi một mình, trên đường phố, không để ý đến ai, không gây gổ ai.
Hai hôm sau vụ nổ ở đài Phát Thanh Huế, tôi rời Sài Gòn về Huế và từ phi trường Phú Bài đến thẳng Phú Cam nơi ông Ngô Đình Cẩn cư trú để hỏi cho rõ sự việc đã xẩy ra. Ông rất bối rối, tỏ ý muốn giải quyết gấp nội vụ và nhờ tôi đếnthẳng chùa Từ Đàm tiếp xúc với hai Thượng Tọa Trí Quang và Đôn Hậu để tìm cách giải quyết càng sớm càng tốt cho ông hay.
Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối, tôi gặp TT Trí Quang sau khi gặp TT Đôn Hậu. Cả  hai TT đều có mặt lúc ấy ở chùa Từ Đàm, mỗi TT trong một phòng riêng.. TT Đôn Hậu trình bày sự việc đã xẩy ra và trao cho tôi một bản văn gọi là 5 nguyện vọng của Phật Giáo và thỉnh cầu tôi trình bày với Tổng Thống Diệm cứu xét chấp thuận để sớm giảiquyết mọi chuyện.
TT Trí Quang thì khác. Ông tiếp tôi và khi đưa tôi ra xe, TT nói với tôi : «  Bác ơi, chế độ này cho nó sập cho rồi  ». Tuy tôi trẻ hơn TT nhưng các nhà sư hay dùng từ » bác » để gọi người khách cùng độ tuổi. Tôi hết sức bất ngờ trước lời nói hoàn toàn chính trị này.
Tôi trở lại cho ông Cẩn hay kết quả cuộc tiếp xúc và ông yêu cầu tôi vào gặp Tổng Thống gấp và gắng trình bày mọi chuyện đặng sớm có một giải pháp và tin cho ông biết ngay quyết định của Tổng Thống.
Hôm sau, tôi vào Sài Gòn và từ phi trường đến thẳng Dinh Gia Long xin gặp Tổng Thống. Tôi nhớ hôm ấy là một ngày cuối tuần. Tổng Thống vừa đi kinh lý đâu về với kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Ông Thụ đang còn trong phòng sĩ quan tùyviên. Tôi được mời vào gặp Tổng Thống liền trong lúc đại úy Bằng, một cận vệ đang giúp gài nút ở nách áo dài trắng của Tởng Thống. Tôi liền trình bày cuộc tiếp xúc của tôi với hai Thượng Tọa và 5 nguyện vọng của Phật Giáo do TT Đôn Hậu nhờ tôi đệ trình TổngThống. Sau khi tôi trình bày ý kiến của tôi về các nguyện vọng này, Tổng Thống bằng lòng ngay và lộ vẻ vui hẳn. Tôi hỏi tiếp có được phép gọi về Huế để thi hành quyết định của Tổng Thống. Ông bảo tôi chờ hỏi ý kiến của ông Cố vấn ( Ngô Đình Nhu). Ông Cố vấngóp ý kiến với Tổng Thống về một vấn đề quan trọng  là thường và hợp lý. Tôi chờ đợi.
Khoảng hơn tuần sau, vào một buổi trưa, ông Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi văn Lương điện thoại cho tôi lúc tôi đang ở Sài Gòn làm việc tại Quốc Hội, nói  ông Cố vấn cho tôi biết rằng không thể nói chuyện với họ được nữa, chắc vì tình hình đã biến chuyển sôi động ở nhiều nơi.
Được tôi thông báo, ông Cẩn rất buồn và bày tỏ sự lo âu sâu xa như một linh cảm đen tối về chuyện gì có thể xẩy đến. Cũng như Tổng thống Diệm, ông Cẩn đối xử ân cần đối với Phật Giáo. Riêng đối với Thượng Tọa Trí Quang, ông Cẩncó những giao dịch lịch sự và tử tế. Các trường tư thục Bồ Đề phát triển ở nhiều tỉnh , không hạn chế. Trong Chính Phủ và các tướng lãnh,tỷ lệ người Công giáo không đến 30%. Ngay tại Huế, hai chức vụ lớn nhất là Đại Biểu Chính Phủ Trung Phần VN và Tỉnh Trưởngkiêm Thị Trưởng Thành phố Huế trong suốt thời Đệ Nhất Cộng Hòa không vị nào là người Công Giáo : ĐBCP Hồ Đắc Khương, Nguyễn Xuân Khương, Tỉnh,Thị Trưởng Hà Thúc Luyện, Nguyễn văn Đẳng.
Còn bảo rằng người theo đạo Phật chống lại Tổng Thống Diệm, ngay tại Huế, nơi có nhiều tín hữu Phật giáo, cũng là sai nốt. Đại đa số những Phật tử rất sáng suốt. Họ chỉ bất bằng vậy thôi về chuyện gần ngày lễ Phật đản, có lệnh cấmtreo một cờ Phật giáo mà thôi trước nhà vì từ trước cờ tôn giáo phải treo cùng cờ quốc gia trong các dịp lễ tôn giáo. Nhưng sự bất bằng ấy đã bị khai thác lợi dụng để trở thành một vụ kỳ thị Phật giáo. Về vụ nổ trước Đài Phát Thanh Huế, cần phải được điềutra để truy tố thủ phạm vì thiếu bằng chứng hiển nhiên và thủ phạm có thể thuộc về một tổ chức chống Chính Phủ Diệm như Cộng sản hay Tình báo Mỹ đang lúc một thế lực lớn của chính trường Mỹ đang muốn lật đổ Tổng Thống Diệm. hay một tổ chức thứ ba chống TổngThống Diệm lợi dụng hai  tổ chức trên.

Sau vụ đảo chính 1963, Thượng Tọa Trí Quang còn lãnh đạo các cuộc chống đối mang tính cách chính trị hoàn toàn, không một liên hệ nào với Phật giáo, sách động quần chúng Phật giáo mang cả bàn thờ Phật ra đường ở Huế, mưu đồ cùngmột số quân nhân tách Vùng I Chiến thuật  ra khỏi nước VNCH !
Không có một tội danh nào lớn hơn tội vừa kể, đương trường phạm pháp hay là quả tang (flagrant délit – in flagrante delicto ) trong hình luật quốc gia, bất cứ nước nào.
Tiếp theo vụ sát hại TT Diệm và bào đệ Cố vấn Ngô Đình Nhu do lệnh của Dương văn Minh và đồng bọn phản loạn, Tướng Nguyễn Khánh đã ra lệnh giết ông Ngô Đình Cẩn và ông Phan Quang Đông. Y đã ra lệnh cho Đại tá Nguyễn văn Mầu, nguyên giám đốc nha Quân Pháp được y phong cho làm Bộ Trưởng Tư Pháp,soạn một cái gọi là sắc luật đặt ra một số tội danh mà y cho là đúng với các tội mà y muốn gán ép cho ông Ngô Đình Cẩn. Sắc luật còn qui định không có kháng án, chống án và xử xong là thi hành ngay.Tệ hại hơn nữa là sắc luật này được áp dụng cho những việcxẩy ra trước khi nó được ban hành. Trong luật pháp cả thế giới ngày nay luật pháp chỉ áp dụng cho các tội vi phạm sau khi luật được ban hành. Sự hồi tố nghĩa là áp dụng cho những tội phạm trước khi luật ra đời bị tuyệt đối cấm chỉ.
Với sắc luật phi pháp trắng trợn này và những sĩ quan do y chọn làm thẩm phán, cái gọi là Tòa án đặc biệt này đã kết án tử hình ông Ngô Đình Cẩn.
Cũng với thủ tục tố tụng hình sự phi pháp này, ông Phan Quang Đông, nhân viên của Phủ Tổng Thống đặc trách điều hành liên lạc với các điệp viên của VNCH hoạt động ở Bắc Việt bên kia vĩ tuyến 17, đặt cơ sở tại Huế, không dính dánggì đến các cơ quan chính quyền ở Huế, bị kết án tử hình và xử bắn ngay tại sân vận động Huế. Thiếu phụ trẻ, hiền thê của ông Đông, đang mang thai, đến lạy lục xin tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Vùng I chiến thuật ở Huế tha cho chồng nhưng Thi từ chối vì khôngdám làm trái ý TT Trí Quang, người trong bóng tối quyết định mọi việc ở trong vùng lúc bấy giờ.
Hai vụ xử án này là những hành động man rợ hiếm hoi trong lịch sử của nền tư pháp cận đại của thế giới.
Trách nhiệm trực tiếp là Nguyễn Khánh nên ngay sau lễ giổ Tổng Thống Diệm năm 2003 tại San Jose mà Khánh lì lợm vác mặt tới dự và vái lạy trước di ảnh Tổng Thống, tôi được bạn Ngô Đình Chương, người tổ chức buổi lễ, mời Khánh và tôi về nhà anh nói chuyện. Tôi chất vấn Khánh về hai vụ án nói trên. Y chối quanh một cách lúng túng, hèn hạ. Tối hôm ấy, cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn, không biết được ai thuật lại – có lẽ mấy người theo Khánh có mặt trong buổi nói chuyện – điện thoại cười bảo tôi « hồi chiều, anh quạt tướng Khánh dữ lắm há».
Tôi còn nhớ trong buổi lễ, ngoài Thủ Tướng Cẩn, còn có hai thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình và Búi Đình Đạm. Chúng tôi xúc động ôm nhau . Hai vị tướng này không tham gia vụ đảo chính mà còn bị khó dễ sau đấy. Phần tôi, bị bọn phản loạn bắt giữ tại Tổng Nha cảnh sát quốc gia cho đến tháng hai 1965. Mới được trả tự do khoảng hơn tháng, tôi lại được «mời vào ở Tổng Nha CSQG» hai tuần vì lý do sợ tôi tham gia đảo chính, chỉnh lý xẩy ra khá nhiều trong thời kỳ hỗn loạn này.

Qua bốn cuộc tiếp xúc trực tiếp của tôi với Tổng Thống Diệm, ông Ngô Đình Cẩn, TT Đôn Hậu và TT trí Quang, tôi nhận thấy rõ ràng :
-Tổng Thống Diệm và ông Cẩn mong muốn giải quyết lanh chóng, công bằng và tốt đẹp ngay từ những ngày đầu tiên sau khi nội vụ xẩy ra tại Huế. Chính phủ và Quốc Hội Đệ Nhất VNCH không có một ý tưởng hay hành động nào kỳ thị Phật giáo.
-TT Trí Quang bày tỏ rõ ràng mưu đồ chính trị, khuynh đảo quốc gia.
Nhạc phụ tôi  một Phật tử thuần thành lúc sinh tiền có lần nói với nhà tôi : «TT Trí Quang giỏi thuyết pháp nhưng rất kiêu ngạo, giống như con chim hạc nhìn xuống hồ nước chỉ thấy có mình!». Có lẽ vì vậy, ông Thượng Tọa ôm mộng làm Thái Thượng Hoàng chăng!
Sau vụ đảo chính 1963 và biến động Miền Trung do TT Trí Quang lãnh đạo, Huế không còn «đẹp và thơ» nữa. Trong bầu khí Cố Đô như phảng phất một sự nghi kị, thiếu thiện cảm giữa một phần đông dân Huế cho đến Tết Mậu Thân 1968, khi bộ đội cộng sản tràn vào Huế thì nhiều tên tranh đấu hăng hái trong vụ biến động Miền Trung hai năm trước xuất đầu lộ diện chỉ điểm cho bọn chúng sát hại đồng bào trên năm ngàn người vô tội như chúng ta đã biết.
Những giọt nước mắt đổ xuống trong tang lễ của nhà Sư Thích Trí Quang tuy chân thật nhưng chỉ là sự than khóc một người thân vĩnh biệt của một thiểu số ít ỏi tín đồ trong lúc hơn nửa triệu đồng bào tỉnh Thừa Thiên - Huế uất hận, âm thầm kín đáo, không bao giờ quên được những ai đã gây tang thương cho họ và chờ đợi ngày sẽ đến, Cố Đô được giải thoát, tự do, trở lại đẹp và thơ, êm đềm bên giòng Hương Giang xanh biếc, lặng lờ trôi.
Paris, ngày 23 tháng 11, 2019
LS Lê Trọng Quát
Cựu giáo sư trường Quốc Học, Huế


Chứng nhân một sự kiện lịch sử

(Về ngày 2 tháng 11 năm 1963, đã bổ túc  ngày 1-11-2019)

Thụy Mi

Đó là một buổi chiều định mệnh… vô cùng đớn đau bi thảm vào đầu tháng 11 năm 1963. Đúng hơn là buổi sáng ngày 02 tháng 11 năm 1963, ông Trần Trung Dung (nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng, dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm). Ông Dung đã gọi phone đến nhà Năm Tony. Trong nhà Năm có thêm bạn: Trung, Thạch, Thụy Mi và Vì Dân ngồi gần bàn làm việc. Năm bắt phone và chuyển sang cho ông Ba chủ trại hòm Tobia. Sau một hồi trao đổi, giọng ông Ba trở nên lo lắng. Bối rối. Quắt quay. Bồn chồn. Như có điều gì bức bách lắm. Cuối cùng ông Ba thở dài, buông phone xuống,e dè nhìn mọi người hiện diện, đôi mắt ông rướm lệ rồi ngập ngừng nói nhỏ:
- Tổng thống, và ông cố vấn đã chết trong chiếc thiết vận xa M113 mang số 80.989, bởi lệnh của ông Dương văn Minh, do sát thủ là Nguyễn văn Nhung giết hại rùi.

Sửng sốt, bàng hoàng. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, tất cả vội túc trực trong phòng khách, mở radio lên lắng nghe. Hội đồng tướng lãnh do Trung-tướng Dương Văn Minh đứng đầu đảo chánh đã thành công. Ông Minh tuyên bố: “Tôi tạm thời lãnh đạo quốc gia”. ĐàiPhát Thanh Sài Gòn chỉ mở nhạc hoà tấu, nhưng luôn luôn nói đi nói lại là: “Anh em ông Diệm đang ẩn nấp, hoặc... tẩu thoát đâu đó”…
Chẳng nói chẳng rằng, ông Ba vội vã kiếm người đi gọi đạo tỳ đến xưởng hòm, để chuẩn bị “hậu sự” cho Tổng Thống Diệm và ông cố vấn Nhu. Ở nhà kho của ông Ba có nhiều hòm tuy đẹp, đắt tiền. Nhưng không mấy xuất sắc. Chỉ còn một cái hòm tốt nhất bằng gỗ gia tỵ rất quý hiếm, có bọc sẵn thêm cái hòm kẽm ở bên trong. Ý ông Ba muốn để cái hòm nầy cho ông cố vấn Nhu. Ngoài ra, còn một cái hòm nhôm mới toanh láng cón của quân đội Mỹ. Chiếc quan tài nầy rất đẹp, làm bằng nhôm nhẹ, có hai lớp. Bên ngoài mạ lớp sơn bóng loáng, bên trong bọc một lớp đệm nhung mỏng, êm ái như tấm đệm giường ngủ, có thể mở nắp ra đóng vào bằng kính dễ dàng, lộ cả khuôn mặt người quá cố, cho mình nhìn tiễn biệt phút cuối cùng, hòm có chốt cài bên hông. Nếu là xác đã ướp lạnh, có thể để lộ hẳnra ngoài. Ở Việt Nam chưa xuất hiện loại hòm tân thời như thế.
Lẽ ra là chiếc hòm rất sang trọng đẹp đẽ qúy hiếm nầy sẽ đựng thi hài của một viên Tá người Mỹ đã từ trần tại Việt Nam. Nhưng không hiểu sao họ lại mang vất bỏ chiếc quan tài ấy ở bên hông nhà ướp lạnh trong phi trường Tân Sơn Nhứt!?. Tình cờ ông Ba đi làm việc đã thấy. Tiếc quá nên ông Ba nài nỉ, thương lượng với tên quản lý nhà xác, và ông đã mua lại. Ông Ba đem về trưng bày trong tiệm cuả mình, coi chơi. Ai đến mua giá cao cỡ nào, ông cũng không bán. Thế là ông Ba quyết định:
- Chỉ có Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới xứng đáng nằm an nghỉ trong đó thôi.
Cả hai khuôn hòm được mang ra lau chùi bóng loáng, sát trùng sạch sẽ, họ chuẩn bị sẵn sàng; chờ lệnh.
Gần 11 giờ trưa, phone của ông Trần Trung Dung gọi báo:
- Nhờ ông vui lòng mang khuôn hòm đến nhà xác bệnh viện Saint Paul. Ở đường Tú Xương. Tuyệt đối không cho đông người đi, và người lạ tháp tùng.Xe chỉ chở đến đó… mỗi lần một quan tài mà thôi.
Ông Ba nêu ý kiến:
- Có nên lấy thêm một xe nữa. Đi theo phía sau xa xa xe kia. Hay không?
- Không. Chở từng cái một, mỗi xe đi cách xa nhau khoảng nửa giờ. Mang cái “đầu tiên” đi trước.
Ông Ba tuân lệnh. Đem cái hòm đặc biệt “đầu tiên” đi. (ý họ muốn nói đến “cái đầu tiên”: là khuôn hòm của Tổng-thống Diệm, người sẽ liệm trước tiên).
Chiếc xe tang từ từ lăn bánh. Trên xe có bà chủ tiệm hòm, Năm, Mi & Dân, Thạch, Trung, cộng thêm bốn người đạo tỳ. Xe lao vào đường phố vắng tanh như đi trong thành phố chết, hoặc đang vào giờ giới nghiêm, thiết quân luật vậy. Đến đường Tú Xương, Vì Dân mới thấy phe cách mạng lật đổ chính phủ đã cho cảnh sát, quân cảnh đứng canh gác ở các chốt. Xe jeep chận ngang ngỏ vào nhà xác.
Ngoài các anh: Năm, Thạch, Trung, Mi, Dân, bà chủ tiệm và bốn đạo tỳ ra, còn có hai soeur có lẽ ở bệnh viện nầy. Thêm vợ chồng cháu rể của tổng thống đang lăm le chiếc máy ảnh trong tay.

Khi xe tang vào tới bên trong, thì một soeur rón rén, lấp ló, len lén nhìn trước ngó sau, coi soeur có vẻ gian, sợ sệt lén lút, như người làm chuyện mờ ám gì, chả biết. Hình như soeur có lệnh trước, đã vội vàng kéo cánh cửa đóng ập lại liền. Trong nhà xác chỉ có một ngọn đèn vàng lù mù, leo lét, treo lơ lửng tòn ten trên trần.
Bốn đạo tỳ mang quan tài đặt trên bệ đá cẩm thạch trong nhà xác. Họ đợi khoảng hai mươi phút sau, thì có một chiếc xe hồng thập tự kiểu Dodge nhà binh (màu cứt ngựa) thắng lết bánh, đỗ xịch lại. Bà soeur canh cổng kia lật đật mở cánh cửa nhà xác ra. Từ trên xe có bốn quân nhân nhảy phóc xuống, họ vội vội vàng vàng khiêng chiếc băng ca lắc lư nhún nhảy. Trên đó có một người nằm cũng nhún nhảy lắc lư theo nhịp bước mau. Họ mang băng ca vào hẳn phía trong, để xuống dưới đất. Họ chả buồn nhìn ai hay nói câu nào,họ cúi đầu vội vã quay trở ra, leo tọt lên xe. Chiếc xe Dodge rít lên nghe rợn tóc gáy vút đi trong sự im lặng hãi hùng…
Lúc bấy giờ cả nhóm đông trong phòng liền bước tới đứng sát bên băng ca. Người nằm trên băng ca là vị tổng thống kính mến của nền Đệ Nhất Cộ̣ng Hòa miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm (1901-1963). Ngài mặc bộ veston màu xanh rêu, thắt cà vạt xanh đậm có chấm trắng. Dưới chân ngài mang một chiếc giày màu đen, bên chân kia chỉ có một chiếc tất trắng. Cả bộ comple chìm trong màu máu, trên đầu tổng thống có một vết thương sâu từ dưới ót trổ lên đỉnh đầu, bê bết máu. Ngài nằm đó thản nhiên im lặng, dường như Tổng thống say chìm trong giấc ngủ ngàn thu bình an không muộn phiền, chẳng khổ đau…
Ánh sáng vụt loé lên. Thì ra ông cháu rể ngoại quốc kia đã bấm được vài ba tấm ảnh. Chả hiểu ông cháu nầy lúng túng, run rẩy, sợ hãi, lo lắng hay sao, mà ông lại vội cất dấu máy hình, không chụp thêm mà lại ngưng? Hay ông thấy cảnh máu me lan tràn như thế, thật hãi hùng và đau lòng. Nên ông không cầm nỗi cơn nghẹn ngào xúc động đau đớn dâng tràn bờ mi?!
Đạo tỳ khiêng xác ngài lên, đặt trên một bệ đá cẩm thạch có lót hai lớp vải trắng. Bà chủ tiệm nói với Năm, Thạch, Trung, Vì Dân, và hai soeur:
- Nhờ lấy bông gòn và compresse nhúng đầy alcohol, lau nhẹ nhàng, lau sạch sẽ, lau rất cẩn thận các vết máu cho tổng thống giúp tôi.
Họ lộ vẻ kính cẩn, ân cần, chu đáo sửa sang áo quần Tổng-thống Diệm chỉnh tề, ngay ngắn. Bốn đạo tỳ chăm chỉ cắm cúi lo tẩm liệm ngài đàng hoàng. Bà chủ tiệm hòm lâm râm đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn người quá cố. Bà nhét vào tay tổng thống xâu chuỗi hột mân côi. Hình như Tổng Thống Diệm vừa mới chết, cho nên hai bàn tay ông đã nhẹ nhàng khép lại dễ dàng giữ xâu chuỗi, như ông đang lim dim đọc kinh lần hạt. Mọi người hiện diện nín thở, có cảm tưởng tim đập thiếu nhịp, thở hụt hơi: Nghẹn ngào. Ngậm ngùi. Cay đắng. Bẽ bàng xao động. Đau xót kinh khủng. Thương tiếc sâu sa. Buồn mênh mông cho kiếp phù sinh bạc mệnh. Ngắn ngủi!

Họ chưa kịp đậy nắp hòm, thì chiếc xe hồng thập tự lúc nãy đã trờ đến. Cánh cửa lớn do bà soeur kia lum khum hé mở ra. Đám lính lật đật bưng cái xác thứ hai vào. Bà soeur vội vàng khép nhanh cánh cửa ngay. Đó là ông Cố-vấn Ngô đình Nhu mặc áo sơ mi trắng cụt tay ngực đẫm máu. Áo bỏ trong quần màu nâu hơi xộc xệch, thắt dây lưng da, chân mang đôi giày màu kem. Gương mặt ông Nhu có vẻ oán hận, bất bình điều gì, vầng trán thật cao cau lại với nhiều nếp nhăn. Đôi môi ông mím chặt nghiêm nghị. Không thấy ông Nhu có nét thanh thản bình an (như gương mặt thản nhiên của người anh). Ông nằm hơi nghiêng qua một bên. Họ thấy ông bị nhiều vết đâm sau lưng, loại dao bayonet của quân đội. Máu vẫn ứa ra từ các vết thương đó. Trên đầu, ngay thái dương có hai vết thủng. Đó là dấu đạn đi từ bên nầy xuyên sang bên kia.
Công việc tẩm liệm cũng tuần tự diễn ra. Cẩn thận, nhưng hơi vội vàng như lần trước. Không khí lúc nầy quả thực nặng nề kinh khủng! Im lặng hoàn toàn.. Hình như ai ai cũng thở rất nhẹ. Vì họ sợ mỗi tiếng động làm dấy lên từ đáy lòng mình tiếng nấc, mà họ đã kềm sâu trong lòng, để khóc thương một kiếp người phù sinh: khi họ đứng trên tột đỉnh danh vọng cao sang dường bao, ấy thế mà lúc họ lìa đời thì quá ư bẽ bàng, bạc phận!? Hoặc sẽ làm hỏng không khí kính cẩn tôn nghiêm; nơi con người thực sự đã bước chân vào cõi vô cùng hư vô? Quả đúng là phân giới giữa sự sống và cõi chết: chỉ ngăn cách bằng một sợi tóc dài lê thê và mỏng tanh, bởi một bức màn sô vô hình tầm thường mà mong manh như sương khói. Nhưng, kiếp người ở hai phân giới ấy đã không thể làm gì khác hơn. Người ở biên giới nầy không thể va mặt, chạm tay vào biên giới vô hình kinh khủng bên kia, và càng không thể biết thêm gì nhau hơn!

Đó là hình ảnh nhỏ nhoi tầm thường rất cô độc của con người hiện hữu đối mặt trước sự siêu hình, cao cả của sự sống và sự chết. Quả thật không là gì cả khi thân xác ấy trở thành bất động, lung linh như ảo ảnh hư vô mà vô cùng sống động,thực tế và quá đỗi thương tâm. Các bạn: Mi, Dân, Năm Tony, Thạch, Trung sẽ không bao giờ quên, không bao giờ phai mờ hình ảnh bi thương ấy trong trí óc. Vì, rất thật. Quá thật tình cờ… vô tình mình làm chứng nhân một sự kiện lịch sử trong thế kỷ. Ý thức nhận rõ ràng: Cuộc sống sao quá mỏng manh như một bóng mây trắng hờ hững bay giữa lưng trời rám bạc. Như cành cây oằn thân trong bão khi gió muốn lặng, mà dễ đâu nào!

Vì Dân cảm thấy mệt lả, nhịp tim rung lên từng cơn run rẩy, nghẹn nghẽn nỗi đau trong cổ, nàng vội kéo Năm, Thạch, Trung, bước ra thềm nhà xác, đi về hướng Phan Thanh Giản, là mong cho dễ thở hơn.
Ngay lúc đó, Mi thấy một đoàn biểu tình náo nhiệt rầm rộ kéo nhau xuống đường. Họ vừa đi vừa giơ nắm tay hò la, hét tướng lên: "đả đảo chế độ gia đình trị họ Ngô”. Họ đi thẳng tới biệt thự đường Phan Thanh Giản của ông Bộ-trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương, (người đã từng nắm giữ chức vụ Tổng Ủy-trưởng, Tổng Ủy Di Cư năm 1954).
Họ lao vào nhà ông Lương đập phá, hôi của. Tất cả mọi thứ trong nhà thoáng chốc “biết đi” biến sạch hết ra ngoài đường. Thậm chí Vì Dân còn thấy có mấy người bưng hai con chó Nhật sợ hãi nhìn quanh, như nó đang muốn tìm cố chủ.. Đám biểu tình nhốn nháo bắt đầu xúm lại nổi lửa trong sân. Rất may, lúc đó có toán Cảnh-sát Dã-chiến đến. Họ can ngăn kịp thời. Ôi! Cuộc Cách Mạng phừng phưng thành công rồi đó. Toàn dân bấy giờ đã thoát ra khỏi chế độ “gia đình trị họ Ngô”. Nhưng, rồi đây sẽ đến phiên ai đi tới đi lui, đi lên và đi xuống, đi qua và đi lại? Sẽ ra sao? Xin nhường câu trả lời cho lịch sử từ bây giờ, và những tháng năm sau nầy phán xét.
Nghe tiếng bà chủ gọi, các anh, chị, vội chạy trở về nhà xác: khi hai chiếc xe hồng thập tự đã đến lấy quan tài hai anh em họ Ngô. Họ nói với tài xế: “Vô Bộ Tổng Tham Mưu”. (Vì lý do an ninh, nên Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng chuyển hai xác anh em tổng thống vào Bộ Tổng Tham Mưu, an táng trong khuôn viên trại Trần Hưng Đạo, cạnh chùa An Quốc). Hiện diện, làm việc cấp tốc trong đêm khuya có vị linh mục người Pháp, ông bà Trần Trung Dung, Trung-tá Nguyễn Văn Luông (trưởng ban mai táng), một số ít quân nhân ở Tổng Tham Mưu.

Thế rồi tiếp theo sau mấy cuộc đảo chánh, chỉnh lý. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đương nhiệm nghe lời ông thầy địa lý phán một câu xanh dờn:
- Vì hai huyệt mộ kia đã chôn nhằm “long huyệt”. Cho nên đất nước Việt Nam đã xảy ra lộn xộn liên tục. Muốn cho yên ổn. Phải cho dời đi ngay.
Thế là sau ngày đảo chánh ít lâu, bên phòng mai táng ở quân đội miền Nam Việt Nam Cộng Hòa lại cho mời ông Ba đến, họ bàn trước tính sau cặn kẽ, nhờ ông Ba làm hai cái kim tĩnh xây gạch, tráng xi măng trước. Ông Ba lại cho người lên bộ Tổng Tham Mưu lén lút, hì hục đào bới cả hai anh em cố Tổng Thống vào ban đêm. Đạo tỳ làm việc bù đầu suốt canh thâu không ngưng nghỉ; từ choạng vạng tối đến tờ mờ sáng mới xong. Ông Ba đem hai thi thể: ông Diệm và ông Nhu về chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.
Khi hạ rồng rồi, ông Ba có lệnh chỉ được phép lóng cát phủ lên bề mặt hai ngôi mộ bằng phẳng cho đầy. Bên trên mặt chỉ được lấp ba tấm ván sơ sài. Trông hai ngôi mộ rất hèn mọn, quá tầm thường. Tuyệt đối ông Ba không được phép ghi tên tuổi, ngày tháng trên bia mộ gì cả. Dù chung quanh đó có những ngôi mộ cẩm thạch bóng loáng, vinh sang hào nhoáng lộng lẫy khác. Vì nền Đệ Nhị Cộng Hoà “họ” sợ dân biết tin hai vị ấy nằm đó, dân sẽ đến cầu nguyện và ngưỡng mộ (!?). Nhưng làm sao mà che được tai mắt dân lành!? Không biết do đâu “rò rỉ ra” nguồn tin:
- Chính hai ngôi mộ đơn sơ không tên không tuổi, không hình bóng nầy: là mộ phần của anh em Tổng-thống Ngô Đình Diệm.

Thế là từ đó, mỗi khi ai ai có dịp vào thăm nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, họ liền đi vào cổng chính, đến đoạn giữa “hai ngôi mộ Anh Em”, nằm đối diện với cái tháp tưởng niệm, và ngôi mộ cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ to lớn nguy nga, tráng lệ nhìn sang “hai anh em: GioanBaotixita Huynh ; Giacobe Đệ”. Có một điều rất khác biệt với những ngôi mộ lộng lẫy sang trọng kia,thì trên hai ngôi mộ đơn sơ đạm bạc đớn hèn khiêm tốn nầy, luôn luôn có những bó nhang trầm nghi ngút khói, có đóa hoa tươi màu thay đổi mỗi ngày, có bốn ngọn nến sáng lung linh thắp suốt đêm. Hình như người dân dù sợ hãi người khác thanh trừng, nên chỉ âm thầm lén lút đi thắp nến đốt nhang cầu nguyện. Họ luôn tưởng niệm cho “Ngày dài nhất thế kỷ, buổi chiều định mệnh đó”. Họ là những người dân hiền lương ẩn danh nghèo hèn như thầm nói:
- Vĩnh biệt Tổng Thống Diệm. Vĩnh biệt ông Cố vấn Nhu. Xin các ngài cứ bình thản an nghỉ. Vì đất nước Việt Nam vẫn còn là đất nước Việt Nam. Có thay đổi chăng, chỉ là đổi mới những sự kiện, và những con người lãnh đạo quốc gia mà thôi. Nguyện cầu nhị vị an nhàn bình thản ra đi… hạnh phúc phiêu lãng ngao du sơn thủy, đi khắp trên mọi miền đất nước Việt Nam, và xin quý ngài phù hộ cho dân lành được ấm no, bình an hạnh phúc thật sự, như qúy vị hằng đợi mong. Xin qúy vị lãng quên cuộc đời bạc bẽo. Quên con người hết sức trắng trợn độc ác tham tàn và… xin hãy tha thứ cho con người rối rắm hèn kém suy nghĩ kia, những kẻ đã tàn nhẫn hại mình. Kiếp người ô trọc đảo điên và phù du rồi sẽ khép lại sau đôi mắt hờ hững lặng nhìn. Vì Dân tôi, một chứng nhân vô tình hèn mọn trong bóng tối lịch sử buông tiếng thở dài sâu lắng, trầm buồn và ngậm ngùi trên mỗi phím loan: Ối ôi ồi!!!…
***
Mãi về những năm gần đây, sau nầy thôi, thì hài cốt "hai huynh - đệ: Gioan Baotixita Huynh; Giacobe Đệ" (trên bia mộ vẫn không ghi tên thật, ngày tháng năm gì cả) lần thứ ba, họ lại được thân nhân đào lên, cải táng cho nhị vị về an nghỉ tại "Nghĩa-trang số 6", ấp Đông An, xã An Bình, huyện Dĩ An. Lần nầy, Thụy Mi Vì Dân chấp đôi tay khẩn thiết cầu xin Thiên Chúa cho quý "Huynh-Đệ" thật sự bình an, yên nghỉ vĩnh viễn dưới lòng đất quê hương Việt Nam. Xin đừng "bới móc thi hài người quá cố" lên thêm lần thứ bốn làm chi nữa! Đã quá đủ thảm thương rồi!

THỤY MI
_______________

Vết đen trên lương tâm nước Mỹ

sau ngày 1.11.1963

Ký Thiệt

Ngày 1.11.1963, chế độ Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam bị lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự. Tổng thống Ngô Đình Diệm, do dân bầu ra trong một cuộc tuyển cử tự do, đã bị giết chết cùng với cố vấn Ngô Đình Nhu, em ông.

https://baomai.blogspot.com/

Ngày nay, sau gần 56 năm, những bí mật liên quan đến cuộc chính biến bi thương và đẫm máu ấy đã lần lượt được đưa ra ánh sáng, cho thấy đồng minh Hoa Kỳ, dưới chính quyền Kennedy, đã đóng vai trò chủ động từ đầu tới cuối.

https://baomai.blogspot.com/

Gần như vào ngày 1 tháng 11 mỗi năm, trang sử đen tối ấy trong quan hệ Việt – Mỹ lại có người nói tới với một số chi tiết mới hay cái nhìn mới.
Trước đây hai tuần, nhân nói về sự thiên lệch của bộ phim “The Vietnam War”, tác giả Phillip McMath đã mở lại trang sử cũ với một bài đăng trên Nhật báo The Washington Times ra ngày 9.10.2017 tựa đề “Ken Burns, JFK and the unopened door”, trong đó kể lại những diễn tiến đã dẫn tới vụ 1.11. 1963.

https://baomai.blogspot.com/

McMath nói rằng với sự thành công ngày càng hiển nhiên của chế độ tại Niềm Nam Việt Nam của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Cộng Sản Bắc Việt và Việt Cộng ở Miền Nam VN đã khởi phát một cuộc chiến tranh du kích ác liệt ở Miền Nam để chống lại. Và vào mùa hè năm 1963 thì chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa ở Miền Nam VN có vẻ như bị suy sụp.
Dựa trên tiền đề ấy, tác giả đã dựng ra một kịch bản mới đưa đến cuộc binh biến ngày 1.11.1963. McMath nói rằng kịch bản ấy do một nhân viên người Ba-Lan tên Mieczyslaw Maneli trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến (International Control Commission - ICC) thi hành Hiệp định Genève, khởi xướng. Ủy hội này gồm có 3 người, ngòai Maneli (Ba-lan), còn có Ramchundur Goburdhun (Ấn-độ), và một người Canada.

https://baomai.blogspot.com/

Đến Sài-gòn vào đầu năm 1963, Maneli đã cùng với Goburdhun thiết lập một đường dây liên lạc riêng giữa Sài-Gòn và Hà-Nội. Họ đã giúp John Kenneth Galbraith, đại sứ Mỹ tại Ấn-độ, với sự hậu thuẫn của Thủ tướng Ấn Nehru, để thực hiện một kế hoạch tìm kiếm hòa bình bằng cách kêu gọi trung lập hóa Miền Việt Nam – một cuộc ngưng chiến và sau đó thành lập một chính phủ liên hiệp. Galbraith cho biết Kennedy đã chấp thuận kế hoạch này và ra lệnh “tiến hành ngay lập tức”.
Galbraith chỉ định Goburdhun tham khảo‎ ý kiến TT Diệm, Maneli ra Hà-Nội vào tháng 3 và nhiều lần sau đó.
Vào ngày 1 tháng 4, Galbraith gặp Kennedy xin thực hiện gấp đề nghị hòa bình nhưng bị Thứ trưởng Ngoại giao Averell Harriman và Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân HK chống đối. Tuy nhiên, Kennedy khuyến cáo: “Hãy chuẩn bị nắm lấy thời cơ thuận lợi để giảm bớt sự can dự của chúng ta”.

https://baomai.blogspot.com/

Sau đó, Kennedy thay thế Đại sứ Frederick Nolting, người chống truất phế TT Diệm, bằng Henry Cabot Lodge, thuộc phe cứng rắn ủng hộ một cuộc đảo chính. Cabot Lodge tới Sài-Gòn ngày 22 tháng 8. Hai ngày sau, Kennedy k‎ý “Bức Điện văn 24 Tháng 8” tai tiếng gửi cho Lodge ra lệnh thay thế ông Nhu và đe dọa “có thể cả chính Diệm cũng không thể giữ lại”, nếu ông không cộng tác.
Sau đó, ngày 25 tháng 8, Maneli gặp ông Nhu một cách công khai và họp kín với nhau vào ngày 2 tháng 9. Cuộc họp thứ hai này bị CIA phát hiện và báo cho Lodge. Và, tin đồn về một “thỏa hiệp bí mật” giữa Diệm-Nhu và Hồ Chí Minh được loan truyền đi khắp Sài-Gòn.

https://baomai.blogspot.com/
President John F. Kennedy and Secretary of State Dean Rusk

Được báo động, ngày 13 tháng 9 Lodge gửi điện cho Ngoại Trưởng Dean Rusk, hỏi: “chúng ta sẽ đáp lại như thế nào nếu Nhu, trong khi thương thuyết với Bắc Việt, yêu cầu Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam hay giảm bớt phần lớn lực lượng quân sự?”
Ngày 16 tháng 9, ông Nhu họp các tướng lãnh QLVNCH, tiết lộ đường dây Maneli và nhấn mạnh CSBV quan tâm tới việc giao thương giữa hai miền, và cho biết Maneli “đã sẵn sàng để bay ra Hà-Nội trong thời gian ngắn”.

https://baomai.blogspot.com/

Và rồi ngày 18 tháng 9, Joseph Alsop, một nhà báo Mỹ phe diều hâu tới Sài-Gòn, viết một bài nhan đề “Very Ugly Stuff” trên tờ Washingon Post, phanh phui vụ hiệp thương của Maneli. Đám cháy đã trở thành một cơn bão lửa.

https://baomai.blogspot.com/

Kennedy bối rối, ngày 21 tháng 9 cử Robert McNamara và Maxwell Taylor bay sang Sài-Gòn nhận định tình hình. Ngày 2 tháng 10, họ báo cáo rằng cuộc chiến VN có thể thắng vào năm 1965, với lãnh đạo mới. Không cố vấn tại mặt trận nào đồng ‎ý như vậy. Nhưng Kennedy đã thuận tai vì ông ta đang hy vọng điều đó, điều mà ông ta cần cho cuộc tái tranh cử vào năm 1964. “Làm mất Đông Dương” sẽ là một thảm họa cho cuộc tranh cử để ngồi lại Bạch Cung.
Và, Kennedy đã “bật đèn xanh” cho cuộc đảo chính ngày 1.11.1963. “Kịch bản” trên đây được thuật lại theo cái nhìn của McMath, trong khuôn khổ của một bài báo, có thể còn thiếu sót, và không giống kịch bản của những người khác đã viết về thảm kịch này, nhưng, kết quả thì giống nhau: chế độ cộng hòa non trẻ tại Nam Việt Nam bị chết yểu, TT Ngô Đình Diệm và người em, Ngô Đình Nhu, bị hạ sát, mà người chịu trách nhiệm nặng nhất là Tổng thống Hoa Kỳ J. F. Kennedy.

https://baomai.blogspot.com/

Trang sử đen tối trên đây cũng vừa được Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn soi sáng vào mọi mặt trong một tập biên khảo dài 60 trang, trong đó ông mổ xẻ mọi yếu tố có thể đã tác động vào tình hình Việt Nam trong 30 nhiễu loạn (1955-1975) để đi đến kết luận:
Cuối cùng lịch sử còn để lại một bằng chứng vững chắc nhất để chứng minh hùng hồn là Tổng Thống Diệm và quân dân Miền Nam đã chiến thắng oanh liệt khi ngăn chặn “làn sóng đỏ” tại Á Châu để bảo vệ “tiền đồn của Thế Giới Tự Do”. Bằng chứng đó chính là - qua chương trình chiêu hồi vào 1963 - nhiều Việt Cộng đã nhìn thấy hàng ngũ của họ đang tan rã từng ngày.

https://baomai.blogspot.com/

Vào tháng 4-1963 TT Diệm đã đưa ra chính sách Chiêu hồi để kêu gọi các cán binh cộng sản về hồi chánh với chính quyền quốc gia. Tại tỉnh Quảng Ngãi khoảng 800 cán binh Việt cộng đã bỏ hàng ngũ, xin hồi chánh và được tiếp đón nhân đạo, đã trở về với đời sống thường dân, hay được chính quyền Quốc gia trọng dụng tùy khả năng. Trên khắp Miền Nam đã có khoảng 10.000 cán binh Việt cộng đã về hồi chánh vào 1963.

https://baomai.blogspot.com/

Maggie Higgins không thể tưởng tượng được khi nhìn thấy các binh cộng sản tiếp tục buông súng để trở về với hàng ngũ quốc gia như những con chim tìm về tổ ấm của họ. Ngay cả sau khi Tổng Tống Diệm bị lật đổ, là khoảng thời gian có những cuộc nổi loạn chống chính quyền Miền Nam tơi bời do Thích Trí Quang và nhóm Phật giáo quá khích của ông gây ra. Trong những cơn lốc dữ dội vào 1964 và 1965 con số chiêu hồi tiếp tục gia tăng từng ngày. Sự kiện thực tế cho thấy đã có tới 27.000 cán binh cộng sản chính quy và trừ bị đã tung cánh chim tìm về tổ ấm với hàng ngũ quốc gia Miền Nam.
Chiêu hồi trở thành một làn sóng tiếp tục gia tăng ngay khi những võ khí của Nga và Trung Cộng tuôn ào ạt đổ vào, cùng với lực lượng Miền Bắc xâm lăng Miền Nam. Các lực lượng này theo đường mòn Hồ Chí Minh, từ Miền Bắc qua Lào để xâm nhập Miên Nam. Những đơn vị khác đã xâm nhập bằng đường biển đi qua vùng Biển Đông để đưa tiếp liệu và võ khí vào Miền Nam. Nhưng tất cả những nỗ lực tiến chiếm Miền Nam Việt Nam của cộng sản Bắc Việt mà tất cả những chứng liệu lịch sử đáng tin cậy nhất vừa nêu lên ở trên cho thấy Tổng Tống Diệm và quân dân MN đã chiến thắng oanh liệt trước những đoàn quân xâm lăng và những lực lượng nằm vùng tại Miền Nam để bảo vệ nền an ninh vả ổn định nông thôn khắp Miền Nam từ 1954-1963.

https://baomai.blogspot.com/

Tuy nhiên giới báo chí truyền thông thiên tả và thiên cộng và những viên chức chính quyền trong Bộ Ngoại Giao HK thuộc phe bồ câu thì tìm mọi cách đề đảo ngược tất cả sự thật hiển nhiên mà các viên chức cao cấp nhất của chính quyền Hoa Kỳ đưa ra trong những hồ sơ còn lưu trữ lại. Trong lúc đa số báo chí truyền thông chỉ ngồi ở Caravelle, Givral hay Continental tại Sài Gòn để tưởng tượng ra mà viết; rất ít người tham dự trong các trận đánh tại chiến trường hay đi về các vùng nông thôn trên 4 vùng chiến thuật mà quan sát và tìm hiểu sự thật. Nhưng dư luận Hoa Kỳ và thế giới Tây Phương, thay vì tin vào những sự thật do phái bộ quân sự của Hoa Kỳ và những phúc trình của CIA hay Robert Thompson gửi cho Tòa Đại Sứ Mỹ để biết tất cả sự thật, dư luận lại tin theo những tin tức giả dối hay bị bóp méo bởi những nhà truyền thông không có lương tâm hay những tên ngốc hữu dụng (useful idiots) khuất thân làm công cụ tuyên truyền không công cho cộng sản, viết ra để hướng dẫn dư luận hoàn toàn có hại cho Tổng Thống Diệm và cả quân dân Miền Nam. Họ biến những chiến thắng của Miền Nam thành những thảm bại cho quốc gia của họ.

https://baomai.blogspot.com/

Quan sát những thành quả vĩ đại của TT Diệm, có lần Thương Nghị Sĩ Mike Mansfield đưa ra nhận xét về Tổng Thống Diệm: “the savor of all Southeast Asia” (vị cứu tinh của khắp vùng Đông Nam Á). Còn Jacob Javits thì tôn vinh Tổng Thống Diệm: “one of the real heroes of the free world” (là một trong những vị anh hùng thực sự của thế giới tự do). Nhưng tại sao một số người Mỹ lại lật đổ TT Diệm để đưa đến thảm bại cho cả nước Mỹ? Higgins tìm được nguyên do như sau:
“Kẻ thù cộng sản là thứ lọc lừa trí trá rất tinh vi. Những người Mỹ thay vì phải học nơi ông Diệm khi đến Việt Nam, họ đã cưỡng ép trói buộc ông phải làm theo lời cố vấn của họ trong lúc những hiểu biết về kẻ thù cộng sản của họ rất mù mờ, mù mờ như con tàu đi trong sương đêm vì lạc lối.”

https://baomai.blogspot.com/

Đó là tất cả nguyên nhân dẫn đến cái chết thảm khốc Tổng Thống DIỆM và đưa luôn miền Nam VIỆT NAM vào tay cộng sản ngày 30.4.1975 khiến TT Johnson phải thốt lên: “Lật đổ TT Diệm là lỗi lầm to lớn nhất đã làm cho chính sách ngăn chận làn sóng đỏ của Hoa Kỳ tại Á Châu thất bại”. (ngưng trích)
Lỗi lầm ấy không chỉ là một thảm họa cho Việt Nam và tai hại cho Hoa Kỳ, mà còn là một vết đen không thể tẩy sạch trên lương tâm nước Mỹ. TT Kennedy trả lời thế nào khi nhúng tay vào âm mưu lật đổ chính quyền hợp pháp của một nước đang là đồng minh gắn bó với mình, sát cánh với mình chiến đấu chống kẻ thù chung và giết chết tổng thống của nước ấy?
Có lẽ ông Kennedy đã nhận ra lỗi lầm ghê gớm ấy, tội ác kinh khủng ấy, nên khi nghe tin về cái chết của anh em ông Diệm, mặt ông ta đã trở nên “xám ngoét như tro”.

https://baomai.blogspot.com/

22/11/1963
Cái chết dữ của TT Kennedy, chỉ sau TT Diệm vài tuần lễ, mà nguyên nhân cho đến nay còn tranh cãi, phải chăng là một giải thoát cho ông?
Từ ngày lập quốc, chưa đầy 300 năm, Hoa Kỳ đã là ngọn đuốc soi đường cho nhân loại – về lý ‎tưởng tự do chính trị, về kinh tế phát triển, về những phát minh khoa học, y học phục vụ con người, về lòng hào hiệp, và nhờ hùng mạnh vô song, nước Mỹ đã cứu nhân loại qua hai cuộc Thế Chiến và đánh bại Cộng sản trong cuộc Chiến tranh Lạnh. Không có nước Mỹ, bộ mặt thế giới sẽ khó coi hơn nhiều, và sẽ là một hành tinh khó sống, nhất là cho những nước nhỏ và yếu.
Dựa vào truyền thống ấy, nước Mỹ đã nợ Việt Nam một “Món Nợ Đạo Đức” khó trả.

Ký Thiệt

 

Đăng ngày 30 tháng 11.2019