Tác giả & Tác phẩm

15 tháng 07.2016

phingochung
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

Dẫn nhập: Với cái nhìn chủ quan của người biên soạn, tuyển tập 300 tác giả và tác phẩm đơn thuần chỉ là công việc góp nhặt sỏi đá những tác phẩm tiêu biểu một thời của những tác giả tiền chiến, hậu chiến, trước hay sau 75 của hai miền Nam Bắc, trong nước cũng như ngoài nước, già hoặc trẻ, cũ hoặc mới. Tác giả và tác phẩm được góp mặt mỗi tuần theo thứ tự họ hoặc tên qua mẫu tự A, B, C… Xin thành thực cám ơn những tác giả có mặt trong tuyển tập nhưng vì trở ngại thông tin, chúng tôi đã không thể xin phép quý vị trước khi đăng tải.
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng


Nhất Linh (VI)

Sau cái chết của Nhất Linh

nhat linh

Mục lục
Cái chết của Nhất Linh – Nguyễn Văn Lục
Sự thật về cái chết của Nhất Linh - Nguyễn Tường Thiết
Gia đình Nguyễn Tường, vinh quang và bi kịch- Duy Lam
Tưởng nhớ về Nhất Linh - Trương Kim Anh
Một lần rồi thôi - Đỗ Hoàng Gia

Phụ đính II:
Bệnh tật và cái chết của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam
Nhớ về Nhất Linh - Tưởng niệm Nhất Linh 7.7.1963 – 7.7.2008
Ngày 7 tháng 7, tưởng niệm Nhất Linh
Viết nhân ngày giỗ Nhất Linh năm nay (7-7-2012)

______________

Cái chết của Nhất Linh

Nguyễn Văn Lục

Đã hơn nửa thế kỷ kể từ khi Nhất Linh quyết định đưa chúc thư văn học này ra trước công chúng. Qua chúc thư này, có nhiều điều nay cần được nhìn lại và quả thực là không thừa khi tôi làm công việc này.

Và sau đây là nội dung bản chúc thư.
Trong hương trầm của đêm 30 tết và mắt mờ đi vì thương cảm những người cũ đã khuất hoặc mất tích, tôi nghĩ tới những nhân tài mới khả dĩ đem lại một nguồn sinh lực rồi rào hơn làm cho Tự Lực thay đổi luôn và mới trẻ mãi, tôi có mấy lời cảm xúc này và cũng là chúc thư luôn thể, với một bài thơ gởi các anh em cũ (bất cứ ở khu nào) và mấy nhân viên tương lai của Tự Lực Văn Đoàn. Trong bảy tám nhà văn mới chọn lọc được trong hai năm nay, tôi thấy có ba nhà văn chắc chắn xứng đáng, là nhân viên Tự Lực Văn Đoàn và tôi tin anh Đỗ Đức Thu cũng như mấy anh mất tích sau này trở về, cũng như tôi sẽ bỏ phiếu bầu một khi ba nhà văn đó có đủ một số sáng tác để sự quyết định có căn cứ. Ba người đó là Nguyễn Thị Vinh, Tường Hùng và Duy Lam. Những lúc ngoảnh về quá khứ, kiểm điểm những việc mình đã làm, tôi thấy rõ ràng công việc tốt đẹp lâu bền và có ích nhất của đời tôi là sự thành lập được Tự Lực Văn Đoàn và công việc sáng tác. Nhưng Tự Lực Văn Đoàn không thể ngưng lại ở số người cũ và đứng yên, người qua, nhưng đoàn phải mới và tiến mãi. Ngoài sự cố gắng của anh em cũ còn lại, tôi mong những nhà văn tương lai, trước và sau khi gia nhập cũng đem hết tâm hồn và khả năng để làm rạng rỡ tên tuổi của đoàn mình, coi mình với đoàn là một, giữ được tinh thần cố hữu trước kia đã sáng tỏ giữa anh em quá cố: giúp đỡ nhau, đùm bọc lấy nhau, cùng nhau sát cánh để phụng sự văn nghiệp và đoàn mình, nghiệp văn dù chung một kiếp người, đoàn văn cùng chung tiếng để mãi tới kiếp sau. Đã bảy năm tôi mới lại có dịp làm thơ và thơ tôi vẫn không hay nhưng lòng và ý thành thực là đủ rồi:
Tự lực, vườn văn mới trổi lên
Bỗng dưng thời thế đảo huyên thiên
Thương dăm lá cũ vừa rơi xuống
Mừng mấy mầm tươi vụt nhú lên
Mạch cũ, nhựa non rồn rập chảy
Vườn xưa, hoa mới điểm tô thêm
Người qua, sách mọt, đời thay đổi
Tự lực, danh chung, tiếng vẫn truyền

Nhất Linh
2 giờ sáng mồng một tết, năm Quý Tỵ
14/02/1953

Người đầu tiên gia nhập nhóm TLVĐ là Khái Hưng, khi ông này viết một bài về truyện Kiều được Nhất Linh khen ngợi và mời gia nhập nhóm. Trong bấy nhiêu người được mời trong nhóm TLVĐ lúc ban đầu thì đây là một lời mời hợp tác mang nhiều ý nghĩa nhất, đem lại vinh dự nhất cho TLVĐ và cho văn học VN nói chung. Theo tôi, ngoài Thạch Lam, khó có ai trong TLVĐ có thể sánh bì với Khái Hưng. Nói ông là nhà văn hàng đầu, thật không quá đáng. Rất tiếc ông đã bị Việt Minh thảm sát vào năm 1947, tại Tự Lực Văn Đoàn, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định dịp tết Đinh Hợi. (tài liệu của cộng sản nay cũng xác nhận Khái Hưng chết ở bến Đò Cựa Gà).
Như nhiều trường hợp khác của một số nhà văn, trí thức Việt Nam đã bị sát hại, Việt Minh chịu trách nhiệm cái chết của một nhà văn lớn của VN. Cho đến nay, họ cho in lại sách vở của Khái Hưng trong tuyển tập: Văn xuôi lãng mạn Việt Nam, nxb Khoa Học, Xã Hội, Hà nội. Nhưng vẫn chưa có một lời xin lỗi.
Cùng lắm, trong Đại Hội Văn Nghệ toàn quốc, năm 1957, Trường Chinh gián tiếp nhìn nhận như sau:
Việc uốn nắn lại thái độ hẹp hòi máy móc đối với những giá trị Văn học cũ, không những có tác dụng sửa chữa những thái độ bất công đối với nhiều tác phẩm mà còn có tác dụng mở rộng con đường cho sáng tác văn nghệ hiện thời
Người thứ năm gia nhập TLVĐ vốn là bạn của Nhất Linh, trước cùng làm thư ký với nhau ở sở tài chánh vào năm 1920: Nhà thơ Tú Mỡ Hồ Trung Hiếu. Ông trở thành nhà thơ trào phúng hàng đầu khan những chỉ trong nhóm TLVĐ mà còn trong cả văn chương Việt Nam. Trong tập thơ Giòng nước Ngược, Tú Mỡ phụ trách mục Giòng nước ngược trong báo Phong Hoá đã có bốn câu thơ đề tặng Nhất Linh như sau:
Ít lời lẽ ngang phè
Mấy vần thơ lỗ mỗ
Tặng anh Nguyễn Tường Tam
Đáp tấm ơn tri ngộ...

Cũng theo Tú Mỡ, có khi số in của tờ Phong Hóa tăng vọt lên đến hàng vạn số, mỗi kỳ. Không biết Tú Mỡ có hăng quá nên vung tay quá trán không? Vì tôi đọc Nhất Linh trong Nói chuyện cũ, ông viết như sau:
Lúc chúng tôi sắp nhận làm báo Phong Hóa thì các tuần báo không có vẻ thịnh vượng, ít tờ xuất bản được đến 2000 số. Chúng tôi lúc đó mong bán được ba nghìn số và đã tự cho là tham lam quá. Cũng xin ghi lại đây cái không khí anh em, gia đình, tình đồng chí trong việc làm báo mà sau này ít khi có dịp còn tìm thấy cái không khí làm báo như thế nữa.Tú Mỡ ghi lại như sau: "Trên căn gác ấm cúng nhà số 80 đường Quan Thánh, chúng tôi quây quần, thân mật như hồi ở Ấp Thái Hà".
Người thứ sáu gia nhập TLVĐ là Thế Lữ, người đóng góp thơ mới trong Phong Hóa. Sau này Nhất Linh có mời ông vào nhóm TLVĐ. Người ta thường chỉ nhìn Thế Lữ như một nhà thơ, nhưng thật ra ông viết đủ loại. Truyện tiêu biểu của ông như Thoa, Ông Phán nghiện, Câu truyện trên tàu thủy. Chưa kể ông là cây bút viết châm chích khá ác ý những nhà văn nhà thơ không cùng nhóm như Lãng Nhân, Nguyễn Trọng Thuật, Lê Văn Trương, Trương Tửu, Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, v.v... Chửi nhau, tố cáo ăn cắp, đạo văn cũng dữ dội lắm. Đây là cái dở của TLVĐ? Nhiều khi bất công đối với những nhà văn ngoài nhóm. Có vẻ như đố kỵ. Báo Ngày Nay số 51 đã có bài viết chống dâm uế, công kích thiên phóng sự Lục sì của Vũ Trọng Phụng. Ông Lê Thăng gọi Vũ Trọng Phụng là thằng khốn nạn, là văn sĩ nửa mùa. Dĩ nhiên, Vũ Trọng Phụng đáp lễ công kích Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng của nhóm TLVĐ.
Chửi liên tiếp. Chửi tất cả. Kể cũng là lạ ở thời kỳ đó, người ta đã chửi nhau như thế.
Một giai thoại được truyền lại trong văn giới: Thế Lữ chế diễu cuốn Làm Đĩ của Vũ Trọng Phụng như sau. Một ông khách vào một tiệm sách hỏi cô bán sách như sau:
Cô có Làm Đĩ không? Cô gái đỏ mặt... Không vừa, cô trả lời: Ở đây không có Làm Đĩ, chỉ có Cái Tát thôi. Có người lại bảo cô hàng bán sách đáo để đã trả lời rằng. Dạ không, em không có Làm Đĩ. Chỉ có Những kẻ khốn nạn thôi. (Les misérables của Victor Hugo).
Đây là một lá chúc thư, lời lẽ chân tình chan chứa cảm xúc. Ngậm ngùi nhớ tiếc. Người ấy ngồi một mình, nghĩ lại đời mình, bạn bè, kẻ còn người mất, nghĩ tới tương lai Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ), thành quả duy nhất đạt đuợc trong đời một nhà văn sáng chói một thời. Không khí chúc thư cho ta có cảm tưởng như thể của một người sắp ra đi, muốn nhắn nhủ lại. Vì thế mọi chuyện từng chữ, từng câu trong lá chúc thư vỏn vẹn một trang này chứa đựng tâm tư, nỗi lòng thương nhớ bè bạn xa gần, cũ cũng như những hoài bão, lòng mong đợi của Nhất Linh. B viết và nhận định với một sự trung thực tối đa, sự công bình đối với riêng ông Nhất Linh và nhất là đối với Văn học.

1. Vấn đề ai là nhà văn thuộc nhóm TLVĐ?
Đây là thắc mắc của nhiều người đặt ra khi nhìn lại nhóm TLVĐ. Thắc mắc đó là chính đáng và cần tìm lời giải đáp. Theo anh Duy Lam, nhóm TLVĐ mới đầu thật ra chỉ có ba người, ba anh em ruột gồm: Nhất Linh, Thạch Lam và Hoàng Đạo. Họ họp nhau ở Thái Hà. Lúc bấy giờ tiền thân của TLVĐ vẫn còn là tờ Phong Hóa.
Người thứ bảy gia nhập TLVĐ là nhà thơ Xuân Diệu. Đã có Thế Lữ lại có thêm Xuân Diệu nên sau này Nhất Linh nói đùa rằng ông khỏi cần phải làm thơ, vì trong nhóm đã có hai nhà thơ là Thế Lữ và Xuân Diệu. Theo Thụy Khuê thì Xuân Diệu chỉ được thu nhận sau này khi ông cho xuất bản tập Thơ Thơ, 1938. Tập Thơ Thơ được giải thưởng TLVĐ, sau đó Nhất Linh mới chú ý đến Xuân Diệu và nhậân vào nhóm. Cũng theo Thụy Khuê, người thứ bảy của nhóm phải là Nguyễn Gia Trí, nhưng vì ông là họa sĩ nên đã bị loại ra khỏi nhóm. Cũng trong Di Bút Đời Làm Báo của Nhất Linh, ông chỉ ghi Nguyễn Gia Trí, họa sĩ mà thôi.
Tóm lại, nay thì TLVĐ tạm gọi là đã có thất tinh (hay thất hiền?): Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, Tú Mỡ, Thế Lữ và Xuân Diệu. Nguyễn Gia Trí không được nhắc tới nữa.
Tuy là có bảy nhân vật chính, nhưng thực ra họ có mặt trong TLVĐ một cách tự nhiên, như anh em, không có nội quy, cũng chẳng có điều lệ gì. Nhưng đối với bên ngoài thì có 7 người là thành viên của TLVĐ. Chữ Tự Lực xuất phát từ ý chí muốn tự lập về tài chánh. Nói đúng ra không muốn lệ thuộc vào bất cứ ai. Vì thế, quyết định rằng, mỗi thành viên phải đóng góp 500 đồng để gây quỹ. Nên nhớ, lương công chức thời đó không quá 20 chục đồng. Vì thế, có cái cảnh Khái Hưng phải vay tiền bà chị để ra làm báo.
Cái khổ của Khái Hưng gần một thế kỷ trước đây thì hiện nay hình như cũng không khác bao nhiêu đối với những người làm báo? Sau này, theo lời đề nghị của Khái Hưng có thêm Trần Tiêu, em của Khái Hưng với các tác phẩm Con Trâu, Năm Hạn, Chồng con. Cá nhân tôi rất thích cuốn Con trâu. Khổ sách của cuốn Con Trâu nhỏ đến không thể nhỏ hơn được, chữ nhỏ li ti. Chẳng hiểu tại sao lại được in ấn như thế? TLVĐ đã đứng ra in cuốn truyện đó. Nhưng căn cứ theo Đời làm báo của Nhất Linh thì ngay cả cái tên Trần Tiêu cũng không có trong danh sách những tác giả viết cho TLVĐ. Có thể là vì lý do chính trị đã khiến Nhất Linh gạt tên Trần Tiêu ra khỏi TLVĐ? Nhưng phải giải thích làm sao trường hợp ba người ở lại hợp tác với Cộng Sản là Thế Lữ, Xuân Diệu và Tú Mỡ?
Sự hợp tác làm văn học với nhau thì có. Nhưng tự nó, TLVĐ đã tan đàn vì những lý do chính trị. Phải chăng đó cũng là nỗi buồn và sự tuyệt vọng của Nhất Linh? Sau này trong chúc thư Văn học, Nhất Linh có nhắc tên Đỗ Đức Thu. Điều đó làm nhiều người không khỏi ngạc nhiên. Nhưng trong bản thảo Đời làm báo với nhiều xóa tẩy, ông chỉ ghi là Đỗ Đức Thu (tiểu thuyết). Có nghĩa là ông Thu không thuộc nhóm TLVĐ.
Nhưng sự thực Đỗ Đức Thu là người của TLVĐ. Bởi vì khi viết bản chúc thư thì Nhất Linh đang ở trong Nam mà Đỗ Đức Thu thì còn ở ngoài Bắc. Đó là lý do để Nhất Linh viết rằng sau này Đỗ Đức Thu chắc cũng đồng ý với ông trong việc thu nhận ba nhà văn nữa. Nếu kể những nhà thơ, nhà văn viết cho nhóm TLVĐ mà không thuộc nhóm TLVĐ thì cũng nhiều như: Lưu Trọng Lư, Nguyễn Khắc Hiếu, Phạm Thị Cả Mốc, tức Phạm Cao Củng, Huy Cận, Bùi Hiển, Tô Hoài, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Công Hoan, Trọng Lang. Hoạ sĩ như Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Văn, Nguyễn Cát Tường, Trần Vinh Lộc, Trần Văn Cẩn, Lưu Văn Xìn.
Có những nhà thơ như Tản Đà bị nhóm TLVĐ mang ra chế diễu nhiều lần. Như trong bài Giời đầy Nguyễn Khắc Hiếu. Tản Đà không giận chỉ cười. Vì thế, sau này Nhất Linh lại mời Tản Đà hợp tác trong mục làm thơ Đường. Tình bạn văn nghệ đã không mất. Cũng trong chúc thư của ông Nhất Linh có nói đến 7, 8 người thuộc diện ứng cử viên. Vậy họ là những ai? Tôi có hỏi anh Duy Lam, anh cũng không biết chắc là những ai? Và Nhất Linh đã quyết định dừng lại ở ba người như chúng ta đã biết. Theo nhà văn Duy Lam thì ông cũng không thực sự biết được những người được mời là ai. Nhưng đáng chú ý nhất là nhà văn Bình Nguyên Lộc. Nhiều người lại cho rằng Nhật Tiến là người của nhóm TLVĐ?
Không phải vậy. Chính thức Bình Nguyên Lộc và Nhật Tiến không có chân trong TLVĐ. Trong tổng số 11 số báo Văn Hóa Ngày Nay đã xuất bản, tôi chỉ thấy có một vài truyện của Nhật Tiến như Đêm tân hôn, Đôi guốc trắng. Sau này, khi có báo Tân Phong do Nguyễn Thị Vinh làm chủ nhiệm thì quả thực Nhật Tiến có viết nhiều hơn trước. Vì Nhật Tiến là do Nguyễn Thị Vinh giới thiệu với Văn Hóa Ngày Nay. Theo anh Duy Lam thì trong một chương trình sinh hoạt văn học nghệ thuật của đài phát thanh Little Sài gòn do con gái của nhà văn Nhật Tiến làm chủ, ký giả Đinh Quang Anh Thái giới thiệu Nhật Tiến là thành viên của nhóm TLVĐ (?) Không có chuyện đó, nếu không nói là chưa bao giờ có chuyện đó. Nhất Linh không ngỏ lời mời Nhật Tiến vào TLVĐ. Đọc lại danh sách những người biên tập cho Văn Hóa Ngày Nay trong số 1, tôi thấy có tên các tác giả sau đây: Đỗ Đức Thu, Nguyễn Thành Vinh, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo, Duy Lam, Tường Hùng, Trương Bảo Sơn.
Riêng Đỗ Đức Thu được giới thiệu là thành viên của TLVĐ. Sự chọn lựa thành viên của nhóm TLVĐ này qua những tên tuổi trên, chưa vội nói tới giá trị văn chương và tác phẩm. dễ khiến cho người ta liên hệ sự chọn lựa đó là vì con cháu trong nhà. Đó là trường hợp Tường Hùng và Duy Lam. Tôi có đề cập đến sự kiện tế nhị này thì anh Duy Lam cũng cho rằng tuy điều này có làm cho anh hãnh diện, nhưng cũng khiến anh khó chịu đôi chút, vì anh là cháu của Nhất Linh Riêng trường hợp bà Nguyễn Thị Vinh thì sao? Xin đọc phần phụ chú.

2. Cái chết định trước của Nhất Linh
Đây là phần quan trọng nhất, mục đích của bài viết này, đi tìm nguyên nhân, lý do nhà văn, lãnh tụ chính trị Nhất Linh vì sao đã tự tử.
Trong bản chúc thư ở trên đã có điềm dự báo về cái chết không tránh khỏi của ông sau này. Những giọt nước mắt trong bản chúc thư này là những giọt nước mắt tiễn đưa của 10 năm sau? Tất cả như là hành trình tâm linh của một người, của một thân phận dẫn dần tới cái chết như một thứ định mệnh đã an bài. Không xảy ra cách này thì cũng xảy ra cách khác. Và sự chọn lựa cái chết vào ngày song thất 7 tháng 7, 1963 là một chọn lựa chủ ý như một thứ suicide intentionnelle theo Tây Phương hay theo nghĩa Nghiệp, Karma theo Đông Phương.
Khi nói về cái chết của Nhất Linh, dư luận thường kết luận một cách rõ ràng, minh bạch, dứt khoát: ông chết để phản đối chế độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Vì thế cái chết đó là một bản án văn học dành cho chế độ Ngô Đình Diệm. Bức bách, bức tử một nhà văn, một nhà chính trị đối lập. Mọi người, mọi giới đều coi việc Nhất Linh tự tử là một hành động vì lý tưởng, dám đem thân mình, sự sống đời mình thách thức cả một chế độ, không chịu khuất phục và không chịu để cho chính quyền độc tài thời đó xét xử ông. Không ai nói khác được, không ai có thể nghi ngờ sự trong sáng về cái chết đó. Giấy tờ chúc thư còn để đó. Nó biểu tượng cho một lý tưởng và không khác gì ngọn lửa Thích Quảng Đức trước đó không bao lâu đã góp phần làm suy sụp nhanh chóng nền đệ nhất cộng hòa.
Đã gần nửa thế kỷ trôi qua, kể từ ngày 7 tháng 7, năm 1963, ngày mà Nhất Linh tuẫn tiết đến nay, dù xác thân Nhất Linh nay chỉ là nắm tro tàn nguội lạnh, tôi không muốn tin như thế. Tôi vẫn muốn đi tìm ý nghĩa đích thực của cái chết ấy.
Gạt ra ngoài những loại văn chương ai điếu, thứ văn chương mà hễ có nhân vật nổi danh nào nằm xuống là phải có sẵn một bài tụng niệm sáo ngữ, để nhập cái chết của ông vào cuộc tranh đấu của Phật giáo chống chính quyền Ngô Đình Diệm, như:
Riêng tôi, trên đường đi, tôi cảm nhận hơn một lần, hình như khi đưa tiễn Nhất Linh tôi đang đưa tôi, đang đưa một chặng đường Văn học của quãng đời thanh xuân của mình... Chừng đó cũng đủ gợi cho tâm thức một thứ ánh sáng thúc giục lên đường... để tự giác ngộ.. Tôi đã đưa tiễn Nhất Linh trên đường lên chùa Từ Đàm với một chút .. lòng sao lạnh, xen lẫn tri ân. (trích Đưa tiễn Nhất Linh, talawas.org).
Đó chỉ là một thứ kèn trống đám ma, nói thì nghe xôn xao, rộn rã nhưng không biết mình nói gì, viết gì. Theo tôi, hiểu Nhất Linh quan trọng gấp bội lần vinh danh Nhất Linh kiểu như trên. Vì nói về cái chết của một người là nói về một bí nhiệm. Phải đâm thủng được bức màn bí nhiệm ấy để hy vọng thấy được những khe hở còn che đậy. Công việc không phải là dễ. Mỗi cái chết tự nó là một thông điệp của người chết gửi người sống, một ý nghĩa.
Ở trong triết học, tự tử mang ý nghĩa từ chối đời sống vì không tìm thấy trong đời sống một ý nghĩa gì khả dĩ để tiếp tục sống nữa. Tự tử như vậy là một chọn lựa tối hậu khi không còn có chọn lựa nào khác. Nhất Linh đã tự tử. Sự chọn lựa đó phải chăng do những biến cố thời cuộc chính trị của những năm 1963 hay là một chọn lựa tiền định, tiềm ẩn? Thực tế, ông đã để lại một thông điệp 72 chữ mà nhiều người có thể lập lại một cách thuộc lòng như: Đời tôi để lịch sử xử. Nhưng lịch sử là ai? Ai xử? Xử như thế nào? Đã xử chưa? Hay là câu chúc thư trên thực ra phải hiểu như sau: Đời tôi, để tôi tự xử?
Phải chăng đó chỉ là cách nói của ông? Phải chăng điều căn bản, không chối cãi được ở đây là ông đã tự chọn một cái chết cho mình mà những sự việc xảy ra trong năm 1963 đã được sắp xếp, tính toán trước như một điều không thể khác? Có không, giữa ông Diệm và ông Nhất Linh, một sự đố kỵ về cá tính, về lý tưởng? Trên bình diện cá nhân, ông Nhất Linh không coi trọng ông Diệm và nghĩ rằng chỉ có Hồ Chí Minh mới là kẻ đối đầu có tầm cỡ, sánh ngang tầm với ông? Có không, sự oán hận vì đã bị chính quyền Ngô Đình Diệm bỏ quên, nhục mạ? Việc một hai tờ báo thân chính chế diễu, gọi Nhất Linh là nhà văn viết truyện khiêu dâm là chủ trương của người cầm quyền? Nhất Linh đã gán cái trách nhiệm chết yểu của tờ Văn Hóa Ngày Nay là do sự ngấm ngầm chống phá của chính quyền Ngô Đình Diệm không cho nhà phát hành Thống Nhất phát hành báo Văn Hóa? Tất cả những vấn đề này, chúng tôi sẽ bàn kỹ trong một số báo đặc biệt về tờ Văn Hoá Ngày Nay. Theo lời bà Nguyễn Thị Vinh viết lại:
Anh chống lại chính phủ Ngô Đình Diệm ít nhất về quyền tự do ngôn luận bị xâm phạm nặng nề. Tờ Văn hóa Ngày Nay chỉ là giai phẩm, đã không được cấp giấy phép chính thức mà còn bị đóng cửa.
Thật sự, cho đến bây giờ, tôi chưa hề nghe ai trong giới báo chí nói chính phủ Ngô Đình Diệm đóng cửa tờ Văn Hoá Ngày Nay. Tình cờ, tôi đã tìm được một tài liệu trong Văn Hoá Ngày Nay số 9 do một thân hữu, anh Nguyễn Thế Toàn ở Hoa Thịnh Đốn gửi cho trong đó có lá thư cáo lỗi độc giả cuả nhà văn Nhất Linh vì lý do sức khỏe, ông đã bỏ dở nửa chừng công việc và do đó số bào đó cũng như những số sau có quà nhiều sơ sót và lỗi lầm như đăng bài trùng hợp, đăng cùng một bài trên hai số báo liên tiếp... Tôi có hỏi thẳng anh Duy Lam về việc này. Anh cho biết, ông Nhất Linh có tâm sự và cho biết do những khó khăn về tài chánh nên phải đình bản tờ báo. Và nếu như thế thì cắt nghĩa làm sao sự chết yểu của Hiện Đại, Thế kỷ 20 cũng trong thời kỳ đó? Dù mọi người hiểu rằng Hiện Đại, Thế kỷ 20 đóng cửa vì hết tài trợ. Tóm lại, VHNN đình bản vì thiếu tài chánh và nhất là lý do sức khỏe của Nhất Linh.
Nhìn lại nhóm những người trí thức đối lập trong nhóm Caravelle thì hơn phân nửa là những người đã từng cộng tác với ông Diệm. Sự chống đối không khỏi có những yếu tố riêng tư trong đó. Nhiều người đã bị bắt, riêng Nhất Linh lại được miễn trừ? Khi hai phi công ném bom dinh TT Ngô Đình Diệm mà theo nhiều người, đã có tay trong để biết giờ giấc trong dinh. Nhưng đến phút chót, một quả bom của phi công Nguyễn Văn Cử đã không nổ. Vai trò ông Nhất Linh trong vụ ném bom này như thế nào? Chỉ biết khi vụ ném bom xảy ra vào sáng hôm ấy, hai ông Nguyễn Văn Lực và Nhất Linh đang quan sát diễn tiến nội vu. Làm chính trị đối lập thì khác. Nhưng dính dáng vào một vụ mưu sát thì nếu có bằng chứng rõ rệt, chính quyền nào cũng có thể mang ra xử tội? Không thể đổ trách nhiệm cho lịch sử được. Mật vụ há không biết sao? Họ có làm ngơ được không? Chính quyền dù dân chủ cách mấy cũng sẽ không làm ngơ trước việc mưu sát này? Quả bom đã không nổ vì chưa đủ vòng quay đã làm Nhất Linh chán nản tuyệt vọng, tin rằng cái số dòng họ nhà Ngô hãy còn lớn lắm. Thất vọng chồng chất thất vọng mà những người chung quanh Nhất Linh đều nhận thấy.
Có thể nói cuộc đời Nhất Linh lúc đó chồng chất những thất bại. Những giấc mơ không thành. Bằng chứng trong bức hình vẽ chân dung Nhất Linh của họa sĩ Nguyễn Gia Trí còn dang dở vì sau đó họa sĩ Trí bị đi tù. Khi trở về, ông Nguyễn Gia Trí định vẽ tiếp thì Nhất Linh không cho. Ông đòi để nguyên vì cho rằng: bức họa dang dở giống như cuộc đời của ông. Nó là một tác phẩm chưa hoàn tất. Thất bại của ông thì nhiều, trải dài trong suốt cuộc đời làm chính trị khiến ông bị căn bệnh trầm uất triền miên. Depressive psychosis với ba giai đoạn phát triển tuần tự của bệnh từ Suicidal ideation, suicidal planning và cuối cùng sucidal attempt. Từ ý tưởng sang kế hoạïch và sau cùng là thi hành.
Bệnh tâm thần của Nhất Linh là có thật. Nhưng ít ai trực tiếp nói thẳng ra.
Thứ nhất: Ám ảnh tự tử luôn luôn lẩn quất trong truyện của ông trong hai phần ba cuộc đời. Đó là giai đoạn suicidal ideation.
Ngay từ khi còn làm báo Phong Hóa, Tú Mỡ đã ghi nhận như sau: tâm thần bị giao động nhiều, gần như bệnh. Cần phải đi dưỡng bệnh.
Đó là những dấu hiệu có tính cách tiên báo trước.
Bệnh càng ngày càng trở nên trầm trọng theo thời gian vì ông mang gánh nặng trên vai của một kẻ sĩ, của một người trí thức sống trung thực, có lòng với đất nước và vì sự kỳ vọng của mọi người. Nếu ông không phải một trí thức, không có cái tâm của một kẻ sĩ, có thể ông đã không bi quan như vậy.
Ông đã thất vọng về sự bất lực của ông.
Trong những bài viết bàn về cái chết của Nhất Linh, tôi thấy chị Thụy Khê đã ra khỏi những lối suy nghĩ định sẵn và tới gần được Nhất Linh nhất qua những gì ông đã viết. Trong bài viết này, tôi muốn trình bày ý nghĩa việc tự tử này trong sự truy lùng hiện trạng con người, vấn đề tâm thần và lịch sử cuộc đời của Nhất Linh qua từng những chi tiết nhỏ, qua những nhận xét xem ra rời rạc mà khi nối kết lại với nhau, tôi nghĩ chúng ta có thể hiểu được phần nào cái chết bi kịch ấy. Tìm hiểu để tôn trọng con người ấy và những lựa chọn không tránh được của ông. Cái mà ông nói tới như định mệnh con người, định mệnh đời ông, cái Karma của đời ông theo nhà văn Võ Phiến.
Trong phạm vi văn chương, ông đã gửi gắm gì trong những truyện của ông? Trong truyện Người quay tơ, truyện đầu tay của ông, phương cách làm chính trị, làm cách mạng của Nhất Linh rất lãng mạn, rất tự huỷ. Làm chính trị có nghĩa là hy sinh mạng sống. Làm cách mạng đồng nghĩa với chết. Thật vậy, trong truyện, Người quay tơ, người đọc không biết đích thực ông tú đã làm gì, đã chống đối chính quyền thực dân Pháp ra sao. Chỉ biết ông bị đi tù Côn đảo và đã hy sinh. Cũng vậy, Dũng đã nghĩ về Thái như sau:
Anh Thái đi như vậy để làm gì? Chẳng qua không biết làm gì nữa thì liều lĩnh Thế giới của Dũng là chấp nhận sự bất lực, sự bế tắc và chấp nhận cái chết như một hành vi cao cả và đáng sống nhất như một thoát ly: Cái chết của Thái đối với Dũng chỉ là một thoát ly?, vì thế tôi không sợ chết, vì đất mát lắm.
Ám ảnh về cái chết, về sự tự hủy như một cứu cánh đời sống, ám ảnh ông, bàng bạc trong các tác phẩm của ông, rõ rệt nhất là trong truyện Bướm Trắng?
Có điều gì liên hệ giữa văn chương đến cuộc đời? Những ám ảnh về tự tử trong truyện có thể dẫn đường cho việc giải thích việc tự tử của ông sau này, vào năm 1963 hay không? Chính vì thế, ông đã không muốn cho con cái trong nhà đọc Bướm Trắng khi còn nhỏ? Trong truyện, nhân vật Trương biết mình không còn sống bao lâu nữa đã có những ý nghĩ đen tối là tự tử. Nhân vật Trương nghĩ rằng:
Cách tốt nhất là nhồi một viên đạn nhỏ vào trong sọ. Tạch một cái, thế là hết. Ngọt như mía lùi. Lý luận thêm: Hèn nhát thì không bao giờ tự tử được, mà có can đảm như trời cũng không thể tự tử được. Tự tử được hay không là ở cảnh chứ không phải ở người.
Tóm lại, Nhất Linh nhà văn có phải là một con người tâm trí bình thường khi quyết định việc tự tử, kết liễu đời mình nhằm chống đối chính quyền Ngô Đình Diệm? Hay đó là một hành vi, hay một quyết định sáng suốt của một người biết mình phải làm gì? Hậu quả của sự đau buồn, nỗi cô đơn vì cái chết yểu của Thạch Lam, của Khái Hưng. Nhất là cái chết của Hoàng Đạo, một người em, một đồng chí cách mạng. Nguyễn Tường Bách viết lại như sau:
Song tại đây, một sự mất mát và đau buồn vô tận cho chúng tôi đột ngột tới, đó là cái chết của anh Hoàng Đạo trên một chuyến xe hỏa từ Hồng kông về tháng 8/1948. Đặc biệt là đối với Nhất Linh, vì hai anh em gần gụi nhất từ nhỏõ, và từng sát cánh mật thiết trong sự nghiệp văn hóa, cách mạng
(Tưởng nhớ anh Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách, trang 65, sách Nhất Linh, nhiều tác giả).
Rồi sự thay đổi lập trường chính trị của Nguyễn Tường Bách cũng như sự rạn nứt hệ phái Quốc Dân Đảng với Vũ Hồng Khanh, Tự Lực văn đoàn tan đàn nát gánh, thất bại trong việc ký hiệp ước sơ bộ rồi tản mát chạy sang Tàu. Rồi sự thất vọng khi làm bộ trưởng ngoại giao dưới chính phủ Hồ Chí Minh và làm nhân vật đối lập dưới thời Ngô Đình Diệm. Bấy nhiêu nỗi thất vọng, chán chường về chính trị có đủ đưa đến quyết định quyên sinh của Nhất Linh hay không?
Bà Nguyễn Thị Vinh đã nhận xét về con người của ông như sau:
Hằng ngày, tôi ít dám nói chuyện với anh, bởi vì trên gương mặt anh toát ra một vẻ nghiêm khắc, trầm lặng, rất buồn bã. Ánh mắt luôn luôn như nhìn về một cõi xa xăm, mọng lên nỗi chất chứa u sầu. Tới nỗi tôi có cảm tưởng, nếu có một tiếng động dù nhỏ, bất chợt vang lên, cũng đủ làm cho các màng nước trong mắt anh oà vỡ. Cặp môi anh có lúc rung rung như đang nói truyện với ai đó, vô hình, đôi khi lại thoáng nét nhẹ, thật nhẹ, như mỉm cười.
(Nhất Linh và Xóm Cầu Mới, Nguyễn Thị Vinh, trong Nhất Linh, nhiều tác giả, trang 88).
Đó là thái độ, cung cách của người mắc bệnh tâm thần. Nhất Linh nhất định không thể là một người tâm trí bình thường lúc cuối đời. Ông có vấn đề. Vấn đề của chính ông. Không ai có thể làm gì cho ông được. Ông rơi vào cô đơn và tuyệt vọng. Từng ngày, từng năm tháng sắp tới? Về tâm linh, ông đã chết dần và ông chết từng ngày?
Ông Trương Bảo Sơn, chồng bà Nguyễn Thị Vinh cũng nhận xét như sau:
Phải chăng việc mất hai người em thân yêu như mất hai cánh tay đắc lực, đã làm cho Nhất Linh, Nguyễn Tường Tam xót xa đau lòng khiến nhiều đêm ông đã âm thầm khóc một mình và chán nản, ngưng làm chính trị mất ba bốn năm trời, ẩn cư ở núi rừng Đà lạt?

nhat linh
Xuân Diệu, Thế Lữ, Nhất Linh, Khái Hưng thời trong Tự Lực Văn Đoàn Nguồn: vi.wikipedia.org
(Trích Những kỷ niệm riêng với Nhất Linh, trong Nhất Linh, nhiều tác giả, trang 73)

Triệu chứng tâm thần đã rõ. Nó dẫn đưa ông đến ý tưởng quyên sinh. Không thiết sống nữa.
Ông Nguyễn Tường Bách là một thầy thuốc đã nhận xét về hiện trạng tinh thần của anh mình như sau:
Sự tang tóc này khiến cho bệnh suy nhược thần kinh của Nhất Linh càng nặng thêm. Một ngày năm 1950, tôi ra Hồng Kông , chỗ anh ở trên một sườn đồi, bên cạnh một suối trong... anh cũng đồng ý về nước với quyết tâm sẽ không tham dự hoạt động chính trị nữa, ít ra trong giai đoạn này.
(Tưởng nhớ anh Nhất Linh, trích dẫn như trên).
Như vậy việc tự tử của Nhất Linh do tình trạng suy nhược thần kinh đã là nguyên nhân thúc đẩy đến cái chết không tránh được.
Cái chết đã định trước. Đã tính toán. Đã dự liệu. Đã không muốn sống. Ông đã tính toán, đã dự liệu như thế nào?
Đó là giai đọan hai, giai đoạn suicidal planning. Như lời của bà Nguyễn Thị Thế:
Có lần tôi hỏi thẳng anh, họ đã tha cho anh không bắt, vậy anh có tự do rồi, anh muốn làm gì thì làm, sao anh còn ngại. Anh trả lời, cô không hiểu tôi, tôi chỉ ngồi đây đợi hai năm nữa thôi. Anh nói đến đây thì chị Tam ở dưới nhà lên nên anh lại không nói gì nữa. Riêng tôi về sau cứ mãi băn khoăn về câu anh nói chờ hai năm nữa là ý nghĩa ra sao. Vào một hôm trước ngày 7 tháng 7, các con tôi lên thăm anh Tam về cho biết bác có trát đòi và chắc bác ra tòa xử ngày mai, và chắc họ sẽ kết tội bác phá rối trị an và bỏ tù bác chứ không tha đâu. Tôi vội lên thăm anh Tam ngay. Tôi thấy hai con mắt anh sáng ngời, vẻ mặt hồng hào.
(trích Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, Nguyễn Thị Thế, trang 158).
Những lời bộc bạch tự nhiên của bà Thế chứng minh rằng những suy nghĩ về nguyên do đưa đến cái chết của nhà văn Nhất Linh là ông đã tự chọn một cái chết cho mình mà thời điểm 1963 chỉ là điểm chung cuộc. Trước hay sau, ông sẽ tìm đến cái chết đó như một giải thoát hơn là một thái độ phản kháng về chính trị.
Khi đặt cho mình những câu hỏi về cái chết này, tôi có trao đổi ý kiến với nhà văn Duy Lam. Anh cũng đồng ý với tôi là: Cái chết của nhà văn Nhất Linh là một cái chết định sẵn. Nó đã bị chi phối, ảnh hưởng hay thúc đẩy bởi một động lực tâm lý, một quá trình đời sống với gánh nặng quá khứ chán nản và tuyệt vọng của một người không còn làm chủ được đời mình. Phải công bằng với lịch sử để trả lời những câu hỏi này.
Tôi nghĩ rằng những tiết lộ của Nguyễn Tường Thiết, con trai nhà văn, đã giúp chúng ta trả lời hai câu hỏi trên.
Nhất Linh thường viết trong đêm khuya khoắt. Những khi giật mình thức giấc nửa đêm tôi thường thấy, qua khe cửa, đèn trong phòng ông còn bật sáng. Có đêm lũ chúng tôi lòm còm bò dậy vì còn tiếng khóc trong phòng cha tôi. Tiếng khóc lúc đầu còn nhỏ sau lớn dần không kìm hãm được. Lũ chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau... Không ai có thể đoán biết ông khóc cái gì, ngay cả mẹ tôi cũng không thể nào biết được. Nhưng sự khám phá này đã gieo vào tuổi thơ của tôi một ấn tượng mạnh mẽ, rằng cha tôi là một người cô đơn và đau khổ. Ngoài ra những giấc mơ kỳ lạ và kinh hãi cũng được tôi hình dung thấy qua giấc ngủ của ông, qua cách ông trằn trọc ú ớ trong đêm.
(Nhất Linh cha tôi, Nguyễn Tường Thiết, trang 19)
Những tiếng khóc về đêm khuya khoắt là dấu hiệu một tình trạng bệnh trầm cảm, cô đơn và tuyệt vọng. Thoạt đầu tiên khi làm báo, ông lấy tên báo là Tiếng cười. Nhưng cả cuộc đời ông chỉ là những tiếng khóc. Đọc tiếp những trang hồi ký của Nguyễn Tường Thiết thật không cầm nổi xúc động. Nhưng cũng cho thấy rằng, Nhất Linh đã chuẩn bị cái chết của mình một cách chu đáo, từng chi tiết một.
Đó là giai đọan suicidal attempt.
Đến Nguyễn Tường Triệu, con trai ông, ở cạnh ông cũng bị ông qua mặt, bị ông đánh lừa trước mặt, chỉ 15 phút là xong. Chẳng khác gì: Chỉ tạch một cái là xong.
Nhiều lúc thật bình thản.
Như ông từng nói từ năm 1951: Tôi mà tự tử thì chẳng ai biết tôi dùng loại độc nào (trích bài viết Nhất Linh, người định nghĩa sống và chết, Lưu Văn Vịnh, trong Nhất Linh, nhiều tác giả, trang 177). Tôi có thể đến đây dám chắc rằng, ý định tự tử đã bám dính vào ông, nhất là ở giai đoạn chót cuộc đời ông. Và ông đã có kế hoạch để tự hủy mà không ai biết được.Từ kế hoạch tự tử sang đến chỗ thực hiện chỉ là một bước nhảy: Bước nhảy từ cõi sống vào cõi chết. Cần một triggering factor, le facteur déclenchant, chỉ cần một động lực để nhảy, để... lảy cò.
Thần chết đã đến gõ cửa rất lâu trước ngày 7 tháng 7, 1963. Nó đã đi theo ông như một định mệnh, như một cái nghiệp không tránh được. Ông mới chỉ bị gọi ra tòa. Thế mà xong. Ông chỉ chờ có thế. Đó là thời điểm để ông có đủ can đảm thực hiện nếu không muốn nói là ông mong đợi nó đến. Cái trát đòi ra tòa là một facteur déclenchant. Nó đã đến nên mắt ông tươi sáng hẳn lên, mặt ông hồng hào. Ông sống làm gì nữa? Vào tù ư? Để chịu nhục? Để kéo dài sự cô đơn và tuyệt vọng? Chỉ có cái chết giải thoát ông.
Cái chết đã định trước từ lâu? Biến cố 1963 chỉ là giọt nước tràn đầy ly.
Ông Ngô Đình Diệm chỉ là người chịu trách nhiệm đưa ông Nhất Linh ra toà.
Nhưng trách nhiệm giết ông Nhất Linh, chính là bạn bè ông, những người đồng chí của ông, những người nước mắt tiễn đưa ông. Tất cả vô tình đã giết ông, vì đã đặt tất cả trách nhiệm lịch sử lên đôi vai ông mà thực sự ông không thể chu toàn được. Vì trước sau, tựu chung ông Nhất Linh chỉ là một nhà văn với tinh thần nhạy cảm, ông không phải là một chính trị gia có bản lĩnh, đởm lược như mọi người kỳ vọng. Nhưng làm sao ông có thể nói thật về điều này với mọi người khi ông còn sống.
Nhưng một người mà cả cuộc đời làm chính trị thất bại, đến phút cuối cùng, ông trở thành kẻ chiến thắng bằng chính cái chết của mình.
Lịch sử quả là trớ trêu và oan nghiệt.
Dù sao, chết như Nhất Linh chứng tỏ ông là kẻ sĩ của cả một thời đại văn học. Thời đại Nhất Linh như ông từng cân nhắc viết:
Những lúc ngoảnh về quá khứ, kiểm điểm những việc mình đã làm, tôi thấy rõ ràng công việc tốt đẹp lâu bền và có ích nhất của đời tôi là sự thành lập được Tự Lực Văn Đoàn và công việc sáng tác.
Bài toán về cái chết của ông coi như đã được giải đáp một phần nào trong lời thú nhận chót của ông. Điều chắc chắn là ông đã chết sung sướng và có thể mỉm cười nơi chín suối. Bên dòng suối đam mê, bên những giò lan rừng. Đó mới là chỗ để ông về vì đã đem lại cho ông những phút thư thái nhất, được sống với con người thật của mình mà lúc sống ông đã không có được.

Phần phụ chú
1. Thư của Nguyễn Tường Thiết
Thân gửi anh Nguyễn Văn Lục,
Tôi đã đọc xong bài Chúc thư Văn Học của anh. Nếu chỉ để ý đến khía cạnh tìm những sai xót trong bài như anh yêu cầu tôi thì tôi không tìm thấy lầm lỗi nào, vì bài anh viết khá công phu, dựa trên những tài liệu đã công bố hoặc những nhân chứng sống. Tôi chỉ có ý kiến riêng của tôi như sau:
Một người đã chết, khi chết mang theo tất cả những niềm bí ẩn của họ. Không ai có thể biết được sự thật hoàn toàn. Người đời chỉ có thể suy đoán. Trường hợp ông cụ tôi cũng vậy. Nhưng có một điều tôi tin chắc rằng ông cụ mong muốn được người đời hiểu rằng ông, (tôi) tự huỷ mình để cảnh cáo những người chà đạp lên mọi thứ tự do như ông đã viết trên giấy trắng mực đen. Ở cương vị một người con tôi có bổn phận phải hỗ trợ cho lòng mong ước đó của ông. Và trên quan điểm này tôi không thể đồng ý với nội dung bài viết của anh.
Tuy nhiên, ở mặt khác, vì ông cụ tôi đã là người của văn học, của lịch sử, nên tôi tôn trọng tất cả những ý kiến khác tôi về việc tìm hiểu những nguyên nhân làm nên cái chết của ông cụ, thứ nhất là việc tìm hiểu ấy không làm giảm đi lòng quý trọng và ngưỡng mộ đối với người đã khuất, như tôi đã thấy ở anh, trong bài viết.
Thân ái,
Nguyễn Tường Thiết
2. Nguyễn Thị Vinh, Nhất Linh với TLVĐ
Có rất nhiều người đàn bà trong TLVĐ mà theo tôi không có họ thì không có Nhất Linh, không có Thạch Lam, không có Duy Lam, không có Thế Uyên. Họ tưởng chừng như không có dính dáng gì đến văn học. Vậy mà không có họ thì có thể nói khó có TLVĐ. Bà mẹ Nhất Linh, bà vợ Nhất Linh hay bà Nguyễn Thị Thế, em ruột Nhất Linh. Như lời bà Nguyễn Thị Thế viết về mẹ ruột mình:
Một mình mẹ tôi buôn bán phụng dưỡng mẹ chồng và nuôi đàn con ăn học thành tài, giá như người khác, các anh tôi chỉ có đi làm thợ hay đi làm thuê thôi.
(trích Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, Nguyễn Thị Thế, trang 132).
Riêng ông bà Nhất Linh. Họ khác nhau về đủ thứ. Quanh năm ngày tháng, Nhất Linh bỏ đi. Con cái như Nguyễn Tường Thiết nhiều khi lâu không gặp bố thấy xa lạ. Nhất Linh lúc ở bên Tàu, lúc ở Đà Lạt, vậy mà cái bóng của bà Nhất Linh vẫn phủ lên đời ông?
Bà Nhất Linh trả lời như sau về đời sống gia đình của bà:
Tôi lấy nhà tôi là do cha mẹ mối manh, dạm hỏi và cưới xin linh đình. Khi tôi về nhà chồng rồi thì chỉ biết lo buôn bán để gánh vác giang sơn nhà chồng, làm gì có thì giờ đọc sách, đọc báo ạ? Với lại sách báo là việc của đàn ông, đàn bà mình ngó vào làm gì?
(trích bài viết của nữ sĩ Anh Thơ về Nhất Linh, Nhất Linh, nhiều tác giả trang 107).
Trong truyện ngắn Người quay tơ, phải chăng nhân vật nữ người quay tơ là hiện thân của bà Phạm Thị Nguyên, vợ Nhất Linh và nhân vật ông Tú phải chăng là chính là Nhất Linh? Rồi còn lá thư tuyệt mệnh để lại cho bà trước khi tự tử. Mình, mối tình của đôi ta đẹp đẽ lắm rồi. Mình không còn mong muốn gì hơn nữa. Di chúc cho vợ mà ông nhắc nhở đến mối tình của đôi ta thay vì nói tới tình nghĩa vợ chồng.
Kể là đẹp và trọn vẹn.
Chính anh Duy Lam sau này theo nghiệp văn cũng là do ý muốn của mẹ anh. Bà Thế chỉ mong sau này con trai bà trở thành nhà văn như những người của dòng họ Nguyễn Tường. Coi như giấc mơ của mẹ anh đã thành hiện thực.
Nhưng còn những người đàn bà trong văn chương TLVĐ? Trong truyện và trong đời sống, tuy hai mà một? Trong văn chương, Nhất Linh đã khiến độc giả mê một thiếu nữ mà ông đặt tên là cô áo trắng. Trong đời sống, cô áo trắng này có thực. Theo Huy Cận tiết lộ, cô này chính là nhân vật truyện tên Thu trong tiểu thuyết Bướm Trắng của Nhất Linh.
Trường hợp của bà Nguyễn Thị Vinh thì sao? Bà Vinh đã từng sống bên cạnh Nhất Linh khi ở bên Tàu. Là đồng chí, là em nuôi, là người tình, là bạn văn? Hay là tất cả những thứ đó cộng lại? Trong trường hợp nào bà Vinh quen biết và trở thành người của nhóm TLVĐ? Tôi chưa liên lạc trực tiếp được với bà Nguyễn Thị Vinh để tìm hiểu rõ vấn đề này vì bà ở quá xa, bên Na Uy. Nhưng chỉ biết rằng hai chị em Nguyễn Thị Vinh có mở một tiệm sách ở Hà Nội, rồi sau này bà Nguyễn Thị Vinh, lấy Trương Bảo Sơn, một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng. Phải chăng vì mối liên hệ đảng phái mà bà Nguyễn Thị Vinh có nhiều dịp gần gũi với Nhất Linh? Nhất là khi cùng trôi dạt sang Tàu, vợ chồng Trương Bảo Sơn, Nguyễn Gia Trí và Nhất Linh sống chung một nhà. Chính ông Trương Bảo Sơn viết về những kỷ niệm riêng với Nhất Linh cho biết như sau:
Lần đầu tiên tôi được gặp ông, tiếp xúc với ông là ở chiến khu Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ), trong tỉnh Vĩnh Yên, sau khi ông từ chức Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao trong chính phủ Liên Hiệp kháng chiến, trên đường ông đi sang Trung Hoa, ở Côn minh, Trùng Khánh, rồi Thượng Hải. Nơi đây tôi gặp ông lần thứ hai vào cuối năm 1946
(trích Những kỷ niệm riêng với Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, (trích Nhất Linh, người Nghệ sĩ, người chiến sĩ, trang 69).
Nhưng mãi đến năm 1948, nghĩa là ba năm sau, bà Nguyễn Thị Vinh, vợ ông Trương Bảo Sơn mới cùng con gái ba tuổi từ Hà Nội sang ở với ông Trương Bảo Sơn. Có thể từ 1948, bà Nguyễn Thị Vinh mới được quen biết với Nhất Linh. Cũng trong thời gian này, Nhất Linh đã khuyến khích Nguyễn Thị Vinh viết cuốn Thương Yêu và bà Linh Bảo viết cuốn Gió Bấc.
Thời gian ở bên Tàu, còn có nhiều người khác như ông Nguyễn Gia Trí, Đỗ Đình Đạo, Trần Văn Tuyên, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hợi cùng ở chung với Nhất Linh. Hoặc tới hội họp như cụ Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Bảo Toàn, Lưu Đức Trung, Tạ Nguyên Hải.
Khi ở chung, cũng có xảy ra những chuyện cãi cọ. Đáng kể nhất là mâu thuẫn giữa Nguyễn Gia Trí và Trương Bảo Sơn? Nguyễn Tường Ánh, lúc đó chỉ là một cậu bé hơn 10 tuổi đầu đã có dịp chứng kiến những màn cãi nhau đó. Ông kể lại là có lần bà Nguyễn Thị Vinh tức mình bỏ chạy chạy ra suối. Ôi cái tức mình của đàn bà! Ông Nhất Linh thương tình, sợ bà bị lạnh nên đã sai Nguyễn Tường Ánh mang quần áo ra suối cho bà. Có thể có một mối tình tay ba, tay tư không? Tôi tin là có khi nhìn lại những hình ảnh Nhất Linh ôm ẵm và cưng chiều cô con gái út của Nguyễn Thị Vinh là Trương Kim Anh. Điều gì cũng có thể xảy ra được. Sau này, khi đọc hồi ký của bà Nguyễn Thị Thế, em gái Nhất Linh và là mẹ các nhà văn Duy Lam và Thế Uyên có đoạn kể về cô con gái nuôi, Trương Kim Anh này như sau:
"Khi tôi dở chăn ra để được ngó mặt anh tôi, thời có cái sáo rơi xuống. Tôi lấy làm lạ hỏi cháu Thoa thời nó cho biết có con gái nuôi của cậu cháu (con gái chị Nguyễn Thị Vinh) tối qua đem sáo vào nhà xác thổi suốt đêm cho ông nghe. Thổi xong nó tặng luôn chiếc sáo và nói từ nay nó sẽ không còn thổi sáo cho ai nghe nữa đâu".
(trích Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường, Nguyễn Thị Thế, trang 159). Trong bài Tưởng nhớ về Nhất Linh, cô Trương Kim Anh đã viết như sau:
"Sau một lúc, mẹ tôi bảo tôi lấy sáo trúc ra thổi một bản tiễn bác. Tôi gạt nước mắt, đưa ống sáo ngang miệng, chọn bản Thiên Thai, bản mà bác thường bảo tôi thổi mỗi lần bác đến nhà chúng tôi. Tiếng sáo u uẩn vang trong khu nhà xác, lạnh lẽo. Nhưng chỉ được nửa bản, tiếng sáo ngưng trong tiếng nấc nghẹn ngào, âm thanh như đọng lại trong không gian, tiễn đưa hương linh bác về nơi vĩnh cữu".
(trích Nhất Linh, người nghệ sĩ, người chiến sĩ, trang 153).
Trong mục Lan Hàm Tiếu dành cho các thiếu nhi trên VHNN, Nhất Linh đã không quên mà người đọc cũng khó bỏ qua bóng dáng Nguyễn Thị Vinh qua cháu Trương Kim Anh. Em bé Trương Kim Anh, lúc ấy 12 tuổi đã tập tành viết văn như mẹ cháu, dưới sự hướng dẫn của bác Nhất Linh qua tác phẩm đầu tay của cháu: Ở vậy.
Như vậy, người ở lại sau cùng trong cái đêm cuối cùng trước khi Nhất Linh đi vào lòng đất là bà Nguyễn Thị Vinh và cô con gái. Và trước khi tuẫn tiết, ngoài bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm, người được Nhất Linh đến gặp lần cuối cũng lại là bà Nguyễn Thị Vinh. Trương Kim Anh kể lại:
Mãi sau này tôi mới biết, chuyện quan trọng đó là: bác Tam nhận được trát đòi ra hầu tòa, cùng với một số bạn chiến đấu của bác, trong đó có ba tôi, “ông Trương Bảo Sơn”.
Tôi hơi ngạc nhiên về chú thích để trong ngoặc kép này...
Khoảng một tiếng sau, từ trên cửa sổ nhà Thúy nhìn xuống nhà mình, tôi thấy bác Tam đang từ giã mẹ tôi.
Đây là một cử chỉ chỉ có những người trong cuộc, trong giờ phút giữa sống chết, bên bờ tử sinh mới thấm thía hết được ý nghĩa của cuộc gặp gỡ này.
Cô Trương Kim Anh, con nuôi của Nhất Linh, sau này lấy nhà văn Dương Kiền. Theo các con cháu của Nhất Linh như anh Duy Lam cũng cho rằng nhiều phần Nhất Linh và Nguyễn Thị Vinh... phải có cái gì với nhau. Nhưng cụ thể như thế nào thì không ai dám chắc. Nhưng trong cách thức của bà Nguyễn Thị Vinh khi nói về Nhất Linh thì bà thường làm ra cái vẻ như thể bà là người tình của Nhất Linh, hay đóng kịch như thế và gây cho mọi người có cảm tưởng là giữa bà và Nhất Linh hẳn phải có một mối dây liên lạc đặc biệt.
Nhưng hay nhất vẫn là để Nguyễn Thị Vinh tỏ bày:
"Đời tôi từ bấy lâu nay, thời gian qua đi già nửa thế kỷ, đã từng được ở những nơi nhà cao cửa rộng, đầy đủ tiện nghi, mà sao tôi vẫn không thể quên được, túp lều (trên núi) của chúng tôi. Chao ơi mỗi khi tắm, tôi chưa thấy có một vòi hoa sen nước nào có thể so sánh được với dòng suối ngày ấy. Tôi biết kể sao cho hết nỗi vui thích của tôi mỗi khi ra suối tắm..."
(Trích Nhất Linh, người nghệ sĩ, người chiến sĩ, trang 85/86).
Khó quên là phải. Làm sao quên được. Cá tính bà Nguyễn Thị Vinh theo nhận xét vài người quen biết của bà trước đây hay người trong gia đình Nhất Linh thì bà là một người đàn bà đa tình, và vô cùng lãng mạn. Gần như không có một biên giới nào. Một người tình cũ cho biết bà có thói quen xỏa tóc dài và khoả thân. Một phụ nữ như thế, ngoài cái mối đam mê về văn chương, còn gặp nhau nơi xứ người, sống hoang dã nơi núi rừng, suối chảy, ông Nhất Linh nếu có liên hệ tình cảm với bà thì cũng không phải là điều đáng ngạc nhiên.
Chuyện Trương Bảo Sơn và Nguyễn Thị Vinh chia tay nhau thì cũng là chuyện đành phải là như vậy. Sau khi Nhất Linh chết vào năm 1963, bà Nguyễn Thị Vinh thường đi xe Lam lên thăm mộ Nhất Linh ở nghĩa trang Bắc Việt ở Hạnh Thông Tây. Nghĩa trang này nằm cạnh khu đất hương hỏa của nhà văn miền Nam Hồ Biểu Chánh nên mộ Nhất Linh gần mộ nhà văn Hồ Biểu Chánh. Bà Nguyễn thị Vinh mỗi khi thăm viếng mộ Nhất Linh là đốt 4 điếu thuốc lá Bastos xanh cắm vào bốn góc mộ, sau đó mở hai chai lade 33 tưới lên phần mộ để tưởng nhớ Nhất Linh.
Nhất Linh khi còn sống hút thuốc lá Bastos xanh không ngừng và khoái uống la de. Theo vài người biết chuyện kể lại thì cậu thanh niên Nguyễn Hữu Nhật đã gặp bà Nguyễn thị Vinh tại nhà của nữ thi sĩ Trần thị Tuệ Mai, con cụ Á Nam Trần Tuấn Khải. Một hôm ông Nguyễn Hữu Nhật cùng hẹn với bà Nguyễn Thị Vinh đi thăm mộ Nhất Linh dù đã hứa hôn với một nữ sinh viên trường Luật tên Bình. Vài tuần sau, hai người kết thành đôi lứa, ông Nhật từ hôn với cô Bình và Nguyễn Hữu Nhật chính thức làm chồng bà Nguyễn Thị Vinh cho đến ngày hôm nay mặc dù tuổi tác hai bên chênh lệch nhau đến 20 tuổi.
Mối nhân duyên này đúng là duyên kỳ ngộ và như có sự chứng giám của một người đã chết. Sự hiện diện của bà Nguyễn Thị Vinh trong TLVĐ hay trong đời sống Nhất Linh có phải chỉ là một?

_____________

Sự thật về cái chết của Nhất Linh

Nguyễn Tường Thiết

Lần đầu tiên tôi được nhìn thấy rõ khuôn mặt cha tôi, nhà văn Nhất Linh, là vào khoảng cuối năm 1950 khi cha tôi từ Hương Cảng trở về Hà Nội. Năm ấy tôi mới mười tuổi. Trong thập niên 1940 cha tôi rất bận rộn với những hoạt động chính trị, ông sống nhiều năm bên Trung Hoa. Thời gian này ông chỉ về ghé thăm mẹ con tôi vào những dịp đặc biệt ngắn ngủi, không đủ cho tôi kịp nhận diện khuôn mặt người cha, người mà lâu lâu tôi nghe nhắc đến một cách kính cẩn như thể ông là một nhân vật trong thần thoại hơn là một người có thực ở ngoài đời.
Tôi nhớ ngày hôm đó tôi đã ngây người nhìn ông như nhìn một người khách lạ. Trước mắt tôi nhân vật thần thoại ấy hiện hình bằng xương bằng thịt: Nhất Linh dáng dong dỏng quắc thước, khuôn mặt phong sương, có cặp mắt sâu, đôi mày rậm, vầng trán cao, nụ cười cởi mở dưới hàng râu mép và cái nhìn đặc biệt, nhìn thẳng và sâu vào đôi mắt người đối diện nhưng lúc nào cũng nhiễm một vẻ mơ màng xa vời.
Kỷ niệm về đêm hôm đầu tiên đoàn tụ ấy còn ghi đậm trong trí nhớ tôi một lời nói của cha tôi. Đó là lời ông tuyên bố quyết định từ bỏ cuộc đời chính trị.
Trong tập hồi ký Nhất Linh Cha Tôi (Văn Mới xuất bản 2006, trang 13) tôi có viết: “Đêm hôm đầu tiên đoàn tụ, chúng tôi không ngủ, tất cả thức gần suốt sáng để trò chuyện với ông. Trong căn nhà số 15 Hàng Bè Hà Nội nơi mẹ tôi mở tiệm bán cau khô, vào một đêm mùa đông, bố mẹ con chúng tôi chen chúc nằm trên một chiếc giường tây lớn. Tôi còn nhớ rõ bố tôi nói với chúng tôi là ngày hôm sau báo chí sẽ đến gặp ông và ông sẽ tuyên bố quyết định từ bỏ cuộc đời làm chính trị để trở về cuộc đời viết văn”.
Sau này đọc bản thảo cuốn tiểu thuyết Xóm Cầu Mới (Bèo Giạt) tôi thấy cha tôi viết những dòng sau này: “Tặng Nguyên, người rất thân yêu đã khuyên tôi trở lại đời văn sĩ và nhờ thế cuốn Xóm Cầu Mới này mới ra đời” (Hương Cảng, trên núi 16 tháng 10 năm 1949, 1g30 trưa). Như vậy là trí nhớ của tôi, cậu bé 10 tuổi, đã không sai.
Kể từ ngày đầu tiên đoàn tụ năm 1950 ấy cho đến ngày ông qua đời 7-7-1963, tôi là người con đã sống gần gũi với cha tôi nhất trong số tất cả những người con của ông. Lý do là khi cha tôi vào Nam năm 1951, ông kéo tôi đi theo ông, trong khi mẹ và các anh chị tôi ở lại Hà Nội cho đến năm di cư 1954. Và sau đó năm 1955 khi ông quyết định bỏ Sài Gòn lên sống trên Đà Lạt, tôi lại là người ông mang theo để sống gần ông. Là người con vừa thân cận vừa được tín cẩn, tôi là người vừa biết rõ nhất về ông cụ tôi, lại là người chứng kiến cái chết của ông trong những giờ phút cuối cùng.
Là người con hiểu rõ ông cụ tôi, tôi tin rằng khi cha tôi tuyên bố từ bỏ cuộc đời làm chính trị ông đã thành thật với mình. Tuy nhiên thời cuộc đưa đẩy buộc ông phải sống trái với ý muốn của mình. Về cuối đời cha tôi bị liên lụy vì liên quan đến một vụ chính biến, đưa đến cái chết của ông ngày mồng 7 tháng 7 năm 1963.
Cái chết ấy mang mục tiêu chính trị rõ rệt. Ông tự vẫn để “cảnh cáo những người chà đạp lên mọi thứ tự do”, như ông đã viết ra trên giấy trắng mực đen.
Nguyên nhân và động lực đưa đến cái chết của Nhất Linh đã được ông viết ra bằng 71 chữ rất minh bạch và đầy đủ:
Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất về tay cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người trà đạp mọi thứ tự do.
7-7-63
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam
Thế nhưng gần đây lại có những người manh tâm viết sách bóp méo sự thật, sửa đổi lịch sử, xuyên tạc cái chết của cha tôi gán ghép cho cha tôi “tự tử vì căn bệnh tâm thần” (Nguyễn Văn Lục), “tự tử để tránh khỏi phải ra tòa đối chất với thuộc hạ” (Lê Nguyên Phu).
Là người con, lại là người con sống gần gũi với ông cụ tôi nhất, tôi biết chắc là gán ghép này hoàn toàn sai với sự thật và vì vậy tôi thấy có bổn phận lên tiếng.
Bài viết này sẽ chia làm hai phần.
Phần thứ nhất tôi sẽ nói sơ lược về cha tôi, về bối cảnh lịch sử, và nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông, Nhất Linh. Tất cả những gì tôi viết sau đây đều dựa trên những gì mắt thấy tai nghe mà tôi tin rằng đó là sự thật.
Tôi sẽ dành phần thứ hai của bài này để phản bác lập luận của hai ông Nguyễn Văn Lục và Lê Nguyên Phu.
***
Như đã nói ở trên vào năm 1955 cha tôi quyết định lên Đà Lạt sống và tôi là người ông chọn để đi cùng với ông. Ông cụ thu xếp cho tôi thi tuyển vào lớp Đệ Lục trường trung học công lập Quang Trung niên khoá 1955-56. Chúng tôi ở trên lầu 2 nhà hàng Poinsard &Verey số 12 đường Yersin Đà Lạt. Sau này các anh chị tôi cũng thường lên Đà Lạt vào những dịp hè hoặc Tết nhưng không ai ở luôn trên ấy, chỉ trừ chị Thoa là người chị kế của tôi. Những năm đầu tiên trên Đà Lạt là những năm thanh bình. Cha tôi chơi lan, hòa nhạc tại gia vào cuối tuần. Thỉnh thoảng ba chúng tôi (cha tôi, chị Thoa và tôi) đi pic-nic trên núi Langbian hoặc ở Suối Vàng.
Lâu lâu bạn bè của cha tôi từ Sài Gòn lên Đà Lạt ghé thăm cha tôi. Bạn của cha tôi nhiều lắm và đủ loại: bạn thân, bạn văn, bạn đồng chí và cả các chính khách nữa. Tôi còn nhỏ không chú ý đến chuyện người lớn nên không biết cha tôi bàn luận với khách chuyện gì, nhưng tôi đoán thế nào họ chẳng bàn chuyện thời sự và chính trị. Phải đến rất nhiều năm sau này, sau khi thân phụ tôi mất, tôi có dịp gặp lại một trong những vị khách đó là anh Lê Hưng, một đảng viên VNQDĐ. Anh Lê Hưng nói với tôi là cha tôi tán thành chính sách của tổng thống Ngô Đình Diệm trong việc dẹp loạn Bình Xuyên. Cha tôi nói: “Việc dẹp loạn Bình Xuyên là đúng, nhưng coi chừng, nó có thể mở đầu dẫn đến độc tài”.
Vào năm đó (1955) chính phủ của nền Đệ Nhất Cộng Hòa phát động rầm rộ phong trào tố cộng. Thị xã Đà Lạt tràn đầy băng rôn biểu ngữ chống cộng sản. Trong các dịp lễ tết thế nào cũng có màn kịch tố cộng với những anh hề “cán ngố” áo đen nón cối nhẩy vũ điệu tập thể “son mì son mì son tố mì”. Nhưng song song với phong trào tố cộng một phong trào khác cũng rầm rộ không kém. Đó là phong trào “suy tôn Ngô Tổng Thống”.
Những bản nhạc suy tôn được phát đi liên tục trên đài phát thanh. Loa phóng thanh đặt ở đầu chợ Đà Lạt suốt ngày rót vào tai khách đi đường những bản nhạc suy tôn ấy, đến nỗi nó nhập vào tôi, cậu bé 15 tuổi. Một bữa đi học về tôi nhẩy cầu thang miệng hát oang oang: “Bao nhiêu năm từng lê gót nơi quê người... Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do...” ... “Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống. Ngô Tổng Tống, Ngô Tổng Thống muôn năm! Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống. Xin thượng đế ban phép lành cho Người...”. Đến đầu cầu thang ngửng lên tôi bắt gặp ngay gương mặt chưng hửng của ông cụ! Tuy ông cụ không nói gì nhưng tôi đoán chắc bụng ông không vui. Tôi biết ông cụ tôi chúa ghét cái trò suy tôn cá nhân, dù người đó là ông trời đi nữa.
Một vài năm sau tôi chứng kiến một câu chuyện khác khiến tôi tin rằng cái trò suy tôn này đã làm cha tôi không ưa chế độ. Ai cũng biết là hồi đó dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa đi xem xi-nê đều phải đứng dậy chào cờ. Dưới chế độ Đệ Nhị Cộng Hòa luật chào cờ này bị bãi bỏ. Đi giải trí mà phải chào cờ đã là một chuyện vô lý. Nhưng còn thậm vô lý hơn nữa là khi lá quốc kỳ chiếu trên màn ảnh thì chính giữa lại có một khoảng bầu dục in hình vị thủ lãnh quốc gia: chân dung tổng thống Ngô Đình Diệm.
Ông cụ tôi một bữa đi xi nê tại rạp hát Vĩnh Lợi khi ông buộc phải đứng lên chào cờ ông đã tức giận đứng dậy bỏ về không xem xi nê. Chuyện này tôi biết vì chính tai tôi nghe ông cụ bất mãn than thở với chú Lê Văn Kiểm, một người bạn thân của ông cụ tôi.
Hãy tưởng tượng ông cụ tôi, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, bị buộc phải đứng dậy (không phải để chào cờ) để suy tôn ông Ngô Đình Diệm!
Tôi chắc là có những người có thể bảo đây là chuyện nhỏ và đổ lỗi cho Bộ Thông Tin làm việc này chứ ông Diệm không hay biết. Nói gì thì nói ở cương vị lãnh đạo quốc gia ông Diệm là người phải chịu trách nhiệm về cái trò suy tôn quá lố này của thuộc cấp. Đây là một trong những điều khiến cha tôi bất mãn với chế độ nhà Ngô.
Mấy năm sau ngày chấp chánh của chế độ nhà Ngô sự bất mãn của dân chúng gia tăng với sự độc tài gia đình trị của gia đình này. Cả cha tôi và tôi lúc này đều đã về ở hẳn Sài Gòn. Riêng cha tôi vì mua một miếng đất ở Fim-nôm gần Đà Lạt nên ông thỉnh thoảng vẫn đáp xe đò Minh Trung lên trên ấy vào rừng để “tu tiên” bên dòng suối Đa Mê. Nhưng “tu tiên” không được vì những biến chuyển chính trị ở Sài Gòn khiến cha tôi không thể ngồi yên.
Năm 1958 cha tôi ra tờ báo Văn Hoá Ngày Nay. Tự tay cha tôi vẽ và trình bầy bìa cho tờ đặc san này. Ở trên góc bìa đề hàng chữ lớn: Số ra mắt 17-6-1958. Chúng tôi không một ai để ý đến cái ngày 17-6 có ý nghĩa gì cho mãi đến khi tôi gặp anh Lê Hưng. Anh Hưng nói với tôi trước bàn thờ ông cụ: “Anh Tam làm cái gì cũng tính toán rất kỹ lưỡng. Anh chọn ngày ra báo 17-6 là ngày giỗ của đảng trưởng Nguyễn Thái Học, cũng như anh chọn ngày chết 7-7 là ngày chấp chánh của họ Ngô để phản đối chế độ này”.
Ở Sài Gòn báo Văn Hoá Ngày Nay bán rất chạy ngay từ số đầu tiên. Năm ấy tôi học lớp Đệ Nhị trường trung học tư thục Hoàng Việt tại đường Phan Đình Phùng (khúc giữa Cao Thắng và Lê Văn Duyệt). Trên khúc đường đó có rất nhiều tiệm bán sách hoặc tiệm cho thuê sách. Trên đường đi học qua các tiệm sách này tôi thấy có một hiện tượng mà tôi không hề thấy xẩy ra trước đó: tất cả các tiệm sách này đều có một tấm bảng đen phía trước cửa với hàng chữ viết bằng phấn trắng: HÔM NAY CÓ VĂN HÓA NGÀY NAY.
Nhưng báo chỉ ra được 11 số thì tự ý đình bản. Chúng tôi chưng hửng hỏi ông cụ tại sao báo bán chạy thế mà lại tự ý ngưng? Cha tôi không trả lời. (Ông không có thói quen tiết lộ mọi chuyện cho con cái). Nhưng thái độ của ông lúc ấy rất buồn bã.
Sau này dọ hỏi hai người trong ban biên tập của báo VHNN là ông Nguyễn Thành Vinh và ông Trương Bảo Sơn thì tôi càng kinh ngạc hơn nữa: báo không ra nổi vì lỗ vốn.
Trong cuốn sách “Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ-Người Chiến Sĩ” do Thế Kỷ xuất bản năm 2004, trang 78, ông Trương Bảo Sơn viết:
“Tờ Văn Hoá Ngày Nay ra được 11 số thì đình bản, mặc dù được độc giả khắp nơi hoan nghênh. Ôi, chỉ vì nó được hoan nghênh quá xá mà chết non. Nguyên nhân thế này:
“Trước hết tập Văn Hoá Ngày Nay không được chế độ Ngô Đình Diệm cho phép xuất bản như một tạp chí mà chỉ là một giai phẩm phát hành không có định kỳ. Vì không có định kỳ nên Bộ Thông Tin kiểm duyệt cố tình để lâu mới trả lại bản thảo để in. Ông Hoàng Nguyên, chủ sự phòng kiểm duyệt đã nói với tôi rằng tuy có nhiều cảm tình với chúng tôi, nhưng không thể làm trái lệnh cấp trên là cản trở tờ Văn Hoá Ngày Nay ra đúng kỳ hạn (tỷ dụ như đúng ngày mồng 1 mỗi tháng) để đọc giả nhớ ngày mua báo. Hơn nữa bài vở phải kiểm duyệt kỹ, nhất là bài của Nhất Linh và Bảo Sơn.”
“Sau nữa, ngoài chế độ kiểm duyệt, phản quyền tự do ngôn luận này ra, chế độ Ngô Đình Diệm còn có một thủ đoạn hiểm độc nữa là nhà nước giữ độc quyền phát hành báo chí, kể cả giai phẩm. Ngô Đình Diệm đã có sáng kiến đặt ra Nhà Phát Hành Thống Nhất, bắt tất cả các báo chí phải đưa cho công ty này phân phối. Tập Văn Hoá Ngày Nay bán chạy như tôm tươi mấy số đầu, đã bị ế đi. Nhà phát hành độc quyền của chính phủ đã thi hành độc kế không gửi đủ số báo cho các tiệm sách đã đặt mua. Chúng tôi khi buộc báo thành từng bó đã cố ý đánh dấu riêng, khi nhận báo từ Nhà Phát Hành trả về, thấy những dấu ấy vẫn còn y nguyên, tức là nhà Phát Hành đã không làm đúng nhiệm vụ, đã giữ báo của chúng tôi trong kho, không phân phối đi. Có những tiệm sách đến điều đình mua thẳng báo với chúng tôi để có đủ báo bán, nhưng chúng tôi phải từ chối vì sợ chính quyền gài bẫy. Đã nghèo lại bị thua lỗ, chúng tôi đành đình bản tờ Văn Hoá Ngày Nay.”
Sau khi được giải thích tôi mới vỡ lẽ vì sao có hiện tượng cái bảng đen với hàng chữ phấn vì chính quyền đã cố ý trì hoãn không cho báo ra đúng hạn kỳ nên độc giả buộc phải chờ khi nào có bảng đề chữ “hôm nay có Văn Hoá Ngày Nay” mới vào mua được.
Những điều nêu trên là sự thực xung quanh vụ đình bản của tờ Văn Hoá Ngày Nay. Nó nói lên sự xâm phạm quyền tự do ngôn luận của chế độ nhà Ngô mà cha tôi là nạn nhân trực tiếp. Cũng như tất cả những nhà văn, nhà báo khác khi họ bị tước đoạt quyền tự do ngôn luận, cố nhiên là Nhất Linh rất bất mãn về chuyện này.
Vào năm 1960 trên bìa báo Tự Do xuân Canh Tý xuất hiện bức tranh năm con chuột đang đục khoét một quả dưa đỏ và nếu lật ngược cái bìa thì quả dưa đỏ là hình bản đồ nước Việt Nam, hàm ý các anh em của gia đình họ Ngô đang phá hoại đất nước. Tờ báo bị chính quyền tịch thu sau khi báo đã phát hành được một số khá lớn. Không một ai biết tác giả bức tranh là ai. Người ta đoán mò họa sĩ Phạm Tăng là tác giả. Nhưng cha tôi cho chúng tôi biết tác giả là một người rất thân cận với ông: họa sĩ Nguyễn Gia Trí.
Rồi đến cuộc đảo chính hụt ngày 11-11-1960 của một nhóm quân nhân Thi Đông. Cha tôi bị liên lụy thế nào trong cuộc đảo chánh này để đến nỗi mấy năm sau ông cụ tôi phải ra toà với tội trạng “phản quốc” và “xâm phạm nền an ninh quốc gia” đưa đến cái tự vẫn của ông ngày 7-7-1963?
Nửa thế kỷ trôi qua đã có không biết bao nhiêu giấy mực viết về cuộc đảo chính 11-11-1960 này cũng như mức độ liên lụy của cha tôi trong cuộc đảo chính, được viết ra bởi những người thuộc nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau.
Ở đây tôi không nhắc lại cũng không dẫn chứng những bài viết này. Tôi không phải là một nhà nghiên cứu, cũng không có tham vọng viết lịch sử, tôi chỉ nêu lên ở đây tiếng nói của một người con. Nếu tiếng nói đó có góp phần soi sáng thêm cho sự thật của lịch sử thì tôi nghĩ rằng đó là việc tôi phải làm vì bổn phận đối với cha tôi.
Trước hết là cha tôi biết trước vụ đảo chính sẽ xẩy ra. Trong cuốn hồi ký “Nhất Linh Cha Tôi” trang 120 tôi viết: “Bốn mươi mốt năm về trước, một ngày trước cuộc binh biến 11-11-1960 ở Sài Gòn, bố tôi bất thần trở về căn gác chợ An Đông nhìn tôi nói nghiêm nghị: ‘Ngày mai con có đi chơi đâu thì không được lảng vảng gần khu Dinh Độc Lập’. Cuộc đảo chính thất bại. Tôi nghe nói là bố tôi sau đó đã lẩn trốn ở nhiều nơi trong thành phố.”
Sau này tôi nghe nói ông phải đi trốn vì ông có tên trong một tờ truyền đơn chống chính phủ được rải ra trong thành phố vào buổi sáng ngày đảo chánh.
Mấy tháng sau chúng tôi ngạc nhiên thấy cha tôi trở về nhà. Anh tôi hỏi thì ông cụ trả lời giản dị “Cậu được vô can” và không tiết lộ điều gì hơn. Tôi thắc mắc tại sao ông cụ lại vô can được khi ông biết trước vụ đảo chánh xẩy ra lại có tên ông trong tờ truyền đơn, trong khi hầu hết những người có tên trong tờ truyền đơn bị bắt hết?
Sau này được tiếp xúc với giáo sư Nguyễn Thành Vinh, một đàn em cũng là đồng chí của ông cụ, anh Vinh xác nhận với tôi: “Anh Tam đã tuyên bố không làm chính trị, vì vậy anh đứng ngoài, anh chỉ ủng hộ ngầm việc làm của các anh em mà thôi. Tất cả các buổi họp quan trọng trước ngày đảo chánh đều không có mặt anh Tam. Tuy nhiên anh được thông báo mọi diễn tiến. Vì vậy anh Tam biết trước có vụ đảo chánh xẩy ra.”
Từ những sự kiện trên và là người con gần gũi và thấu hiểu ông cụ tôi nhất, tôi suy luận thế này:
Một mặt cha tôi bất mãn với chế độ nhà Ngô về sự độc tài của chế độ này. Mặt khác vì lời tuyên bố không làm chính trị của ông năm 1950, lại là người rất trọng danh dự, ông cụ tôi hết sức tránh mọi hành vi đi ngược lại lời tuyên bố của ông.
Giữa hai động lực tương phản ấy cha tôi khôn ngoan chọn thái độ đứng giữa nó có thể giúp ông một lúc đạt cả hai mục tiêu: đó là ngầm tán trợ các hoạt động của anh em đồng chí của ông, nhưng riêng ông đứng ngoài.
Sự kiện ông cụ tôi không bị bắt có thể vì người ta không tìm ra bằng cớ. Thứ nhất là ông cụ tôi không bao giờ đi họp. Gần đây tôi có dịp tiếp xúc với ông Nguyễn Liệu, ông cho tôi biết là ông Nhất Linh không đi họp đảng phái, người đại diện là ông Nguyễn Thành Vinh. Ông Nguyễn Liệu hiện cư ngụ tại San Jose, Hoa Kỳ, là người đã tham dự vào những cuộc họp của đảng phái và cũng bị giam tù vì liên hệ đến cuộc đảo chính 11-11-1960. Thứ hai là có tên trong trong tờ truyền đơn cũng không hẳn là bằng cớ rõ ràng để bắt vì có gì chứng minh ngược lại là người khác để tên ông cụ tôi vào? Vả lại không phải tất cả những người có tên trong tờ truyền đơn đều bị bắt hết. Cũng theo lời ông Nguyễn Liệu thì ngoài ông cụ tôi ra, người có tên trong tờ truyền đơn là cụ Nguyễn Xuân Chữ cũng không bị bắt giữ.
Sự việc không bắt cha tôi, ngoài lý do không có bằng cớ, tôi cho còn là một sự tính toán cân nhắc lợi hại của chính quyền họ Ngô chứ chưa hẳn do cảm tình riêng của ông Diệm đối với ông cụ tôi như nhiều người nghĩ. Thứ nhất không bắt ông cụ để ông cụ vô can tức là chứng tỏ cho dân chúng biết Nhất Linh không hề bất mãn và phản đối chế độ ông Diệm. Thứ hai họ nghĩ rằng chặt hết tay chân của ông cụ tôi thì ông cụ tôi còn làm gì được nữa.
Nhưng không bắt bớ không có nghĩa là để cho ông cụ tôi được hoàn toàn tự do. Trong cuốn Nhất Linh Cha Tôi trang 36 tôi ghi lại lời của cha tôi nói với tôi buổi sáng ngày 7-7-1963: “Cậu chẳng sợ kết quả (ra toà) ngày mai ra sao vì ở nhà hay ở tù thì cũng mất tự do như nhau”.
Ngoại trừ những người trong gia đình tôi rất ít người biết rằng trong hai năm sau cùng của đời ông cha tôi bị giam lỏng tại gia như thế nào. Công an mật vụ canh chừng đến nỗi chúng tôi nhận diện được từng người mỗi khi từ trên lầu căn gác chung cư chợ An Đông (nơi chúng tôi trú ngụ) nhìn xuống. Trang 40 cuốn hồi ký tôi tả một đoạn khi cha tôi và tôi rời khỏi nhà: “Trên chiếc tắc-xi rời chợ An-Đông hướng về phía Sài Gòn, tôi thấy cha tôi cứ chốc chốc lại ngoái về phía sau. Ông bảo tôi: ‘Con xem có xe nào theo không? Lúc nẫy cậu thấy có mấy người lạ đứng bên kia đường nhìn vào nhà mình’. Tôi ra hiệu cho tài xế quặt sang đường Trần Bình Trọng, chiếc xe hơi duy nhất chạy phía sau vẫn tiến thẳng đại lộ Thành Thái. Tôi đáp: ‘Không! Không có xe nào theo mình cả!’.”
Hãy hình dung cảnh tượng ấy diễn ra thường xuyên trong một thời gian dài thì mới thấu hiểu câu nói của cha tôi “ở tù hay ở nhà cũng mất tự do như nhau”.
Vào tháng 5 năm 1963 vụ Phật giáo bùng nổ ở Huế. Sau đó phong trào Phật giáo đấu tranh lan rộng khắp nước. Tôi không đề cập chi tiết vụ Phật giáo này. Hãy để các sử gia nói tới. Tôi chỉ bàn khía cạnh vụ này tác động ra sao đối với ông cụ tôi và nhất là đối với cái chết của ông.
Vụ Phật giáo xẩy ra hai tháng trước khi ông cụ tôi mất. Thời gian này tại căn nhà An Đông họ canh chừng rất kỹ ông cụ tôi. Trong khi hầu hết các chính trị gia đối lập bị bắt hết sau vụ binh biến 11-11-1960, ông cụ tôi là một trong số ít người được tại ngoại, do đó việc tăng cường canh giữ ông cụ là một điều tất nhiên. Ông cụ rất ít ra khỏi nhà. Những tin tức ông biết được bên ngoài là do báo chí (cha tôi sai tôi đi mua báo Tự Do hàng ngày và ông chỉ đọc tờ báo này thôi), ngoài ra có hai người bạn thân của ông thường xuyên lui tới. Đó là bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm và ông Lê Văn Kiểm. Ông Kiểm (mà chúng tôi gọi là chú Kiểm vì chú nhỏ tuổi hơn ông cụ tôi) thường đến hầu như hàng ngày tường trình diễn tiến của vụ Phật giáo. Ngày 11-6-1963 khi chú Kiểm đến báo tin Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ở ngã tư Lê Văn Duyệt & Phan Đình Phùng thì cha tôi sững sờ.
Ảnh hưởng của cái tin này thật khủng khiếp.
Tin này là một phần (tôi cho là quan trọng nhất) làm nên cái chết của Nhất Linh.
Nếu ảnh hưởng đó không mạnh thì tại sao ông lại dành đến 9 chữ trong lá thư tuyệt mệnh vỏn vẹn 71 chữ của ông để viết lên câu “cũng như hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu”?
Rồi cuối cùng, mãi ba năm sau xẩy ra cuộc binh biến 11-11-1960, vào tháng 6 năm 1963 cha tôi bị mời lên Tiểu Đội Hiến Binh số 635 đường Nguyễn Trãi để lấy khẩu cung và ở đó người ta cho ông biết trước là ngày 8 tháng 7 năm 1963 cha tôi phải trình diện tại Phòng xử án Đặc biệt Toà Án Quân sự, toà Thượng Thẩm, số 131 đường công lý Sài Gòn. Trát đòi chính thức sẽ được gửi sau. (Cha tôi nhận được trát đòi vào ngày 6-7-1963 lúc 18.00 giờ).
Tin cha tôi sẽ phải ra tòa để xử án này là động cơ tối hậu làm nên cái chết của Nhất Linh.
Ông có một tuần lễ để sửa soạn cái chết cho chính mình:
Ngày 30-6-1963 (7 ngày trước cái chết) cha tôi đi dự buổi họp tại trụ sở nhóm Bút Việt. Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm viết về sự kiện này như sau (trích trong sách Chân Dung Nhất Linh, tác gỉa Nhật Thịnh, trang 183): “Tôi dám quả quyết là Nhất Linh đã sắp đặt, ít nhất là một tuần lễ trước cái chết của mình, bằng cớ là ngày 30-6-1963, anh tới dự buổi họp của Trung Tâm Văn Bút mà trước đó anh là chủ tịch, không phải vì văn hoá, mà chỉ cốt gặp mặt một lần chót các văn hữu của anh trước khi sang bên kia thế giới. Ở Trung Tâm Văn Bút ra, Nhất Linh có ghé lại thăm tôi, nhưng tiếc rằng hôm ấy tôi đi vắng”.
Ngày 2-7-1963 (5 ngày trước cái chết) cha tôi đến nhà in Trường Sơn làm giấy Ủy Quyền cho con. Trong cuốn sách Nhất Linh Cha Tôi trang 192, tôi viết: “Năm ngày trước khi chết ông đến nhà in Trường Sơn đánh máy tờ Ủy Quyền:Tôi, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, giám đốc nhà xuất bản Phượng Giang và Đời Nay, ký tên dưới đây xác nhận rằng: trong khi tôi vắng mặt (bất cứ vì lý do gì) thì con tôi là Nguyễn Tường Thiết sẽ thay thế tôi điều khiển hai nhà xuất bản kể trên và quyết định việc xuất bản các tác phẩm của tôi. Làm tại Sài Gòn ngày 2 tháng 7 năm 1963”.
Ngày 7-7-1963 (ngày chết) cha tôi đến vĩnh biệt người bạn thân nhất của mình vì tuần lễ trước ông đến mà không gặp. Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm viết: “Chủ Nhật sau nhằm ngày 7-7-63 Nhất Linh lại tới vào buổi sáng hồi 10 giờ. Tôi đang ngồi trong phòng ăn bỗng anh lặng lẽ đi vào...”... “chúng tôi tiễn anh ra cửa lặng lẽ cầm tay nhau, khi ấy tuyệt nhiên trên nét mặt Nhất Linh tôi không hề nhận thấy một dấu hiệu nhỏ nào cho biết chỉ trong vài tiếng đồng hồ nữa anh sẽ xa lánh cõi trần, xa tất cả mọi người thân yêu của anh để đi vào lịch sử.”
Buổi sáng hôm ấy sau khi cha tôi đi thăm bác Phiếm về thì chúng tôi, cha tôi và tôi, trên căn gác của chung cư chợ An Đông bàn bạc rất lâu về đủ mọi chuyện. Cha tôi vốn ít nói và kín tiếng, nhưng buổi sáng hôm ấy lạ thay ông lại tâm sự với tôi rất nhiều điều, ông giảng giải khúc triết và rành rẽ mọi chuyện, và tôi có ghi lại đầy đủ trong chương “Niềm Vui Chết Yểu” trong cuốn sách Nhất Linh Cha Tôi.
Cũng như bác Phiếm lúc ấy tôi hoàn toàn không ngờ cái chết sắp tới của cha tôi, cho đến khi ông sai tôi đi mua rượu và ông tự vẫn trong lúc tôi vắng mặt.
Chuyện gì xẩy ra trong lúc tôi vắng mặt ấy?
Bình tĩnh cha tôi ngồi thảo và viết 71 chữ cuối cùng trong đời ông: 71 chữ cô đọng, đầy đủ, rõ ràng để một người bình thường có thể hiểu được ý nghĩa trung thực của tờ chúc thư tuyệt mệnh của ông.
Khi thảo tờ chúc thư chính trị ấy cha tôi đã sáng suốt tiên liệu là mật vụ nhà Ngô có thể tịch thu bản di chúc nên cha tôi đã cẩn thận viết làm hai bản. Hai bản đó giống nhau, chỉ sai biệt một chữ. Nay, kèm với bài viết này, lần đầu tiên sau nửa thế kỷ, tôi cho công bố cả hai lá thư tuyệt mệnh ấy để độc giả so sánh.

Nhất Linh con người ghét chính trị, không muốn làm chính trị, thế mà sau cùng phải chết cho mục tiêu chính trị, đó là chuyện chẳng đặng đừng. Ông phải chết để bảo vệ nhân phẩm của mình như ông Trần Thanh Hiệp đã viết trong cuốn sách Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ-Người Chiến Sĩ, trang 132, như sau:
“Vào cái tuổi 57 chưa hẳn quá về chiều của cuộc đời, ông lấy cái chết của mình để cảnh cáo những người cầm quyền bạo ngược, ngang nhiên chà đạp lên mọi thứ tự do là nhân phẩm, thứ giá trị khiến con người khác với các sinh vật khác…”
Nhất Linh đã chuẩn bị cái chết của mình một cách bình tĩnh. Nhất Linh đã sửa soạn cái chết cho mình trong sự tính toán sáng suốt.
Cái bình tĩnh ấy, cái sáng suốt ấy dứt khoát là không thể có được ở một con người mắc bệnh tâm thần!
*
Trong cuốn sách Một Thời Để Nhớ xuất bản năm 2011 tác giả Nguyễn Văn Lục đã dành hẳn một chương (chương 7) để bàn về cái mà ông Lục gọi là Ý Nghĩa Về Cái Chết của Nhất Linh.
Nhưng thay vì tìm hiểu “ý nghĩa” cái chết của Nhất Linh như tựa đề ông Lục đặt ra, suốt bài viết ông Lục chỉ bàn về “nguyên nhân”. Cái nguyên nhân ấy ông Lục hãnh diện “tìm ra” như một khám phá lớn: đó là căn bệnh tâm thần. Theo Nguyễn Văn Lục nguyên nhân Nhất Linh tự tử là do bệnh tâm thần.
Dưới mắt ông Lục không có chuyện Nhất Linh chết vì phản đối chế độ nhà Ngô. Dưới mắt ông Lục tờ giấy mang 71 chữ tuyệt mệnh của Nhất Linh để lại chỉ là mảnh giấy lộn vô nghĩa. Thậm chí ông Lục còn dám xuyên tạc ý nghĩa của thông điệp đó khi ông viết: “Đời tôi để lịch sử xử. Nhưng lịch sử là ai? Ai xử? Xử như thế nào? Đã xử chưa? Và lịch sử có phải là ngày hôm nay không? Hay là câu chúc thư trên thực ra phải hiểu như sau: Đời tôi, để tôi tự xử?” (Trang 177- Nguyễn Văn Lục- Một Thời Để Nhớ).
Ông Nguyễn Văn Lục là người khôn ngoan. Ông không dại gì nói tới một người như Nhất Linh lại dựng lên một giả thuyết rất dễ bị bắt bẻ là căn bệnh tâm thần, nếu bài ông viết không có sức thuyết phục. Bài viết của ông đầy những dẫn chứng, từ sách cũng có, từ nhân chứng sống cũng có, khiến người đọc dễ dàng tin ngay những gì ông viết là xác đáng. Chính tôi là người đầu tiên bị lừa.
Câu chuyện xẩy ra như thế này:
Ba năm trước (2008) một bữa kia tôi nhận được một cú điện thoại của ông Nguyễn Văn Lục. Sau khi tự giới thiệu ông Lục cho biết là ông có số điện thoại của tôi do nhà văn Duy Lam cung cấp. Sau đó ông cho biết ông mới viết xong một bài về Nhất Linh và xin thỉnh ý tôi trước khi in. Ông cũng yêu cầu là nếu tôi thuận thì xin tôi phúc đáp ngay để kịp đăng ý kiến tôi kèm với bài ông viết đang sửa soạn cho in trên tạp chí Tân Văn.
Thái độ ấy của ông Lục khiến tôi có cảm tình ngay với ông ta và hứa sẽ hồi âm trong một thời gian thật ngắn.
Sau đó tôi tôi nhận được qua e-mail bài “Chúc Thư Văn Nghệ của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam” với lời yêu cầu: “Xin gửi anh Nguyễn Tường Thiết, để anh đọc. Nếu có điều gì sai sót anh cho tôi biết để xin sửa lại. Lục.”
Vì hứa sẽ hồi âm nhanh, nên tôi không có thì giờ kiểm chứng lại những gì ông trích dẫn. Tôi trả lời ông Lục ngay như sau:
“Nếu chỉ để ý đến khía cạnh tìm những ‘sai sót’ trong bài (như anh yêu cầu tôi) thì tôi không tìm thấy lầm lỗi nào vì bài anh viết khá công phu dựa trên những tài liệu đã công bố hoặc những nhân chứng sống”.
Sau đó tôi nêu ý kiến là tôi không đồng ý với nội dung bài viết của ông Lục.
Tôi đã trả lời ông Lục bằng bức thư lời lẽ lịch sự. Sau này đọc kỹ lại những gì ông Lục viết, nhất là sau khi đối chiếu những gì ông trích dẫn với nguyên bản, nhìn thấy rõ hơn con người ông, tôi hối hận là những lời lẽ lịch sự ấy tôi đã đặt lầm chỗ.
Chuyện ông đăng ý kiến của tôi trên Tân Văn tôi không phản đối.
Tôi chỉ phản đối ông Lục bây giờ, nghĩa là ba năm sau (2011) khi ông cho ra cuốn sách Một Thời Để Nhớ, trong chương 7 của quyển sách với bài có tiêu đề “Ý Nghĩa về Cái Chết của Nhất Linh”, ông Lục đã không hề hỏi ý kiến tôi mà tự động in trong sách những ý kiến trên của tôi viết ba năm trước.
Tôi cho rằng ông Lục đã thiếu lương thiện trong việc này. Vì sao?
Ông thiếu lương thiện vì đã cố tình lập lờ đánh lận con đen: ý kiến của tôi là ý kiến đáp lại bài “Chúc Thư Văn Nghệ của nhà văn Nhất Linh” ông Lục viết 3 năm trước (2008), chứ không phải ý kiến về bài “Ý Nghĩa về Cái Chết của Nhất Linh” ông viết 3 năm sau (2011) có nội dung khác vì bài viết đã thêm bớt rất nhiều so với bài trước.
Trong cuốn sách mới xuất bản Một Thời Để Nhớ ông Lục đã thêm vào một chuyện hoàn toàn không có thực mà bài trước không có. Đó là chuyện ông cụ tôi, nhà văn Nhất Linh, tự tử hai lần. Tôi xin minh xác đây là chuyện bịa đặt trắng trợn. Nếu trong bài viết ba năm trước ông Lục nêu lên câu chuyện này thì dù không đọc kỹ tôi sẽ nhận ra điểm sai ấy ngay, và chắc chắn sẽ không có câu tôi viết “tôi không tìm thấy lầm lỗi nào”.
Nay nếu tôi không lên tiếng thì khi đọc cuốn sách của ông Lục với những ý kiến của tôi đi kèm, độc giả (không biết chuyện ông Lục đánh lận con đen) sẽ tưởng là tôi xác nhận chuyện Nhất Linh tự tử hai lần là có thực.
Đây là lý do khiến tôi bây giờ buộc phải lên tiếng.
Từ bài viết đầu tiên ông Lục gửi tôi 3 năm trước (2008) với nhan đề “Chúc Thư Văn Nghệ của nhà văn Nhất Linh” đến bài ông viết trong cuốn sách Một Thời Để Nhớ ba năm sau (2011) với nhan đề “Ý Nghĩa về cái chết của Nhất Linh” ông Lục đã viết nhiều bài về cái chết của Nhất Linh, mỗi lần viết là ông lại sửa đổi, tùy theo phản ứng của độc giả trong những bài phản bác.
Khi ra sách ông Lục thêm vào hai “bằng cớ” mà ông Lực cho là bằng cớ hiển nhiên để chứng minh rằng Nhất Linh tự tử không phải là để chống đối chính quyền nhà Ngô như Nhất Linh đã nói trong tờ chúc thư chính trị 71 chữ. Hai “bằng cớ” ấy ông Lục dựa vào hai bài viết của Trần Văn Bảng và Lê Nguyên Phu mà ông Lục in tít lớn dưới tiêu đề: “Tìm hiểu ý nghĩa của hai lần tự tử” (Trang 188 -Nguyễn Văn Lục-Một Thời Để Nhớ) và “Bằng cớ pháp lý” (Trang 189 - Nguyễn Văn Lục-Một Thời Để Nhớ). Hai vấn đề mới mà ông Lục thêm vào năm 2011 sẽ được bàn tới ở đoạn sau.
Ông Lục chia bài Ý Nghĩa Về Cái Chết của Nhất Linh ra làm bốn chủ đề khác nhau: Cái chết định trước của Nhất Linh, Trong phạm vi văn chương, Tìm hiểu ý nghĩa của hai lần tự tử và Bằng cớ pháp lý. Tôi sẽ bàn luận về bài viết của ông Lục theo những chủ đề mà ông đưa ra.
Cái chết định trước của Nhất Linh
Trong chủ đề này ông Lục muốn nói là cái chết của Nhất Linh là do “cuộc đời Nhất Linh chồng chất những thất bại” (chữ của ông Lục dùng) và do căn bệnh tâm thần của Nhất Linh.
Theo ông Lục: “Có thể nói cuộc đời Nhất Linh lúc đó chồng chất những thất bại”. (Trang 179- Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ). Để chứng minh chuyện “chồng chất những thất bại” ông Lục đưa ra hai bằng chứng là vụ đình bản tờ báo Văn Hóa Ngày Nay và vụ Nhất Linh “mưu sát” (chữ ông Lục dùng) TT Ngô Đình Diệm. Theo ông Lục chuyện tờ báo bị đình bản là việc thất bại thứ nhất cộng thêm vụ mưu sát tổng thống không thành là thất bại thứ hai. Hai thất bại là nhiều lắm, là “chồng chất” lắm, đủ khiến ông Nhất Linh phải chết rồi!
Về vụ đình bản tờ báo Văn Hóa Ngày Nay, xin nói ngay tờ Văn Hóa Ngày Nay không phải là một thất bại, nó là một thành công! Chưa có một tờ báo nào hồi đó bán chạy và được độc giả hoan nghênh đến như thế. Nhưng trong phần I của bài viết này tôi đã nêu rõ nguyên nhân vì sao tờ báo phải tự ý đình bản sau khi ra được 11 số. Tôi không muốn nhắc lại ở đây. Cha tôi phải ngưng tờ báo vì lỗ vốn. Mà lỗ vốn vì bị chính quyền cản trở như ông Trương Bảo Sơn đã vạch rõ.
Chính ông Lục đã xác nhận nguyên nhân tờ báo tự đóng cửa vì lỗ vốn khi ông viết: “Tôi có hỏi thẳng anh Duy Lam về việc này. Anh cho biết ông Nhất Linh có tâm sự và cho biết những khó khăn về tài chánh nên phải đình bản tờ báo!” (Trang 178- Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ)
Ông Lục còn nêu lý do tờ báo tự đình bản vì vấn đề sức khỏe của Nhất Linh. Ông viết: “Tình cờ, may mắn thay, tôi tìm được một tài liệu, một mảnh giấy nhỏ kèm trong Văn Hóa Ngày Nay số 9 do một thân hữu, anh Nguyễn Thế Toàn ở Hoa Thịnh Đốn gửi cho trong đó có lá thư cáo lỗi độc giả của nhà văn Nhất Linh. Nhà văn Nhất Linh cho biết vì lý do sức khỏe, ông đã bỏ nửa chừng công việc...”.
Tôi không biết là ông Lục có lá thư của cha tôi viết ấy trong tay hay không (không thấy ông Lục chụp lại để minh chứng), nhưng giả thử có thật thì cũng không có gì lạ. Nếu không nại cớ lý do sức khỏe chẳng lẽ trong thư gửi độc giả Nhất Linh lại đi tố giác chính quyền làm khó dễ như sự thật đã xẩy ra hay sao?
Như tôi đã viết ở phần trước, vụ đình bản tờ Văn Hóa Ngày Nay là kết quả của sự xâm phạm quyền tự do ngôn luận của chế độ nhà Ngô mà cha tôi là nạn nhân trực tiếp.
Còn vụ Nhất Linh “mưu sát” TT Ngô Đình Diệm là chuyện gì đây? Ông Lục viết: “Khi hai phi công ném bom dinh TT Ngô Đình Diệm mà theo nhiều người, đã có trong tay để biết giờ giấc trong dinh. Nhưng đến phút chót một quả bom của phi công Nguyễn Văn Cử đã không nổ. Vai trò ông Nhất Linh trong vụ ném bom này như thế nào? Làm chính trị đối lập thì khác. Nhưng dính dáng vào một vụ mưu sát thì có bằng chứng rõ rệt tịch thu được trong nhà Hoàng Cơ Thụy, chính quyền nào cũng mang ra xử tội.”(Trang 179, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ)
Tôi thấy chuyện ông Lục nói rất khó hiểu. Như ông Lục kể ở đoạn trên, Nhất Linh dính líu vào vụ ném bom dinh tổng thống của phi công Nguyễn Văn Cử (xảy ra ngày 27 tháng 2 năm 1962) và bằng chứng rõ rệt tịch thu được trong nhà Hoàng Cơ Thụy. Bằng cớ gì?
Cũng trong bài viết (trang 191), ông Lục lại đưa ra một trích dẫn khác nói đến chứng cớ công an tịch thu ở nhà ông Hoàng Cơ Thụy liên quan đến vụ đảo chánh hụt 1960: “Xin trích dẫn lại ý kiến của ông Trần Kim Tuyến về vấn đề này trong sách Những huyền thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm như sau: “Theo bác sĩ Tuyến, khi còn ngồi tại chức, ông có hứa với các chính khách bị bắt sau cuộc đảo chánh hụt 1960 rằng họ được thả về là xong, không còn phải lo lắng gì nữa, ngoại trừ những trường hợp như bác sĩ Phan Quang Đán thì không kể. Nhưng có điều tai hại là hồi đó người Mỹ cũng như người trong nước cứ lầm tưởng rằng các chính khách bị bắt vì đưa ra tuyên ngôn Caravelle, mà không phân biệt rằng họ bị bắt vì có tên trong danh sách mà công an tịch thu được ở nhà ông Hoàng Cơ Thụy” (Trang 191, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ)”.
Tôi không nghe ai nói hoặc báo chí đề cập đến việc Nhất Linh dính líu vào vụ bỏ bom dinh độc lập ngày 27-2-1962 của phi công Nguyễn Văn Cử. Không có trát tòa nào đòi Nhất Linh trình diện về vụ mưu sát tổng thống cả. Tôi cũng không nghe ai nói ông Hoàng Cơ Thụy dính líu vào chuyện bỏ bom ngày 27-2-1962 mà chỉ nghe người ta nói đến ông Hoàng Cơ Thụy dính líu đến biến cố 11-11-1960.
Để tìm hiểu sự thật về vụ ném bom Dinh Độc Lập ngày 27-2-1962, tôi có gởi email hỏi ông Nguyễn Liệu hiện sống ở San Jose, CA, là người biết rõ nội vụ, thì được ông trả lời như sau:
“Nhất Linh không có dính dáng gì với vụ ném bom Dinh Độc Lập. Vụ ném bom Dinh Dộc Lập do Nguyễn Văn Lực, một lãnh tụ QDĐ người Bắc là cha của phi công Nguyễn Văn Cử. Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc là bạn. Khi thất bại Cử lái phi cơ qua Miên, ông Lực đi đường bộ trốn qua Miên đến sau vụ đảo chánh 11/63 mới về. Diệm nhốt cả hai đứa em nhỏ của Cử dù chúng chỉ là học sinh. Vụ này chỉ có hai người là cha con ông Lực, giờ chót Cử mới rủ Quốc tham gia. Sau vụ đảo chánh 11/60 thất bại Diệm tăng cường công an mật vụ theo dõi các chánh khách. Mật vụ Ngô Đình Cẩn do Dương Văn Hiếu chỉ huy vào Sài Gòn tăng cường theo dõi, do đó ông Lực không dám tổ chức rộng nên không thể nào ông Nhất Linh biết vụ này.
Tài liệu trong nhà luật sư Thụy là tin bịa đặt. Lúc ấy nếu có thì báo chí đã đăng lên và nhất là khi xử vụ đảo chánh không hề nhắc đến tài liệu này. Nếu có thì Lê Nguyên Phu đã đưa ra chưởi và làm bằng chứng để kết tội. Đó là tin Ông Lục bịa đặt...”
Tôi biết ông Lục nhớ chuyện lịch sử lắm, ông Lục không lầm đâu. Ông Lục chỉ cốt bịa ra chuyện Nhất Linh dính líu vào vụ ném bom (27-2-1962) thất bại là để gán cho Nhất Linh thất bại nhiều nhiều một chút, “chồng chất” một chút. Nếu chỉ có một vụ báo Văn Hóa Ngày Nay bị đình bản thất bại thì chả lẽ ông Lục viết “Có thể nói cuộc đời Nhất Linh lúc đó chồng chất một thất bại” à!
Tuy Nhất Linh không dính dáng vào vụ mưu sát TT Ngô Đình Diệm như ông Lục bịa đặt nhưng cứ thử giả thiết Nhất Linh có dính dáng thì đã sao? Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ phải lên đoạn đầu đài ở Yên Bái vì mưu sát Tây thực dân. Bao nhiêu người yêu chuộng tự do dân chủ hiện đang bị giam cầm ở Việt Nam đều mang tội chống phá chính phủ. Gần đây ở các nước Algeria, Libya, Egypt, Syria... nổi lên phong trào dân chúng chống phá chính phủ lật đổ các lãnh tụ độc tài. Hành động của Nhất Linh nếu ông có dính líu vào việc chống chính phủ thì có khác gì cả triệu người trên thế giới yêu chuộng tự do tranh đấu cho công bằng và lẽ phải?
Ở một đoạn khác ông Lục viết: “... tự tử mang ý nghĩa từ chối đời sống vì không tìm thấy trong đời sống một ý nghĩa gì khả dĩ để tiếp tục sống nữa. Tự tử như vậy là một lựa chọn tối hậu khi không còn có sự lựa chọn nào khác. Nhất Linh đã tự tử” (Trang 177 Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ).
Ở đây tôi thấy ông Lục hết sức sai lầm khi cho rằng nguyên nhân của tự tử là không tìm thấy trong đời sống một ý nghĩa nào khả dĩ để sống. Như vậy là ông phủ nhận tất cả những danh nhân trong lịch sử đã tự tử để bảo vệ danh dự, bao nhiêu chiến sĩ đã tự tử vì không muốn lọt vào tay địch như Phan Thanh Giản, như Hoàng Diệu, như tướng Nguyễn Khoa Nam, tướng Lê Văn Hưng... và rất nhiều vị khác mà tôi không thể liệt kê ra hết.
Những cái tự tử đó người ta gọi là tuẫn tiết. Cái chết của Nhất Linh, vừa để bảo vệ danh dự, vừa để tranh đấu cho lý tưởng, cũng là một hành động tuẫn tiết.
Nhưng ông Nhất Linh là người khôn ngoan, ông không dùng chữ tự tử để nói về cái chết của ông (có thể ông tiên đoán sẽ có người như ông Lục định nghĩa tự tử đồng nghĩa với chán đời), ông cũng không kiêu ngạo tự coi cái chết của mình là một hành động tuẫn tiết, nên trong lá thư tuyệt mệnh ông viết: “tôi tự hủy mình để cảnh cáo những người chà đạp lên mọi thứ tự do”.
Ngoài ra ông Lục còn có những lập luận rất mâu thuẫn. Để chứng minh Nhất Linh hủy mình không phải vì bất mãn với chế độ độc tài của nhà Ngô mà vì bệnh tâm thần và “thất bại chồng chất” ông Lục đã vẽ ra hai con người Nhất Linh hoàn toàn trái ngược nhau. Một mặt Nhất Linh bị bệnh tâm thần, chán đời, không thiết sống, lúc nào cũng chăm chăm đòi tự tử. Mặt khác Nhất Linh hăng hái tham gia hoạt động văn hóa báo chí, tham gia hoạt động chống chính phủ, tham gia cả việc bỏ bom “mưu sát” tổng thống!
Có thể nào một người bị bệnh tâm thần thấy cuộc đời không đáng sống lại tham gia vào những hoạt động đòi hỏi rất nhiều khả năng cũng như năng lực như thế?
Bàn đến chuyện bệnh tâm thần của Nhất Linh, ông Lục viết : “Thất bại của ông thì nhiều, trải dài trong suốt cuộc đời làm chính trị khiến ông bị căn bệnh trầm uất triền miên. Depressive psychosis với ba giai đoạn phát triển tuần tự của bệnh từ Suicidal ideation, suicidal planning và cuối cùng suicidal attempt. Từ ý tưởng sang kế hoạch và sau cùng là thi hành.”
“Bệnh tâm thần của Nhất Linh là có thật. Nhưng ít ai trực tiếp nói thẳng ra. Không muốn nói ra và còn muốn giấu giếm.” (Trang 179, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ)”.
Trong đoạn này ông Lục nói rất vu vơ! Ông nói bệnh tâm thần của Nhất Linh có thật nhưng ít ai nói ra, không biết ông muốn nói “ai” là “ai” hay ông muốn ám chỉ gia đình tôi và bạn bè của Nhất Linh, chúng tôi, những người chung quanh Nhất Linh? Chúng tôi “ai” cũng biết là Nhất Linh không bị bệnh tâm thần qua cuộc đời 40 năm hoạt động văn học và chính trị của ông. Nếu chúng tôi biết Nhất Linh không có bệnh tâm thần mà chúng tôi cứ nói ra là Nhất Linh bị bệnh tâm thần hóa ra đầu óc chúng tôi có vấn đề à?
Một trích dẫn khác của ông Lục dùng để nói về bệnh trạng của Nhất Linh: “Ngay từ khi còn làm báo Phong Hóa, Tú Mỡ đã ghi nhận như sau: tâm thần bị giao động nhiều, gần như bệnh. Cần phải đi dưỡng bệnh. Đó là những dấu hiệu có tính cách tiên báo trước”. (Trang 180, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ).
Nếu ông Lục cho rằng “tâm thần bị giao động” là dấu hiệu báo trước của bệnh tâm thần thì có lẽ “ho” là dấu hiệu báo trước của bệnh ho lao, và “khó thở” là dấu hiệu báo trước của bệnh ung thư phổi! Định bệnh như thế thì ai cũng bệnh hoạn hết!
Cái tiền đề “Nhất Linh, một cái chết định sẵn” mà ông Lục nêu ra nay tôi xin đổi ra là “Nguyễn Văn Lục, một ý nghĩ định sẵn” vì tôi thấy đúng hơn!
Ông Lục có sẵn định kiến trước khi viết. Định kiến ấy bất di bất dịch: “Nhất Linh bị bệnh tâm thần. Nhất Linh tự tử vì bệnh tâm thần”. Vì định kiến ấy mà ông chỉ nhìn thấy một khoảng rất hẹp, như con ngựa bị bịt hai mắt chỉ thấy phần nhỏ trước mặt.
Ông đọc tất cả các tài liệu mà ông trích dẫn qua con mắt của con ngựa ấy: chỉ nhìn thấy trong khoảng nhỏ những gì có lợi minh chứng định kiến của ông, và cố tình không nhìn thấy một khoảng mênh mông của sự thật nằm ngoài tầm con mắt của con ngựa vì chúng bất lợi cho lập luận của mình.
Ông Lục thừa biết cái lối nghiên cứu quái đản ấy qua bài “Ý Nghĩa Cái Chết của Nhất Linh” là thiếu đứng đắn nhưng ông vẫn làm. Động cơ nào đã khiến ông làm như vậy, tôi thật sự không hiểu và xin nhường nghi vấn này cho độc giả.
Trong phạm vi văn chương
Trong chủ đề này ông Lục trích dẫn những đoạn văn của Nhất Linh hoặc của những người khác viết về Nhất Linh để chứng minh là Nhất Linh có bệnh tâm thần và có ý định tự tử.
Trang 18 (Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ) - ông Lục viết: “Ám ảnh về cái chết, về sự tự hủy như một cứu cánh đời sống, ám ảnh ông, bàng bạc trong các tác phẩm của ông, rõ rệt nhất là trong truyện Bướm Trắng.”
Ý ông Lục muốn nói là cha tôi đã manh nha ý định tự tử từ năm 1939, khi cha tôi viết cuốn tiểu thuyết Bướm Trắng này. Đây là cuốn tiểu thuyết mà cha tôi ưng ý nhất vì giá trị nghệ thuật của nó. Tác phẩm mô tả nhân vật Trương mắc bệnh nan y không muốn sống kéo dài cuộc đời nên thường nghĩ đến chuyện quyên sinh.
Ông Lục dẫn chứng đoạn văn sau này trong truyện: “Cách tốt nhất là nhồi một viên đạn nhỏ vào trong sọ. Tạch một cái thế là hết. Ngọt như mía lùi. Lý luận thêm: Hèn nhát thì không bao giờ tự tử được, mà có can đảm như trời cũng không thể tự tử được. Tự tử được hay không là ở cảnh chứ không phải ở người” (Trang 180 Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ) rồi kết luận (ngon ơ!) như sau: “những ám ảnh về tự tử trong truyện có thể dẫn đường cho việc giải thích việc tự tử của ông sau này vào năm 1963 hay không?” (Trang 181, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ).
Rồi ông lại còn viết thêm là: “Chính vì thế ông đã không muốn con cái trong nhà đọc Bướm Trắng khi còn nhỏ” (Trang 181, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ). Trời đất ơi! Ông đã diễn dịch quá xa lời tôi viết trong cuốn Nhất Linh Cha Tôi. Trong sách ấy trang 17 tôi viết: “Có một cuốn tiểu thuyết mà Nhất Linh cấm không cho chúng tôi đọc là cuốn Bướm Trắng, ông nói là chúng tôi chưa đủ lớn để hiểu được cuốn truyện này”.
Bướm Trắng là cuốn sách phân tách tâm lý rất sâu sắc, người lớn đọc chưa chắc đã hiểu, huống hồ chúng tôi hồi đó còn con nít, chỉ đáng đọc loại Sách Hồng (sách dành cho thiếu nhi) thôi. Ông cụ cấm là vì thế. Vậy mà qua con mắt của ông Lục suy diễn thì ông cụ cấm vì sợ mấy đứa con nít chúng tôi đọc xong Bướm Trắng sẽ ảnh hưởng mà “chính vì thế”sẽ lăn ra tự tử hết ráo!
Mà trong truyện Bướm Trắng đâu phải nhân vật Trương có ý nghĩ tự tử không thôi đâu, nhân vật này còn tuyệt vọng, đi thụt két, ăn cắp tiền của sở làm, để tiêu một chuyến đã đời trước khi chết... Không biết ông Lục có suy diễn là từ khi cha tôi viết Bướm Trắng trong đầu óc cha tôi đã manh nha ý định thụt két ăn cắp tiền của thiên hạ?
Ngoài ra Nhất Linh còn viết bao nhiêu các tác phẩm khác về tình yêu, sao ông không nói Nhất Linh bị ám ảnh bởi tình yêu? Hơn nữa tình yêu, thân phận con người và cái chết là những chủ đề lớn mà tất cả những nhà văn trên thế giới đều đề cập tới. Nếu ông Lục dùng chuyện Nhất Linh viết về một người muốn chết, muốn tự tử rồi ông kết luận là tác giả Nhất Linh muốn chết thì ông Lục có thể tìm ra đầy rẫy những nhà văn muốn chết, muốn tự tử, trên khắp thế giới!
Chẳng qua là vì cái định kiến bám chặt vào đầu để chứng minh cho lập luận “Nhất Linh muốn tự tử” ông Lục chỉ chăm chăm đi tìm để chỉ nhìn thấy hai chữ “tự tử” trong truyện của Nhất Linh mà thôi.
Cũng nằm trong phần chủ đề “Trong phạm vi văn chương” ông Lục còn trích một đoạn văn của tôi trong cuốn hồi ký Nhất Linh Cha Tôi (trang 19) như sau:
“Nhất Linh thường viết trong đêm khuya khoắt. Những khi giật mình thức giấc nửa đêm tôi thường thấy qua khe cửa, đèn trong phòng ông còn bật sáng. Có đêm lũ chúng tôi lòm còm bò dậy vì có tiếng khóc trong phòng cha tôi. Tiếng khóc lúc đầu còn nhỏ sau lớn dần không kìm hãm được. Lũ chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau... Không ai có thể đoán biết được ông khóc cái gì, ngay cả mẹ tôi cũng không thể nào biết được. Nhưng sự khám phá này đã gieo vào tuổi thơ tôi một ấn tượng mạnh mẽ, rằng cha tôi là một người cô đơn và đau khổ. Ngoài ra những giấc mơ kỳ lạ và kinh hãi cũng được tôi hình dung thấy qua giấc ngủ của ông, qua cách ông trằn trọc ú ớ trong đêm.”
Ở giữa đoạn văn nói trên tôi viết câu này, nhưng ông Lục không trích đăng: “Một người anh họ lớn tuổi hơn ra dáng hiểu biết, giải thích: “Chú Tam khóc vì chú nhớ chú Long đấy!”.
Trước nhất tôi tố cáo ông Lục đã dùng tiểu xảo cắt xén để làm sai lạc ý nghĩa bản văn nguyên thủy của tôi.
Thứ hai, một vài người trong gia đình lưu ý tôi tại sao tôi lại viết ra điều đó để cho những người như Nguyễn Văn Lục khai thác vin vào đó gán ghép ông cụ tôi mắc bệnh tâm thần? Xin thưa: tôi viết ra bởi vì tôi hãnh diện có một người cha biết khóc!
Nếu tôi phải dùng một câu gọn nhất để mô tả toàn diện con người Nhất Linh bao gồm trí tuệ lẫn nhân cách tôi sẽ không ngần ngại viết câu này: “Nhất Linh là một trong những người Việt Nam trí thức nhân bản nhất của thế kỷ 20.”
Tiếng khóc là biểu lộ khía cạnh nhân bản của con người ông. Bản chất của ông cụ tôi là bản chất một nghệ sĩ. Ông là người có cái tâm yêu nước, thương nòi. Nhất Linh lại là người đã thực sự dấn thân, dám sống ngược lại với bản chất của mình. Và đó là sự can đảm của ông.
Trên con đường dấn thân vừa chống Pháp vừa chống Cộng Sản ông cụ tôi đã mất đi nhiều người thân, nhiều đồng chí. Trong số có Hoàng Đạo người em ruột, cũng là cánh tay phải của ông. Mất Hoàng Đạo ông không những mất người em thân thiết mà còn mất đi hy vọng về một lý tưởng ông đang theo đuổi. Ông phải khóc thôi. Chuyện đó quá bình thường!
Không những thế ngoài Hoàng Đạo, bao nhiêu những người thân khác của ông bị sát hại bởi bàn tay của Cộng Sản: người anh ruột Nguyễn Tường Cẩm, người bạn văn Khái Hưng, họa sĩ Lemur Nguyễn Cát Tường... Ông phải khóc thôi. Nếu ông không khóc mới là chuyện bất bình thường.
Thế mà qua tiếng khóc đó ông Lục đã vội vã kết luận: “Những tiếng khóc về đêm khuya khoắt là dấu hiệu một tình trạng bệnh trầm cảm, cô đơn và tuyệt vọng” (Trang 185, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ).
Rồi ông Lục còn đi xa hơn thế khi viết: “Đọc tiếp những trang hồi ký của Nguyễn Tường Thiết thật cũng không cầm nổi xúc động. Nhưng cũng cho thấy rằng Nhất Linh đã chuẩn bị cái chết của mình một cách chu đáo, từng chi tiết một” (Trang 185, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ).
Kết luận của ông Lục lạ lùng quá! May mà tôi không kể ra là sau khi cha tôi mất, mẹ tôi và chúng tôi đã khóc không biết bao nhiêu ngày tháng vì cái chết đau buồn của cha tôi. Nếu không thì ông Lục đã cho rằng gia đình chúng tôi đều mang tâm bệnh trầm cảm, cô đơn và tuyệt vọng rồi!
Không biết ông Lục nghĩ gì khi đọc những lời sau đây về tiếng khóc âm thầm của người em khi ở nơi đất lạ quê người hay tin người anh chết: “Mãi tới năm 1963, tôi đột nhiên nghe tin anh từ bỏ cuộc đời. Âm dương đôi ngả. Vĩnh biệt người anh mà tôi hằng yêu quí. Những đêm khuya vắng, tại nơi quê người, tôi đã hằng khóc - khóc người anh thân yêu, một người đi tiền phong cho làng văn Việt Nam, một nhà văn lỗi lạc, một người lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong những lúc khó khăn gian khổ nhất, một người không màng danh lợi, chỉ biết mình có gì để cống hiến cho đồng bào cho đất nước” (Nguyễn Tường Bách, trang 66, Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ-Người Chiến Sĩ).
Tiếng khóc này có khác gì tiếng khóc của cha tôi trước cái chết của người em Hoàng Đạo? Không hiểu ông Lục có vin vào cái tiếng khóc này để gán ghép cho chú tôi, ông Nguyễn Tường Bách mắc bệnh tâm thần, lúc nào cũng chăm chăm đòi tự tử, như ông đã vu cáo cho cha tôi? Nếu sự suy luận về tiếng khóc là nguyên nhân của bệnh tâm thần để đưa đến chuyện tự tử của ông Lục là đúng thì nhân loại đã tự tử chết hết rồi.
Vẫn dùng cái tiểu xảo cắt xén văn người khác ông Lục trích dẫn một đoạn trong cuốn hồi ký Người Bác của Thế Uyên:
“Thỉnh thoảng ông lên cơn loạn trí, đứng trước nhà đường Lý Thái Tổ, móc giấy tờ trong ví đưa cho mọi người, miệng nói lảm nhảm: ‘Lấy hết đi, xin các ông lấy hết đi. Đừng áp chế tôi’. Tội nghiệp các người thân hết sức lo lắng. Chỉ riêng mẹ tôi sau lần chứng kiến cơn loạn thần kinh về nói riêng với tôi: “Bác điên khôn ghê, chỉ thấy bác vứt giấy tờ lẩm cẩm, chẳng thấy bác vứt tiền cho mẹ con mình tiêu.” (Trang 188 Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ).
Nhưng ông Lục lại không trích dẫn câu này Thế Uyên viết ngay sau đó: “Nhận xét bí mật này của mẹ tôi làm hai anh em nghi ngờ “sự loạn trí của Nhất Linh”. Nhất là tôi, vì được mẹ tôi kể lại những thủ đoạn chống Pháp của ông thời trước: hóa trang làm ăn mày, ông già, người say rượu, mê thổi kèn để che giấu hoạt động cách mạng. Hoàng Đạo còn bị bắt giam, chứ Nhất Linh, suốt đời không bao giờ để bị bắt.”
Đoạn văn của Thế Uyên viết (mà ông Lục không trích dẫn) nói về vụ cha tôi đã từng đóng kịch để che mắt mật vụ là chuyện có thật. Trong cuốn sách Chân Dung Nhất Linh trang 135, tác giả Nhật Thịnh viết: “Tiểu thuyết Bướm Trắng của Nhất Linh in xong, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí bị bắt ở Vụ Bản (Hòa Bình). Nhất Linh học chơi hắc tiêu (Clarinette) để che mắt bọn mật thám Pháp. Ông làm nhạc công cho ban nhạc tài tử (Orchestre Amateur) của giáo sư Lê Ngọc Quỳnh và các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Vũ Khánh”.
Như vậy là rõ ràng là ông Lục trích dẫn mà như không trích dẫn. Ông đã cố tình xuyên tạc ý nghĩa thực của bản văn nguyên thủy mà ông trích dẫn. Từ việc bóp méo văn bản của người khác, ông Lục đã bóp méo sự thật. Từ việc bóp méo sự thật, ông Lục đã bóp méo lịch sử!
“Đừng tin những gì ông Lục viết, hãy nhìn kỹ những gì ông Lục làm!” Tôi xin nhại một câu nói thời danh của ông Nguyễn Văn Thiệu để nói về bài viết của ông Lục.
Cái “làm” của ông Lục là cái làm tiểu xảo trích dẫn văn người khác, làm sai lệch ý nghĩa của bản văn nguyên thủy, bằng cách chỉ trích ra những chữ hoặc những đoạn văn có lợi cho lập luận của ông: lập luận ấy là ông Nhất Linh mắc bệnh tâm thần, lúc nào cũng chỉ lăm le muốn tự tử!
Tìm hiểu ý nghĩa của hai lần tự tử
Như tôi đã nói ở trên, trong cuốn sách mới xuất bản Một Thời Để Nhớ ông Lục đã thêm vào một chuyện hoàn toàn không có thực mà bài trước (2008) không có. Đó là chuyện ông cụ tôi, nhà văn Nhất Linh, tự tử hai lần. Tôi xin minh xác đây là chuyện bịa đặt trắng trợn.
Đây là chuyện mà ông Lục viết ra để bàn luận về hai lần tự tử của Nhất Linh:
“Cũng theo bác sĩ (Nguyễn Hữu) Phiếm, Nhất Linh cũng đã uống thuốc ngủ tự tử khi ông trốn ở đường Lê Thánh Tôn. Chính bác sĩ Phiếm chữa chạy, rửa dạ dầy, chích thuốc Strychnine. Số lượng thuốc ngủ hồi ấy vì ít, nên ông bình phục ngay và vài hôm sau ông lại đi họp Hội Bút Việt.” (Trang 188 Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ).
Sao lạ vậy? Chuyện động trời như thế mà sao tôi không biết, bà cụ tôi không biết, anh em tôi không biết. Bác sĩ Phiếm là người bạn thân nhất của ông cụ tôi, nếu quả có vụ đó thì bác phải thông báo cho mẹ tôi hay biết chứ?
Thêm nữa câu chuyện ông Lục kể có vẻ mâu thuẫn: Vài ngày trước Nhất Linh đi trốn công an mật vụ ở đường Lê Thánh Tôn rồi không thiết sống, uống thuốc độc tự tử, nhưng vài ngày sau lại bình thường, không trốn nữa, đi họp Hội Bút Việt. Thế là sao?
Khi viết đoạn trên ông Nguyễn Văn Lục đã mập mờ không nói rõ cái nguồn của tin này, cố tình để độc giả hiểu như thể chính bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm là người đã trực tiếp nói hoặc viết ra điều đó.
Thật ra thì không phải bác sĩ Phiếm nói như vậy. Ông Nguyễn Văn Lục đã trích đoạn trên từ bài viết “Bệnh Tật và cái chết của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam” của ông Trần Văn Bảng (trong sách ông Lục viết sai là Trần Văn Bang). Ông Bảng viết, nguyên văn như sau:
“Mấy tháng trước, cũng theo bác sĩ (Nguyễn Hữu) Phiếm, Nhất Linh cũng đã uống thuốc ngủ tự tử khi ông trốn ở đường Lê Thánh Tôn. Chính bác sĩ Phiếm chữa chạy, rửa dạ dầy, chích thuốc Strychnine. Số lượng thuốc ngủ hồi ấy vì ít, nên ông bình phục ngay và vài hôm sau ông lại đi họp Hội Bút Việt.”
So sánh đoạn ông Lục trích dẫn với nguyên bản thì thấy ông Lục đã cố ý bỏ đi ba chữ hết sức quan trọng, đó là ba chữ “Mấy tháng trước”. Ý của ông Bảng muốn nói là “Mấy tháng trước ngày 7-7-1963”. Tại sao ông Lục lại bỏ ba chữ này đi? Vì ông Lục thừa biết rằng mấy tháng trước ngày 7-7-1963 ông cụ tôi ở nhà, không đi trốn, có nghĩa là câu chuyện do ông Bảng thuật lại là hoàn toàn bịa đặt. Như tôi đã viết trong bài Tâm Tình của Một Người Con đăng trong sách “Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ-Người Chiến Sĩ” trang 251: “...Và cũng có thể vì mặc cảm (bỏ bê gia đình) đó mà cuối đời, sau thời gian trốn tránh (cuối 1960-đầu 1961) lần đầu tiên ông sống hẳn với gia đình, mặc dù trong điều kiện sống vô cùng chật vật, trong một căn gác rất nhỏ ở chợ An Đông cho đến mãi tận ngày ông qua đời”.
Gần đây vì muốn kiểm chứng lại chuyện bác sĩ Phiếm rửa ruột cho cha tôi mà ông Lục nêu lên trong bài, tôi có e-mail hỏi chị Bạch Tuyết, con gái bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm, thì được chị trả lời như sau:
Re: Chuyện bác Phiếm đi rửa ruột cho Nhất Linh
Friday, December 2, 2011 8:41 PM
From:
"Bachtuyet
To:
Chú Thiết thân mến,
Gió nào đưa đến, lâu lắm mới được tin Thiết mà chú lại đặt những câu hỏi lạ lùng quá vậy ? Hai gia đình và nhất là cha mẹ chúng ta thân nhau như thể ruột thịt, chuyện gì mà không biết, nói chi chuyện bác tự tử, bơm ruột v.v Không hiểu ở đâu lại có chuyện hoang đường như vậy. Chị không bao giờ nghe và biết là bác ở Lê Thánh Tôn, một thời ngắn trước ngày song Thất 1963. Chị chỉ biết điạ chỉ duy nhất của hai bác và gia đình là chợ An Đông, trên lầu của nhà hàng cơm gà Xiu Xiu. Bác dọn về đó thời gian nào thì chắc Thiết nhớ nhưng chị quả quyết ngày 19 March 1962, ngày chị sanh cháu gái đầu lòng ở Bệnh Viện Saint Paul, thì tình cờ bác lại chơi với bố chị và hai ông cùng đưa chị vào nhà thương. Như vậy là trước song Thất 1963 cả hơn một năm, gia đình ở An Đông.
Chuyện rửa ruột ở Lê Thánh Tôn là một chuyện hoàn toàn bịa đặt. Gia đình Thiết không biết, gia đình chị cũng không hề nghe tới. Lại nữa, vì lương tâm chức nghiệp, một thầy thuốc không bao giờ tiết lộ với một người thứ hai về tình trạng bệnh lý của một bệnh nhân. Chị chắc chắn ông Bố chị không bao giờ vi phạm đạo lý này cũng như chuyện tự tử hụt, rửa ruột tại Lê Thánh Tôn hoàn toàn không có.
Bố chị quen B.S. Trần văn Bảng (chứ không phải Bang) có lẽ từ hồi còn ở Bắc vì ông cũng tốt nghiệp trường thuốc ở Hànội. Có một thời gian, hai ông cùng làm chung tại Viện Pasteur, Saigon. Bố chị chuyên về bệnh ngoài da và ông Bảng thì bệnh cùi. Quen nhưng không thể gọi là thân vì chưa bao giờ ông cụ mời ông Bảng lại nhà ăn cơm như những bạn thân khác. Ông Bảng rất thích làm thơ nhưng thơ loại bình dân, châm biếm, ngông nghênh và tính tình hơi khác người.
Để chứng minh về cái 'hơi khác người' này và có liên quan đến gia đình chị là năm 1975, Bố Mẹ chị di tản sang Pháp. Bỗng một ngày nào đó, ông Bảng làm một bài thơ bịa ra cảnh Bố chị đặt chân đến Pháp bi thảm ra sao vì con trai có vợ đầm, theo CS... Một chuyện bịa đặt trắng trợn làm cho ông bà già chị rất bực mình. Cách đây khoảng 3 năm, chị lại được đọc bài thơ đó trong một Tập san tết của nhóm Y Sĩ VN. Đã tính viết cho ông chủ trương tờ đặc san phản đối nhưng nghĩ sao lại bỏ qua. Nói thế để hiểu thêm được cái tính thích xuyên tạc của ông bác sĩ này.
Mong là chị đã trả lời những thắc mắc của chú. Nếu moi móc cái 'memory' cùn này mà còn nhớ thêm chi tiết gì khác, thế nào cũng liên lạc với Thiết.
Chúc vui,
BT
-----Original Message-----
From: TuongThiet Nguyen
To: bachtuyet
Cc: nguyenlechi
Sent: Thu, Dec 1, 2011 7:03 pm
Subject: Chuyện bác Phiếm đi rửa ruột cho Nhất Linh

Như vậy là chuyện đã rõ. Không hề có chuyện Nhất Linh tự tử hai lần. Chuyện này hoàn toàn do ông Trần Văn Bảng bịa đặt. Đọc kỹ bài “Bệnh tật và cái chết của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam” tôi càng ngạc nhiên khi ông Trần Văn Bảng viết “Để tìm hiểu bệnh trạng và cái chết của Nhất Linh chúng tôi đã tiếp xúc với gia đình Nhất Linh: bà Nguyễn Tường Tam, con trai út của ông là Nguyễn Tường Thiết”. Lại là một chuyện bịa đặt trắng trợn nữa: ông Bảng không bao giờ đến nhà chúng tôi cả. Tôi không hề biết ông Bảng là ai, chưa bao giờ nghe tên ông ấy cho tới bây giờ khi đọc bài của ông Bảng trên Talawas và tiểu sử ông Bảng do chính ông viết trong tập thơ của ông: “Giáo Sư Trần Văn Bảng, bút hiệu Bằng Vân, Lưu Văn Vong, Sĩ Ngông (Trang 5, Bằng Vân Trần Văn Bảng, Thư mục y giới văn thi nghệ sĩ)”.
Trong chủ đề “Tìm hiểu ý nghĩa của hai lần tự tử” (Trang 188-189, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ), ông Lục bàn luận về chuyện Nhất Linh tự tử hai lần dựa theo chuyện bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm đi rửa ruột cho Nhất Linh, một câu chuyện bịa đặt bởi ông Trần Văn Bảng. Mặc dù biết đây là chuyện bịa đặt, ông Lục vẫn dùng để chứng minh chuyện Nhất Linh tự tử hai lần là có thật. Điều này chứng tỏ là ông không có ý định đi tìm lại hay nhìn lại “ý nghĩa về cái chết của Nhất Linh” như ông đã đặt ra cho tựa đề của chương sách này. Mục đích của ông là ông cần phải gán cho Nhất Linh căn bệnh tâm thần. Bằng mọi giá, mọi cách ông phải chứng minh cho cái lập luận ấy của ông. Bằng chứng thật hay bằng chứng giả không quan trọng miễn là ông đạt được mục tiêu của ông.
Trang 189 cuốn sách Một Thời Để Nhớ, ông Lục viết: “Hầu hết những người phản bác lại nội dung bài viết này không một ai lên tiếng trả lời câu hỏi cắc cớ ý nghĩa hai lần tự tử của Nhất Linh”.
Ông Lục biết thừa tại sao không ai lên tiếng trả lời câu hỏi cắc cớ của ông: một là những bài phản bác người ta viết cách đây ba năm (2008), lúc đó câu chuyện bịa đặt Nhất Linh tự tử hai lần chưa được đưa ra trong bài ông viết (2008); hai là ông Lục đưa ra chuyện Nhất Linh tự tử hai lần (bài ông viết sau 2008) ông cố tình đưa ra chuyện bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm đi rửa ruột cho Nhất Linh như một chuyện có thật cho nên người ta không phản bác.
Bằng cớ pháp lý
Trong chủ đề “bằng cớ pháp lý” ông Lục trích dẫn sách của ông Lê Nguyên Phu để đưa ra lập luận rằng Nhất Linh tự tử vì tránh không muốn ra Tòa đối chất với những người anh em đồng chí của mình trước tòa án. Tôi sẽ trình bầy trong phần sau đây để phản bác lập luận ấy của hai ông Nguyễn Văn Lục và Lê Nguyên Phu.
Bàn luận về “Bằng cớ pháp lý”, ông Lục viết: “…Chứng cứ pháp lý này mở đường cho những chỉ dẫn có thể hiểu được vì lý do gì Nhất Linh đã tự tử và để lại chúc thư cho lịch sử…” (Trang 175, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ)
Theo ông Lục những chứng cớ pháp lý sẽ giải thích lý do vì sao Nhất Linh tự tử. Sau đây là những điều tôi tìm thấy trong dẫn chứng pháp lý của ông Lục.
Những bằng cớ pháp lý mà ông Lục đưa ra phần lớn ông trích dẫn trong sách của ông Lê Nguyên Phu (Trung Tá Lê Nguyên Phu, Ủy Viên Chánh phủ chính quyền Ngô Đình Diệm, Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt).
Tôi chưa bao giờ nghe nói hoặc nhìn thấy cuốn sách viết bởi ông Lê Nguyên Phu. Khi trích dẫn sách của ông Lê Nguyên Phu, ông Lục không viết tên sách và trang sách, ông chỉ ghi chú như sau: “Trích tóm lược nội dung cuốn sách của ông Lê Nguyên Phu” hoặc “Tóm tắt Lê Nguyên Phu” hoặc “Tóm tắt chứng từ Lê Nguyên Phu”.
Vài trích dẫn của ông Lục nói về con người của ông Lê Nguyên Phu như sau:
“Những người đã ngấm ngầm giúp các chính khách là Trung Tá Lê Nguyên Phu, Ủy viên chính phủ trong tòa án quân sự đặc biệt. Ông Lê Nguyên Phu đồng ý và hứa với ông Tuyến sẽ ngầm giúp các chính khách bằng cách tha bổng hay xử những bản án rất nhẹ…”
“…Tuy nhiên, với tư thế là Ủy viên chính phủ, ông Lê Nguyên Phu đã đóng kịch trước tòa án, có vẻ gắt gao và mạt sát bị cáo. Cho nên có một số người bị chạm tự ái, và để tâm thù, sau này còn mạ lỵ ông thậm tệ. {Trích Những huyền thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm, Vĩnh Phúc, trang 320-323} (Trang 192, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ).”
Chuyện ông Lê Nguyên Phu “ngấm ngầm” giúp các chính khách tôi chưa nghe ai nói, nhưng chuyện ông Lê Nguyên Phu “đóng kịch” trước tòa án, “có vẻ” gắt gao và mạt sát bị cáo thì, ông Nguyễn Liệu, có tả rất rõ như sau: “…Tôi phải nhắc lại điểm về con người của Lê Nguyên Phu khi làm Trung tá ủy viên chánh phủ xử vụ đảo chánh năm 1960 của toàn án quân sự đặc biệt Sài gòn, mà tôi là một bị cáo, Lê Nguyên Phu là Trung tá quân pháp…” “…tiếp sau đó vị Trung tá ủy viên chánh phủ lớn tiếng phùng mang trợn mắt lên giọng chưởi bới bọn phản loạn bọn bán nước bọn làm tay sai tiếp tay cho cộng sản. (Bài viết - “Ông Nguyễn Văn Lục nên viết lại bài - Ý nghĩa cái chết của Nhất Linh - Nguyễn Liệu)”. Như tôi đã viết trong phần I của bài này ông Nguyễn Liệu bị kết án 5 năm tù vì tội tham gia vào cuộc đảo chánh 11-11-1960 và ông hiện đang sống tại San Jose, CA.
Như thế là cách cư sử “gắt gao và mạt sát” các bị cáo của ông LN Phu trong phần trích dẫn của ông Lục là chuyện có thật và đã được mô tả kỹ lưỡng bởi ông Nguyễn Liệu. Tôi sẽ nói thêm về dẫn chứng rất quan trọng này của ông Lục vào một lúc khác.
Theo dẫn chứng của ông Lục, ông Lê Nguyên Phu vì tư thế của một Ủy viên chính phủ đã phải “đóng kịch” trước tòa án, làm ra vẻ “gắt gao và mạt sát” những bị cáo. Nếu ông Lê Nguyên Phu là người đại diện chính phủ xử tội các bị cáo thì ông cứ phán xét tội phạm của họ rồi kết án, việc gì mà ông phải “đóng kịch” như ông đã làm. Ông Lê Nguyên Phu phải “đóng kịch” có nghĩa là ông không muốn làm nhưng ông bị buộc phải làm. Như thế là ông Lê Nguyên Phu ý thức rằng hành động “gắt gao và mạt sát” bị cáo là việc làm sai, tồi tệ. Tại sao ông Lê Nguyên Phu lại phải “gắt gao và mạt sát” các bị cáo trước quan tòa nếu không nhằm mục đích nhục mạ bị cáo trước tòa án? Ông Lê Nguyên Phu là người đại diện chính quyền để thi hành chính sách hoặc đường lối mà chính quyền đặt ra và giao phó cho ông. Như thế sự nhục mạ các bị cáo trước tòa án là chính sách của chính quyền mà ông Lê Nguyên Phu chỉ là người thừa hành. Tôi sẽ bàn luận thêm chuyện này ở phần sau.
Tôi không được đọc sách của ông Lê Nguyên Phu viết. Tôi không biết tên sách là gì. Tôi không biết ông có viết không? Không biết ông viết gì và với mục đích gì? Tuy nhiên những gì ông Lục trích dẫn trong sách ông Lê Nguyên Phu đưa ra để giải thích về chuyện Nhất Linh tự tử là những chuyện không đúng sự thật.
Trích dẫn thứ nhất - ông Lục: “Tôi viết thư mời Nguyễn Tường Tam (chứ không phải ra trát đòi) đến gặp tôi tại tòa án quân sự đặc biệt”... “Đối với ông, tôi không cho tống đạt trát đòi hầu tòa”.(Trang 193, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ)”. Đây là một điểm sai hoàn toàn. Nhất Linh nhận được trát tòa đề ngày 5-7-1963 của Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt đòi Nhất Linh ra tòa trình diện. Có tên, con dấu, và chữ ký của ông Lê Nguyên Phu. Nếu cái chuyện có chứng cớ rành rành như cái trát tòa mà ông Lê Nguyên Phu còn quên và nói khác đi thì không biết chuyện gì ông nhớ đúng?
Ngoài ra để nói về vụ binh biến 1960, ông Lê Nguyên Phu đã viết sai là “vụ binh biến 11/11/1963” (trang 193). Nếu Ông Lê Nguyên Phu cứ nhớ sai chuyện này, viết sai chuyện kia thì làm sao ông ấy có thể nhớ đúng lời khai của bị cáo Nguyễn Tường Tam và các bị cáo khác?
Thêm một điều nữa: ông Phu viết lịch sử mà viết sai bét, rồi ông Lục lại dựa vào cái lịch sử sai bét ấy của ông Phu để chứng minh chuyện nọ chuyện kia. Như thế mà ông Lục cho là ông công bằng đối với lịch sử à? Cái công bằng đó ở đâu khi ông viết: “ …muốn nhìn lại ý nghĩa cái chết của Nhất Linh với một cái nhìn trung thực tối đa, sự công bình đối với riêng ông Nhất Linh và nhất là đối với Lịch sử.” (Trang 175, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ)
Trích dẫn thứ hai - ông Lục:
Các thuộc hạ của Nguyễn Tường Tam đều bị đại tá Lê Văn Khoa tống giam, chỉ một mình Nguyễn Tường Tam được tại ngoại hầu tra. Do đó các thuộc hạ của ông đều tỏ ra bất bình và bất mãn với ông, nhất là Trương Bảo Sơn vừa cay đắng vừa oán hận, chỉ trích Nguyễn Tường Tam đủ điều, nào là phản bội anh em, nào là thiếu tư cách lãnh đạo {Tóm tắt Lê Nguyên Phu} (Trang 190, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ)”.
Trích dẫn thứ ba - ông Lục:
Tiếp theo nội dung sách của ông Lê Nguyên Phu: “Lá thư của ông Trương Bảo Sơn tố cáo Nhất Linh được Giám Đốc khám đường Chí Hòa đệ trình tòa Đặc biệt và được lưu giữ lại trong hồ sơ. Tôi đến thay đại tá Lê Văn Khoa, tôi lưu giữ lá thư trong hồ sơ mà không cho chuyển đi chỉ vì thiện ý” (Trang 192, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ)”.
Nếu ông Lê Nguyên Phu là người nhớ sai những chuyện đơn giản thì làm sao ông có thể nhớ đến lá thư của ông Trương Bảo Sơn tố cáo Nhất Linh. Những điều ông Phu viết ra ở trên chỉ nhằm mục đích chia rẽ, mạ lỵ, sỉ nhục Nhất Linh và những người đã cùng sát cánh hoạt động với Nhất Linh.
Không biết là ông Lê Nguyên Phu nhớ sai hay vì ông không “thiện ý” khi ông kể ra rằng các “thuộc hạ” của Nhất Linh đều tỏ ra bất bình và bất mãn với Nhất Linh, nhất là Trương Bảo Sơn vừa cay đắng vừa oán hận Nhất Linh.
Theo ông Trương Bảo Sơn kể lại thì những người hoạt động với cha tôi đã có một thái độ rất khác khi nghe tin Nhất Linh mất. Ngày các bị cáo phải ra tòa lãnh án tù, ông Phan Khắc Sửu và những bị cáo khác đã xin phép tòa cho họ được mặc niệm Nhất Linh. Đây là một hành động đầy can đảm. Gia đình chúng tôi luôn luôn thán phục hành động can đảm này và biết ơn lòng quý trọng của họ đối với cha tôi. Trong lúc mặc niệm họ đã quên đi số phận sắp sửa bị ông LN Phu và chính quyền nhà Ngô mang ra xét xử, kết án tù đày. Riêng ông Trương Bảo Sơn, một đồng chí và cũng là người bạn rất thân của Nhất Linh, đã bày tỏ lòng quý mến và hãnh diện về cha tôi qua những gì ông viết trong bài “Những Kỷ Niệm Riêng Với Nhất Linh Nguyễn Tường Tam” đăng trên sách “Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ - Người Chiến Sĩ” xuất bản năm 2004. Đây là một vài đoạn trích trong bài ông viết:
“Cùng chiều hôm đó, luật sư Dương Kiền vào khám Chí Hòa báo tin cho luật sư Lê Ngọc Chấn, cùng bị giam chung với bọn đảng phái chính trị và quân nhân bị bắt sau cuộc đảo chính hụt 1960, chúng tôi vô cùng đau khổ và thương tiếc Nhất Linh Nguyễn Tường Tam đã bàn để tang ông ngày hôm sau khi bị đưa trước tòa án quân sự. Một anh em đã hy sinh một chiếc áo đen, cắt thành băng đeo ở cánh tay trái.
“Vừa trông thấy chúng tôi, ủy viên chính phủ Lê Nguyên Phu nói ngay: “Bọn Quốc Dân Đảng để tang Nguyễn Tường Tam!”. Nhưng không phải chỉ có “bọn QDĐ” mà tất cả các chính trị phạm hôm đó đã đeo băng đen, trừ một người là ông Phan Quang Đán” (trang 76).
“Hàng năm cứ đến ngày “song thất” tôi lại nhớ tới Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, một lãnh tụ tôi kính trọng, một bạn đồng tâm đồng chí thân mến của tôi và của cả gia đình tôi. Hôm nay tôi hân hạnh kể hầu quý vị những kỷ niệm riêng của tôi với ông, gọi là đốt nén hương lòng tưởng niệm ông.” (trang 81).
Trích dẫn thứ bốn - ông Lục: Tiếp theo là nội dung sách của ông Lê Nguyên Phu: “…Thật là một sự dễ dãi chưa từng có trong phạm vi thủ tục pháp lý. Sau cùng ông (Nhất Linh) hỏi tôi: Ông ủy viên có thể giúp tôi thêm một chút nữa được không? Tôi xin ông ủy viên giúp tôi tránh khỏi phải đối chất với bọn đàn em thuộc hạ của tôi”. (Trang 192, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ)”
Tôi tin đây là một chuyện bịa đặt của ông Lê Nguyên Phu vì chắc chắn câu nói này không phải là lời nói của cha tôi. Cha tôi không bao giờ gọi những người anh em hoạt động với ông là “bọn đàn em thuộc hạ”. Ông Phu gán vào miệng Nhất Linh câu nói này như thể cha tôi là một tên thảo khấu đang nói về thuộc hạ của mình. Ông Phu viết ra câu đó hiển nhiên là để mạ lỵ tư cách của Nhất Linh. Tư cách của Nhất Linh như thế nào tôi xin dẫn chứng lời của học giả Hoàng Xuân Hãn. Trong sách “Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ -Người Chiến Sĩ, trang 55, nhà văn Võ Phiến có viết: “Nhận xét về phong độ Nguyễn Tường Tam, ông Hoàng Xuân Hãn viết: Cử chỉ lễ độ, ăn nói chững chàng, trong buổi xã giao hội họp với kẻ chức trách, hoặc phái viên Pháp, ảnh đã có thái độ cử chỉ đoan nghiêm và đúng mức, không làm thẹn chức vụ bộ trưởng Ngoại Giao và chủ tịch phái đoàn Việt Nam”.
Trích dẫn thứ năm - ông Lục: “Tiếp theo nội dung sách của ông Lê Nguyên Phu: Lúc tiễn ông ra cửa, tôi thấy ông đi thất thểu, nhưng tôi không nghĩ rằng vì vấn đề đối chất này mà ông phải tự tử sau đó”.
Lúc được tin ông qua đời, suy nghĩ kỹ lại, tôi mới nhận rõ điều ông yêu cầu là một điều tối quan trọng đối với ông. Ông không muốn đối diện với bọn đàn em và đối chất với họ trước tòa, vì đó là một điều xỉ nhục, mất thể diện trọng đại…” (Trang 193, Nguyễn Văn Lục - Một Thời Để Nhớ).”
Có lẽ ông Lục cho đây là một bằng chứng rõ rệt nhất “không chối cãi” được trong phần bàn luận về “bằng cớ pháp lý” của ông. Tôi xin nói ngay, đây là một giả thuyết thiếu thông minh của ông Lê Nguyên Phu. Khi ngồi viết chuyện này, có lẽ ông LN Phu đã nghĩ tới cái quyền đánh đập, bạo hành, tra tấn bị cáo ở trong nhà tù mà chính quyền ông phục vụ vẫn áp dụng. Hay có lẽ ông hình dung bị cáo Nhất Linh dáng thiểu não run sợ trước quan tòa khi nghe ông LN Phu “đóng kịch” quát tháo, mạt sát, áp đảo tinh thần thì Nhất Linh sẽ phải sợ ngay, răm rắp làm theo lệnh tòa, răm rắp phải đối chất.
Chuyện Nhất Linh sợ phải đối chất là giả thuyết của ông LN Phu và là lập luận của ông Nguyễn Văn Lục. Nhất Linh đã có quyết định rồi. Nếu phải ra tòa ông sẽ chọn sự im lặng. Cha tôi đã nói trước điều đó với nhiều người thân của ông.
Trong sách Chân Dung Nhất Linh, trang 184, tác giả Nhật Thịnh, thuật lại chuyện cha tôi đến từ biệt ông Nguyễn Hữu Phiếm buổi sáng ngày 7-7-1963. Đây là đối thoại giữa bà Phiếm với cha tôi buổi sáng hôm ấy:
Mai ra Tòa anh sẽ khai ra sao?
Chị cứ yên trí, tôi sẽ không nói gì hết, y như ông giáo sư ở trong phim “Jugement à Nuremberg” khi ra Tòa ấy”.
Trong sách Hồi Ký về Gia Đình Nguyễn Tường, trang 158, tác giả Nguyễn Thị Thế (em ruột Nhất Linh) viết:
“Tôi lại hỏi anh mai anh ra Tòa anh sẽ nói sao. Anh cho tôi biết anh sẽ không nói gì hết, chỉ im lặng thôi. Tôi hỏi im lặng trước tòa được ư. Anh bảo đã có luật sư nói hộ”.
Trong sách Nhất Linh Cha Tôi, trang 32, tôi viết:
Im như hến thế mà hay! Nhưng quả thật tôi không ngờ ông đã đi sâu đến như thế, không chỉ im lặng ở Tòa mà chọn sự im lặng trong cung cách ra đi vĩnh viễn”.
Ông Lê Nguyên Phu làm gì được khi một bị can quyết định im lặng không nói trước tòa án? Ông cậy miệng Nhất Linh bắt Nhất Linh phải đối chất trước tòa hay sao? Nếu bị cáo Nhất Linh im lặng, thì ông Phu bỏ tù Nhất Linh à? Nhất Linh đã không sợ chết thì sao Nhất Linh lại sợ vào tù? Nhất Linh không sợ vào tù như ông đã nói người con của ông vài giờ trước khi chết: “Cậu chẳng sợ kết quả ngày mai ra sao vì ở nhà hay ở tù đều mất tự do như nhau.” (Nhất Linh Cha Tôi- hồi ký Nguyễn Tường Thiết- trang 36).
Như thế thì lập luận của ông Nguyễn Văn Lục và ông Lê Nguyên Phu về chuyện Nhất Linh tự tử vì sợ phải đối chất với những người khác không đứng vững. Nhất Linh tự hủy mình vì không muốn phải ra tòa để cho ông Lê Nguyên Phu “đóng kịch” “gắt gao và mạt sát” như dẫn chứng của ông Lục nêu ra về cách thức đối xử của ông LN Phu đối với bị cáo khi họ đứng trước tòa án. Nhất Linh đã không để cho các ông quan tòa đại diện chính quyền có dịp “gắt gao và mạt sát” sỉ nhục. Nhất Linh đã chọn cái chết như ông đã viết trong chúc thư tuyệt mệnh của ông “Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử tôi cả.”. Chữ “ai” ở đây ông ám chỉ cả chế độ nhà Ngô trong đó có ông Lê Nguyên Phu!
Để kết thúc phần bàn luận của tôi về chứng cớ pháp lý mà ông Lục đưa ra trong bài ông, tôi xin trích dẫn đoạn viết của tác giả Lưu Văn Vịnh: “...và ông đã làm, đã chọn cách chết, đã chọn lúc chết... “đời tôi để lịch sử xử”, ông là loại “hổ nhớ rừng” chẳng thể để cho đàn kiến đen bọ hung bọ xít xúc phạm” (Trang 177, sách Nhất Linh Người Nghệ Sĩ -Người Chiến Sĩ)”.
Để chấm dứt bài viết này tôi có vài lời chót về bài viết của ông Nguyễn Văn Lục.
Ông Nguyễn Văn Lục không phải là một bác sĩ tâm thần, không phải là bác sĩ thần kinh học, cũng không phải là một nhà tâm lý học nhưng ông đưa ra những dẫn chứng sai sự thật như tôi đã trình bày ở trên để gán ghép cho cha tôi, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam căn bệnh tâm thần. Mục đích của ông Lục khi ông cố gán ghép cho cha tôi mắc bệnh tâm thần là để xuyên tạc ý nghĩa và sự thật về cái chết của cha tôi và bằng cách ấy ông đã xuyên tạc bóp méo lịch sử. Về chuyện ông Lục gán cho cha tôi bệnh tâm thần, tôi xin mượn lời tác giả Vũ Cầm viết trong bài “Mưu toan đưa Nhất Linh vào nhà thương điên” như sau:
Tôi xin quay lại một chút với chủ đề chính của tác giả Nguyễn Văn Lục trước khi dừng bút. Ấy là vấn đề bệnh tâm thần. Để vô hiệu hóa hành vi, ngôn ngữ của kẻ nào, điều dễ nhất là nói người đó điên. Khi thuyết phục được mọi người rằng một ai đó có bệnh tâm thần là đã có thể hư vô hóa người ta. Không một cái gì thuộc về người ấy còn có giá trị với đời sống bình thường của chúng ta nữa. Nguyễn Văn Lục đã khổ công tạo ra một Nhất Linh bị bệnh tâm thần để triệt hạ ông, và tưởng như thế là một phát minh mới mẻ lắm. Không, đảng cộng sản Nga đã chơi cái trò đó nhiều rồi. Những ai thuộc giới trí thức mà chống đối chế độ, thay vì bắt giam tra tấn đánh đập nhiều khi chỉ càng làm người ấy nổi bật lên vì sự can đảm, chỉ cần tống vào nhà thương điên là người ấy không còn tư cách làm người nữa trước mắt xã hội.
Nguyễn Văn Lục mưu đồ cho Nhất Linh vào nhà thương điên. Nhưng người điên, ở đây là ai?” © 2008 talawas
Tôi xin dành cơ hội này cảm ơn tất cả những tác giả và những bạn đọc đã viết bài hoặc nêu ý kiến phản bác bài viết của ông Nguyễn Văn Lục. Đặc biệt là tác giả: Vũ Cầm (Mưu toan đưa Nhất Linh vào nhà thương điên - Talawas), Nguyễn Liệu (Ông Nguyễn Văn Lục nên viết lại bài “Ý nghĩa cái chết của Nhất Linh”), Lý Nguyên Diệu (Nguyễn Văn Lục: Người trí thức không biết ngượng – chuyenluan.net), và Trần Yên Hòa (Sừng sững Nhất Linh – banvannghe.com). Cũng xin cảm ơn chị Nguyễn Bạch Tuyết và Nguyễn Lệ Chi (con bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm) đã giúp tôi tìm hiểu sự thật về một chứng cớ bịa đặt dùng trong bài của ông Nguyễn Văn Lục.
Seattle, ngày 7 tháng 1 năm 2012
Nguồn : Bài đã đăng nhiều kỳ trên tạp chí Người Việt
(California, 1.2.2012), tác giả đã gửi bản gốc để đăng.

____________

Gia đình Nguyễn Tường, vinh quang và bi kịch

Duy Lam
Duy Lam tên thật Nguyễn Kim Tuấn ông sinh năm 1932 tại Hà Nội, là con ông Nguyễn Kim Hòa (mất năm 1963, Sàigòn) và bà Nguyễn thị Thế. Mẹ ông là em gái của Nhất Linh, Hoàng Ðạo và là chị Thạch Lam; mất năm 1997 tại Hoa Kỳ. Duy Lam là thành viên trẻ tuổi nhất, gia nhập Tự Lực Văn Ðoàn năm 1958. Lúc đó ông mới 19 tuổi.
Tác phẩm của ông gồm truyện ngắn Chồng Con Tôi, Ngày Nào Còn Ðàn Bà, Nỗi Chết Không Rời, Em Phải Sống. Hồi ký Gia Ðình Tôi. Truyện dài Cái Lưới, Lột Xác.
Ngoài viết văn Duy Lam còn là một họa sĩ tài năng, ông vẽ rất sớm và mới đây có cuộc triển lãm tranh tại tiểu bang Virginia, Hoa kỳ.
Chúng tôi may mắn gặp nhà văn, họa sĩ Duy Lam trong lần triển lãm này và ông cho phép được hỏi đôi điều có liên quan đến Nhất Linh, cha đẻ của Tự Lực Văn Đoàn cũng là người cậu ruột thân thiết của ông.

Binh bộ Thượng Thư

Nói về cuốn hổi ký mà mẹ ông, bà Nguyễn Thị Thế, viết về gia đình Nguyễn Tường ông cho biết:
Trong sách học thì ghi là Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam sinh ở Hải Dương, không nói gì đến gốc gác của họ Nguyễn Tường, là một dòng giõi quan từ đời ông Nguyễn Tường Vân là Binh bộ Thượng thư của vua Gia Long.
"Ông Nhất Linh là bác tôi vì mẹ tôi là em ruột của ông có viết cuốn Hồi ký của gia đình Nguyễn Tường-Nhất Linh-Hoàng Đạo -Thạch Lam. Tôi đã tái bản đến ba lần. Mẹ tôi viết sau khi ông mất và đó là điều đáng tiếc. Chắc ông rất thú vị vì em gái của mình mà ông rất quý cũng đã viết hồi ký. Cuốn hồi ký được nhắc nhiều nhất trong văn học. Nhắc đi nhắc lại, trích trong văn chương Việt Nam.
Khi quyển hồi ký ra đời vào năm 1968 ở Sài Gòn thì nó đã làm cho tất cả các sách giáo khoa phải thay đổi vì cái gọi là gốc gác của họ Nguyễn Tường là ở Cẩm Phô, Quảng Nam. Trước đó không ai hề hay biết. Trong sách học thì ghi là Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam sinh ở Hải Dương, không nói gì đến gốc gác của họ Nguyễn Tường, là một giòng dõi quan từ đời ông Nguyễn Tường Vân là Binh bộ Thượng thư của vua Gia Long. Chữ Tường là bởi vua Gia Long đi đến chân núi Phước Tường, Hội An thì hỏi mọi người núi này là núi gì, ông trả lời “Thưa Chúa đây là núi Phước Tường”. Vua Gia Long nói với ông Nguyễn Tường Vân đi bên cạnh là hầu cận rất thân “Phước là họ ta nhưng Tường thì ta ban cho nhà ngươi”. Từ đó trở đi thì mới là họ Nguyễn Tường, trước thì chỉ Nguyễn không thôi.
Cụ Nguyễn Tường Vân có làm Đại sứ cho vua Gia Long sang nước Trung hoa thời nhà Thanh. Ở nhà tôi có một bức hình chụp cụ Nguyễn Tường Vân do nhà Thanh vẽ tôi có triển lãm trong các ngày lễ văn hóa ở các trường trung học ở Đà Nẵng năm 1971. Bức hình đã lâu đời hết sức nhưng màu vẫn còn đẹp nguyên."
- Thưa nhà văn Duy Lam, chúng tôi rất muốn biết điều gì đã xảy ra sau khi nhà văn Nguyễn Tường Tam vào Sài Gòn và thu nhận thêm một vài thành viên nữa cho Tự Lực Văn Đoàn, mặc dù lúc ấy sức thu hút của Văn đòan này không còn mạnh mẽ như trước nữa?
- Về chuyện ông bác tôi thì tôi có giải thích một lần trong báo Người Việt tại sao ông Nhất Linh lại làm cái gọi là Tự Lực Văn Đoàn mà thêm giễu đùa là “nối dài”. Vào năm 1953 ông có làm “chúc thư văn nghệ” và đưa tôi và Nguyễn Thị Vinh và anh Tường Hùng ở Tự Lực Văn Đoàn lớp sau. Những người trong lớp văn học cũng có thể trả lời tại sao ông lại làm Tự Lực Văn Đoàn lớp hai. Lớp hai chứ không phải là thế hệ hai vì Vinh là người cùng thời với ông ấy và là đồng chí của ông nữa. Phía ở Hà Nội vào lúc hoạt động chính trị, ông Trương Bảo Sơn chồng bà là một đồng chí của ông Nhất Linh.

Điên? - Mưu kế chính trị!

- Còn câu hỏi về sự tự vẫn của Nhất Linh tuy đã được bàn rất nhiều trên báo chí nhưng đâu đó vẫn còn những câu hỏi cho rằng Nhất Linh có vấn đề tâm thần dẫn tới cái chết của ông ấy…
- Đến bây giờ mọi người vẫn không chịu tìm hiểu gốc gác các câu chuyện tại sao, động cơ nào đã khiến ông Nhất Linh tự vẫn. Tôi làm việc với ông Nhất Linh nhiều nhất, khi tôi bắt đầu viết truyện theo sự huấn luyện và kèm của ông thì tập “Chồng con tôi” ra đời và do ông chọn. Ông sửa một truyện của tôi đến 4,5 lần nhưng tôi chịu được sựkỷ luật đó. Vì thế tôi mới được coi là người có lối văn Dostoyesky đầu tiên ở trong văn chương Việt Nam, như ông Nguyễn Văn Trung có nói đến chuyện đó.
Lúc viết truyện ngắn tôi còn đương đi học ở Chu Văn An, lớp đệ tứ mới 19 tuổi. Ông Nhất Linh vô Sài Gòn trước năm 1952. Ông ấy gởi cho tôi, bà Vinh và anh Hùng mỗi người một tờ giấy viết tay cho chúng tôi vào Tự Lực Văn Đoàn làm tôi hết sức ngạc nhiên vì tôi chỉ mới là cậu bé 19 tuổi.
Tiện đây tôi cho anh biết rằng lý do tại sao ông ấy lại làm ra vẻ điên như vậy vì ông ấy nói với tôi vào thời tôi đến chơi ở Đà Lạt với ông: “ Đời bác lắm khi phải giả vờ để tránh sự chú ý của Pháp. Có một lần bác phải giả điên điên, dại dại một thời gian. Rồi sau này thì nói khỏi rồi”.
Trong cuốn sách của ông Tú Mỡ có nói đến đoạn đó. Đó chẳng qua là một mưu kế chính trị mà một người như ông phải làm thôi. Đó là lần thứ nhất. Lần thứ hai, lần này thì mẹ tôi có ghi trong cuốn hồi ký là năm 60, ông ở nhà bà ngoại tôi là mẹ ông ở 58 Lý Thái Tổ (mà sau này tôi vô ở cùng) thì cảnh sát đứng rình chung quanh nhà. Như mẹ tôi nói” anh Tam lấy giấy tờ vất ra cửa sổ”, rồi nói năng lảm nhảm để giả vờ mình bị điên.
Thế nhưng cái đó không phải là lần đầu tiên. Ngày trước bác đã giả vờ điên rồi. Cái đó có ghi trong sách nhưng không ai đọc sách cả. Trong cuốn hồi ký của mẹ tôi đã in đến lần thứ ba. Mẹ tôi còn khôi hài “giá bác vất tiền ra thì mẹ đến mẹ nhặt”. Hai lần giả vờ điên thế nhưng người ta cứ bảo ông Nhất Linh tự tử chống Ngô Đình Diệm là vì ông điên. Tôi sợ họ không đọc sách cho kỹ nên họ mới là người điên.

Đứt đôi - Gây dựng lại

- Quay trở lại Tự Lực Văn Đoàn, ông có thề cho biết thêm tâm sự của Nhất Linh về đứa con tinh thần này như thế nào…ông ấy có tha thiết với nó hay chỉ là một phuơng tiện để hoạt động cách mạng? Nhất là sau khi những cây bút chính rớt lại miền Bắc?
Lúc nào cũng tiến tới, lúc nào cũng làm một cái gì mới. Đời không khuất phục được. Chính trị độc tài không khuất phục được. Cộng sản không khuất phục đươc. Thế mới là ông Nhất Linh.
Duy Lam nói về người bác của ông
- Cuộc chiến tranh ý thức hệ đã làm đứt đôi Tự Lực Văn Đoàn. Ông Nhất Linh than thở với tôi: “Bây giờ bác vào đây có mỗi mình bác. Xuân Diệu, Tú Mỡ, Thế Lữ... ở ngoài đó đi theo cộng sản”. Mới đây anh Nguyễn Hưng Quốc mới đây diễn thuyết ở Người Việt cũng còn nhắc những người đều đi theo cộng sản hết. Ông Tú Mỡ được giải thưởng của Hồ Chí Minh về thơ trào phúng chống Pháp. Ông Thế Lữ là chủ tịch hội kịch nói. Ông Xuân Diệu là công thần của chế độ. Ba người đó là cộng sản bị đảng áp lực đã nhiều lần tố ông Nhất Linh là phản động và phủ nhận Tự Lực Văn Đoàn. Họ phải làm vậy thôi nếu không thì họ không thể nào sống nỗi với công sản.
Như thế theo nguyên tắc họ không còn trong Tự Lực Văn Đoàn vì họ tự ý đả kích ông giám đốc của đoàn và tự ý rút ra. Những người Quốc gia ở Việt nam thời đó và những người Việt nam ở hải ngoại bây giờ tự hỏi mình có thể chấp nhận Tự Lực Văn Đoàn có 3 người cộng sản không? Chỉ còn có mỗi ông Nhất Linh, ông Hoàng Đạo mất ở hải ngoại, ông Thạch Lam mất sớm. Ông Khái Hưng thì bị cộng sản giết ở Cửa Gà cùng với anh của ông Nhất Linh là ông Nguyễn Tường Cẩm, chuyện đó là lịch sử rồi. Thế thì mình có chấp nhận Tự Lực Văn Đoàn có ba người cộng sản không?
Ông Nhất Linh nhiều lần nói chuyện với tôi ở nhà Hàng Bè. Vào Sài Gòn thì ông gởi cho chúng tôi “chúc thư văn nghệ” năm 1952. Ông hay than thở với tôi là “Cái công lớn nhất của đời bác là làm Tự Lực Văn Đoàn nhưng bây giờ vì chính trị, anh em tan nát ra cả. Không biết họ có vào được miền Nam không”.
Dĩ nhiên ông ấy có nhiều lần khóc, khó lòng mà không khóc được. Những ngày tết nhất nhớ lại Tự Lực Văn Đoàn ngày xưa của ông, nhớ lại những người đã chết, ông Tường Cẩm bị cộng sản bắt đi trước mặt tôi và bị giết chết. Vì những nỗi buồn đó mà ông ấy có nói với tôi “vì thế mà bác mới làm Tự Lực Văn Đoàn để đưa những tay bút mới” như một bài thơ có nói “Tự Lực Văn Đoàn rồi phải trồi lên”. Phải phục hưng tinh thần của Tự Lực Văn Đoàn nếu không chúng ta
sẽ bị những người cộng sản chiếm đa số.


Vinh quang và bi kịch
- Số phận của gia đình Nguyễn Tường hầu như gắn liền với một giai đoạn lịch sử …Là thành viên trong gia đình này nhà văn có cảm tưởng ra sao khi có nguời so sánh với gia đình Kennedy của Mỹ, cũng vinh quang nhưng đầy bi kịch…
- Gia đình tôi cũng giống như gia đình Kennedy ở bên Mỹ này, những thành viên trong gia đình đều làm chuyện công ích và chính trị. Họ Nguyễn Tường ở trong nước Việt Nam nhỏ bé cũng liên hệ đến chính trị cùng với các đồng chí. Ông Tường Cẩm thì bị cộng sản giết, ông Nhất Linh sau chết cũng vì chính trị. Ông Hoàng Đạo bị lưu vong mà phải chết sớm, cũng là vì chính trị. Cho nên có thể nói cái ảnh hưởng sâu rộng đến gia đình Nguyễn Tường và ảnh hưởng luôn đến Tự Lực Văn Đoàn. Làm đứt đôi Tự Lục Văn Đoàn luôn. Ông Nhất Linh ở vị trí của ông-người sáng lập ra đoàn, phải cố gắng phục hồi tinh thần của Tự Lực Văn Đoàn bằng đủ mọi cách. Đó là tinh thần của ông Nhất Linh, lúc nào cũng tiến tới, lúc nào cũng làm một cái gì mới. Đời không khuất phục được. Chính trị độc tài không khuất phục được. Cộng sản không khuất phục đươc. Thế mới là ông Nhất Linh chứ mà lùi và xóa bỏ đi Tự Lực Văn Đoàn thì chuyện đó là chuyện tư nhiên, không ai nói gì được. Tinh thần ông ấy là như vậy, tôi biết bác tôi. Ông ấy bảo tôi “ cháu phải cố gắng”.
- Xin cám ơn nhà văn, họa sĩ Duy Lam.

***

Phụ đính I:

Gió O nhận được hai bài viết dưới đây từ ái nữ nhà văn Nguyễn Thị Vinh, của cây bút Trương Thị Kim Anh. Hai bài viết có liên quan đến tranh ảnh của cố nhà văn Nhất Linh. Bài viết của hai tác gỉa Trương Thị Kim Anh và Đỗ Hoàng Gia phản ánh quan điểm của các tác giả, không phải của Gió O. Gió O chỉ cung cấp diễn đàn.

Tưởng nhớ về: Nhất Linh

Trương Kim Anh

Nhất Linh (lãnh tụ nhóm Tự Lực Văn Đoàn, 1906-1963)
Một hôm nhà văn Nhất Linh, mà từ năm tôi mới hai tuổi vẫn quen được phép gọi là bác Tam, đến thăm gia đình tôi, tại nhà in Trường Sơn, số 14 Nguyễn An Ninh ( cửa Tây, chợ Sài Gòn )
Giống như mọi lần, tôi chạy tới quấn quýt bên bác, định đem sáo trúc thổi cho bác nghe, hay dạo khúc đàn tranh mới học được ở trường Quốc Gia Âm Nhạc. Nhưng chưa kịp làm thì đã bị mẹ bảo:"Kim Anh, con hãy đi chơi, để mẹ nói chuyện với bác." Nhìn nét mặt mẹ và bác có vẻ quan trọng ! Tôi không dám hỏi, nhưng trong lòng không vui, phụng phịu đi ra khỏi phòng khách, chạy qua nhà hàng xóm đối diện, chơi với Thúy, con gái ông chủ tiệm Trần Văn Phép.
Mãi sau này, tôi mới biết, chuyện quan trọng đó là: Bác Tam nhận được trát đòi "ra hầu tòa" cùng với một số bạn chiến đấu của bác; trong đó có ba tôi, "ông Trương Bảo Sơn", lúc ấy đang bị chính quyền Ngô Ðình Diệm giam tại Tổng Nha Công An, cùng với một số chính trị khác.
Khoảng một tiếng sau, từ trên cửa sổ nhà Thúy nhìn xuống cửa nhà mình, tôi thấy bác Tam đang từ giã mẹ tôi. Bác bước khỏi ngưỡng cửa, ra tới lề đường, dáng cao lêu nghêu. Theo thói quen, bác để tay lên rờ rờ vầng trán cao, mắt ngó xung quanh như tìm một cái gì … Sau này, tôi đoán bác có ý tìm tôi, nhưng lúc đó tôi đang hờn dỗi vì bị đuổi "đi chơi", nên tôi không chạy xuống tiễn bác. Không ngờ đó lại là hình ảnh cuối cùng mà tôi được thấy bác, tới nay vẫn còn hằn ghi trong trí tôi !!! Tôi hối hận vô cùng, đã không xuống chào bác để được nghe những lời thân yêu cuối của bác.
Tảng sáng, ngày Song Thất, tức ngày 7 tháng 7 năm 1963, cả nhà tôi còn đang ngủ ở từng lầu hai; bỗng tiếng chuông cửa dồn dập, thôi thúc ! Mẹ hốt hoảng chạy xuống , tôi cũng ngồi bật dậy, theo mẹ và chú tôi, xuống nhà dưới. Cửa mở, tôi thấy anh Nguyễn Tường Thiết, con trai út của bác. Anh Thiết thì thầm nói với mẹ tôi vài câu, rồi vội vã đi. Tôi linh cảm có chuyện bất thường. Mẹ và chú tôi quay trở lên lầu, hớt hãi, giục: "Kim Anh thay quần áo nhanh lên! Ði với mẹ!". Tôi quýnh quáng, im lặng làm theo lời mẹ, lát sau cùng mẹ và chú ra xe. Chú lái đi. Ai cũng ngồi lặng im, đầy vẻ lo lắng, bồn chồn. Không khí nghiêm trọng đến nỗi, suốt dọc đường, tôi không dám hỏi một câu.
Tới nhà thương Grall, tức bệnh viện Ðồn Ðất, Sài Gòn. Khu vườn rộng mênh mông với những hàng cây to, được chia làm nhiều khu bệnh. Chúng tôi vẫn không ai lên tiếng. Mẹ và chú tôi hấp tấp đi về hướng một trong mấy dẫy lầu. Cho tới khi vào đến trong hành lang, chú tôi mới nói:" Ðúng là đây này, trên lầu; số phòng … đây, đây rồi !" Tôi vẫn chỉ biết bén gót đi theo hai người. Sau này, mãi tới nay, tôi còn nhớ như in:
Từ cầu thang lên lầu, dẫn thẳng đến phòng bệnh nhân. Trong phòng lúc đó, bác Tam đang nằm mê man trên giường. Từ ngực trở lên được phủ một "túp lều" ny lông trong suốt (cứ tạm gọi như thế), mũi miệng bị chụp ống dẫn khí. Giờ phút này, tôi mới hiểu lý do giữa đêm hôm khuya khoắt, tại sao mẹ và chú dẫn mình tới đây. Trong phòng lúc đó chỉ có mấy người trong gia đình, đứng yên lặng. Nét mặt căng thẳng, đầy vẻ lo lắng, chờ đợi. Cảm nhận được tình trạng nghiêm trọng , tôi đứng sát bên giường, nhìn bác nằm đó, khẽ nắm bàn tay bác. Nước mắt tôi tuôn trào, lòng đầy hối hận:"Giá như mấy ngày trước, mình đừng hờn dỗi …"
Hôm sau, tin bác mất được truyền tới mọi người! Bác đã tính kỹ cho cái chết của mình được mau lẹ, nên tự uống một chất độc gì đó cực mạnh, các bác sỹ đã tận tình cứu chữa, nhưng không kịp.
Hai ngày sau, mẹ tôi đã dặn tôi đem ống sáo trúc, theo mẹ vào nhà xác, vĩnh biệt bác! Lúc đó, tâm trạng tôi tràn đầy đau thương, mọi cảnh vật xung quanh được thu nhỏ lại trong mắt tôi, vỏn vẹn một chiếc giường đơn, vừa đủ cho bác nằm ngay ngắn, bất động. Nét mặt bình thản trong giấc ngủ ngàn thu. Tôn trọng giây phút cuối thiêng liêng, ông "gac dan" lặng lẽ lui ra khỏi phòng. Còn lại mẹ và tôi đứng bên cạnh bác. Mặc cho nước mắt ràn rụa chảy, tôi lấy tay áo chặn ngang mũi, ngăn chặn tiếng sụt sịt. Mẹ tôi cũng đang thì thầm những lời vĩnh biệt, ngập trong nước mắt.
Sau một lúc, mẹ bảo tôi lấy sáo trúc ra thổi một bản tiễn bác. Tôi gạt nước mắt, đưa ống sáo ngang miệng, chọn bản " Thiên Thai" của Văn Cao&Hoàng Thái, bản mà bác thường bảo tôi thổi mỗi lần bác đến nhà chúng tôi. Tiếng sáo u uẩn vang trong nhà xác, lạnh lẽo. Nhưng chỉ được nửa bản, tiếng sáo ngưng trong tiếng nấc nghẹn ngào; âm thanh như đọng lại trong không gian, tiễn đưa hương linh bác về nơi vĩnh cửu.
Trong tang lễ bác, có cả ngàn người tiễn đưa. Dẫn đầu đám táng là một tấm biểu ngữ ghi lời di chúc của bác "Ðời tôi để lịch sử xử …". Khởi điểm từ nhà thương Grall. Tới chùa Xá Lợi, đám tang ngưng lại. Linh cửu bác được rước vào chùa đặt trước chánh điện, các thầy tụng kinh, làm lễ. Gia đình, bạn hữu và những người mến mộ bác lần lượt nối nhau vào lễ. Xong mọi nghi thức, đám tang tiếp tục đi tới nghĩa trang Hạnh Thông Tây, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Ðịnh.
Tôi được chít khăn tang trắng, để tang bác, vì lúc sinh thời bác coi tôi như con như cháu. Có thời kỳ, thấy tôi và Nguyễn Tường Thiết thân nhau, hai bác từng ngỏ ý xin tôi về làm dâu. Việc không thành vì tôi đang là là một nữ sinh đệ nhị cấp với nhiều mơ mộng. Về sau, tôi và anh Thiết cũng không có nhân duyên.
Năm 1945, Việt Minh nổi lên cướp chính quyền Hà Nội, tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia. Bác Tam cùng một số bạn đồng chí hướng, chạy qua Thượng Hải sống lưu vong, trên một ngọn núi, cách trung tâm thành phố độ một giờ xe điện.
Năm 1946, khi tôi mới chào đời, ba tôi qua Thượng Hải gặp bác Tam, để mẹ tôi cùng đứa con sơ sinh ở lại Hà Nội.
Qua năm 1948, mẹ tôi mới bế tôi qua với ba, lúc đó đang ở Hương Cảng. Ðó cũng là lần đầu tiên, mẹ và "bé Kim Anh" mới được hân hạnh quen biết bác Nguyễn Tường Tam cùng mấy bạn đồng chí hướng.
Từ năm 1948 tới năm 1952, thời gian mẹ tôi và tôi ở Hương Cảng "trên núi" , tôi còn bé quá, không nhớ được những kỷ niệm thương yêu của bác Tam, cũng như của các chú các bác Nguyễn Gia Trí, Phan Quang Ðáng, Trần Văn Tuyên …, đã dành cho tôi. Tôi từng nghe mẹ kể, hồi dó các chú các bác đều mang một nỗi buồn chung, nghe tin các chiến hữu như Khái Hưng bị thủ tiêu và Hoàng Ðạo Nguyễn Tường Long bị bất đắc kỳ tử trên một chuyến tầu hỏa Hồng Kông-Quảng Châu.
Theo thời gian, lần lượt mọi ngừời đều kiếm ra được việc làm, sinh sống qua ngày. Ba tôi được tuyển vào một công ty hàng hải của Hòa Lan. Một đứa bé hai tuổi vô tư như tôi, đang bi bô tập nói, chỉ biết chập chững, quanh quẩn bên cạnh các chú các bác. Bác Tam thường bế tôi, tập tôi nói cho bớt ngọng; bác Trí chiều chuộng, cho tôi nghịch những sơn cọ vẽ. Tiếng cười của trẻ thơ, hòa tiếng cười của người lớn, khiến mọi người đôi lúc khuây khỏa nỗi buồn.
Tôi vẫn nhớ rõ những kỷ niệm, giòng suối Ða Mê, thuộc vùng Fin-Nom, cách cao nguyên Ðà Lạt hai mươi sáu cây số :
Tỉnh Fin-Nom, bên suối Ða Mê, bác ở trong căn nhà gỗ, không lớn, nhưng ngăn nắp, đồ đạt đơn sơ (nhà ông cậu của bác). Trong nhà có đến mười mấy loại Lan rừng, được sưu tầm. Dạo đó tôi mười tuổi, còn nhớ những buổi được theo bác cùng với mấy ông bạn của bác vào rừng kiếm hoa phong lan bám trên những ngọn cây cao vút.
Mỗi lần chúng tôi từ Sài Gòn lên thăm bác, đều được bác đưa ra thăm suối, ngồi trò chuyện ngay sát ven bờ suối. Ðể đãi khách, bác kéo từ dưới suối lên một sợi dây có cột chếc giỏ, chứa vài ba chai bia "33" được ướp lạnh sâu dưới lòng suối. Trong lúc người lớn chuyện trò, tôi mặc bộ đồng phục thể dục của trường tiểu học: chiếc quần bồng mầu xanh dương và áo trắng tay bồng sát nách, tung tăng ngâm mình dưới lòng Ða Mê mát lạnh, tay vuốt ve những cánh hoa xinh xinh tím đỏ, mọc trên những tảng đá giữa dòng nước trong suốt, hồn chơi vơi trong tiếng kèn clarinet của bác, vọng lên bản Limelight của Chopin, Changing partner hay I went to your wedding, tôi quên tên tác giả, nhưng thời đó bản nhạc được nổi tiếng qua giọng nữ ca sỹ Paty Page, ..v..v..
Bên dòng suối Ða Mê, trong một buổi chia tay với ba mẹ tôi, bác đã làm hai câu thơ :
"Người đi đi mãi không về
Nhớ người lòng suối Ða Mê gợn buồn"
Không ngờ sau này, hai câu thơ chính là điềm báo ứng với vệc bác vĩnh viễn ra đi, vào ngày Song Thất, mồng 7 tháng 7 năm 1963 !
Nhờ bác Tam, mà tôi đã được hưởng những cảnh thiên nhiên bên suối Ða Mê, mùi hương phong lan thoảng thoảng lẫn mùi nhựa thông trong rừng. Thật là những kỷ niệm đẹp khó phai mờ !
Tôi cũng còn giữ được hai tấm ảnh, có hình bác Tam đang bế tôi trên lòng, ngồi bên cạnh một cái bàn, sau lưng là ba mẹ tôi, tức dịch giả Trương Bảo Sơn và nhà văn Nguyễn Thị Vinh, đứng bên cạnh là cố họa sỹ Nguyễn Gia Trí. Theo lời ba mẹ tôi kể, mấy tấm ảnh này đã được chụp vào năm 1953, tôi độ bẩy tuổi. Hồi đó, bác Nguyễn Gia Trí bị thực dân Pháp an trí tại Thủ Ðầu Một, trong một garage của xưởng mỹ nghệ sơn mài.
Tôi còn nhớ, năm 1960, dưới chính quyền Ngô Ðình Diệm, tôi đã được mười bốn tuổi. Thời đó ba tôi cùng một số bạn chiến đấu của bác Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, bị mật vụ Ngô Ðình Diệm bắt bớ tra tấn, rồi đem đầy ra Côn Ðảo. Riêng bác phải ẩn trốn trên chung cư lầu ba, số 134/24 đường Lê Thánh Tôn, góc đường Phan Bội Châu (cửa Bắc chợ Bến Thành). Chung cư này có khoảng ba chục căn, mỗi căn rộng khoảng ba chục thước vuông, tôi nhớ hình như cứ 4-5 căn dùng chung một phòng tắm và cầu tiêu ngay đối diện, nên giữ được vệ sinh chung sạch sẽ. Căn phòng bác ở có cửa sổ ngó bao quát xuống khu chợ Sài Gòn, góc đường Lê Thánh Tôn-Phan Bội Châu, khu bán tơ lụa. Bác ở chung với anh Nguyễn. Ð.N, anh con cô con cậu của tôi. Ngày nay tôi còn nhớ rõ khá tỷ mỷ chung cư này, cũng nhờ hồi đó đại gia đình bà dì tôi đã ở tại đây, cũng chính dì tôi đã giới thiệu bác Tam thuê phòng số 24. Hiện nay dì tôi đang sống tại tiểu bang LA (USA), khoảng hai mươi năm qua, Người đã trở thành một vi sư ni, ngoài tám mươi. Khoảng một năm sau, để khỏi lộ tung tích, bác dọn tới một địa chỉ khác, tôi cũng được phép tới lui thăm bác, rất tiếc tôi không còn nhớ chủ nhà là ai, để hỏi ghi lại địa chỉ trong bài viết này.
Có lẽ thấy tôi ít nói và kín đáo, nên bác tin cẩn và cho phép tôi thường xuyên theo người thân tín tới thăm bác trong căn nhà đó. Tôi thích xem bác vẽ những bức tranh khổ nhỏ cỡ khoảng 15x18 cm, bằng chì màu. Có lần bác tỷ mỷ ngồi cắt những bông hoa bằng giấy thủ công màu, tô điểm thêm cho bức họa, vẽ một bình hoa với những bông hoa xinh xinh. Tôi thích thú khen đẹp, bác lặng lẽ mỉm cười. Bức tranh hoàn tất vào đầu Xuân năm đó, tôi vui mừng được bác tặng đúng bức tranh hoa rực rỡ. Xúc động hơn nữa, bên phải bức tranh bác vẽ thêm tập bản thảo truyện dài "Cô Mai" của mẹ tôi sắp xuất bản; bên trái kèm hai câu thơ:
"Ngày Xuân tặng cháu bó hoa,
Xuân này chúc cháu toàn gia sum vầy".
chứng tỏ bác luôn luôn nghĩ tới ba tôi cùng các bạn đồng chí hướng, bị nhốt ngoài Côn Ðảo.
Và trong một bức vẽ tấm chăn len, ghi bốn câu thơ:
"Một tấm chăn len khám Chí Hòa
Ấy ai vượt ngục mới đem ra
Tù nhân tặng kẻ chùm chăn kín
Tuy mỏng nhưng mà cũng ấm da!"
để nhớ đến một số bạn chiến đấu, đang bị giam trong khám Chí Hòa. Ðáng buồn thay, lúc bấy giờ lại có những kẻ "chùm chăn kín" thờ ơ đứng ngoài thế sự, Nhất Linh đã mỉa mai "Tuy mỏng nhưng mà cũng ấm da", cứ ngoảnh mặt làm ngơ "chùm chăn" thì cũng đủ vinh thân phì da rồi!
Năm 1961, tôi khoe bác một tấm ảnh tôi đang ngồi thổi sáo, do nhiếp ảnh Mạnh Ðan chụp. Không ngờ tấm ảnh này đã gợi ý cho bác họa một thiếu nữ ngồi thổi sáo dưới gốc thông. Hai bên tranh ghi mấy chữ Nho: Nhất Linh-Tặng Kim Anh-Ất Sửu 1961.
Suốt gần bốn mươi năm, những bức vẽ quý giá đó vẫn được tôi lưu giữ trong cuốn Lưu Bút, gồm những hình ảnh và bút ký của một số nhà văn miền Nam Việt Nam. Trang đầu là di ảnh và chữ ký của bác Nhất Linh Nguyễn Tường Tam vào năm 1960.
Từ ngày Song Thất mồng bảy tháng bảy 1963 đến nay, lại đến ngày Song Thất của năm 2002. Ðã ba mươi chín năm trôi qua, nhưng những kỷ niệm của nhà văn Nhất Linh (bác Tam của tôi) vẫn ghi đậm trong trí nhớ tôi. Tôi ghi lại đôi giòng trên đây, như một nén tâm hương, để kính dâng lên bác.
Oslo tháng bẩy 2002

***
Đôi nét về Trương Kim Anh:
Sinh 1946, tại Hà Nội, là ái nữ của nhà báo kiêm dịch giả Trương Bảo Sơn và nhà văn Nguyễn Thị Vinh.
Năm 1953 theo cha mẹ di cư vào Nam. Trương Kim Anh lớn lên, đi học, lập gia đình ở Sài Gòn.
Năm 1967-1974 theo chồng sống tại Nha Trang .
Năm 1980 đã cùng chồng và con vượt biên tìm Tự Do. Ðịnh cư tại Na Uy.
Trưong Kim Anh bút hiệu Bạch Liên Trưong Kim Anh, là dịch giả của m ột số truyện Dân Gian Na Uy của hai nhà văn nổi tiếng Peter Christen Asbjørnsen và Jørgen Moe; Căn Nhà Búp Bê của kịch tác gia Henrik Johan Ibsen …

_______________

Một lần rồi thôi

Đỗ Hoàng Gia

Em tin trên trước hết, em y như anh, là một con người, và ít nhất em cũng cố gắng trở nên một con người…”.
(Căn Nhà Búp Bê của văn hào Na Uy, Henrik Johan Ibsen,
dịch giả Bạch Liên Trương Kim Anh).
***
Cách đây không lâu, tôi viết bài Chính Danh, liên quan đến mấy bức tranh của nhà văn Nhất Linh. Sau đó, thi sĩ Nguyễn Hữu Nhật đã có nhã ý trả lời qua email riêng. Nhận thấy, nội dung trả lời của thi sĩ NHN vẫn chưa hết ý, nên tôi đã phải mất công tìm cho được cô cháu cưng của bác Tam để hỏi cho ra nhẽ. Bài này gồm có 3 phần chính. Phần thứ nhất, Chính Danh. Đây là bài Chính Danh cũ đã được thu ngắn để bạn đọc mới tiện theo dõi, dù có thể gây một sự khó chịu cho những vị đã đọc rồi. Đỗ Hoàng Gia xin được tạ lỗi về sự nhàm chán này. Phần thứ hai, phỏng vấn Bạch Liên Trương Kim Anh. Phần thứ ba, Trả Nghiệp.

Phần I : Chính Danh
Vừa rồi tôi có cơ duyên đọc một số bài viết rất có giá trị về nhà văn Nhất Linh, trên tờ Thế Kỷ 21, tháng 7, 2002, nhân số tưởng niệm Nhất Linh. Riêng bài viết của Trương Kim Anh trên Thế Kỷ 21, tháng 7-2002, về một vài bức tranh của Nhất Linh, làm tôi đã ngạc nhiên. Đó là lý do chính của bài viết này. Xin được hầu chuyện.
Theo các bài viết trên Thế Kỷ 21, tháng 7, 2002, Nhất Linh vẽ không nhiều. Vẽ tranh, có lẽ là cái thú tiêu khiển của ông. Trong các tranh, có hai bức mà tôi muốn đề cập. Đó là bức thiếu nữ thổi sáo và và bức tranh vẽ bình hoa. Cả hai bức này đều được công bố lại trên tờ Thế Kỷ 21, bên cạnh bài viết Tưởng Nhớ Về Nhất Linh của Trương Kim Anh, con gái nhà báo Trương Bảo Sơn và nhà văn Nguyễn Thị Vinh. Theo Trương Kim Anh, cả hai bức tranh bức đều do Nhất Linh vẽ để tặng riêng cháu gái của bác Tam. Cả hai đều không có tựa đề (title), ngoài mấy dòng tặng cô cháu.
Bức tranh vẽ bình hoa, bác Tam tặng cháu Kim Anh vào dịp tết Tân Sửu 1961, khi ông Trương Bảo Sơn còn ở tù ngoài Côn Đảo. Trong tranh, ngoài bình hoa, Trương Kim Anh cho biết ”bác còn vẽ thêm cuốn truyện dài Cô Mai của mẹ tôi sắp xuất bản, bên trái kèm hai câu thơ : Ngày Xuân tặng cháu bó hoa, Xuân này chúc cháu toàn gia sum vầy”.
Bức thiếu nữ thổi sáo dưới gốc thông ghi mấy chữ Nho, tặng Kim Anh, Nhất Linh. Năm Ất Sửu. Chị Kim Anh cho biết thêm chị học thổi sáo, đàn tranh trường Quốc Gia Âm Nhạc và chính chị thổi bài Thiên Thai nghẹn ngào tiễn bác Tam tại nhà xác bệnh viện Grall.
Trương Kim Anh cho biết chị vẫn còn giữ hai bức tranh trên và nhiều hình ảnh bút ký về bác Tam suốt hơn 40 năm qua.
Thế nhưng trước đó vào năm 2001, tôi đã có thấy hai bức tranh này trong cuốn thơ Cõi Tạm của nhà văn Nguyển Thi Vinh, do nhà xuất bản Anh Em tại Oslo, Na Uy. Người trình bày cuốn thơ là Nguyễn Hữu Nhật. Lạ lùng thay, trong Cõi Tạm, hai bức tranh đó lại được Nguyễn Hữu Nhật trình bày và chú thích khác, trái hẳn với chi tiết của Trương Kim Anh tiết lộ ở trên.
Đây là những sự kiện văn học, cần phải được chính danh. Cụ thể và chính xác.
Sự kiện 1. Theo cách trình bày của ông Nhật, bức tranh có tên là Tiếng Sáo, do Bạch Liên Trương Kim Anh sưu tập (Cõi Tạm, phụ bản trang 71). Nhưng qua bài Tưởng Nhớ Về Nhất Linh, chị Kim Anh cho biết rõ, bức tranh không có tên và được chính bác Tam đích thân tặng riêng chứ chị không sưu tập ở đâu cả.
Sự kiện 2. Cũng theo cách trình bày của ông Nhật, bức tranh có tên Hoa Bất Tử, Nguyễn Tường Tam vẽ cho truyện dài của Cô Mai của Nguyễn Thị Vinh, (Cõi Tạm, phụ bản trang 128). Nhưng qua bài viết của mình, Kim Anh cho biết rõ, bức tranh không có tên và vẽ tặng riêng cho cháu Kim Anh, không hề có ý vẽ cho truyện dài Cô Mai.
Trước những hoả mù trên, chúng ta tin ai ? Xin bàn để rộng ý.
Ông Nguyễn Hữu Nhật là nhà thơ, có nhiều tác phẩm đã xuất bản. Thi sĩ là người xuất hiện thường xuyên trong sinh hoạt báo chí hải ngoại. Thi sĩ đã từng đoạt giải Văn Học Nghệ Thuật của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Ông cũng là tác giả các loạt bài Chém Đá trên Làng Văn gây ồn ào một dạo. Thi sĩ lại càng không phải là người xa lạ chi với cô cháu gái Trương Kim Anh của bác Tam. Chẳng lẽ nào lại tam sao thất bản được ?
Nhưng tôi tin cô cháu gái của bác Tam trình bày trung thực hơn. Nói khác đi, những chi tiết về hai bức tranh trong bài viết của Kim Anh mang tính cách khả tín và thuyết phục hơn vì chính chị là người trong cuộc.
Viết sai, vô tình hay cố tình bóp méo những sự kiện văn học là hành vi đáng trách.
Tự tiện đặt tên tác phẩm của người khác là việc làm rất kém văn hóa. Riêng đối với người đã mất, đó là một hành vi khuất tất và bất xứng.
Chị Trương Kim Anh đã có bài rõ ràng và chi tiết. Tôi mong thi sĩ Nguyễn Hữu Nhật lên tiếng. Một lần cho xong. Đó vừa là trách nhiệm. Và vừa là sự lương thiện cần thiết.

Phần II: Phỏng vấn
Sau khi bài Chính Danh trên được tung ra dư luận, qua báo và trên xa lộ internet, chúng tôi đã nhận được nhiều phản ứng khác nhau khắp nơi. Đặc biệt thi sĩ Nguyễn Hữu Nhật, ngày 17.08.2003, qua email đã hồi âm cho tôi (ĐHG). Nội dung hồi âm có 3 điểm chính như sau:
1. Thi sĩ Nguyễn Hữu Nhật xác nhận những chi tiết và nghi vấn ĐHG đưa ra là chính xác. Nói khác đi, sự kiện hai bức tranh của Nhất Linh mà Bạch Liên Trương Kim Anh đưa ra trong bài Tưởng Nhớ Về Nhất Linh đăng trên Thế Kỷ tháng 7/2002 là xác tín.
2. Tuy nhiên, thi sĩ Nguyễn Hữu Nhật giải thích rằng trách nhiệm cuối cùng thuộc về tác giả của tác phẩm. Trong trường hợp này, trách nhiệm thuộc về nhà văn Nguyễn Thị Vinh, tác giả tập thơ Cõi Tạm. Ông Nhật chỉ là người trình bày, lay-out bản vẽ mà thôi.
3. Vì lý do tình cảm, ông Nhật cho biết sẽ không lên tiếng trả lời trước dư luận dù Đỗ Hoàng Gia (ĐHG) đề nghị trực tiếp riêng ông, có gì sai trái hay oan trái, xin công khai cho rõ ràng.
Để vấn đề được sáng tỏ trước dư luận, chúng tôi đã may mắn liên lạc được với chị Trương Kim Anh (TKA) và đã được chị dành cho cuộc phỏng vấn qua email ngày 8/9-2003 như sau.
Trước hết, chúng tôi xin được giới thiệu đôi nét về chị Trương Kim Anh. Chị Kim Anh, sinh năm 1946 tại Hà Nội, là ái nữ của nhà báo Trương Bảo Sơn và nhà văn Nguyễn Thị Vinh. Chị và gia đình định cư tại Na Uy từ 1980. Chị Kim Anh, với bút hiệu Bạch Liên Trương Kim Anh, cũng là dịch giả của một số truyện cổ Dân Gian Na Uy của hai nhà văn nổi tiếng Peter Christen Asbjørnsen và Jørgen Moe, Căn Nhà Búp Bê của văn hào Henrik Johan Ibsen…
****
ĐHG. Xin chào chị Kim Anh. Xin chị xác định một lần nữa : chị còn giữ hai bức tranh gốc này không ? Ngoài ra chị còn giữ bao nhiêu bức tranh gốc của Nhất Linh ? Bao nhiêu tấm đã công bố ?
TKA: Thưa anh, tôi còn giữ hai bức tranh gốc này. Tôi có tất cả tám bức tranh gốc của Nhất Linh, được vẽ từ năm 1946-1961. Thế Kỷ 21 số đăc biệt Tưởng niệm Nhất Linh 7/7-2002 đã đăng ba bức: hình bìa tranh phong lan - trang 59 bức vẽ thiếu nữ thổi sáo - trang 61 bức vẽ bình hoa - cùng những hình ảnh đặc biệt. Thế Kỷ 21 số 7/7-2003 đăng hình bìa bức vẽ quả Lựu.
Theo tôi được biết tất cả tám bức tranh này và một số hình ảnh liên quan tới Nhất Linh do tôi cung cấp, đăng trong tuyển tập NHẤT LINH-NGƯỜI NGHỆ SỸ-NGƯỜI CHIẾN SỸ sẽ phát hành vào khoảng tháng 10 hay 11 cuối năm nay.
ĐHG : Nếu là của riêng chị, vậy chị đưa cho ai chụp lại, cho vào phụ bản tập thơ Cõi Tạm ? Chị tự ý cho muợn ?
TKA: Gần năm mươi năm qua- coi như nửa thế kỷ, tất cả những bức tranh và những hình ảnh của Nhất Linh đã được tôi trân quý gìn giữ, có bốn bức tranh được tôi lưu trữ trong quyển Lưu Bút kỷ niệm các nhà văn, tôi khởi sự sưu tập từ thập niên 60, gồm có chân dung và chữ ký của một số nhà văn miền Nam Việt Nam mà tôi quý trọng, như chân dung và chữ ký của nhà văn Võ Phiến, Nguyễn Thuỵ Long, Huy Tưởng, Lê Tất Ðiều, ..v..v.., có vài người đã lần lươt ra đi như cố văn hào Nhất Linh, cố thi sỹ Tuệ Mai, cố thi sỹ Vũ Hoàng Chương, cố kịch tác gia Vy Huyền Ðắc, cố họa sỹ Tá Chi Trương Cam Khải, cố dịch giả Phạm Lệ Oanh…
Tôi thường đem quyển Lưu Bút này ra khoe bạn bè, cùng nhau nhớ lại những kỷ niệm và quá trình hoạt động của các nhà văn năm xưa. Tôi sẵn sàng tặng bản copy cho bạn nào muốn có, với lời yêu cầu là nếu không có sự chấp thuận của tôi thì không được công bố trên sách báo, mọi người đều tôn trọng lời yêu cầu của tôi. Riêng nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật được tôi đồng ý cho thu nguyên quyển Lưu Bút vào máy vi tính của riêng ông.
Có babức tranh chứ không phải hai bức đã được dùng làm phụ bản trong tập thơ CÕI TẠM của nhà văn Nguyễn Thị Vinh (Tấm chăn len, trang 11; Thiếu nữ thổi sáo, trang 71; Bình hoa, trang 128) rất tiếc ông NHN đã không thông báo cho tôi biết trước khi dùng những tài liệu riêng tư này.
ĐHG: Trước khi viết bài Thương Nhớ Về Nhất Linh, chị có biết những chi tiết sai lầm trong cuốn Cõi Tạm không ?
TKA: Thưa anh, chính vì biết ba phụ bản tranh vẽ của NL bị ghi chú sai, nên khi viết bài TƯỞNG NHỚ VỀ NHẤT LINH, tôi đã nêu rõ trong hoàn cảnh nào NL đã vẽ ba bức tranh đó .
Tháng 7 năm 2001, một hôm tôi đến thăm mẹ tôi, đúng dịp nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật mang một thùng sách từ nhà in về, trong thùng có mấy chục tập thơ CÕI TẠM của Nguyễn Thị Vinh. Số còn lại để ở nhà in, ông chỉ đem một thùng này về, để mừng sinh nhật của bà Nguyễn Thị Vinh - ông NHN giải thích, trong sự vui mừng xen lẫn ngạc nhiên của mẹ tôi ! Mẹ tôi ngạc nhiên, không ngờ CÕI TẠM lại xong sớm hơn dự tính, coi như món quà "bất ngờ" tặng mẹ tôi nhân dịp sinh nhật thứ 78.
Mẹ tôi lần lượt ký tặng ông NHN và tôi, tập thơ còn thơm mùi mực.Tôi không đọc ngay, đợi đem về nhà, có thì giờ thoải mái hơn.
Ở đây, tôi chỉ xin nhắc tới ba bức tranh vẽ của Nhất Linh được dùng làm phụ bản trong CÕI TẠM, tôi rất ngạc nhiên, đặc biệt bức thiếu nữ thổi sáo và bức bình hoa mà bác NL đã vẽ riêng tặng tôi. Mỗi khi ngắm nhìn hai bức tranh với bao kỷ niệm, tôi có cảm giác như bác Tam của tôi vẫn còn sống và tôi vẫn chỉ là cô bé con dạo nào. Có lẽ tôi cho rằng đây là kỷ niệm bác tặng riêng mình, đã ích kỷ cất giữ như "một thế giới riêng của hai bác cháu mình", nên chưa từng có ý nghĩ đem công bố trên bất cứ báo chí nào.
Chính vì thế mà tôi đã bàng hoàng khi thấy hai bức tranh này bị lấy làm phụ bản cho tập thơ CÕI TẠM, lạ lùng hơn nữa lời ghi chú hoàn toàn sai lạc ý nghĩa của tranh. Hai hàng nước mắt, tôi thì thầm với bác Tam : Bác ơi, thế giới riêng của hai bác cháu mình đã bị xâm phạm rồi”.
Bác Nhất Linh vẽ một bình hoa rực rỡ để "Ngày Xuân tặng cháu bó hoa", bên góc trái là hai câu thơ ví như hình ảnh ba tôi, cạnh bình hoa là tập bản thảo cô Mai ví như hình ảnh của mẹ tôi, một mùa Xuân mang niềm Hạnh Phúc, gia đình đoàn tụ "Xuân này chúc cháu toàn gia sum vầy". Ý nghĩa bức tranh thật hoàn hảo, tình cảm bác đối với gia đình tôi thật chu đáo. Tại sao nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật lại thu gọn ý nghĩa dồn cho một cá nhân "...nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam vẽ cho truyện dài cô Mai của Nguyễn Thi Vinh khi bản thảo trên bàn còn đang viết dở dang ngày mồng một Tết năm Tân Sửu 1960)
Vài ngày sau tôi tìm gặp mẹ, cố giữ giọng bình tĩnh, nhẹ nhàng hỏi: "Mẹ ơi mẹ!Tại sao lời ghi chú dưới hai bức tranh bác Tam vẽ hoàn toàn sai lạc?" mà tôi không dám trách người đã tự ý dùng tài liệu. Ngay lúc đó tôi được mẹ cho biết là mẹ đã không chú ý về những lời ghi chú này. " Ðể mẹ hỏi ông Nhật" mẹ tôi nói.
Vài ngày sau nữa, tôi trực tiếp hỏi ông Nhật, lật từng trang sách, chỉ từng bức tranh, nhẹ trách ông Nhật rằng, bức tranh hoa này này, rõ ràng bác Tam đề hai câu thơ "Ngày Xuân tặng cháu bó hoa - Xuân này chúc cháu toàn gia xum vầy" tặng tôi . Tại sao ông lại ghi chú là bác tặng nhà văn Nguyễn Thị Vinh. Còn bức vẽ người thiếu nữ thổi sáo này nữa, những chữ Nho bác ghi tặng Trương Kim Anh, đã là của tôi, tại sao lại ghi là tôi sưu tập ?
Ông Nhật trả lời công việc bận quá, việc nào ông cũng phải giải quyết gấp! Mệt quá, mờ cả mắt nên ông không nhìn thấy hai câu thơ, với lại chữ của NL nhỏ ly ty ! Ông xin lỗi tôi, hứa sẽ đính chánh trong số Hương Xa tới .
Tôi không hài lòng câu trả lời trên, theo tôi, Nguyễn Hữu Nhật là một nhà thơ kiêm họa sỹ, chỉ cần một nét chấm phá nhỏ trong bất cứ bức tranh nào, cũng đều được thu trọn vào đôi mắt kinh nghiệm của một họa sỹ, nói chi tới hai câu thơ "chữ nhỏ ly ty" ?
Giá ông Nhật chỉ cần nói với tôi một câu, chủ yếu làm phụ bản cho cuốn thơ của mẹ tôi và đừng có ghi chú sai, nể tình người nhà, đương nhiên tôi chấp thuận.
Tôi không nhắc tới bức thứ ba vẽ tấm chăn len, chính bức này mới là bức nên ghi chú do tôi sưu tập. Mà thôi, người nhà với nhau, bức này phiên phiến cho qua !!! Tôi cũng không muốn làm mất thì giờ của một người đam mê phục vụ văn hóa.
Sự thể đã rõ ràng, ông NHN phải chịu trách nhiệm về mấy bức tranh của Nhất Linh tặng tôi. Cho tới nay, đã hai năm trôi qua, Giai Phẩm Hương Xa ra thêm mấy số, ông Nhật vẫn chưa lên tiếng đính chánh.
ĐHG: Nhưng đây là một vấn đề về chứng liệu văn học sử, chị tính sao ?
TKA: Chuyện đã lở dở như vậy, biết tính sao đây ? Ðã như vậy, tôi đành cho công bố toàn bộ tài liệu Nhất Linh trên báo, tôi chợt nghĩ tới nhà báo Lê Ðình Ðiểu nguyên chủ nhiệm tạp chí Thế Kỷ 21, anh đã từ trần năm 1999, tôi nghĩ tới anh với bao niềm thương tiếc và khâm phục. Trong giây phút đó, tôi quyết định chọn Thế Kỷ 21.
Lúc bấy giờ đang là giữa tháng tư, tôi liên lạc với Phạm Phú Minh, chủ bút Thế Kỷ 21, trình bày ý định của mình và cùng anh bàn về số đặc biệt TƯỞNG NIỆM NHẤT LINH 7/7-2002. Sau khi phát hành, số báo đặc biệt này đã được độc giả khắp nơi nhiệt liệt đón nhận. Dưới đây là email của Phạm Phú Minh gửi cho tôi, ngày 26/07-2003. Xin trích một đoạn:
“ Kim Anh thân,
Phải nói một điều là nếu không có Kim Anh thì không có số báo về Nhất Linh này đâu. Kim Anh là động lực chính, và người cung cấp tài liệu dồi dào nhất. Đài RFI bên Pháp đã phỏng vấn tôi về số báo này, sau khi phát thanh, dân Việt Nam bên Pháp gọi về đài mua báo qúa trời, mà họ đâu có báo để bán ! Đài phát thanh VNCR ở Nam Cali cũng có một buổi hội luận về số báo này, do Y Sa, Nguyễn Tường Thiết và Phạm Phú Minh thực hiện, thiên hạ nghe xong đi tìm mua báo rần rần.
Công của Kim Anh, “cháu của bác Tam”, lớn lắm. Thay mặt báo Thế Kỷ 21 tôi xin gởi lời cơn đến Kim Anh “.
Tôi trả lời anh qua điện thoại viễn liên: "Cám ơn anh bức email tôi vừa mới nhận được. Theo như tôi hiểu, mọi chuyện đều do Nhân Duyên mà thành." - Lòng hân hoan, tôi có cảm giác linh hồn bác Nhất Linh và anh Lê Ðình Ðiểu đang nhìn tôi mỉm cười chia sẻ.
ĐHG: Chị có đồng thuận với ý kiến của thi sĩ Nguyễn Hữu Nhật là trách nhiệm thuộc về tác giả, tức nhà văn Nguyễn Thị Vinh. Nếu đồng ý hay không đồng ý, xin cho biết tại sao.
TKA: Trong trường hợp đặc biệt này, tôi đồng ý và cũng không đồng ý với ông NHN là trách nhiệm thuộc về tác giả:
- Ðồng ý, trường hợp thông thường, sau khi một tác phẩm được layout xong, tác giả là người kiểm soát cuối cùng trước khi cho in.
- Không đồng ý, như tôi đã trình bày ở trên. Đây là trường hợp đặc biệt, nhà thơ NHN và nhà văn NTV đã có mấy chục năm chung sống, cùng tương đắc nỗ lực hoạt động văn hóa : ngoài việc sáng tác một số tác phẩm đáng kể, còn thành lập nhà xuất bản Anh Em, cho ra tờ Giai phẩm Hương Xa - chủ nhiệm nữ sỹ NTV- có thể được coi như tờ báo Việt Nam duy nhất ở Na Uy, ..v..v.. Như vậy hai người phải "đồng làm đồng chịu", cớ sao ông Nhật lại đổ hết trách nhiệm cho nhà văn NTV.
ĐHG: Những bức tranh đó, không có tên, vậy thi sĩ Nguyễn Hữu Nhật tự ý đặt tên Hoa Bất Tử, Thiếu Nữ Thổi Sáo... Riêng chị, với tâm tình “cô cháu cưng của bác Tam”, chị nghĩ sao ? Bởi tôi nhận được rất nhiều phản ứng của độc giả và họ có nhắc nhở tôi nên làm rõ việc này.

TKA: Tôi có bức tranh đã được NL đặt tên như bức "Chùa Cá", được đăng trong tuyển tập NHÂT LINH-NGƯỜI NGHỆ SỸ-NGƯỜI CHIẾN SỸ sẽ được phát hành trong vòng tháng 11-2003 – (theo thông tin của nhà báo Phạm Phú Minh). Còn tự ý đặt tên cho những bức tranh của người đã khuất, là chuyện giữa thi sỹ NHN với độc giả khắp nơi. Ở đây, tôi chỉ xin trả lời mấy bức tranh có liên quan tới tôi.
ĐHG: Thi sĩ Nguyễn Hữu Nhật cho biết ông sẽ không lên tiếng vì một lẽ hết sức tế nhị, vấn đề tình cảm, và cho biết nhà văn Nguyễn Thi Vinh cũng ý định tương tự. Chị nghĩ sao ?
TKA: Chính ông Nhật đã tự mâu thuẫn một khi đã từ chối lên tiếng vì "tế nhị, nghĩ đến tình gia đình". Buộc lòng tôi phải nhận lời phỏng vấn của Ðỗ Hoàng Gia.
Tình cảm tế nhị hay không thì gia đình tự giải quyết, nhưng ông NHN có trách nhiệm lên tiếng với độc giả về sự lầm lẫn của mình. Riêng tôi, tôi đã hoàn tất trách nhiệm với độc giả, những gì tôi muốn nói đã nói trong bài TƯỞNG NHỚ VỀ NHẤT LINH, những gì tôi cần làm đã làm trong báo Thế Kỷ 21 số 7/7-2003.
Tôi xin nhắc lại: Có lẽ tôi đã từ chối cuộc phỏng vấn này, nếu ông NHN đừng trốn tránh trách nhiệm, đổ qua cho mẹ già tôi hứng chịu. Tôi tán thành Ðỗ Hoàng Gia đã lên tiếng, đòi hỏi nêu "Chính danh" một vấn đề liên quan đến nền văn học Việt Nam.
ĐHG: Câu hỏi cuối, ngoài lề, có gì xin chị rộng tâm, hoan hỉ thứ lỗi. Có một dạo, trước 1975 ở quê nhà, có tin đồn chị là con riêng của nhà văn Nhất Linh ? Chị có biết không ?
TKA: Vâng, tôi có biết tin đồn này xảy ra từ thời nhà văn Nhất Linh còn sống, chẳng qua là lời đồn đại vô căn cớ. Anh hỏi khiến tôi nhớ lại một kỷ niệm vui hồi đó, vợ chồng bác Nhất Linh và ba mẹ tôi là chỗ thân tình, hai bác thấy tôi và anh Nguyễn Tường Thiết thân nhau, nên hai bác có ý xin tôi về làm dâu. Việc không thành vì tôi đang còn đi học với tuổi mộng mơ. Về sau anh Thiết và tôi cũng không duyên không nợ. Anh chị Thiết hiện sinh sống tại Mỹ quốc, anh em chúng tôi vẫn duy trì tình cảm tốt đẹp như thủa mấy chục năm về trước.
Năm ngoái, nghe tin anh Nguyễn Tường Thiết thành lập một bảo tàng nhỏ tại tư gia, chưng bày toàn tài liệu có liên quan đến cố Văn Hào Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Ðể góp phần tôi đã hân hoan ngỏ ý tặng anh quyển Lưu Bút các nhà văn, với trọn bộ tài liệu và hình ảnh kỷ niệm của bác NL.
Anh hồi đáp qua email " Bảo tàng viện nói cho to chứ hiện giờ nó là một bộ sưu tập của anh về tất cả những gì liên quan đến ông cụ, ..." và anh tỷ mỷ liệt kê những tài liệu Nhất Linh mà anh đã giữ được, đặc biệt hai bức sơn dầu lớn, do cố danh họa Nguyễn Gia Trí họa chân dung ông bà Nhất Linh. Theo tôi, tất cả đều là những tài liệu quý giá, có tầm mức quan trọng cho văn học sử nước ta .
Anh khuyên tôi: "Tất cả những thứ đó trong tương lai xa, sẽ phải thuộc về Bảo tàng viện Quốc gia Việt Nam (Hy vọng lúc đó thể chế VN hoặc khá hơn hoặc đổi thay). Anh nghĩ rằng hiện tại thì em cứ nên giữ tất cả những gì em hiện có (ông cụ tặng em, nó là của em), anh chỉ cần bản chụp lại thật trung thực, .... Anh cần tất cả những tranh vẽ và hình ảnh em có về ông cụ...."
Có lẽ không riêng gì anh Nguyễn Tường Thiết, mà tất cả chúng ta đều hy vọng một ngày gần đây, Việt Nam sẽ khá hơn, hay sẽ có sự thay đổi, giống như nhiều nước, một Bảo Tàng Viện Quốc gia dành riêng cho các Văn Nghệ Sỹ sẽ được thành lập trên quê hương chúng ta. Xin chào anh.
ĐHG. Xin cám ơn chị.
***
Bài phỏng vấn Bạch Liên Trương Kim Anh ngày 8.9.2003 đã trả lời rất đầy đủ và chi tiết. Chúng tôi xin cảm phục sự can đảm của chị. Vì yêu cầu chính danh cho những sự kiện lịch sử dù cho rất nhỏ, chị đã vượt qua được trăn trở tình cảm riêng, để ”đã nói thì nói cho hết ”. Ngoài ra, chị đã tiết lộ thêm nhiều tin tức giá trị khác. Chúng tôi cũng cám ơn chị đã cho biết rõ là chính Trương Kim Anh, ”cô cháu cưng của bác Tam”, đã cất tiếng sáo tiễn biệt bác Tam tại nhà xác bệnh viện Grall. Chi tiết nho nhỏ lý thú này mà nhiều nguời, kể cả trong và ngoài nước, từ lâu còn phân vân.
Qua phỏng vấn trên, tôi xin khép lại bài viết này bằng ít giòng bàn về khía cạnh văn hoá. Tức việc tự ý đặt tên tranh của người khác.

Phần III : Trả nghiệp
Giống như đạo văn, tự tiện đặt tên tác phẩm của người khác, là một trong những cung cách ít văn hoá nhất. Ngoài tài làm thơ, ông Nhật còn là thợ vẽ. Nghĩa là ông vừa là nhà thơ, vừa là họa sĩ. Ông nghĩ sao nếu có người nào đó đặt tên cho tranh của ông ? Ông sẽ phản ứng ra sao, khi mà tranh của mình trở thành cái tranh mang ”hồn của ông Trương Ba mà thân xác lại thuộc về anh hàng thịt” ? Sự lang chạ này, đối với người đã khuất, làm sao đây ?
Ông là nhà báo. Ông lại có báo Hương Xa trong tay. Ông là nhà thơ. Làm thơ tù. Làm thơ tình. Làm thơ tôn giáo. Ông còn là nhà văn. Ông viết đủ thứ. Nói chung, ông làm văn hoá. Nhưng sao ông không có cái khí phách văn hoá và sự can đảm văn hoá, công khai đính chính hay sửa sai xin lỗi mà lại ”đánh bùn sang ao” cho một người khác.
Có độc giả phản ánh sau khi đọc bài Chính Danh: “dù sao thi sĩ NHN là một nhà văn hoá tên tuổi, có nhiều tác phẩm xuất bản, có sai sót thì không nên phê phán nặng nề quá, nhẹ nhàng nhắc nhở thôi”. Đó cũng là một nhận định lý thú. Tuy nhiên, tôi xin phép được không đồng ý về chuyện phân biệt cao thấp trong văn nghệ để có phản ứng theo công thức tem phiếu. Hơn nữa, là một nhà văn hoá tên tuổi như thi sĩ Nguyễn Hữu Nhật, tác phẩm của ông đã có giá trị tự thân rồi. Một việc nhận định nghiêm túc về cách ứng xử văn hoá không làm giảm giá trị tác phẩm của ông. Thực ra, đó chỉ là một bài học vỡ lòng: đôi khi ta miệt mài làm văn hoá cho người khác, mà quên vun xới văn hoá cho chính mình.
11.09.2003

***

Phụ đính II:

 

Tưởng niệm Nhất Linh   7.7.1963 – 7.7.2008  

Nguyễn Tường Tâm

Than ôi! Đời chính trị lông hồng gieo núi Thái, ngẩng đầu lên sấm sét vẫn chưa nguôi;
Việc văn chương một tấc để ngàn thu, ngoảnh mặt lại đá vàng sao khỏi thẹn.
(Trích bài truy điệu Nhất Linh của thi sĩ Vũ Hoàng Chương [1] )

***
Các phóng viên quốc tế chen lẫn trong đám đông đưa tiễn Nhất Linh. Trước giờ hạ huyệt, nhà văn Nhật Tiến, thuộc thành phần văn nghệ sĩ trí thức trẻ, Linh mục Thanh Lãng, đại diện Trung tâm Văn bút Việt Nam, và Bác sĩ Nguyễn Tiến Hỷ, đại diện chính giới đã đọc những bài điếu văn tiễn biệt văn hào Nhất Linh với những lời lẽ bi ai, thống thiết, đầy thương cảm, nhưng cũng thật hào hùng.
Đám tang văn hào Nhất Linh diễn ra tại Sài Gòn vào sáng thứ Bảy, ngày 13.7.1963 và lễ truy điệu ông diễn ra bốn tháng sau ngày cách mạng 1.11.1963 lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, tại sân vận động Tao Đàn Sài Gòn.
Những bức ảnh trong bài này được chụp bởi nhiếp ảnh gia nổi tiếng Mạnh Đan và cũng là những bức ảnh trải qua những năm tháng trôi nổi như cuộc đời của ông Nhất Linh. Sau 30.4.1975, để thoát khỏi chính sách của nhà nước truy lùng tiêu hủy sách báo và văn hoá phẩm miền Nam, người con dâu của ông Nhất Linh đã phải chôn giấu bộ ảnh dưới làng quê Thủ Đức của bà. Sau đó bà đã cẩn thận lén photocopy làm nhiều bản để trao cho nhiều thân nhân, bạn bè cùng cất giữ. Riêng trường hợp của tôi, gần mười năm sau, khi đi tù cải tạo xã hội chủ nghĩa trở về, đã được bà trao một bộ copy. Năm năm sau, 1989, tôi đào thoát trong một cuộc vượt biên duy nhất cùng gia đình mà thành công tại Đông Hà, Quảng Trị, bộ ảnh bị bỏ lại cùng toàn gia sản. Lúc đó mạng người còn khó bảo trọng nữa là!
Mười lăm năm sau (2004), khi người vượt biên đã được nhà nước đổi danh xưng từ những “tên phản bội tổ quốc” thành những “khúc ruột xa ngàn dặm”, trở về lại nơi đã đào thoát một cách mạo hiểm trước đó, người viết đã phải cám ơn cô Trần Thị Lan, em vợ, khi cô trao lại những tấm ảnh này kèm theo những lời đáng kính trọng: “Khi anh chị và các cháu ra đi, mọi người chỉ chú ý di chuyển gấp những tài sản còn lại ra khỏi nhà của anh chị để khỏi bị tịch thu cùng với căn nhà, chẳng ai biết và chú ý tới những tấm ảnh này. Nhưng em biết, với anh, những tấm ảnh này là quí hơn tất cả, nên em cất đi, đợi ngày anh về đưa lại.” Ôi sao chỉ là những tấm ảnh thôi mà cũng phải lao đao lận đận theo vận nước nổi trôi mãi 29 năm trời!
Ngày mùng 7 tháng 7 năm 1963, cương quyết phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam đã uống thuốc độc tử tự tại Sài Gòn.
Ông đã để lại chúc thư nổi tiếng được các hãng thông tấn ngoại quốc truyền đi khắp thế giới, "Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ, xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất về tay cộng sản. Tôi phản đối sự đó. Và cũng như Hoà thượng Thích Quảng Đức, tôi tự huỷ mình để phản đối những ai chà đạp lên mọi thứ tự do .” Nội dung bản chúc thư của ông ngày nay cũng vẫn còn phù hợp với tình hình đất nước.
Mặc dù có sự ngăn cản mạnh mẽ của công an, mật vụ, đám tang Nhất Linh vẫn có cả ngàn thanh niên, sinh viên, học sinh, văn nghệ sĩ, trí thức cùng đồng bào tham dự.
Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm , người bạn thân và cũng là bác sĩ riêng của Nhất Linh đã thuật, “Ở đây tôi cũng cần nói là trong suốt thời gian linh cữu của anh Nhất Linh quàn tại nhà xác, có ít ra hàng chục công an, mật vụ ngày đêm túc trực để theo dõi từng người tới viếng. Có khi họ còn hỏi thẻ kiểm tra, tra khảo lý lịch, đe doạ dẫn vào bót nữa, nhất là đối với các thanh niên, học sinh, sinh viên. Giới này được chính quyền để ý nhiều hơn hết hôm thứ Bảy 13-7-1963, ngày đưa đám Nhất Linh.
Trên các ngả đường đưa tới bệnh viện Grall đều có rất nhiều cảnh binh, công an canh gác, chặn đường không cho vào bệnh viện, hoặc xua đuổi những ai lảng vảng gần đây.
Gia đình anh xin phép đưa vào buổi sáng chủ nhật, nhưng chính quyền một mực từ chối, cái đó dễ hiểu, vì họ sợ đưa đám ngày nghỉ, thiên hạ sẽ đi dự rất đông.
Xin phép đưa chiều thứ Bảy, họ cũng từ chối nốt, vì chiều thứ Bảy, cũng là ngày nghỉ của các công sở. Họ chỉ ưng thuận, hoặc sáng thứ Bảy, đúng 8 giờ rưỡi, hoặc sáng thứ Hai. Đành phải bằng lòng sáng thứ Bảy vậy.
Vòng hoa kính viếng ông Nhất Linh của các đồng chí Việt Nam Quốc dân Đảng của ông. Dòng chữ phía trên: Nguyễn Thái Học 17-6-1930. Dòng chữ dưới: Nguyễn Tường Tam 7-7-1963.
Đám tang thật là đơn giản, nhưng vô cùng ảm đạm, trang nghiêm. Khi khởi hành từ bệnh viện Grall, số người tham dự còn thưa thớt, nhưng dần dần mỗi lúc một đông. Phần nhiều là thanh niên, học sinh, sinh viên, giới trí thức. Có rất đông phóng viên, ký giả ngoại quốc, nam có, nữ có, có mặt trong đám táng để chụp ảnh hoặc để quay phim. Họ chịu khó biên chép tất cả những câu viết trên các đối trướng rồi nhờ người dịch sang tiếng Anh. Họ lại còn ghi âm tất cả những lời khóc than kể lể của chị Nhất Linh. Như vậy đủ rõ cái chết của văn hào Nhất Linh đã gây một tiếng vang lớn, không riêng gì ở Việt Nam mà ở cả trên thế giới nữa.”

[2] Bốn tháng sau ngày cách mạng 1.11.1963, lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, các đoàn thể và nhân dân đã tự động làm lễ truy điệu ông Nhất Linh tại sân vận động Tao Đàn (lúc đó chưa có sân vận động Thống Nhất)
Bức ảnh chân dung Nhất Linh là phóng họa từ tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Gia Trí, bạn thân và cũng là đồng chí của ông từ thời Tự lực Văn đoàn.
Sau lưng vị cao tăng là biểu ngữ của học sinh hai trường trung học dạy theo chương trình Pháp nổi tiếng tại Sài Gòn: trường nam sinh Jean Jacques Rousseau (nay là trường Lê Quí Đôn) và trường nữ sinh Marie Curie. “Phải nhiều đời mới có một Nhất Linh thành lập nổi một văn đoàn Tự lực , nuôi sống – về tinh thần – được hai tờ Phong hoá, Ngày nay”. (Nguyễn Mạnh Côn , tác giả cuốn Đem tâm tình viết lịch sử ).

[4] © 2008 talawas

[1]Văn số 156, ngày 15 tháng 6 năm 1970, talawas 9.6. 2008
[2]Chân dung Nhất Linh . Tập hồi ký của Bùi Khánh Đản, Nguyễn Hữu Phiếm, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Tường Thiết, Thế Uyên, Tường Hùng và Tuyết Hương. Do tập san
Văn xuất bản xuất bản ngày 25.6.1966. talawas 5.6.2008.
[3] Sách đã dẫn.
[4] Sách đã dẫn

_________________

Ngày 7 tháng 7, tưởng niệm Nhất Linh

Nguyễn Mạnh Trinh

Tháng bảy năm nay dường như trời ít nóng hơn mọi năm. Cái khí hậu có vẻ bất thường ấy không biết có phải vì bầu khí quyển bị ô nhiễm hay không hoặc là những điềm lạ báo hiệu một tương lai nào đó cho nhân loại? Thời tiết bây giờ có vẻ còn vương vấn của mùa xuân và mùa hạ đến ngập ngừng với vài ngày nóng e dè khác hẳn với cái khí hậu hừng hực nhiệt độ của các năm trước.
Buổi trưa, nhìn lên bầu trời xanh ngắt lại nhớ đến buổi trưa thuở nào lúc còn bé. Những bài học thuộc lòng giở trên cánh võng. Những câu thơ một thời khi còn học tiểu học. Cuốn sách " Tân Quốc Văn " ấp trên ngực. Những câu thơ đến bây giờ gần năm chục năm sau còn nhớ.
Tôi, trong buổi trưa xứ người hôm nay , đọc, để thấy lòng cũng rung động theo từng cảm xúc. Đọc, để thấy mình yêu một thời đã qua, khi còn bé di cư vào nam học lớp nhì , lớp nhất. Từ khi là cậu bé con, cũng đã biết căm thù quân cướp nước và kính trọng các anh hùng liệt sĩ hy sinh vì nước.
"...Gío căm hờn rền rỉ tiếng gào than
Từ khung trời sương trắng phủ màn tang
Aùnh mờ nhạt của bình minh rắc nhẹ
Trên Yên Báy âu sầu và lặng lẽ
Giữa mấy hàng gươm súng tỏa hào quang
Mười ba người liệt sĩ Việt hiên ngang
Thong thả tiến đến trước đài Danh Dự
Trong quần chúng đứng cúi đầu ủ rũ
Vài cụ già tóc bạc lệ tàn rơi
Ngất người sau tiếng rú ới con ơi
Nét u buồn chợt mơ màng thoáng gợn
Trên khóe mắt đã từng khinh đau đớn
Của những trang anh kiệt sắp lìa đời
Nhưng chỉ trong giây lát vẻ tươi cười
Lại xuất hiện trên mặt người quắc thước
Đã là kẻ hiến thân đền nợ nước
Tình thân yêu quyến thuộc phải xem thường
Eùo le thay! Muốn phụng sự quê hương
Phải dẫm nát bao lòng mình quí mến
Nhưng này đây, phút thiêng liêng đã đến
Sau cái nhìn chào non nước bi ai
Họ thản nhiên lần lượt bước lên đài
Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng
" Việt Nam muôn năm". Một đầu rơi rụng
"Việt Nam muôn năm!"Người kế tiến lên
Và tử thần kính cẩn đứng ghi tên
Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc ..."
Nhà thơ Đằng Phương ( tức giáo sư Nguyễn Ngọc Huy) đã viết cho dân tộc và cho tuổi thơ chúng tôi những vần thơ đi vào tim óc để thành những lời trong tâm khảm một đời. Hơn mười tuổi đầu mà đã nghe rưng rưng trong tâm những cảm xúc . Bài thơ viết về ngày 17 tháng 6 năm 1930, khi thực dân Pháp xử chém 13 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng sau cuộc khởi nghĩa võ trang trên toàn quốc thất bại. Bọn thực dân tưởng rằng với chính sách khủng bố như ném bom triệt hạ làng Cổ Am hay xử chém các lãnh tụ VNQDĐ sẽ làm tan rã ý chí đối kháng cũng như tinh thần yêu nước của dân tộc Việt . Nhưng ngược lại , chính những sự kiện ấy đã hun đúc một tinh thần của truyền thống hào hùng dân tộc.
VNQDĐ từ khi thành lập đã có chủ trương rất rõ ràng: chống thực dân Pháp , đòi độc lập tự do cho đất nước bằng biện pháp quân sự. Chiều 30 tết năm Mậu thìn(ngày 9 tháng 2 năm 1929) ba đảng viên Nguyễn Văn Viên , Nguyễn Văn Lân và Nguyễn Đức Lung đã ám sát tên trùm thực dân là cò Bazin tại phố Chợ Hôm Hà Nội đã làm rúng động cả nước và sau đó là những đợt truy lung trả thù khốc liệt của thực dân Pháp.
Ngày 10 tháng 2 năm 1930 , VNQDĐ tổng khởi nghĩa, đồng loạt tấn công các đồn binh của Pháp tại Yên Bái , Lâm Thao, Hưng Hóa, cảm tử ném bom tại Hà Nội, tấn công quân Pháp trên cầu long biên, đánh Đáp Cầu, Phả Lại, Phụ Dực , Vĩnh Bảo, Kiến An, xử tử tên tri huyện Vĩnh Bảo Hoàng Gia Mô là cháu Hoàng Cao Khải , và là một sâu dân mọt nước tay sai đắc lực của thực dân.
Tổng khởi nghĩa bị thất bại vì tương quan lực lượng quá chênh lệch . Ngày 20 tháng 2 năm 1930 , đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị bắt tại làng Cổ Vịt. Và ngày 17 tháng 6 năm 1930 ông và cùng 12 đồng chí khác bị lên đoạn đầu đài . Sau đó hơn 30 đảng viên khác bị xử tử hình và hàng ngàn người bị tù khổ sai lưu đầy biệt xứ. Cô Giang tức Nguyễn thị Giang , người yêu của đảng trưởng Nguyễn Thái Học cũng tuẫn tiết theo.
Bài học lịch sử ấy đã được nhắc lại từ những câu thơ mà hồi nhỏ tôi thuộc lòng. Hùng tráng quá và cao cả quá!Những anh hùng dân tộc coi tính mạng mình như lông hồng và coi cái chết là chuyện thường tình như câu nói của Nguyễn Thái Học đã nói với người linh mục Tây Dương khi ông này đòi làm phép thánh cho ông :
" Chết vì Tổ Quốc cái chết vinh quang , lòng ta vui sướng , trí ta nhẹ nhàng.."
Dòng tộc tôi có nhiều người là đảng viên Việt Quốc. Bố tôi thường nhắc đến một thời kỳ bắt đầu chiến tranh và dù có một kẻ thù chung là Pháp nhưng hai phe Quốc và Cộng đã có những mâu thuẫn sâu sắc. Bố tôi lúc đó thường đến khu Ngũ Xã để lấy về đọc tờ báo Việt Nam của các lực lượng Việt Quốc và Việt Cách mà thời đó phải đọc giấu diếm vì sợ bị Việt Minh theo dõi và bắt bớ .
Dù đã có thời kỳ tham gia chính phủ liên hiệp nhưng sau Việt Minh Cộng sản đã tấn công các lực lượng quốc gia và một số lãnh tụ phải lưu vong sang Hoa Nam. Những người ở lại bị thủ tiêu , giam cầm như nhà văn Khái Hưng chẳng hạn.
Trong số các người lưu vong có nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Oâng bị lên án và tuyên truyền rằng đã ăn cắp một số tiền là ba triệu đồng của ngân quỹ bộ ngoại giao và những vở kịch bôi nhọ được trình diễn khắp nơi mà người đã xem vở kịch ấy là hai anh em nhà văn Duy Lam và Thế Uyên đã kể lại trong các bài viết nhiều lần.
Với tôi, tôi rất khoái cái tâm cảm làm cách mạng của Dũng trong tiểu thuyết Đôi Bạn của Nhất Linh. Lãng mạn , đầy chất nghệ sĩ và nhiều cá tính , có lẽ đó là nhân dáng dấn thân một thời của những người chấp nhận gian nguy sương gió. Từ nhỏ tôi đã coi ông như một thần tượng với những hào quang hơn người như dù nhà nghèo nhưng học giỏi được du học bên Pháp hay là một nhà văn có lý tưởng hoặc là một nhà cách mạng có tâm huyết. Học Việt Văn ở trung học , hiểu biết đôi chút về văn học Việt Nam mà nổi bật là Tự Lực Văn Đoàn , tôi đã đọc và đã học ở trung học nên chịu ảnh hưởng khá nhiều trong suy nghĩ cũng như trong cuộc sống.
Năm 1963, khi cuộc tranh đấu chống lại chế độ của tổng thống Ngô Đình Diệm của Phật Giáo lên đến độ cao nhất thì đúng ngày Song thất kỷ niệm ngày chấp chánh của tổng thống Ngô Đình Diệm, ngày 7 tháng 7 năm 1963, nhà văn Nhất Linh tự tử vì không muốn bị tòa án của chế độ kết án khi xử vụ đảo chính ngày 11 tháng 11 năm 1963 với tội trạng bị cáo buộc là có tham dự vào cuộc phản loạn
Khi tự vẫn ông đã để lại một di chúc chính trị mà ý nghĩa của nó vẫn còn ảnh hưởng đến tận cho những thế hệ sau:
"Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản.
Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình, cũng như hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp lên mọi thứ tự do.
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam -7/7/1963."
Cái chết của ông là một chấn động làm rung rinh cả chế độ Ngô Đình Diệm cả trong dư luận trong nước và quốc tế. Sau Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu đến nhà văn Nhất Linh tuẫn tiết, rồi những cuộc biểu tình bãi khóa của sinh viên học sinh chống chế độ dẫn đến cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963.
Lúc còn là học sinh , tôi cũng là một người tham gia biểu tình bãi khóa và khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ đã tham gia lễ tưởng niệm nhà văn Nhất Linh với sự kính trọng của một kệ hậu sinh. Tôi nhớ lại buổi lễ tưởng niệm ở sân vận động Tao Đàn vào năm 1964. một cuộc lễ trang trọng mà không phải chỉ có đảng VNQDĐ mà hầu như tất cả mọi người dân mà trong đó giới trẻ sinh viên học sinh chiếm đa số.
Bây giờ nhìn lại tình hình chính trị thời ấy , tôi nghĩ rằng tổng thống Ngô Đình Diệm đã có công gầy dựng được một chính quyền vững vàng ở miền Nam nhưng chính cái lề lối cai trị độc đoán đàn áp đối lập đã khiến nhiều người trước ủng hộ ông nay quay ra chống đối. Và cộng thêm với sự Hoa kỳ muốn can thiệp sâu hơn vào nội tình Việt Nam nên hai anh em tổng thống và cố vấn bị thảm sát.
Nhà văn Duy Lam đã kể lại một chuyện khi nhà văn Nhất Linh thực hiện giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay thì số ra mắt đề ngày 17 tháng 6 năm 1958 là ngày kỷ niệm 13 liệt sĩ VNQDĐ lên đoạn đầu đài ở Yên Bái. Thế mà Bộ Thông Tin bắt xóa hàng chữ để ngày tháng nói trên viện cớ Văn Hóa Ngày Nay là một giai phẩm không định kỳ nên không có quyền để ngày tháng. Và như thế số ra mắt của giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay do Nhất Linh chủ trương có một hàng chữ bị bôi đen trên bìa báo. Sự kiện ấy chứng tỏ sự trù dập kỳ thị của hệ thống kiểm duyệt lúc đó...
Cái chết của một nhà văn , một nhà chính trị lớn đã ảnh hưởng nhiều vào thời cuộc. Ngay sau đó và cho đến bây giờ, có nhiều giả thuyết về cái chết của Nhà văn Nhất Linh. Có người cho rằng cái chết ấy để cảnh tỉnh dân tộc và chế độ , là một phương cách tranh đấu cho tự do dân chủ bất bạo động. Có người lại nêu lên cái triết lý sống tuyệt hảo của nhà văn qua cái chết. Cũng như có người đã coi ông là thần tượng về văn học đã đành mà còn là thần tượng chính trị nữa.
Không những ở miền Nam mà cả ở miền Bắc cũng đề cập nhiều đến cái chết của ông. Nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, một thành viên của tự Lực Văn Đoàn và là người thân cận với ông suốt một thời gian dài thì cho rằng tâm thần của nhà văn Nhất Linh hay bị dao động nhiều vì những biến cố chính trị trong đời và có lúc phải đi nhà thương chữa bệnh tâm trí. Nhiều người ở miền Bắc cũng tán đồngvà nêu ra sự tự sát của ông là hệ quả tất yếu của một con người không bình thường đã nhuốm sẵn tính bi quan trong cuộc sống. Sự việc lờ đi không nhắc tới Tự lực Văn Đoàn trong văn học sử cũng như nhận định một chiều để hạ giá trị những lãnh tụ quốc gia như Nhất Linh là một điều rõ ràng trong thực tế.
Thời gian qua đi . Đến nay đã gần nửa thế kỷ, vẫn có nhiều nhận định về con người văn hóa hoặc con người chính trị của nhà văn Nhất Linh mà tiêu biểu nhất là về cái chết của ông. Thời gian qua đi để có một khoảng cách làm những xúc cảm lắng đi và những nhận định không bị ảnh hưởng vì thiên kiến. Tưởng như vậy , nhưng vẫn có những nhận định trái ngược nhau mà căn bản là phát xuất từ cảm quan khác nhau, vị trí quan sát khác nhau...
Gần đây có bài viết về cái chết của nhà văn Nhất Linh và cho rằng cái chết của ông là một cái chết định sẵn gặp đúng thời điểm và hội tụ nhiều dữ kiện tương hợp tạo thành chứ không phải là một cái chết mà nguyên do là phản ứng của kẻ sĩ dùng sinh mạng mình để tranh đấu cho tự do dân chủ. Bài viết này đã mang những điều nhà văn Nhất Linh viết cũng như lời các người thân thuộc với nhà văn để kết luận rằng cái chết của ông là một cái chết định sẵn của một người mang bệnh hoạn chứ không phải của một người bình thường sáng suốt dùng cái chết để cảnh tỉnh chế độ...
Tôi đọc tất cả những bài báo viết về đề tài kể trên và mặc dù đã gần nửa thế kỷ qua, mà tấm lòng của một kẻ hậu sinh như tôi vẫn y nguyên sự thán phục về con người và nhân cách của văn hào Nhất Linh.Dù là một người làm chính trị nhiều thất bại nhưng cho đến khi cuối đời ông vẫn chưa bày tỏ sự đầu hàng cho dù là cả trong cái chết của mình. Viết chúc thư chính trị , và muốn nó được phổ biến tới công luận cả thế giới không phải là một việc làm trong sự rối loạn thần kinh được. Cũng như, ông cũng hiểu được câu nói của đảng trưởng Nguyễn Thái Học " không thành công thì thành nhân" và chính cái câu " Đời tôi để lịch sử xử " đã thành lời nói của một vóc dáng nhân cách lớn.
Tôi suy nghĩ về cái chết của nhà văn Nhất Linh và tự hỏi liệu cứ căn cứ vào những tiểu thuyết của ông viết về cái chết hoặc những nhân vật như Trương trong Bướm Trắng hoặc những câu văn mà ông viết trong bản chúc thư văn học năm 1953 để xác dịnh căn nguyên cái chết của ông được không?Nếu nói ông xử dụng cái chết của mình để thành một phương tiện tranh đấu liệu có chính xác không. Và , bao nhiêu người từ trước đến nay đã tưởng nhớ đã viết bài tưởng niệm có phải là việc làm theo thời với lý do cá nhân không? Hỏi , nhưng hình như câu trả lời đã có sẵn.
Bài viết ấy cũng lên án những bài viết được đặt tên là " loại văn chương ai điếu, thứ văn chương mà hễ có nhân vật nổi danh nào nằm xuống là phải có sẵn một bài tụng niệm sáo ngữ, để nhập cái chết của ông vào cuộc tranh đấu của Phật giáo chống chính quyền Ngô Đình Diệm... Đó chỉ là thứ kèn trống đám ma, nói thì nghe xôn xao rộn rã nhưng không biết mình nói gì , viết gì!..."
Thật ra, không phải tất cả các bài viết tưởng niệm đều là rỗng tuếch sáo ngữ. Trong đám tang của nhà văn Nhất Linh đã có những người trong sự đe dọa bị giam cầm bắt bớ của mật vụ vẫn thốt lên những lời khẳng khái nói rõ quan điểm chính trị và văn học của mình. Như nhà văn Nhật Tiến đã đọc lời ai điếu cho một thần tượng mà ông quý mến bất chấp đe dọa của chế độ:
"... Trọn một đời gian khổ, không ngại khó khăn, không màng danh vọng văn hào đã tận tụy hy sinh từ bỏ mọi quyền lợi riêng để tranh đấu cho lý tưởng tự do cho cuộc sống hạnh phúc của dân tộc.
Văn hào đã hoàn thành sứ mạng của người cầm bút.Văn hào đã nêu cao sĩ khí bất khuất của truyền thống những nhà văn chân chính.
Cái chết của văn hào sẽ ,ãi mãi là bó đuốc soi sáng con đường tăm tối của chúng tôi đang đi, là niềm khích lệ lớn lao cho những nỗi khổ nhục mà chúng tôi sẽ gặp gỡ, là một tấm gương sáng láng mà mãi mãi những kẻ cầm bút đi sau như chúng tôi phải soi vào để suy ngẫm..."
Riêng tôi khi nhìn vào những công việc về văn hóa và chính trị của cả cuộc đời ông đã có nhận thức rằng đây là một con người thật nhiều nét lý tưởng . Ông có nét lãng mạn của một nghệ sĩ nhưng cũng có nét của một chiến sĩ.Nếu đừng nghĩ thành bại luận anh hùng , nếu cứ trong suy xét của một người Việt yêu nước, thì một cậu bé con nhà dân giả thanh bạch , đã cố gắng để được du học để thu góp kiến thức ở xứ người , đã theo đuổi một con đường văn học đầy nét sáng tạo, đã hoạt động chính trị đến lúc cuối đời, và cả đến cái chết cũng là một vận dụng tranh đấu tuyệt hảo. Nếu nói cái chết của ông là một cái chết của người bệnh tâm thần thì không hiểu những dữ kiện mà nhưng người thân thuộc viết về tâm cảm cũng như đời sống của ông hoặc những câu văn trong Chúc thư văn học có đủ sức thuyết phục không để kết luận rằng cái chết của ông đã được định sẵn vì những suy sụp tinh thần?
Mượn lời nhà thơ Đông Hồ Lâm Tấn Phác, đôi câu đối viếng hương hồn văn hào Nhất Linh:
" Một thời còn nức thanh danh, nền xã hội canh tân sắp sẵn, trào lưu khơi rộng ngõ tâm tình; trước rồi sau Phong Hóa , Ngày Nay, đoàn Tự Lực gây nên bút tài hoa lỗi lạc, mũi thép sắc ngòi, làng báo đàn văn tay lãnh tụ.
Nấm đất không chôn sự nghiệp, tòa cường quyền án chuyên chế đừng tuyên , xét công tội để cho phần lịch sử, khinh với trọng lòng non Thái , nghĩa thành nhân chọn lấy, tiệc chánh khí huy hoàng, rượu đời cạn chén, đường mây nẻo gió bước thung dung."
Tháng bảy xứ người. Từ những câu thơ Đằng Phương về ngày tang Yên Bái đến phút giây suy nghĩ về ngày tuẫn tiết của một nhà văn, tôi thấy mình như một người hành hương về chân trời cũ , về nơi chốn cũ xưa. Từ thuở là một cậu học sinh trung học nhìn đời thật lý tưởng , coi mọi sự đơn giản đen trắng phân minh đến lúc bước vào đời , gặp bao nhiêu chuyện thật giả khó phân minh, tôi vẫn đinh ninh một điều là hãy nhìn vào cái đẹp để nâng niu còn hơn là dày vò nó khi cầm cây bút viết lên những hàng chữ. Dĩ nhiên , đó chỉ là của cá nhân tôi.Dù rằng cái đẹp với muôn người bao giờ cũng sẽ thành muôn năm miên viễn...

__________________

Viết nhân ngày giỗ Nhất Linh năm nay (7-7-2012)

Phạm Phú Minh

Từ ít nhất bốn năm năm trở lại đây, “vấn đề Nhất Linh” cứ được hâm nóng bởi một số cây bút.Đúng ra chỉ có một người “chấp bút” viết về nhân vật này với một chủ đề nhất định, là Nhất Linh chết vì bệnh tâm thần, cùng lúc bác bỏ tất cả những chứng cứ lịch sử rất rõ rệt cho biết Nhất Linh chết vì những lý do khác. Có một điều rất ngộ nghĩnh, là khi “người chấp bút” ra một bài thì lại có người viết bài phản biện, người đó đọc rất kỹ các phản biện ấy để sửa đổi bài của mình cho hoàn chỉnh hơn, và đến một lúc nghĩ rằng bài của mình đã rất hoàn chỉnh rồi, không thể cãi đằng nào được nữa thì in thành sách. Nhưng khi sách phát hành thì đến phiên người con út của chính Nhất Linh là ông Nguyễn Tường Thiết vào cuộc, viết một bài dài bẻ gãy từng điểm không trung thực về thân phụ của mình, để đính chính trước dư luận về những điều mà ông cho rằng cố tình bóp méo những sự thật nay đã trở thành lịch sử (được đăng lại trong số này). Hầu như ngay lập tức sau khi bài này được phổ biến trên một tờ báo lớn tại Nam California vào đầu năm 2012, tác giả “chuyên đề về Nhất Linh bị bệnh tâm thần” phổ biến bản tóm lược một luận án y khoa của trường Y Sài Gòn đề cập đến bệnh hoạn của một số nhà văn Việt Nam trong đó có Nhất Linh, rồi tiếp theo là một bài chỉ trích tờ Phong Hóa và Ngày Nay xuất bản từ thập niên 1930 của thế kỷ trước. Chưa hết, tác giả này còn viết bài đánh giá một cách tệ hại những đảng phái quốc gia đã từng chống đối chế độ Ngô Đình Diệm, mặc dù những đảng phái này có một bề dày lịch sử lớn hơn chế độ cụ Ngô nhiều, đã hy sinh nhiều xương máu chống thực dân Pháp lẫn cộng sản ngay trên quê hương Việt Nam. Một thái độ rất là “ăn thua đủ”, có vẻ được hướng dẫn bởi một niềm tin sắt đá, rằng mình có sứ mệnh thiêng liêng và cao cả phải “hạ” Nhất Linh và những ai chống đối chính quyền Đệ nhất Cộng hòa với bất cứ giá nào.
Nhìn toàn cảnh những sự việc đã xảy ra trong vụ này, tôi cảm thấy rất buồn. Với tinh thần phe phái, rồi ra những giá trị đích thực của Việt Nam sẽ bị bôi bẩn hết. Bắt đầu là những người cộng sản Việt Nam từ năm 1945, khi họ theo đường lối đệ tam quốc tế ra tay tiêu diệt và nói xấu một cách triệt để những nhân vật yêu nước không đi theo đường lối của họ. Họ đã giết Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Khái Hưng, Nguyễn Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Bùi Quang Chiêu…, và gán cho những “tội danh” Việt gian, bán nước, phản động không những cho người đã chết mà còn vô số người còn sống. Họ phủ nhận tất cả thành tựu của nhà Nguyễn, từ các chúa Nguyễn đến triều đại nhà Nguyễn, với một thái độ kỳ thị hẹp hòi rất rõ rệt. Cộng sản là những người cuồng tín, chỉ biết lý thuyết và niềm tin của họ là đúng, ai không theo họ là lập tức mang tội phản động. Họ đã làm đổ nhào cả một nền nếp văn hóa cổ xưa của Việt Nam, đã chà đạp vô số giá trị mà phải hàng ngàn năm một dân tộc mới thủ đắc được, vì tin chắc chỉ có văn hóa mác xít của tầng lớp vô sản mới có giá trị để xây dựng nên một xã hội tốt đẹp. Sự ngây thơ dại dột muốn xây dựng xã hội mới bằng nòng súng và bạo lực đã mang lại thất bại cho cộng sản quốc tế, và khi “bừng con mắt dậy thấy mình tay không”, cộng sản Việt Nam đã vội vàng phục hồi những giá trị cũ: in lại sách của Phạm Quỳnh, thừa nhận công lao của nhóm Tự Lực Văn Đoàn về báo chí và văn chương, tái bản hầu hết các sách vở thời Pháp thuộc và cả một số tác phẩm của Miền Nam trước đây mà họ đã lên án nặng nề, phần nào tôn trọng trở lại các tôn giáo và các tín ngưỡng dân gian mà một thời họ cho là mê tín, lạc hậu… Vì, sau những ảo tưởng về một xã hội mới theo kiểu mác-xít, nếu không có những vốn liếng ấy, Việt Nam còn cái gì?
Dù đã biết phần nào quay đầu về với dân tộc, hậu quả những phá phách của cộng sản vẫn còn nặng nề trên đời sống của xã hội Việt Nam, nhất là khi chế độ ấy với bản chất độc tài vẫn còn khống chế đất nước. Những lời chửi rủa, bôi nhọ của họ đối với những nhân vật khả kính của Việt Nam dù ngày nay không mấy khi còn được nói ra một cách chính thức và công khai nữa, nhưng vết hằn của nó trong một thời kỳ tuyệt đối toàn trị đã tạo những mảng đen khó phai mờ trong tâm trí một số thế hệ.
Nhưng cộng sản là cả một hệ thống cách mạng quốc tế, có lý thuyết, có tổ chức chặt chẽ nên những người cuồng tín theo nó đã tàn phá quê hương thì đã đành. Đàng này, một người có học, trong hàng ngũ quốc gia, mà cũng học đòi làm những việc tương tự như cộng sản chỉ vì muốn bênh vực một nhân vật chính trị mà mình sùng bái thì phải nói là không sáng suốt. Vì sao? Vì bênh vực người mình tôn thờ là một việc, mà ra sức bôi đen những cá nhân, đoàn thể chống đối người ấy, bất kể giá trị của các cá nhân, đoàn thể ấy đối với đất nước ra sao, thì thật là một hành động rất vô ý thức. Tác giả ấy quên một điều: muốn làm sáng danh người mà mình bênh vực thì cách tốt hơn hết là làm sáng tỏ tài năng, đức độ của người đó, chứ không phải cố sức đả kích, bôi nhọ, bới lông tìm vết để hòng làm cho kỳ được công việc triệt hạ những cá nhân, đoàn thể chống đối ông Ngô Đình Diệm. Giá trị của cụ Ngô có được sáng rỡ thêm vì hành động đó không?
Cố chứng minh nhà văn Nhất Linh tự tử vì bệnh tâm thần chứ không phải vì chống đối ông Diệm như những bằng cớ rành rành trên giấy trắng mực đen trong di chúc và các biến cố chính trị xã hội thời đó, thì được cái gì? Được cái này: thuyết phục dư luận nửa thế kỷ sau cái chết của ông Diệm rằng ông nhà văn nổi tiếng ấy không phải vì chống đối ông Diệm mà tìm cái chết, mà chỉ vì… điên! Ai tin được ông tác giả ấy thì cứ tin, nhưng riêng tôi, tôi thấy thê thảm quá. Thảm không chỉ cho chính ông ấy, mà thảm cho cả những giá trị mà ông ta muốn bảo vệ. Tôi không tin một người đức độ như ông Ngô Đình Diệm lại bằng lòng với một cách xuyên tạc lịch sử trắng trợn như vậy của những người tự nhận bênh vực cho ông. Những nhân vật lớn trên sân khấu chính trị chắc chắn hiểu nhau hơn là những bình luận vụn vặt về sau theo kiểu này. Vì bôi bẩn, xuyên tạc những giá trị thật sự của lịch sử Việt Nam thì sự thiệt hại chỉ có thể là cho chính Việt Nam thôi. Lo nâng một bức tượng lên cho cao mà chân lại dẫm lên bao nhiều đồ đạc quý giá trong nhà, người có trí (khôn) không ai làm như vậy!
Người thật sự có lòng với lịch sử đều có một lối nhìn xác thực nhưng bao dung với những gì đã xảy ra trong quá khứ. Và hiểu cái lẽ tương đối trong một thực trạng xã hội và chính trị. Nhìn một nhân vật hay một chế độ bằng cách không xem xét thực tế xã hội thời đại đó, mà chỉ trừu tượng hóa, về nhân vật thì chỉ còn một hình tượng xa xa đầy lý tưởng, về chế độ thì chỉ với một mớ lý thuyết trên giấy tờ, rồi cho đó là hoàn thiện, hoàn mỹ thì e rằng khó mà chính xác được. Đưa một cái gì của trần gian này đến mức toàn hảo không thể phê phán đều là thái độ cuồng tín. Và cuồng tín thì không có chỗ cho luận giải một cách khoa học hay thông cảm được, vì đã theo nguyên tắc “không theo ta là kẻ thù của ta”. Trong bảy mươi năm tồn tại của chế độ cộng sản, họ đã dứt khoát hành động theo một câu ngắn gọn: bạo lực cách mạng. Trong xã hội ấy không có đối thoại về chính trị, người dân hoặc cúi đầu nghe theo lãnh tụ, hoặc bị tiêu diệt. Khi người cộng sản nói sử dụng bạo lực cách mạng cho một đối tượng nào đó thì có nghĩa kẻ đó sẽ bị giết hoặc tù đày cho đến chết.
Nhà văn Mai Thảo có thuật lại cho bạn bè nghe câu chuyện do nhà văn Nguyễn Mạnh Côn kể: Ông Nguyễn Tường Tam thời kỳ ở trong chính phủ liên hiệp năm 1946, một hôm vào phủ chủ tịch để phản đối với ông Hồ Chí Minh về việc một số đảng viên Quốc Dân Đảng bị cán bộ phe cộng sản làm khó dễ. Ông Hồ hứa với ông Tam sẽ chỉ thị trả tự do cho họ và không để những việc như thế xảy ra nữa. Ông Tam đi về, nhưng ra tới sân mới nhớ quên một món đồ (có thể là cây dù) để ngoài cửa phòng ông Hồ, bèn quay lại lấy, bỗng ông Tam nghe tiếng ông Hồ trong phòng dội ra: Sao không thủ tiêu chúng nó ngay đi, để làm gì gây lắm chuyện?!
Bạo lực cách mạng là thế. Thời điểm 1945, 46, 47 tại miền Bắc và miền Trung vô số quan lại cũ, đảng viên Quốc Dân Đảng đã bị giết, tại miền Nam hầu như tất cả phe đệ tứ bị thủ tiêu. Chưa hết: đến cải cách ruộng đất, hàng trăm ngàn địa chủ bị công khai bị hành quyết nơi đấu trường. Cộng sản là thế: hoạch định chính sách xong là cứ thẳng tay áp dụng bạo lực cách mạng. Nhưng nợ máu một khi đã gây ra sẽ không bao giờ mất, nó sẽ là nhân cho một cái quả khủng khiếp trong tương lai. Chẳng có mục đích nào có thể biện minh cho phương tiện là sự tàn sát đồng loại. Nhất là khi nhìn lại, tất cả “mục đích” của chủ nghĩa cộng sản toàn là thứ dỏm, những khẩu hiệu tranh đấu cho người nghèo, xây dựng thế giới mới rốt cuộc được tóm gọn trong một câu của bài Quốc Tế Ca: “Bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình!” Đó là câu tiên đoán tài tình nhất, tất cả ước mơ cao cả của các tay tổ cộng sản đều trật lất, trừ câu này. Và thảm họa cho những đất nước tuy là hậu cộng sản nhưng vẫn do đảng cộng sản cầm quyền chính là đây. Quay lại trường hợp Nhất Linh và các đảng phái quốc gia đang bị một cây bút có ý đồ dùng “bạo lực chữ nghĩa” để vùi dập, tuy có vẻ chỉ là một động thái có tính cách cá nhân chứ không phải là chủ trương rõ rệt của một thế lực nào, chúng tôi mong cá nhân ấy nên nhìn lại và chọn một thái độ khác khi viết về lịch sử.
Nhiều nhà nghiên cứu thẩm định một cách khoa học và đứng đắn các ưu điểm của Đệ nhất Cộng hòa, đặc biệt các điểm đáng kính trọng ông Ngô Đình Diệm, các công trình đó đều đáng được trân trọng và chào đón. Nhưng nếu cố tình tìm mọi cách, kể cả dối trá và bóp méo sự thật, nhằm vùi xuống bùn đen những giá trị đã được xác định của quá khứ, thì thật sự là không nên. Dân tộc và đất nước Việt Nam trong suốt một thế kỷ qua đã là nạn nhân quá nặng nề của xâu xé tương tàn rồi, nay là lúc nên làm lành những vết thương, thay vì xé ra cho lớn hơn.