Một thất bại đầu tiên

Phạm Đình Hưng

Sau một thời gian dài tuyên truyền gian dối về lý lịch của Hồ Chí Minh, đảng CSVN đã phải công nhận một sự thật lịch sử: cục Văn thư và Lưu trữ của CSVN đã chánh thức công bố: Hồ Chí Minh là Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Nhân dân giải phóng Trung quốc!!!

Nhân dịp Tết Nguyên Đán Ất Mùi, đảng Cộng Sản Việt Nam đã long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 85 năm thành lập đảng để phô trương các “thành tích” vĩ đại. Để đánh giá đúng đắn các “thành tích” của đảng Cộng Sản Việt Nam, chúng ta cần phải xét duyệt trước tiên quá trình thành lập tổ chức chánh trị nầy.

Nói chung, ngoài việc cướp đoạt chánh quyền một cách bất hợp pháp bằng bạo lực cách mạng để được thụ hưởng giàu sang phú quý với một nếp sống xa hoa vương giả như vua chúa dưới thời phong kiến, đảng Cộng Sản Việt Nam đã gặt hái nhiều thất bại hơn thành công. Ngược dòng lịch sử cận đại, người Việt trong và ngoài nước hãy khách quan và trung thực tìm hiểu giai đoạn thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam dày đặc dối trá.

Thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam

Ai thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam? Chính Đệ tam Quốc tế Cộng sản đã tài trợ và thành lập đảng Cộng sản Việt Nam sau khi cho ra đời đảng Cộng Sản Pháp năm 1920 tại Tours và đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 1921 tại Thượng Hải để bành trướng chủ nghĩa cộng sản tại Tây Âu và Á châu. Theo chỉ thị của Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Liên Xô Josef Stalin, Nguyễn Tất Thành, bí danh Nguyễn Ái Quốc (bút danh của Nhóm Ngũ Long tại Paris) từ Thái Lan đến Quảng Châu rồi qua Hong Kong tham dự việc thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 3-2-1930 tại một sân đá banh.Tham dự buổi họp thành lập Đảng có 6 người Việt (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Trình Đình Cữu, Nguyễn Đức Cảnh, Lê Hồng Sơn và Lê Tán Anh) và một đại biểu Quốc tế Cộng sản. Tài liệu cộng sản Việt Nam không nói tên của người đại biểu Quốc tế Cộng sản nhưng các tư liệu tham khảo cho biết nhân vật ngoại quốc nầy tên Hồ Tập Chương, phái viên Cục Đông phương Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương đều là cán bộ của Cộng sản Quốc tế , thành viên Ban Trù bị thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương đã từng làm việc chung với nhau từ năm 1929 đến khi cả hai bị bắt giam năm 1931: Nguyễn Ái Quốc bị Cảnh Sát Anh bắt giam tại Hong Kong, Hồ Tập Chương bị Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt giữ tại Quảng Châu, một thành phố lớn của tỉnh Quảng Đông.

Hồ Tập Chương là ai?

Hồ Tập Chương là người sắc tộc Hakka (Hẹ) sanh năm 1903 tại Miêu Lật, địa khu Đồng La, đảo Đài Loan. Tốt nghiệp Đại học Công nghiệp Đài Bắc, Hồ Tập Chương là một người uyên bác Hán văn, nói lưu loát tiếng Quảng Đông và tiếng Hẹ, thông thạo Nhật ngữ và Anh ngữ, yêu thích phiêu lưu,mạo hiểm và vân du giang hồ, có năng khiếu thích ứng với ngành gián điệp. Năm 1931, sau khi bị Trung Hoa Quốc dân Đảng bắt giữ tại Quảng Châu vì bị tình nghi là cán bộ cộng sản, Hồ Tập Chương đã được Lâm Y Lan, nữ đảng viên cộng sản Trung Quốc dưới quyền của Đào Chú, giải cứu, đưa đến thành phố cảng Hạ Môn, tỉnh Phước Kiến, rồi chuyển về Quảng Tây để khai thác hầm mỏ và hoạt động cho Cộng sản Trung Quốc tại biên giới Hoa-Việt năm 1932. Vì vậy, thành phố Mông Cáy, giáp giới Quảng Tây, rất quen thuộc đối với ông ta. Kể từ thời điểm nầy, Hồ Tập Chương chấm dứt liên lạc với gia đình, bỏ lại vợ con ở Đài Loan. Hồ Tập Chương kể như thất tung trong thời chiến loạn. Trên một giấy thông hành (passport) có dán ảnh Hồ Tập Chương do Cảnh Sát Anh tịch thu năm 1931 tại nhà của Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tập Chương đổi tên là Hồ Chí Minh.

Năm 1933, sau một thời gian ẩn trú tại Thái Lan, Hồ Tập Chương trở về Hạ Môn, đáp tàu thủy đi Thương Hải trên đường đi Moscow. Tại đây, Hồ Tập Chương được Vera Vasilieva, Chủ nhiệm Quốc tế Cộng sản phụ trách Việt Nam, bố trí cho học tập tại Học viện Lenin trong 5 năm (1933-1938) để cải tạo thân phận thành một con người khác. Trong thời gian 5 năm cải tạo tại Moscow, Hồ Tập Chương đã học tiếng Việt và tiếng Pháp, trau dồi Nga ngữ để đóng trọn vai trò của Nguyễn Ái Quốc đã qua đời trong mùa hè năm 1932 vì bịnh lao phổi trầm trọng.

Trở về Trung Quốc

Năm 1938, sau 5 năm học tập cải tạo tại Moscow, Hồ Tập Chương trở về Diên An, căn cứ địa của đảng Cộng Sản Trung Quốc dưới bí danh Hồ Quang. Với quân hàm Thiếu tá, Hồ Quang được phái đến phục vụ trong Tập đoàn quân 18 Bát lộ quân của Thống chế Diệp Kiếm Anh hoạt động trong tỉnh Quảng Tây.

Năm 2014, chánh quyền Trung Quốc  công bố một bí mật lịch sử đã được giấu kín trên nửa thế kỷ: Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là Thiếu tá Hồ Quang của Quân Đội Nhân Dân Giải Phóng Trung Quốc.

Địa bàn hoạt động của Hồ Tập Chương tức Hồ Quang là tỉnh Quảng Tây. Các thành phố Nam Ninh, Quế Lâm và Liểu Châu của tỉnh Quảng Tây cũng như vùng biên giới Hoa-Việt quá quen thuộc đối với ông ta. Từ Quảng Tây, Hồ Quang được đảng Cộng Sản Trung Quốc đặc phái qua Việt Nam thi hành một sứ mạng đặc biệt 2 năm sau khi từ Moscow trở về Diên An. Để hỗ trợ Hồ Quang hoàn thành nhiệm vụ, đảng Cộng Sản Trung Quốc cung cấp cho ông ta một số võ khí và cán binh bảo vệ cẩn mật hang Pác Bó trong tỉnh Cao Bằng.

Nhưng theo các tài liệu dối trá của đảng Cộng Sản Việt Nam, nhân vật từ Trung Quốc trở về Việt Nam năm 1940 và ẩn trốn trong hang Pác Bó là Nguyễn Ái Quốc. Nhân vật nầy cũng có thói quen thường qua lại biên giới Hoa-Việt để đến tỉnh Quảng Tây. Tại đây, ông ta bị tướng Trương Phát Khuê của Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt giữ năm 1942 vì bị tình nghi là gián điệp cộng sản Tàu. Năm 1943, Nguyễn Ái Quốc được trả tự do và trở về Pác Bó với tên đổi mới là Hồ Chí Minh, tên của Hồ Tập Chương từ năm 1931. Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc là tác giả tập thơ Nhật Ký Trong Tù sáng tác trong thời gian bị tướng Trương Phát Khuê giam cầm tại Quảng Tây (1942-1943)

Vén màn bí mật

Để giải mã một bí ẩn lịch sử đã được giấu kín từ năm 1940, người Việt chúng ta cần phải đặt tin tưởng vào sự xác nhận trên giấy trắng mực đen của chính Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một bài viết tháng 1 năm 1949 tựa đề Đảng Ta đăng trên Tạp Chí Sinh Hoạt Nội Bộ dưới bút danh Trần Thắng Lợi, nguyên văn như sau:

“Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở lại Tàu cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng. Trong số 7,8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi (tức Hồ Chí Minh), nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và Trịnh Đình Cữu, đồng chí Tán Anh (Lê Tán Anh) và vài đồng chí nữa đã oanh liệt hy sinh cho đảng và cho dân tộc lâu trước Cách Mạng tháng 8.” (Xem Hồ Chí Minh Toàn Tập, tập 5, trang 547).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết ra một sự thật: Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau. Ông taviết bài Đảng Ta trước khi quyển sách của Trần Dân Tiên (tức Hồ Chí Minh) tựa đề Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch viết bằng Hán văn được in và xuất bản tại Thượng Hải năm 1949, dịch ra tiếng Pháp và xuất bản tại Paris năm 1950, dịch ra tiếng Việt năm 1951 để từ đó đảng Cộng Sản Việt Nam lập luận rằng Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc!

Tại sao quyển sách của Trần Dân Tiên (Hồ Chí Minh) lại viết bằng Hán văn, in và xuất bản trước tiên bên Tàu trong khi Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, người Việt? Phải chăng quyển sách nầy do một người Tàu (Hồ Tập Chương) viết bằng Hán văn và phải được đảng Cộng Sản Trung Quốc kiểm duyệt trước khi xuất bản tại Thượng Hải năm 1949? Hơn nữa, Nguyễn Ái Quốc chỉ có trình độ sơ cấp về Hán văn, nhân vật nầy nếu còn sống hoàn toàn không có khả năng viết một quyển sách bằng Hán văn. Mặt khác, nếu Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, ông ta cũng không có đủ vốn liếng Hán văn để trước tác tập thơ Nhật Ký Trong Tù gồm có 134 bài thơ siêu tuyệt. Nguyễn Ái Quốc cũng không thể thông thạo ngôn ngữ riêng biệt của sắc tộc Hakka.

Trái lại, Hồ Tập Chương rất uyên bác về Hán văn. Trình độ cao của Hồ Tập Chương về Hán văn đã thể hiện rõ rệt trong tập thơ Nhật Ký Trong Tù do ông ta viết trong thời gian lao lý (1942-1943) tại Quảng Tây, sử dụng Hán văn trác tuyệt và các thành ngữ đặc thù của sắc tộc Hakka (Hẹ).

Sau một thời gian dài tuyên truyền gian dối về lý lịch của Hồ Chí Minh, đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải công nhận một sự thật lịch sử: Cục Văn Thư và Lưu Trử của Cộng Sản Việt Nam đã chánh thức công bố:

Hồ Chí Minh là Thiếu tá Hồ Quang của Quân Đội Nhân Dân Giải Phóng Trung Quốc.
(Veb. Cục Văn thư và Lưu trử Việt Nam)
Nói tóm lại, trong thời gian 3 thập niên từ 1940 (năm Hồ Chí Minh về hang Pác Bó) đến 1969 (năm Hồ Chí Minh qua đời), đảng Cộng Sản Việt Nam đã không phát hiện lãnh tụ tối cao của họ là một người Tàu mà còn tôn vinh người nầy là Cha Già của dân tộc Việt Nam, thờ phượng ông ta tại lăng Ba Đình, trong các chùa chiền và tư gia của đồng bào trong nước. Đến ngày nay, Cộng Sản Việt Nam mới đành phải công nhận: Hồ Chí Minh là Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Trung Cộng, một người Tàu. Đó là một sự xấu hỗ và thất bại to lớn đầu tiên của đảng Cộng Sản Việt Nam.

 Mùa Xuân California, 2015
Thẩm phán Phạm Đình Hưng

http://www.trachnhiemonline.com

________________

Chánh đảng & băng đảng

Ngày 27-12-2014, đài BBC loan tin tổ chức nhân quyền Human Rights Watch tố cáo Công An cộng sản Việt Nam sử dụng bọn côn đồ để trấn áp những người bất đồng chánh kiến. Hành động bất xứng nầy đã xóa bỏ ranh giới ngăn cách nhà chức trách Cảnh Sát Công An với bọn lưu manh côn đồ và biến chất đảng Cộng Sản đang cầm quyền tại Việt Nam thành màu xám thay vì chất xám. Nhân dịp nầy, với tư cách một người đã từng xử án tại Pháp đình Sài Gòn trước năm 1975, tôi cần vạch một lằn ranh giữa đảng phái chánh trị (chánh đảng) và băng đảng tội phạm.

Chánh đảng khác băng đảng

Chánh đảng là một tổ chức chánh trị tập họp một số cá nhân đồng tình với nhau về một chủ thuyết (doctrine) hoặc một chương trình hành động (platform) cần thực hiện để phát triển đất nước, tôn trọng tự do dân chủ và mưu cầu phúc lợi cho nhân dân. Trái lại, băng đảng là một tổ chức tội phạm qui tụ một số côn đồ, lưu manh, gian nhân hiệp đảng cấu kết với nhau để tống tiền, cướp của, giết người nhằm mục đích tư lợi và thỏa mãn các nhu cầu vật chất thấp hèn của bản thân họ. Chánh đảng và băng đảng khác biệt nhau như ánh sáng và bóng tối, như đen và trắng. Chánh đảng, nhứt là đảng cầm quyền như đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay phải diệt trừ băng đảng chớ không thể giả dạng băng đảng hoặc sử dụng bọn lưu manh, côn đồ để đánh đập, trấn áp người dân lương thiện và yêu nước.

Vai trò của chánh đảng

Về mặt công quyền, chánh đảng là một thành tố của hệ thống cai trị trong một quốc gia dân chủ bao gồm các cơ chế hiến định (Hành pháp, Lập pháp, Tư pháp, Giám sát), chánh đảng và báo chí. Tại các nước Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhựt bổn, Đại Hàn, Đài Loan, chánh đảng nắm được vị trí cầm quyền ở cấp trung ương thông qua một cuộc tổng tuyển cử Quốc Hội tự do, công bằng và trong sạch. Căn nguyên của quyền lãnh đạo quốc gia theo Xã Hội Ước (Le Contrat Social) của Jean Jacques Rousseau cho thấy rõ đảng Cộng Sản Việt Nam không phải là một đảng cầm quyền chánh danh. Thật vậy, đảng Cộng sản nắm quyền lãnh đạo quốc gia căn cứ vào điều 4 Hiến Pháp 1992 thay vì nhận được sự ủy quyền của toàn dân Việt Nam. Điều 4 Hiến pháp 1992 sao chép nguyên văn điều 2 Hiến Pháp Liên Xô. Hơn nữa, đảng nầy luôn luôn thắng cử với tỷ lệ trên 95% nhờ kỹ thuật gian trá “đảng cử, dân bầu” bất chấp dư luận và ý chí của toàn dân.

Về mặt hiến chế, vì sự trường tồn của nước Việt, đảng Cộng sản Việt Nam cần bắt chước Vương quốc Anh, một quốc gia dân chủ đầu tiên trên quả địa cầu với Đại Hiến chương Magna Charta ban hành năm 1215; các nhà trí thức ở trong và ngoài nước cần ra sức vận động thành lập một chế độ tam đảng: đảng có số phiếu bầu cao nhứt cầm quyền, đảng có số phiếu bầu cao thứ nhì đứng đối lập, đảng có số  phiếu bầu cao thứ ba đứng làm trọng tài trong sự điều hành chánh quyền trong nước.

Thành lập chánh đảng tại Việt Nam

Người nghiên cứu chánh trị Việt Nam dễ nhận thấy có một sự khác biệt rất lớn giữa đảng Cộng Sản và các chánh đảng quốc gia.

1- Đảng Cộng Sản Việt Nam do Đệ tam quốc tế cộng sản chi tiền thành lập tại Hong Kong năm 1930 sau khi đã tài trợ việc thành lập đảng Cộng Sản Pháp tại Tours năm 1920 và đảng Cộng Sản Trung Quốc tại Thượng Hải năm 1921.

Từ khi ra đời ở ngoài nước Việt Nam đến nay, đảng Cộng sản không có một chủ thuyết nào khác học thuyết của Karl Marx, Frederick Enghels (Đức), Vladimir Lenin (Nga) được bổ túc bởi các kỹ thuật cướp và giữ chánh quyền vô cùng tàn bạo của Vladimir Lenin và Josef Stalin (Liên Xô) từ thập niên 1920 và các tư tưởng độc ác của Mao Trạch Đông (Tàu) từ 1950. Nhằm mục đích bành trướng hai đế quốc Liên Xô và Trung Hoa, các chủ thuyết của Marx, Lenin và Mao Trạch Đông là kim chỉ nam hướng dẫn mọi hành động của đảng Cộng sản Việt Nam từ 1931 đến nay mặc dầu chủ thuyết cộng sản (communism) đã bị cả thế giới vứt bỏ từ năm 1989.

Cương lĩnh chính trị của đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Trần Phú soạn thảo cho thấy đảng Cộng sản bắt buộc phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa sau khi hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc bằng cách lừa bịp những người nông dân và công nhân ít học hy sinh mạng sống trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương (1945-1954) và Việt Nam (1955-1975). Học lực lớp Tư trường làng (cours Élémentaire de l!Enseignement Élémentaire),Tổng Bí thư Lê Duẫn đã công khai nhìn nhận:

“ Ta đánh đế quốc Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc và đánh cho hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa”.

Nô lệ chủ thuyết cộng sản, đảng Cộng sản Việt Nam đã sử dụng bạo lực cách mạng để tiến hành bốn (4) cuộc chiến tranh (Chiến tranh Đông Dương, Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh Biên giới Tây Nam, Chiến tranh Biên giới phía Bắc) hy sinh 10 triệu đồng bào, giết chết 10,000 trí thức và tinh hoa của dân tộc Việt. Hậu quả của 4 cuộc chiến tranh vô cùng tai hại: mất độc lập và lệ thuộc Hán tộc, tàn phá đất nước, dâng đất liền và biển đảo ở Biển Đông (South China Sea) cho thiên triều Bắc kinh, dẫn dắt dân tộc Việt vào đại họa mất nước và tiêu vong dân tộc.

Dưới tấm bình phong ý thức hệ cộng sản, quyền lợi tư riêng của các lãnh tụ, cán bộ và đảng viên cộng sản là lý do và động lực duy trì chế độ độc tài đảng trị tại Việt Nam bất chấp nguy cơ Bắc thuộc lâu dài sẽ bắt đầu từ năm 2020 căn cứ theo Thỏa ước Thành Đô ký kết năm 1990 giữa một bên là Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Phạm văn Đồng và một bên khác là Giang Trạch Dân và Lý Bằng.

2- Khác hẵn đảng Cộng sản Việt Nam, các chánh đảng quốc gia đã được thành lập ngay trong nước và do chính người Việt chủ động với tinh thần yêu nước và tự lực cánh sinh.

* Tại Bắc kỳ, một số chánh đảng lớn sau đây đã ra đời trước và sau năm 1930, qui tụ đông đảo đảng viên là những người Việt yêu nước:

    - Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) đã được đảng trưởng Nguyễn Thái Học thành lập năm 1928. Chủ thuyết của VNQDĐ là Tam Dân Chủ Nghĩa: Dân tộc Độc Lập, Dân quyền Tự Do, Dân sinh Hạnh phúc.

Sau cuộc khởi nghĩa tại Yên Bái thất bại năm 1930, đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí đã hiên ngang lên đoạn đầu đài đền nợ nước. Từ ngày một số cán bộ cộng sản cướp chánh quyền tại Hà Nội (19-8-1945), vô số cán bộ và đảng viên VNQDĐ (Khái Hưng, Nhượng Tống v.v…) bị cộng sản ám sát, thủ tiêu.

    - Đai Việt Quóc Dân Đảng (ĐVQDĐ) đã được đảng trưởng Trương Tử Anh thành lập năm 1938. Chủ thuyết của ĐVQDĐ là Dân tộc Sinh tồn.

Đồng số phận với VNQDĐ, đảng trưởng Trương Tử Anh và rất nhiều cán bộ ĐVQDĐ đã bị nhà cầm quyền cộng sản ám sát, bắt giam và giết hại trong những năm đầu của cuộc Chiến tranh Đông Dương (1945-1954).

    - Đại Việt Duy Dân Đảng (ĐVDDĐ) do Thái Dịch Lý Đông A thành lập trước năm 1945. Chủ thuyết của ĐVDDĐ là Duy Dân Chủ Nghĩa đã được Thái Dịch Lý Đông A trình bày trong tập Huyết Hoa. ĐVDDĐ đã qui tụ một số đông trí thức trong đó có Thái Lăng Nghiêm. Cũng như Trương Tử Anh, Lý Đông A đã mất tích sau ngày 19-8-1945.

* Tại Nam kỳ, một số chánh đảng quốc gia đã được thành lập trước và sau năm 1945 với mục đích tranh đấu cho nền độc lập của nước Việt Nam. Tất cả các chánh đảng kể sau đều có khuynh hướng dân tộc và dân chủ:

     - Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng (gọi tắt là Dân Xã) do Giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ thành lập với sự cộng tác của Trần văn Ân và Nguyễn Bảo Toàn. Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ đã bị cộng sản ám hại năm 1947.

    -  Đảng Lập Hiến do Bùi Quang Chiêu và Trần văn Ân thành lập trước năm 1945. Bùi Quang Chiêu đã bị Nguyễn văn Trấn, Giám đốc Quốc Gia Tự Vệ Cuộc (Công An của Việt Minh cộng sản) giết chết tại Chợ Đệm (Long An) năm 1945.

    - Đảng Quốc Gia Độc Lập của Giáo sư Hồ văn Ngà.

Sau ngày quân đội Pháp nhanh chóng chiếm lại Sài Gòn và các tỉnh miền Đông, Giáo sư Hồ văn Ngà bị Việt Minh cộng sản bắt giam và giết hại tại Cà Mau.

Ngoài các chánh đảng quốc gia còn có hoạt động của một nhóm cộng sản Đệ tứ quốc tế bao gồm các nhà trí thức Tạ Thu Thâu, Phan văn Hùm, Trần văn Thạch v.v…Tất cả lãnh tu các chánh đảng quốc gia, nhóm cộng sản Đệ tứ quốc tế, nhân vật và trí thức nổi tiếng của Nam kỳ (Khâm sai Nguyễn văn Sâm, Luật sư Huỳnh văn Phương, Giáo sư Lê bá Cang, vợ chồng Bác sĩ Hồ Vĩnh Ký v.v…) đều bị Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn và Việt Minh cộng sản lần lượt hạ sát ngay trong hai năm đầu của Nam bộ Kháng chiến để giành độc quyền lãnh đạo chiến tranh chống Pháp.

Các hành động độc ác và đen tối của đảng Cộng Sản Việt Nam

1-Trong thời gian Chiến tranh Đông Dương (Indochina War), Việt Minh chưa thu được thuế của cư dân thành thị. Để gây quỹ Kháng chiến, Việt Minh cộng sản đã cướp của, tống tiền, đe dọa giết người và đốt nhà của đồng bào sinh sống tại nông thôn và thành phố. Họ gọi các hành động bất hợp pháp và độc ác nầy là làm “kinh tài mạo hiểm”. Việt Minh cộng sản đã làm “kinh tài mạo hiểm” không khác gì các băng đảng tội phạm cướp của, giết người, tống tiền, đốt nhà của lương dân.

Để đẩy mạnh các hành động giết người, cướp của, thủ tiêu những người không đầu phục cộng sản bị gọi là phản động, Việt gian, gián điệp của Pháp, Hồ Chí Minh và hai phụ tá đắc lực là Phạm văn Đồng và Võ Nguyên Giáp đã trọng dụng một tên lưu manh là Trần Quốc Hoàn trong chức vụ Bộ Trưởng bộ Công An suốt thời gian 40 năm Phạm văn Đồng làm Thủ tướng. Lúc còn ẩn trốn trong rừng núi Thái Nguyên, Hồ Chí Minh đã tuân lịnh Mao Trạch Đông phát động Cải Cách Ruộng Đất, xử bắn trước tiên người ơn đã cưu mang các lãnh tụ đảng Cộng sản là bà Nguyễn thị Năm tức bà Cát Hanh Long trước khi tiến hành đấu tố, cướp đất, giết địa chủ và thân hào nhân sĩ ở nông thôn miền Bắc. Các hành động phản phúc, tráo trở, giết người vô tội để cướp tài sản của họ có khác gì tội phạm của các băng đảng!

2- Sau hội nghị Geneve 1954, Hồ Chí Minh trở về Bắc bộ phủ ngự trị miền Bắc nhờ quân viện to lớn của Mao Trạch Đông tốt bụng đến mức “xin một, cho mười” giúp chiến thắng quân Pháp tại Điện Biên phủ. (Xem Trần Đĩnh, Đèn Cù I và II )

Tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh ban hành Hiến pháp 1959 để chánh thức cho phép đảng Cộng sản chuyên chính trong mọi lãnh vực, tiến hành các chánh sách bắt người, cướp của, đổi tiền, cải tạo công thương nghiệp, hợp tác hoá nông nghiệp nhằm mục đích trấn lột nhân dân miền Bắc. Nhà nước cộng sản Bắc Việt cướp ngày như vậy có khác gì các băng đảng!

3- Sau khi vô sản hóa nhân dân miền Bắc, Lê Duẫn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí Thanh còn muốn cướp luôn nước Việt Nam Cộng Hòa, vơ vét thêm tài sản của Nhà nước và nhân dân miền Nam dưới chiêu bài thống nhứt đất nước Việt Nam. Thế là chiến tranh lại tái phát. Con em miền Bắc hăng hái tham gia chống Mỹ cứu nước, quyết tâm sinh Bắc tử Nam. Liên Xô, Trung Quốc và Hoa Kỳ ào ạt đỗ võ khí vào Việt Nam để giúp thanh niên hai miền Nam Bắc bắn giết nhau không chút thương tiếc và hối hận. Cuối cùng, Việt Nam Cộng Hòa bị Bắc Việt cộng sản thôn tính ngày 30-4-1975 trước sự lạnh lùng của Hoa Kỳ và trở thành một chiến lợi phẩm quý giá của đảng Cộng sản, một thuộc địa giàu có cung cấp nhiều tài nguyên cho kẻ chiếm đóng..Lãnh tụ, cán bộ và đảng viên cộng sản tha hồ cướp đoạt tài sản của Nhà nước Việt Nam Cộng Hòa, quân cán chánh và “ngụy dân” miền Nam. Lê Duẫn và bộ Chánh trị đảng Cộng sản chiếm hữu 16 tấn vàng của Ngân Hàng Quốc Gia do thực dân Pháp chuyển giao cho chánh quyền Bảo Đại năm 1948. Lãnh tụ và cán bộ cộng sản cưỡng chiếm các công thự, cộng ốc và biệt thự sang trọng. Cán bộ và đảng viên cộng sản thụ hưởng nhà cửa, ruộng đất và tài sản của những nhà tư sản, tiểu tư sản và thương gia bỏ nước ra đi trước làn sóng đỏ tràn ngập miền Nam.

Hiến pháp 1959 và các pháp lịnh bất nhân của miền Bắc cộng sản được đem áp dụng ngay cho miền Nam tự do để bắt giam không xét xử trên ba trăm ngàn (300,000) sĩ quan, viên chức, cán bộ của các chánh đảng quốc gia và nhân viên các Sở Mỹ, xử bắn không bản án vài chục ngàn nhân viên Cảnh Sát và viên chức xã ấp. Kẻ xâm lăng từ miền Bắc xuống đã đập tan nền kinh tế thị trường của miền Nam và trấn lột ngay “ngụy dân” Nam kỳ bằng các biện pháp đổi tiền, đánh tư sản mại bản, cải tạo công thương nghiệp và hợp tác hóa nông nghiệp dưới quyền chỉ đạo của ông thợ thiến heo Nguyễn Cống (lấy bí danh Đỗ Mười vì đã chui xuống cống số 10 ở Hỏa Lò để thoat thân). Các tội ác kể trên của đảng Cộng sản Việt Nam có khác gì hành vi cướp của giết người và cưỡng đoạt tài sản của các băng đảng tội phạm!

Dưới thời trị vì của Vương triều Nhị Lê (Lê Duẫn và Lê Đức Thọ), đảng Cộng sản còn áp dụng chánh sách bài Hoa và tổ chức bán người ra ngoại quốc dưới hình thức Ra Đi Bán Chánh Thức của người gốc Tàu để lấy vàng, nhà cửa và cơ sở kinh doanh của những người trốn chạy “Thiên đường” cộng sản và “Mùa Xuân Của Nhân Loại”

Từ khi Lê Duẫn và Lê Đức Thọ lần lượt nhắm mắt buông tay đi chầu Karl Marx, Vladimir Lenin, Josef Stalin và Mao Trạch Đông, đảng Cộng sản bắt buộc phải cởi mở kinh tế nửa vời để cứu đảng và giúp cho các lãnh tụ, cán bộ và đảng viên trở thành những ông nhà giàu mới (tiếng Pháp gọi là les parvenus). Bắt chước Trung Quốc đi theo nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản, đảng Cộng sản vẫn bám giữ độc quyền ngự trị nước Việt Nam khốn khổ với đặc quyền chuyên chính của một giai cấp mới, giai cấp tư bản đỏ. Thân nhân của các vua quan cộng sản ngày nay đã trở thành các đại gia nắm chặt các Nhóm Lợi Ích nhờ quyền thế của gia tộc. Khai thác các dự án đầu tư của các công ty ngoại quốc, các Nhóm Lợi Ích thẳng tay cướp ruộng đất của lương dân với lực lượng Công An, bộ đội, dân phòng và xã hội đen. Sự cưỡng chế thu hồi ruộng đất quá dễ dàng vì luật pháp xã hội chủ nghĩa không công nhận quyền tư hữu ruộng đất như duới chế độ thưc dân Pháp. Toàn bộ luật pháp do Quốc Hội cộng sản làm ra để tăng cướng quyền hành của đảng Cộng sản và giúp đở cán bộ đảng viên.

Dưới chế độ cộng sản Việt Nam ngày nay, nhà giàu không còn là kẻ thù của nhân dân. Ngược lại, các doanh nhân giàu có còn được mời tham gia đảng Cộng sản, đảng của giai cấp mới, giai cấp tư bản đỏ.

Nói tóm lại, các dẫn chứng kể trên đưa tới kết luận:

   - Đảng Cộng sản Việt Nam không có chánh danh vì đã được thành lập theo chỉ thị của Stalin để phục vụ chủ nghĩa xã hội thay vì phục vụ dân tộc Việt Nam;

   - Trước khi cướp được chánh quyền và trong khi là một đảng cầm quyền, đảng Cộng sản Việt Nam đã có quá nhiều hành động cướp của, giêt người không khác gì những băng đảng tội phạm. Đảng nầy đúng là một Mafia Việt Nam.

Thẩm phán Phạm Đình Hưng
California, đầu năm 2015

http://www.trachnhiemonline.com


Tại sao Nhà nước cộng sản VN đợi đến bây giờ mới phổ biến tài liệu nầy?

Cục lưu trữ VN xác nhận: Hồ Chí Minh chính là

Thiếu tá Hồ Quang trong quân đội Trung cộng

 
a1
 
Ảnh chụp màn hình trang web cục văn thư lưu trữ Việt Nam, phần "Triển lãm tài liệu lưu trữ chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc"

Trang web cục văn thư và lưu trữ Việt Nam chính thức xác nhận Hồ Chí Minh – lãnh tụ đảng CSVN chính là thiếu tá bát lộ quân Hồ Quang trong quân đội giải phóng Trung Cộng.
Theo đó là hai bức ảnh sơ yếu lý lịch viết bằng Hán tự của Hồ Quang dẫn nguồn từ lưu trữ Trung Cộng, được chú thích:

“Sơ yếu lý lịch của Hồ Quang (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) tại Lớp huấn luyện Nam Nhạc thuộc tỉnh Hồ Nam. Năm1939. Hồ Quang - Phụ trách điện đài – 38 tuổi - Quảng Đông - Thiếu tá - tốt nghiệp Đại học Lĩnh Nam – Giáo viên trường Trung học. Biết ngoại ngữ, quốc ngữ. (ảnh 1, ảnh 2)”

 

a2
 

a3
Thông tin này được công bố trên trang web của cục văn thư và lưu trữ Việt Nam, tại đường link: http://www1.archives.gov.vn/TrienlamTQ/Program/Chude1_8.asp

Để có thêm thông tin, mời các bạn xem lại bài viết: Thiếu tá Hồ Chí Minh http://danlambaovn.blogspot.com/2014/07/thieu-ta-ho-chi-minh.html của tác giả Bảo Giang trên Dân Làm Báo

 

a4
Ảnh chụp thiếu tá Hồ Quang - tức Hồ Chí Minh trong quân đội Trung Cộng
 

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - NGƯỜI XÂY ĐẮP NỀN MÓNG QUAN HỆ HỮU NGHỊ

VIỆT NAM - TRUNG QUỐC (TRƯỚC NĂM 1945)

Văn phòng Bát Lộ Quân, thành phố Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây nơi đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã ở và làm việc cuối năm 1938. Di tích được Nhà nước Trung Quốc xếp hạng cấp quốc gia năm 1988.
Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh.

广西省桂林市八路军办事处,阮爱国同志曾经居住和1938年年底工作的地方。1988年得以中国列为国家级文物保护单位。

资料:胡志明博物馆

Ba Lu Jun Office in Xian, Shanxi Province, where President Hochiminh lived and worked in the end of 1938 and was recognized by the State of China as national relic in 1988.
Source: Ho Chi Minh Museum

 

Biển xếp hạng di tích văn phòng Bát Lộ quân
ở thành phố Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây.

Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh.

在广西桂林市的八路军办事处旧址牌匾

资料:胡志明博物馆
The Ba Lu Jun Office's national relic plate in Xian.
Source: Ho Chi Minh Museum

 

                 Ảnh 1                                                                                     Ảnh 2

Sơ yếu lý lịch của Hồ Quang (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) tại Lớp huấn luyện Nam Nhạc thuộc tỉnh Hồ Nam. Năm 1939. Hồ Quang - Phụ trách điện đài – 38 tuổi - Quảng Đông - Thiếu tá - tốt nghiệp Đại học Lĩnh Nam – Giáo viên trường Trung học. Biết ngoại ngữ, quốc ngữ. (ảnh 1, ảnh 2)   
Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc.

 胡光(即胡志明主席)1939年在湖南省南岳培训班的简历。 胡光电台员---38----广东----少校 ----毕业于岭南大学------中学教师。会外语和国语

 资料:中国档案

 Huguang's curriculum vitae (i.e. President Ho Chi Minh) in training course in Xinan province. 1939. Huguang – In-charge of radio transmission – 38 years old – Guangdong - Majority – graduated from Linh Nam university – teacher of secondary school, ability of foreign languages, national language. 

 Source: Chinese Archives

Thôn Lộ Mạc, ở ngoại ô thành phố Quế Lâm, nơi Nguyễn Ái Quốc làm việc tại phòng Cứu vong, thuộc Văn phòng Bát Lộ Quân. Năm 1938 – 1939.
Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc.

 桂林市郊区 路莫村,1938---1939年阮爱国在八路军办事处的救亡 室工作的地方。

资料:中国档案

Lo mac village at the countryside of Guilin where Nguyen Ai Quoc worked at Jiuwang room, Ba Lujun Office. 1938-1939
Source: Chinese Archives

Nhà số 77, đường Kim Bích, thành phố Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Năm 1940, đồng chí Hồ Quang đã ở đây để liên lạc với Ban Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh.

 中国云南省昆明市金碧路771940年胡光同志曾在此居住旨在和印度支那共产党的海外部联系。

资料:胡志明博物馆
The house No.77, Jin Bi street, Kunming city, Yunnam Province, China, where comrade Huquan stayed
in 1940 to contact with oversea Committee under China’s Communist Party
Ho Chi Minh Museum

 Đại Quan lầu ở Côn Minh, nơi Nguyễn Ái Quốc tháng 02/1940 từ Quế Lâm đến Côn Minh liên lạc với Ban ngoài nước của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc

昆 明 大 观 楼,19402月阮爱国同志从桂林到昆明与印度支那共产党的海外组织联络的地方。

资料;中国档案提供
Daguan Lou in Kunming where Nguyen Ai Quoc came to Kunming from Guilin to contact with   In February 1940, comrade Nguyen Ai Quoc arrived in Kunming from Guilin to contact with the oversea committee of Indochina Communist Party.
Source: Chinese Archives
 

Văn phòng Bát lộ quân tại Trùng Khánh. Năm 1940, đồng chí Hồ Chí Minh từ Côn Minh đến Trùng Khánh gặp Chu Ân Lai trao đổi về thời cuộc và nghỉ lại ở một phòng trên tầng 2 của Văn phòng.
 Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc.

重庆八路军办事处,1940年胡志明从昆明到重庆会见周恩来讨论时代局势的地方,在办事处2楼的一个房间小住。

 资料:中国档案
 Ba Lu Jun’s office in Chongqing. Ho Chi Minh used to stay in a room at 2nd floor of the Office when he traveled from Kunming to Chongqing to exchange views with Zhou Enlai on situations of that time.
 Source: Chinese Archives

Bản Ngàn Tấy, thôn Linh Quang, xã Thiện Bàn, huyện Tĩnh Tây, tỉnh Quảng Tây – nơi ở của học viên lớp học chính trị năm 1940, đồng chí Hồ Quang (tức Nguyễn Aí Quốc) và đồng chí Võ Nguyên Giáp thường đến.
Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh.

广西省靖西县善盘乡灵光村万西寨是1940年参加政治训练的学员居住的地方,胡光同志(阮爱国)和武元甲同志经常去的地方。

资料:胡志明博物馆
Ngan tay hamlet, Lingguang village, Shanpan commune, Jingxi district, Guangxi province where stayed traineesof political course in 1940 and frequented comrade Huquan (i.e Nguyen Ai Quoc) and comrade Vo Nguyen Giap.
Source: Ho Chi Minh Museum

Ngôi nhà trong miếu thờ Đại Hoàng ở khu vực Tiểu Đông Môn, huyện Tĩnh Tây, tỉnh Quảng Tây là nơi tổ chức lớp huấn luyện cho các học viên Việt Nam vào năm 1940. Đồng chí Hồ Quang thường đến gặp và giao nhiệm vụ cho các học viên.
Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh

广西省靖西县小东门区大黄庙的房子是1940年为各越南学员组织各培训班的地方。胡光同志经常到此会见和给学员们交代任务。

资料:胡志明博物馆
The house in a temple worshipping Dahuang at Xiaodongmen area in Jing Xi district, Guangxi province where the training course for Vietnamese trainees was held in 1940 and frequented comrade Huquan in order to meet trainees and entrust them with tasks.
Source: Ho Chi Minh Museum

Hai ngôi nhà ở phố Bạch Sa, huyện Long Châu, Quảng Tây, là điểm liên lạc bí mật của Đảng Cộng sản Việt Nam vào những năm 30 – 40 của thế kỷ XX.
Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc.

广 西 省 龙 州 县 白 沙 街 两 座 房 屋, 是 二 十 世 纪 3040 年 代, 越 南 共 产 党 的 秘 密 联 络 地 点
资料:中国档案
Two houses on Bach Sa street, Long Chau district, Guangxi province, which are also the secret liaison venue of Vietnam’s Communist Party during the years 1930s and 1940s of the 20th century.
Source: Chinese Archives

Ga Chỉ thôn, nơi đường sắt Vân Nam - Việt Nam chạy qua. Từ tháng 4 đến tháng 5/1940, đồng chí Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí trong Ban ngoài nước của Đảng Cộng sản Đông Dương đã đến Mông Tự, Chỉ thôn, Khai Viễn… dọc theo đường sắt Vân Nam - Việt Nam để chỉ đạo công tác bí mật của Đảng.

Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc.

址村车站滇---越铁路经过的地方。19404,5月份,阮爱国同志及印度支那共产党海外组织各同志们沿着滇---越铁路到达学自,址村,开远。。。指挥党的秘密工作。

资料:中国档案

Zhi Cun station where the Yun Nan - Vietnam railway go across. From April to May 1940, comrade Nguyen Ai Quoc and other comrades of the oversea committee of Indochina Communist Party went along the Yun Nan - Vietnam railway to Meng Zi, Zhi Cun, Kai Yuan in order to direct the clandestine work of the Party.
Source: Chinese Archives