Chuyện có tên là...

phi ngoc hung
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

Dẫn nhập:
Tôi có chuyện muốn kể từ lâu lắm rồi, gần nửa thế kỷ chứ chẳng ít ỏi gì nhưng cứ khất lần mãi. Lý do rằng, thì, mà, là…là phải vác “cái tôi” vào bài viết. Thêm chữ là nghĩa chưa nhập hồn nhập vía vào văn bài, vì nó vừa ngọ nguậy trong cái đầu đậu phụ trong chốc lát lại lỉnh mất tiêu, Lại nữa “già hay đái tật”, đái đây chẳng là…”đi đái” mà nghĩa là “đeo”. Bởi tôi đeo cái tật…hay quên. Chuyện kể thành truyện viết sau một thời gian dài thế nào chả quên dăm chi tiết vụn vặt để bạn đọc chửi cho thối đầu.
Ấy là chưa kể đất sinh cỏ trời sinh tật, tôi còn có cái tật láo ngáo và lớ ngớ mới chán mớ đời. Như tới phi trường muốn mua “Coca Cola”, bạn trong trại tỵ nạn mách nước…nước Mỹ không gọi là “Coca Cola” mà là “Coke”. Bèn láo ngáo gọi cái “cốc”. Hốt nhiên thấy cô bán hàng mặt đỏ cay đỏ cợt, mấy tháng sau đốn ngộ ra mới hỡi ơi! Rồi thì chân ướt chân ráo từ phi trường đi bộ ra phi đạo. Bước lên cầu thang, cô tiếp viên hỏi mày có ăn “meal” và hít “smocking” không. Rất thản nhiên “meal” tôi nói “No” vì nghe…lớ ngớ là “milk”. Còn thuốc lá thì “Yes”. Cô tiếp viên nói vọng vào rõ to với cô tiếp viên ở trong: “Thằng Việt Nam này không ăn nhưng biết…hút thuốc lá”.

Kể cho bạn bè nghe đến trần ai khoai củ này là hết chuyện. Thế nhưng tối nay không ngủ được, vì chợt nhớ ra cách đây mấy tháng, con gái mời bố đi ăn để ra mắt như…“ra mắt sách” thằng chồng sắp cưới: Tôi ngớ ra thằng này người Ba Lan.
Ừ già rồi không ngủ được thì bật đèn lên viết để dối già, vì tôi có món nợ đời cần phải trả. Nếu luận theo triết lý củ khoai của con người ta với nợ tiền trả dễ, nợ tình khó trả thì rối loạn tiền đình trông thấy. Vì vậy ắt là phải thức trắng đêm. Bởi chăng không viết chẳng có cơ duyên nào khác nữa. Chả là còn mấy ngày nữa đến ngày xẩy đàn tan nghé, đúng 40 năm, cái mốc thời gian cho một quãng đời mập mờ nhân ảnh mịt mùng gió mây. Vì đêm chưa qua, ngày chưa tới nên tựa đê bài viết: Chuyện có tên là…
Là gì vẫn chưa biết nữa?! Chỉ biết rằng vì những rối rắm nên kết cấu được viết trước không thì quên bu nó mất. Còn cốt truyện đầu đuôi như xẩm vớ được gậy:
Tất cả bằng vào hai chữ…“Ba Lan” như thể như thế này đây, thưa bạn đọc.

***

Ừ thi trước khi vào chuyện, chăn trâu nhân thể dắt nghé, người viết cũng muốn rủ rê bạn đọc trở lại thăm thú trại tỵ nạn để có chút quá khứ vị lai này kia, kia nọ.
Mà làm như trên trông thiên văn dưới thuộc lòng địa lý không bằng, đọc người viết nào đó bịa tạc tả cảnh nằm trong trại tỵ nạn thấy hoa mai nở…? Thế nên thằng tôi cứ ngỡ Camp Pendleton ở thung lũng hoa vàng San Jose, thực ra trại ở San Diego của Thủy quân lục chiến có tám trại và khoảng hai chục ngàn người. Dạo ấy thằng tôi chỉ biết người Việt ta ở hai trại Arkansas và California. Nói cho ngay, chỉ cách đây mấy ngày, thằng tôi mới hay còn hai trại khác nữa ở Florida và Pennsylvania.
Cũng nằm trong trại, số là thằng tôi có máu đỏ đen từ dòng tộc có ghi trong gia phả. Qua đây, ngày đầu trại phát cho một cây thuốc lá Vantage. Cả ngày ngồi không đợi xếp hàng đi ăn, gặp ngày có gà chiên, thiên hạ sự nối đuôi nhau hai lần là ít. Họ nào có hay mang đồ ăn về lều để…nuôi chuột, chả lẽ lom lom dòm chuột cứ ngây ra như thằng phải gió, thế là anh em ta ngồi trong lều đánh bài…ăn thuốc lá. Tôi được nguyên một rổ thuốc lá lẻ vì cái số đỏ nghĩa là không đen. Cũng như trước ngày đứt phim, nhờ hay không bằng hên, con mòng thua mòng mòng cấn cho cái đồng hồ Rolex. Người Mỹ cũng tâm lý, tâm hồn ra phết, thấy người Việt ta có nhiều…“danh ca”, nhà ăn họ luộc cho cả nồi cá luộc. Gặp ngày cá luộc tanh òm bèn ôm bụng rỗng đi ra.
Hơ! Ra đến cửa gặp thằng Mỹ gác cửa muốn thửa cái đồng hồ. Thế là mại để có tiền ghé PX trong cái tâm trạng chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng già. “Chơi” đây là chơi…bia bọt trong cái tâm thái sĩ tử Văn Miếu của một thời văn học trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia rượu vẫn còn trơ trơ.

Bạn đọc bảo nhau quên đi những ngày ăn khan nằm khàn để bắt qua những tháng ngày đắp đổi nghe thiên thu vạn cổ hơn. Mà…cổ nhân sầu thật vì thành phố tôi “ngụ cư” nhỏ, nhỏ như quận lỵ ven đường ở quê nhà. Nhỏ hơn thành phố đi dăm phút đã về chốn cũ, một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng. Nhưng cảnh vật cũng có bò, ụ rơm, con sông, cái cầu sắt, và đường rày xe lửa. Thành phố loe ngoe mấy ngàn dân như gà què ăn quẩn cối xanh quanh hai khách sạn mà tôi…bất ngôn khả dụ tức không thể dùng lời nói mà hiểu được cụm từ “second honeymoon” là thống khoái gì. Tôi chỉ nghe hơi nồi chõ thành phố được nhiều người biết đến qua hai khách sạn với phòng ngủ bốn bức tường, sàn nhà và trần nhà đếu bằng gương. Vì đã có đạo diển làm phim với cảnh trí này: Có hai cụ tối tân hôn lần thứ hai trong đời nhập phòng mà không nhận ra nhau. Qua gương người ngợm họ như cụ Ngộ Không hoá phép cả ngàn cụ Ngộ Không khác tay cầm bút Hơ! Xin lỗi nói lộn,…tay cầm thiết trượng múa may loạn cào cào châu chấu nên cụ ông, cụ bà chả biết đâu mà lần…lần mò tới cái giường.

Với đi dăm phút…là tới tiệm hớt tóc ở ngay ngã ba đường. Vì trước 75 cho đến ngày thằng tôi chọn mảnh đât này là đât dung thân: Tôi chưa cắt tóc nên rất…”hippy”. Ngồi lên ghế, ông phó cúi hỏi cắt thế nào cho phải đạo nhưng tôi hiểu không ra. Chả lẽ không biết làm gì là làm thình, nên đành ngó lơ lên tường treo tấm ảnh ba anh em thằng hề trong “ciné” mà thằng anh cả hay véo tai hai thằng em. Tôi nom dòm tóc thằng anh phủ chung quanh cổ, và trán cắt thẳng băng thấy quái. Quái hơn nữa ông phó cúi làm như bất ngôn nhi dụ, tức không nói ra cũng hiểu được, bèn cầm kéo tách tách một thôi một hồi: Một tôi hoá kiếp in hịt thằng anh có mái tóc như…cái nồi.
Ở nhà người bảo trợ đi ra đi vào như con chó dái và hút thuốc vặt mãi cũng mụ người. Để rồi bằng vào…một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng, tôi bâng quơ ra phố dòm cái “bar” mụ mẫm là quán nhậu Trung Thành. Vào để sầu tiêu sầu bằng vào dục phá thành sầu tu dụng tửu. Ngồi trên ghế cao ngất ngưởng, một tôi liêu xiêu hoá thân là Nguyên Sa với thượng đế trên cao, chiều độc ẩm, mạt lộ, ta ngồi chốn hạ phiên. Chỉ chai bia có tên rất quen thuộc “Budweiser” của Sài Gòn xưa cũ.
Lại bạn trong trại tỵ nạn súi dại rằng sống được miếng dồi chó, chết được bó vàng tâm, sống không ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ không có mà ăn. Cứ theo bạn ta dồi chó đây Mỹ nó gọi là…“hot dog”, Ngó quanh quất chả thấy treo đầu dê bán thịt chó đâu, vì không đủ chữ nhét răng nên im thin thít như thịt nấu đông. Ngó quanh quẩn không có “cơm chỉ”…chỉ thấy cái lọ có mấy cục thịt khô dài ngoàng như cái đũa. Bèn đút vào mồm nhai nhệu nhạo. Bỗng không ngất ngây qua câu thơ Nguyễn Bính…
Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
Ðã dấy phong yên khắp bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi!
Làm dăm chai nữa sầu tiêu sầu với “chỉ có bia mới hiểu bụng…mênh mông nhường nào, chỉ có bụng mới biết…bia đi về đâu”. Rồi bụng bảo dạ thế nào chả biết nữa, khi không “ta” cảm khái...thà cứ ở đây ngồi giữa chợ, uống say mà gọi thế nhân ơi! Chưa biết gọi ai thì oà lên khóc hu hu, chả ra làm sao cả, nhảm thật! Thưa bạn đọc.

***
Ha! Chưa biết gọi ai nên thằng tôi gọi người bảo trợ là “thằng”, là “nó” cho gần gũi nhưng ấy đó là hồi sau với phù sinh nhược mộng, là cuộc sống nổi trôi như giấc mộng. Vì chuyện được nó cho đi San Diego thăm sở thú lớn nhất thế giơi. Đứng trước cái chuồng to như cái đình, nhìn tên con khỉ tiều gì bằng chữ La tinh,…đang ù ù cạc cạc, nhìn xuống dưới có tên Việt rât thân quen là: Con cù lần. Chuyện…cù lần lửa thì tôi thiếu giống, đếm không hết kể không xuể. Ngày qua Guam, nhìn xe Pinto ở bãi đậu xe đã bự sự lắm rồi. Nay dòm cái xe của nó hiệu Cadillac 8 máy cũ kỹ, cổ kính như món đồ cổ thấy khác. Vỏ xe bằng sắt chứ chả phải bằng mủ nên trông hung hãn quá lắm. Nói theo người Nam là to “bành ky” như ngồi trong…ghế bành vậy. Xe cũ rích vậy đấy nhưng như ngồi trên mây cưỡi gió. Gió đưa cây cải về trời, lại thương cho người ở lại quê nhà rau răm ở lại chịu lời đắng cay thì…Thì đường về trời tối, nhìn đuôi xe trước đèn đỏ, ngó sang đường ngược chiều đèn vàng đến hoa cả mắt vì xe nhiều hằng hà sa số, sáng trưng như giải ngân hà. Mặc dù chả biết giải ngân hà…sáng sủa thế nào. Từ trên đồi nhìn xuống đàn bò cả ngàn con, cổ bò đeo đèn lung linh ẩn hiện trong bóng đêm. Một tôi cứ ngỡ sao trên trời, cứ phiêu phiêu mình ở trên thiên đường nhìn xuống hạ giới. Thiên đường đâu chả thấy, ít lâu sau thằng tôi đi…cầy như hạc.

Buổi sáng thằng bảo trợ chở thằng tôi đi cầy. Chiều về vì khác giờ giấc nên phải lủi thủi cuốc bộ bốn, năm dặm đường. Đường hai “lên” xe cộ vắng tanh, nhà cửa cách nhau cả một cánh đồng như đồng Ông Cộ. Bỗng một tôi có “cảm giác” cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân, hiểu hiu hắt là đường nhỏ gió lạnh thổi vào…một tôi, trong khi trời nóng như đổ lửa. Nhưng không nóng bằng “sở làm”. Sở làm là…xưởng giặt ủi quần áo, Xưởng to đùng như “hangar” máy bay một thời chinh chiến ở phi trường Tân Sơn Nhất. Xưởng mái tôn, trống hốc, lẽ dĩ nhiên không máy lạnh, lại gần sa mạc nóng kể gì, máy ủi quần áo phà hơi nước nóng nên nóng như lò bễ. Một lần, chân phải đạp bàn đạp để hai cái bàn ủi to như cái thuyên nan ép vào nhau, tay chưa kịp rút ra bị hai cái bàn ủi kẹp cứng ngắc. Thay vì đạp chân trái cho mở ra, quýnh quáng lại đạp chân phải cái nữa, hơi nước nóng phun nóng thấy ông bà ông vải. Một lần khác chợt có tiếng còi “tu-huýt” toét toét báo động nhân viên sở di trú đến, dân Mễ nhập cư lậu túa ra xe chạy toán loạn. Làm như ngày 30 tháng tư không bằng, thấy người ta chạy thằng tôi cũng…chạy theo. Chạy trời không khỏi nắng với buổi trưa xe bán đồ ăn tới, ngồi phơi nắng bên đường ăn mãi đồ ăn Mễ cũng ngán tận cổ. Thế nên không có thẩn thơ, thơ thẩn, thẩn thẩn thơ thơ với thơ Nguyễn Bính, Nguyên Sa ở đây, thưa bạn đọc.
Về ăn uống sương kể gì mấy tuần đầu chưa đi làm. Ngày nào cũng trưa đại táo, chiều tiểu táo, bàn ăn trải khăn trắng toát, dao muỗng sáng choang khua loảng xoảng. Cuôl tuần, thằng bảo trợ chơi màn nướng thịt ngoài trời. Tay cầm lon bia hiệu lạ lẫm, nó còn lấy muối rắc quanh miệng cổ chai, lại còn cắm miếng chanh vào nữa. Thấy thằng tôi thao láo như mắt rắn ráo. Nó khẽ đánh mắt một cái và chỉ tay vào tủ lanh. Mở tủ lạnh thấy cái “Root beer” cũng lạ hoắc? Bia Mỹ có khác! Bèn xách ra một chai, cũng cắm miếng chanh nhét vào và rắc muối…Một câu nói ngay bằng ăn chay cả tháng là chả ngon lành khỉ gì. Ngỡ thằng tôi…uống chay, tháng sau thằng bảo trợ xách nguyên thùng Root beer về, thằng tôi đành uống…“Xá xị con cọp” miết. Ngẫm chuyện nhân sinh thì thằng tôi đúng là…cù lần lửa thật.

Cho đến một ngày, thêm một ngày cho quá khứ chả ngon lành gì…
Ấy là cái ngày nhà tôi đi đẻ. Số là bu nó có mang tức…mang cái ba lô ngược từ sau ra trước, đâu đó được bảy tháng. Hai tháng sau tìm ổ để đẻ đái, nhằm vào khoảng thời gian này chưa có chương trình giúp đỡ của chính phủ, ngay cả thằng bảo trợ cũng mù tịt về chuyện trợ cấp. Vào đến nhà thương, họ cho nhà tôi nằm chờ đó, trong khi họ chỉ dẫn thằng bảo trợ chạy tới cơ quan chính phủ để làm giấy tờ. Xế chiều về lại nhà thương đã thấy nhân viên văn phòng đợi sẵn và nói…“OK”. Hai chữ OK tôi hiểu ngay đơ là mình có…con rồi. Họ hỏi đặt tên con là gì? Trong cái khoảng thời gian u mê ám chướng này, vì bối rối như sư đẻ nên đặt tên con bằng vào tên…người xưa. Lát sau nhà tôi hỏi: “Anh vẫn nhớ người cũ à?”. Thôi thì cũng đành gật đầu.

***
Sau đấy tháng ba ngày tám ăn đong ăn vay với nhiễu nhương, nhiễu sự…Chuyện nhiễu nhương là một buổi đi làm về, nhà tôi cách rách rằng cũng như trong nhà thương, vợ thằng bảo trợ vừa chỉ bảo cho nhà tôi cách nuôi con ở Mỹ thay tả, nằm sấp…mặc dù nó chưa có con. Vợ nó vừa vắn hai dài một: Không có tiền trả điện thoại. Hỏi nhiêu: 10 đồng một tháng. Nhà tôi hỏi tới cu ti tỉ muội mới vỡ nhẽ ra nhiễu sự là:
Bố thằng bảo trợ gốc Ba Lan đã về hưu, nghe người Việt tỵ nạn qua đây. Ông gọi thằng con và nói tao tỵ nạn ở Mỹ từ năm 54 như họ. Bây giờ tao già rồi. Mày thay tao giúp đỡ họ được không. Thế là vợ chồng thằng bảo trợ khuân vợ chồng thằng tôi về nuôi báo cô. Trong khi nó làm cái nghề đi gõ cửa từng nhà để rao hàng có mà ăn cám này chả biết đâu mà lần. Số cái thằng nhè cái số ăn mày bị gậy phải mang nên tôi đưa ít tiền để phụ với vợ chồng nó. Sau đó vợ chồng tôi sẽ “di tản chiến thuật” về Houston “quê vợ”, thế nhưng phải đợi vài tháng nữa vì cháu bé còn quá nhỏ…

Ngồi trong máy bay thằng tôi nghĩ dại nếu như ta vẫn còn “tử thủ”. Người Miên chạy sang ta tỵ nạn thì họ chỉ có…từ chết đến bị thương vì chưa thấy quan tài chưa đổ lệ. Nhưng tôi chả dám “ngộ chữ” ra đây sợ “đạn lạc”, sợ bạn đọc chửi cho mục mả. Về Houston hôm sau đi làm ngay vì anh chị em bên vợ ai nấy chữ nghĩa ngập răng nên mỗi người lãnh một tiệm tạo hoá U-Totem. Tôi cũng vậy, sau này vì đồ nguội và rau cải ở trong tiệm nhiều như nêm cối. Sáng chủ nhật nhà tôi tới tiệm de đít xe vào là xong. Ấy là chưa kể sau lưng thằng tôi có một “kho tiếp liệu” thuốc lá, cuối tiệm là một “kho đạn” bia. Từ đó tôi thảnh thơi hít thuốc lá có mùi nhang và tu bia chùa.

Ha! Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối là chiều thứ bẩy hay chủ nhật, thằng tôi cũng xuống phố để kiếm mục trời đất hương hoa, người ta cơm rượu…
Khoảng thời gian giữa năm 75 và 80, vừa mới đứt phim, một lũ tụi tôi như những cánh chim tan tác gọi nhau họp đàn. Cứ chiều cuối tuần không hẹn mà gặp, không gọi mà đến…quán phố chợ. Thằng nào ra sớm ngồi đợi đấy, làm một hai chai dằn bụng cho ấm lòng kẻ tha hương người lữ thứ, nhìn trời nhìn đất, buồn nhiều hơn vui. Quán mì đây của anh Tàu Chợ Lớn vừa mới tưng bừng khai trương đã chiều hướng suy tư âm thầm đóng cửa vì vắng như chùa Bà Đanh. Như luật bất thành văn, vào độ, mỗi khứa thay nhau làm một “round” bia, tiền trao cháo múc, cười nói vung vít, nước miếng văng mệt nghỉ. Quán có món nhậu chính là xíu quách, tay nào chịu chơi bắt đĩa bò lúc lắc, ai xâm mình lắm xách theo chai Cognac. Tất cả nằm trong những ngày tháng sa cơ lỡ vận nơi đất khách quê người, tha hương ngộ cố tri, thưa ban đọc.
Bởi sa cơ lỡ vận lại điếc không sợ súng, thổ ngơi thằng nào cũng gần kho đạn Gò Vấp. Thiếu úy Sư đoàn 1 qua đến Guam lên trung úy, tới Camp Pendleton đặc cách đại úy. Khỉ một nỗi mỗi lần đổi trại, là mỗi lần đổi quân binh chủng có lửa như Lực lượng đặc biệt chốn biên thùy, hay Biệt kích bên kia vĩ tuyến, ông cố nội ai mà mò ra. Nghe tức như bò đá, giữa đám ba quân chẳng lẽ lật tẩy nhau, nhờ cậu tí, cậu chơi khó anh em quá, bộ Nghĩa quân với Địa phương quân để cho chó gặm à. Bán trời không văn tự là quan ba tầu bay L 19, ngày 30 tháng Tư đáp máy bay nhấp nhổm xuống xa lộ Biên Hòa. người tình lái xe Honda đuổi theo sau, vèo một cái, đu lên lửng lơ giữa trời như James Bond 007. Bố khỉ! Nổ vừa phải thôi quan anh, quan anh lái máy bay như đạp…xích lô không bằng. Kẹt một nỗi, cố tật của mấy ông cố nội này là hay…quên. Vì nổ như tạc đạn, miểng văng tứ tung nên làm sao…nhớ mới rõ khổ. Khổ là khổ cho mấy thằng nghe, lúc nào cũng như ở trên trời rơi xuống như…lính nhẩy dù vậy! Ngày khác cũng khứa lấy máy bay làm quan tài bay, ăn cơm dưới đất làm việc trên trời vừa rồi. Lần này khứa lái…C123 đáp xuống…xa lộ Đại Hàn.

Quày quả trở lại tiệm U-Totem, một ngày sếp lớn cầm quả táo vừa tung lên vừa hỏi mày bán bao nhiêu. Thằng tôi đùm đậu 25 cent. Sếp hỏi sao không cân mà bán. Thằng tôi lụng bụng rằng…cân đai. Bởi nếu như tôi nhớ không lầm cái ngày đó ở PX trong tại tỵ nạn 25 cent một bao thuốc lá. Ra ngoài một gallon xăng và một bao thuốc đồng giá 45 cent. Thế là sếp cho nghỉ việc với…“đai” là…“chết”. Kể chuyện cho có chuyện bắt quàng sang chuyện sinh ngữ sinh tôn, như cụ Khổng Khâu dậy khôn với tam nhật bất độc thư, ngữ ngôn dã vô vị mà một tôi hiểu lơ mơ lỗ mỗ ba ngày không đọc sách, nói năng nhạt nhẽo khó nghe…Bởi tiệm có bán Playboy, Penhouse nên một tôi nhất nhật độc thư mấy chữ tiếng Tây tiếng u để mai này nở mặt với đời. Nay mới đốn ngộ ra ngày nào ở phi trường cô bán hàng mặt đỏ cày cạy vì một tôi phát âm, phát ngôn “coke” là…“cock”. Chẳng qua cock là…con chim có đầu mà không…có chân.

***
Từ nhĩ văn mục đồ tức tai nghe mắt thấy ngày nào ở phi trường. Một tôi cũng muốn trở về 10 ngày đầu tới Houston, với hàn mặc thế gia, tức gia tộc bút nghiên nghèo như thế này đây. Ngay ngày hôm sau tới Houston là tôi đi làm, liệu cơm gắp mắm, chị em dẫn nhà tôi đi thuê phòng. Cuối tuần đi ”gara sale” mua được cái TV đen trắng y chang ở Sài Gòn, bật lên có cái hình tròn méo xẹo và phải đợi một hồi lâu mới “hiện hình”. Một bộ bàn ăn bốn chỗ ngồi nhưng chỉ còn ba cái ghế xộc xệch và cái nệm trải trên sàn nhà cho ba người. Bên cạnh cái nệm để chiếc đồng hồ báo thức.

Một tối nằm trên nệm ấm chăn êm, con ở giữa, hai vợ chồng nằm hai bên. Đang giỗ giấc ngủ ngẫn ngẫn với quá khứ vị lai là vừa đi làm được hơn một tuần êm ả, êm ấm như đời nở hoa xuân. Chẳng như ai đó ngày nào nằm trong trại tỵ nạn Pendleton hoài đồng vọng qua dòng nhạc thấy hoa mai nở không biết xuân về hay chưa và thiếp đi lúc nào không hay. Khoảng 4 giờ sáng, chuông đồng hồ báo thức reo, thì…
Thì nhà tôi gọi dậy và hốt hoảng: “Con chết rồi, anh ơi”. Nghe chữ “chết”. Thế là tôi bung ra khỏi cửa kêu gào thảm thiết mà chẳng biết mình kêu gì nữa. Những phòng bên cạnh lục đục sang thăm hỏi nhưng biết nói gì với họ đây. Nếu có muốn nói chỉ biết chỉ vào xác con và ra hiệu bằng tay. Nhốn nháo trong giây lát, có người về phòng gọi cảnh sát và quản lý chung cư. Khoảng mươi phút xe cứu thương, xe cứu hỏa, cảnh sát và bà quản lý đến. Họ nói chuyện và làm giấy tờ với bà quản lý. Lát sau xe cứu thương chở cháu đi, Bà quản lý và hàng xóm kéo nhau ra sân tụm năm tụm ba thì thầm to nhỏ. Thỉnh thoảng bà vừa nói chuyện vừa nhìn về phía tôi…

Gần sáng anh chị em bên ngoại tới, họ cho biết cháu mất ở nhà nên phải mang vào nhà xác thành phố để khám nghiệm, khoảng ba ngày có kết quá mới được chôn cất. Chuyện chôn cất bà quản lý và hàng xóm chung lo gánh vác nên tôi không phải lo nghĩ gì cả. Trong khi chờ đợi, tôi nhờ họ hàng gọi điện thoại báo cho vợ chồng thằng Ba Lan. Hôm sau, cũng nhờ bà quản lý qua họ hàng tôi mới rõ về cái chết của cháu: Vì cháu nằm sấp nên bị ngộp thở. Ở đây họ gọi là “crib-death” nghĩa là chết trong nôi. Kiểu nằm này ít lâu sau được bãi bỏ vì trung bình mỗi năm với con số…mà chính tôi không tin ở cái trí nhớ của mình: 7000 trẻ sơ bị chêt một năm vì crib-death.
Cùng ngày, vợ thằng Ba Lan tới, nhà tôi đi với anh chị em ra phi trường đón. Còn tôi theo bà quản lý tới nhà quàn làm giấy tờ. Nửa tiếng sau bà quay sang tôi nói “OK” và tôi hiểu là mọi chuyện đã xong. Ngày đưa cháu ra nghĩa trang xa thăm thẳm ở bìa thành phố với đồng không mông quạnh. Ngoài nghĩa trang trời đất lúi húi mưa, vợ thằng Ba Lan rúm người lại vì nó quên mang theo áo lạnh. Tôi phủ cái áo lạnh của trại tỵ nạn cấp phát lên vai nó, cái lạnh của tháng 11 làm tôi rét run. Bà quản lý cầm ô che cho nhà tôi, cả hai đều sụt sùi. Phu nhà quàn lặng lẽ làm việc…Vào lúc hạ huyệt, im ắng, nhìn quan tài từ từ hạ xuống lòng đất, trong tôi trống rỗng, không cảm giác. Vì những xáo trộn dồn dập nên khô cạn, muốn khóc nhưng không có nước mắt.
Ngày về, tôi hỏi nhỏ vợ thằng Ba Lan có tiền không. Lắc đầu. Trong túi có mớ tiền của hàng xóm quyên góp tôi lấy ra một nửa dúi vào tay nó. Trước khi lên máy bay, vợ thằng Ba Lan quay sang ôm tôi và thì thầm không ra tiếng: “Happy Thanksgiving”.

***
Vợ thằng Ba Lan về trong một ngày trời quang mây tạnh, mọi chuyện rồi cũng đâu vào đấy với mồ yên mả đẹp với sau cơn mưa trời lại sáng. Trong tôi cứ búi bấn với đám tang có mưa thì hên. Nhưng chẳng hên gì! Chuyện qua sông ai nỡ quên đò cứ theo thời gian vất vưởng với tuế nguyệt như lưu, tạm hiểu là năm tháng trôi qua như dòng nước chẩy thì…Thì thêm một lần qua sông phải lụy…”đò”.
Cháu mất được mười bốn năm, nhà tôi đi theo cháu vì ung thư. Qua hai năm rưỡi với một lương phải trả khoản sai biệt bảo hiểm, xe, nhà. Thêm chục cái thẻ “cà” nợ chồng chất cuối cùng tôi phải khai phá sản. Gần ngày nhà tôi nằm xuống, trong nhà chỉ còn vỏn vẹn có 80 đô la, may nhờ bà dì là sơ tới lo việc chung sự. Cứ theo tôi biết “bà dì” là người cùng quê với bà cụ tôi, giây mơ rễ má nào đó hai người thân nhau. Bà cụ tôi từ SF qua đây, bà sơ tới thăm, cụ bảo tôi gọi bằng “dì” thì tôi gọi là dì. Ngày nhà tôi hấp hối, cụ tôi bay qua lần nữa, tôi gặp lại bà sơ lần thứ hai. Và bà kéo tôi lên…đò.
Trên xe tới nhà quàn, bà cho hay mỗi nhà quàn tuỳ theo thu hoạch họ có giao ước với chính phủ. Mỗi năm có bao nhiêu đám tang họ gánh cho những gia chủ không đủ sức lo được việc chung sự. Đúng như bà sơ nói, tới nhà quàn họ làm giấy tờ ngay. Chí có hai điều tôi không được chọn là áo quan đắt tiền và mộ bia đứng. Nghĩa trang và nhà quàn là của cháu mươi năm trước. Sau mười bốn năm, cái tên nghĩa trang trở lại với tôi: “Eatman Resthaven” để chẳng bao giờ quên, vì “eatman” không như câu ngạn ngữ của Tây là “ăn người”, để tôi được một ngoại lệ: Mẹ cháu về một nơi chốn vắng xa, nhưng thân xác được nằm cạnh con trong khu đất tĩnh mịch, an nhiên cho nhi đồng có tên là “Baby Holyland”. Nghĩa trang như một khu rừng nhỏ, rộng mênh mông bát ngát, một lần tháng ba tôi lên thăm hai mẹ con, nhằm ngày lập xuân, lặng ngắm cỏ non trải dài, Đứng giữa trời đất bao la tôi cảm hoài mang mang trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ, chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà, đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụỵ, một bờ cỏ non một bờ mộng mị trong một cõi đi về.
Tháng ba vừa rồi nhằm vào ngày giỗ mẹ cháu, tôi đưa con gái lên thăm mộ mẹ. Con gái là Mỹ con, mua mấy quả bóng xanh đỏ treo ở mộ cháu, Con gái quên rằng cháu gái là chị. Nếu bây giờ còn sống cháu đúng…40 tuổi. Lặng ngắm mộ bia thấy cháu hưởng dương được 4 tháng. Ngẫm chuyện mây vẫn bay ngày vẫn qua đi với 40 năm đã ngắn. Với 4 tháng trong cõi nhân sinh còn ngắn ngủn hơn nữa. Thắp nhang cho mẹ cháu, lại bùi ngùi thôi thì hai mẹ con cũng được nằm gần nhau.

Hết bùi ngùi đến ngậm ngùi nhìn mộ bia con với tên họ mới ngộ ra…bến ngộ, bến giác đâu không thấy chỉ thấy bờ mê, bến lú. Chuyện là sau khi vợ mất ba, bốn năm, một tôi gặp lại người tình đầu đời của những năm tháng đong đưa. Thằng tôi mới ớ ra cái ngày vợ đẻ ở nhà thương vì không nhớ “tên lót” của người xưa nên đặt sai bu nó cả tên con. Vì vậy chả đợi đến già hay đái tật với tật quên. Đứng giữa thiên thượng địa hạ với gió thổi rù rì, thằng tôi lại bần thần…thăm mộ vợ thương con, nhìn tên con lại nhớ đến…người tình cũ là như thế nào? “Một tôi” cũng chả hiểu “thằng tôi” nữa....

Nói cho cùng ai chẳng có người thân nhắm mắt về với mười tầng đất chín tầng trời. Chuối sau cau trước một tôi đưa “chuyện nhà” dàn trải trên giấy không ngoài ý nghĩ hạn hẹp và co cụm qua triết lý củ khoai với nợ tình khó trả…Tôi không biết làm gì hơn là nướng củ khoai cháy đen thui với nợ tình… một tôi trả bằng chữ nghĩa với một quên hai nhớ. Đang gặp cái lúc tối như đêm, dày như đất này đây, bạn đọc láo nháo với nhau: Người này nao nuốt với sử thế nhược đại mộng, vi hoan kỷ hà với nghĩa cuộc sống nổi trôi như giấc mộng với bao lần được vui. Người kia bấm búi là định mệnh tại thiên thư. Ấy là bạn đọc bảo nhau thế đấy, tôi thì tôi nghĩ khác, trong chuyện đời thường con người ta mất cái này, được cái kia để có dấu hằn, dấu ấn. Để qua sông ai nỡ quên đò, một tôi chẳng quên ông lái đò qua hình bóng mờ nhạt, mờ nhân ảnh là bố thằng Ba Lan. Năm 54 bỏ nước ra đi, ông không quên cái cảnh đồng ngộ đồng thuyền với những người di cư năm 54, thêm một vũng tang thương nước lộn trời năm 75. Vì vậy mới có bài tạp bút này rơi vào ngày 30 tháng tư. Tận cùng ai chẳng có cái cột mốc thời gian để mang một vết hằn. Thảng như bạn đọc vừa rồi qua định mệnh tại thiên thư với người thân để xác lại ngoài biển khơi trên đường vượt biên.
Ừ thì cũng với 40 năm…Thưa bạn đọc.

***
Thế nhưng vì cơm áo gạo tiền tôi quên bẵng vợ chồng thằng Ba Lan. Cách đây khoảng mươi niên với năm tàn tháng lụn, có việc qua miền đất mà tôi đã có mặt và ghé thành phố buồn hiu bên cạnh ngọn đồi, trại bò không còn nữa. Ghé thị trấn bên đàng, tôi như Từ Thức về trần vì khách sạn tuần trăng mật nay là trung tâm thị tứ. Quán rượu cũng khuất nẻo, lại lần đẫn ngày nào năm ấy sao tôi lại…mù u là quán Trung Thành để mò vào khóc lóc như cha chết mẹ chết. Tiếp đến lái xe dọc theo đường rầy xe lửa vì tôi nhớ khi nhìn thấy đằng xa cái cầu sắt cổ lỗ sĩ thời Đệ nhị thế chiến như cầu Bình Lợi là tới ngã ba có tiệm Baber shop, có cái đèn vằn vằn xanh đỏ.
Tới ngã ba, tiệm cắt tóc nay là tiệm tạp hoá…nhang nhác như U-Totem ngày nào với bia, thuốc lá chùa có mùi nhang. Quẹo vào con đường chỉ mấy trăm thước tôi nhận ra ngay căn nhà có cái cổng tò vò của một thời một thuở. Bấm chuông gặp chủ nhà là một bà già. Tôi giới thiệu tên và nói đã từng ở đây mươi năm trước. Hoá ra bà cũng ở thành phố này ngày ấy năm đó nên đã mua căn nhà đây. Bà cho biết sau khi vợ chồng thằng Ba Lan có thằng con trai: Chúng ly dị nhau, mỗi đứa đi một nẻo.

Chuyện dây cà ra dây muống chẳng qua cách đây mấy tháng, con gái rượu gíới thiệu thằng rể Ba Lan. Tu chùa chẳng bằng tu nhà, ăn ở thật thà mới thật là tu…bia thì tôi chịu đèn thằng này cũng thích tu như tôi. Một ngày nó dẫn tới tiệm ăn Ba Lan ăn steak. Thịt bò Ba Lan gì như thịt bò bầm Hamburger gốc Đức nên thường thôi, bia có thứ ngon thứ không. Nó biết nhiều loại bia vì khi đi quân dịch, nó tình nguyện qua Đức để uống…bia Ba Lan. Nó “bốc” bia Ba Lan có loại uống như cụ Phan Thanh Giản uống thuốc độc, Vì bia có tên là: “Bia tử thần”. Bởi loại bia từ chêt đến bị thương này chỉ để cho quan chức nhà nước, ngoại giao đoàn hay cho…tử tội. Ở quán ăn, tiện nội tôi tiếng Tây tiếng u cũng ngọng như tôi hồi trước. Thấy tiện nội tôi lậu bậu gì đó với người phục vụ, nó xắng xít gọi cho tiện nội tôi ly trà đá. Bỗng dưng tôi hoài cố nhân đến thằng bảo trợ người Ba Lan khẽ đánh mắt một cái, chỉ tay vào cái tủ lạnh…
Bạn đọc nháy nhó nhau dám nó là con trai vợ chồng thằng bảo trợ Ba Lan lắm ạ! Tôi không nghĩ vậy và cũng không hỏi. Bởi nếu như nó trả lời “không” cũng mất vui. Còn nó trả lời “có” (yes) còn mất vui hơn nữa. Vì thằng tôi ăn mày chữ nghĩa qua một nhà văn chỉ bảo rằng: Thật quá hoá thô để thành không thật. Thế nên “không” hay “có” là…là chuyện “không tưởng” của bạn đọc, chứ,…chứ chả phải của người viết tôi.

Như cái tựa đề: “Chuyện có tên là…“ là gì, cũng tuỳ theo góc nhìn của bạn đọc.
Tuỳ…

Thạch trúc gia trang
Ngộ Không Phi Ngọc Hùng
(viết cho ngày 30 tháng tư 2015)

 

Đăng ngày 30 tháng 04.2015