Từ một câu ca dao, nhớ về

nền giáo dục VNCH một thời rực rỡ

Nguyễn Kiến Thiết

Bàn về ca dao, có nhiều điều thú vị để nói. Đại đa số đều đồng ý cho rằng ca dao là thơ, là nhạc, là họa, nhưng chủ yếu là tình. Chắc hẳn mỗi người trong chúng ta đều thuộc nằm lòng những vần ca dao ngọt ngào, trầm ấm từ thuở nằm nôi cho tới lúc trưởng thành. Riêng tôi, câu ca dao về tình nghĩa thầy trò đã thấm vào lòng tôi từ thuở ấu thơ: “Muốn sang thì bắc cầu kiều; Muốn con hay chữ, phải yêu lấy thầy”. Cho đến lúc lớn lên, lại nghe câu ca dao:
Dưa leo chấm với cá kèo
Chuột chạy cùng sào mới học Nọt-man.
Từ câu ca dao có phần mỉa mai nghề giáo, người viết muốn nói lên những suy nghĩ vụn của mình về Nghề Thầy trước năm 1975.

*Giải thích câu ca dao:
Trước hết, thiết tưởng nên thử cắt nghĩa câu ca trên để hiểu rõ hơn về nội dung, ý nghĩa của nó.
– Cá kèo: tên một loại cá sống tập trung ở môi trường sình lầy và nước lợ (tức nước mằn mặn) ở Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá. Người ta còn gọi nó là cá bống kèo để phân biệt với cá bống cát hoặc cá bống dừa (tức loại cá bống sống ở trong rảnh bập dừa nước) ở sông rạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Người ta có thể bắt cá bống kèo quanh năm suốt hai mùa mưa nắng. Vào mùa nắng, nước ròng sát chỉ cần đi rảo trên các bãi cạn để tìm “mà” (tức chỗ miệng hang có đất đùn lên) để bắt cá kèo.
Thường thì mỗi “mà” chỉ có một con cá bống kèo nên đi cả buổi mới bắt đủ cá kèo để ăn trong ngày. Nhưng vào những trận mưa đầu mùa, cá kèo chạc hà (nhiều vô số kể). Chúng kéo về “cả đàn cả lũ, hàng ngàn con, hàng vạn con, đặc sệch (1) cả một khúc sông hay kinh rạch, không biết bao nhiêu mà kể. Chúng trôi theo dòng nước, không đủ chỗ để bơi nghiêng phải bơi đứng, nên chỉ thấy những đầu là đầu, dày đặc” (Theo Nguyễn Văn Ba- tức Kỹ sư Nông học Thái Minh Kiệt, Giảng viên Đại học Cần Thơ. Tạp chí Đi Tới năm 1998).
Dân miền biển Bạc Liêu, Cà Mau gọi đó là ngày Hội cá kèo. Cá kèo kho tiêu hoặc kho nước dừa ăn rất ngon, rất được dân ta ưa chuộng. Người ta còn chế biến món nấu mẵn (còn gọi là kho mẵn), đại để là luộc/kho lạt, để lửa riu riu, rồi nêm nếm với tiêu, nước màu, nước mắm, cuối cùng với hành lá xắt dầy trước khi ăn “Ví dầu cá bống nấu canh / Bỏ tiêu cho ngọt, bỏ hành cho thơm”. Một số nhà hàng còn chế biến món lẩu cá kèo nhằm thu hút dân nhậu sành điệu muốn thay đổi khẩu vị. Vào mùa Hội cá kèo, người ta còn làm khô cá kèo để ăn quanh năm. Đi coi hát cải lương ở miền Nam còn có hạng vé cá kèo. Đây là hạng vé rẻ tiền, khán giả phải đứng xa sân khấu, chen chúc, xô đẩy nhau để coi xuất hát mình thích. Dầu sao họ cũng bỏ tiền mua vé còn hơn là coi cọp.

– Chuột chạy cùng sào (Sào: cây dài, thẳng bằng tre, nứa dùng để chống, đẩy, cắm ghe thuyền hoặc để phơi quần áo. Ca dao Lục tỉnh có câu: “Ghe lui khỏi bến nhổ sào / Thấy em có chốn muốn nhào xuống sông”): Dân chài ở miền biển khi đánh cá về thường phơi lưới trên những cây sào dài bằng tre. Lũ chuột thường kéo tới chỗ phơi lưới để kiếm chác tôm cá thúi rơi vãi. Chúng chạy loanh quanh từ dưới đất rồi trèo lên những cây sào phơi lưới. Khi có động, chúng chạy bán sống bán chết trên sào để thoát thân. Khi “chạy cùng sào”, chúng rơi tòm xuống đất hoặc xuống nước nên “ướt như chuột lột”. Có người còn giải thích sào là hang ổ, nơi ẩn trốn, nơi sống của một con vật nào đó, e không đúng.
Thành ngữ “Chuột chạy cùng sào” phải chăng ra đời trong hoàn cảnh ấy và có nghĩa là tình thế khó khăn đến bước đường cùng, không lối thoát.

– Nọt-man: phiên âm chữ normale (École normale) có nghĩa là Trường Sư phạm – tức trường đào tạo giáo chức. Ở đây có thể hiểu là Trường Sư phạm Sài Gòn, mà tiền thân của nó là trường Quốc Gia Sư Phạm, được thành lập năm 1955 tuyển sinh từ Bến Hải tới Cà Mau.
Cặp ca dao lục bát trên đây được cấu tứ theo thể hứng kết hợp với tỉ, tức vừa liên tưởng, vừa so sánh. Từ những món ăn dân dã “cây nhà lá vườn” như “dưa leo, cá kèo” mà con nhà nông ưa chuộng, tác giả dân gian liên tưởng tới hoàn cảnh các em học sinh con nhà nghèo hoặc lâm vào bước đường cùng, nên phải thi vào Sư phạm để làm thầy, giống như “Chuột chạy cùng sào”.
Thật ra, câu ca dao nầy còn có nhiều dị bản, như: “Dưa leo chấm với cá kèo; Bởi con nhà nghèo, đi học Nọt-man / Mấy đứa nhà nghèo, mới học Nọt-man / Cha mẹ anh nghèo, anh học Nọt-man / Chuột chạy cùng sào, mới vào Sư phạm”. Chúng ta còn nghe câu: “Nhứt Y, nhì Dược, tạm được Bách Khoa, qua loa Sư Phạm” v.v…

Tất cả câu ca dao dẫn trên đều ám chỉ đến nguyên nhân không mấy tốt đẹp khi chọn nghề thầy. Phải chăng các em chọn vào Sư phạm bởi con nhà nghèo, ra trường được tuyển dụng ngay nên không sợ “thất nghiệp”? Phải chăng các em đến với ngành Sư phạm như sự bấu víu, vớt vát? Phải chăng các em chọn nghề giáo vì “bước đường cùng” chớ không phải là tất cả đam mê và tâm huyết?

*Nghĩ về nghề thầy:
Những ai đã từng hành nghề gõ đầu trẻ thời Việt Nam Cộng Hòa chắc hẳn đã tự hỏi vì sao có câu ca dao nhằm đánh giá thấp nghề thầy kể trên. Các bạn cũng như tôi, chắc không khỏi đau lòng, thậm chí bị tổn thương vì mục đích chọn nghề thầy của mình đã mất đi ý nghĩa cao quý của nó. Trong một bài báo trước kia, chúng tôi đã đề cập đến truyền thống hiếu học và tinh thần “tôn sư trọng đạo” của người Việt. Chính với truyền thống tốt đẹp nầy, người thầy và nghề dạy học luôn được tôn vinh.
Thật ra, muốn trở thành nhà giáo phải thi vào các trường Sư phạm (Sư: thầy; phạm: cái khuôn) để học cái khuôn mẫu dạy dỗ; nói nôm na là học cái phương pháp, cách thức dạy học. Giáo sư Phạm Cao Dương qua bài “Nhìn lại thời vàng son của Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa” đã mô tả khá tỉ mỉ phương pháp, cách thức dạy học như sau: “Từ phong thái đến cách giảng dạy, từ cách vào lớp, cho phép học trò ngồi, tới cách viết bảng và xóa bảng, cách chấm bài hay phê bài, các vị này đã toát ra một sự chừng mực và vô cùng thận trọng của những nhà sư phạm lành nghề và yêu nghề”.
Từ những năm đầu thành lập (1955-1961), trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn tuyển sinh có bằng Trung học Đệ I Cấp, chia làm hai phân hệ:
.Hệ 1: học một năm, ngạch Giáo viên Tiểu học;
.Hệ 2: học ba năm, ngạch Giáo học bổ túc, dạy các lớp Tiểu học, hoặc các lớp Trung học Đệ Nhứt Cấp (từ Đệ Thất tới Đệ Tứ).
Giai đoạn 1961-1975, trường được đổi tên thành trường Sư Phạm Sài Gòn, tuyển sinh có bằng Tú tài 1 (hoặc Tú tài 2), học hai năm, ngạch Giáo học bổ túc, dạy các lớp Tiểu học và Trung học Đệ Nhứt Cấp (với điều kiện phải dự một khóa Tu nghiệp hoặc đã đậu hai chứng chỉ Đại học và được cải ngạch).

- Việc tuyển sinh vào trường Sư Phạm Sài Gòn, hoặc bất cứ trường Cao đẳng hay Đại học nào thời Việt Nam Cộng Hòa đều công bằng, vô tư, nghiêm ngặt, dựa trên khả năng của thí sinh nghĩa là không phân biệt giàu nghèo, giai cấp xã hội, cũng không phân biệt tôn giáo, địa phương hay chủng tộc. Xin dẫn một câu chuyện vui xảy ra tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn: Kỳ thi cuối năm chứng chỉ Văn chương và Văn minh Pháp, có một ông Tướng sau khi đậu kỳ thi viết nhưng bị đánh rớt phần vấn đáp. Giám khảo là người Việt còn trẻ, ở tuổi quân dịch! Ngay cả việc chọn nhiệm sở cũng dựa vào thứ hạng cao thấp trong kỳ thi tốt nghiệp của mỗi giáo sinh.
- Tất cả giáo sinh, sinh viên Sư phạm thời bấy giờ đều được hưởng học bổng tùy theo phân hệ. Chẳng hạn hệ ba năm, học bổng chừng 800$/tháng (một tô phở tại tiệm Phở 79 đường Võ Tánh Sài Gòn thời ấy là 5 đồng). Còn sinh viên Đại học Sư phạm được hưởng học bổng 1500$/tháng. Khoản học bổng đáng khích lệ nầy nhằm giúp giáo sinh yên tâm dồn hết mọi nỗ lực cho việc học tập. Người thầy ngoài kiến thức chuyên môn sâu rộng vì không ngừng học hỏi, còn phải biết cách dạy hiệu quả. Theo lẽ thường muốn làm thầy dạy giỏi, trước hết phải là học trò giỏi.

Nghề thầy là một “nghề đặc biệt”. Công việc của người thầy là “công việc đặc biệt”, bởi lẽ ngoài việc “dĩ ngôn vi giáo”, tức dùng lời nói để truyền đạt kiến thức cho học trò, người thầy còn phải “dĩ thân vi giáo”, tức lấy chính thân mình, lấy chính nhân cách, đạo đức, phong cách sống của mình làm khuôn mẫu, làm tấm gương sáng cho học trò noi theo. Mất cái khuôn mẫu nầy, nghề thầy sẽ bị đào thải.
Nghề thầy còn là một nghề cao quý bởi thầy cô là những người dìu dắt thế hệ trẻ của đất nước. Nói khác đi “sản phẩm” của nghề giáo là “con người”, là thanh niên, rường cột của quốc gia (Học sinh là người Tổ quốc mong cho mai sau…). Và công việc của nhà giáo là công việc “trồng người” (2).
Immanuel Kant (1724-1804) có nói: “Con người chỉ có thể trở thành người là nhờ giáo dục”. Đi xa hơn nữa, một nhà tư tưởng phương Tây đã khẳng định: “Nhà giáo nắm trong tay tương lai thế giới”. Người ta thường ví: “Tâm hồn trẻ như tờ giấy trắng”. Nếu người lớn (thầy cô, cha mẹ) khéo dạy bảo (khéo vẽ) thì sẽ có những bức tranh đẹp, sắc màu tươi sáng… Những ai đã chọn nghề giáo không chỉ có “duyên nợ” với nghiệp nhà giáo, mà còn phải yêu trẻ, yêu nghề. Có yêu nghề, yêu trẻ người thầy mới đem hết tâm hồn và nhiệt huyết ra dạy trẻ với tất cả đam mê. Đó cũng là thiên chức của nghề giáo.
Nghề thầy là một nghề chân chánh nhờ chánh sách đãi ngộ của chánh phủ qua mức lương thu nhập cũng như tạo cơ hội đồng đều cho thầy cô giáo thăng tiến nghề nghiệp. Từ đó họ sẽ toàn tâm toàn ý phục vụ cho sự nghiệp giáo dục và không làm bất cứ điều gì gây tổn hại đến thanh danh nhà giáo.
Chẳng hạn lương giáo viên Tiểu học trước năm 1975 có chỉ số 250; Giáo học bổ túc 320; Giáo sư Đệ I Cấp 400; Giáo sư Đệ II Cấp 470, Giáo sư Đại học 640 trở lên.
Xin dẫn một thí dụ. Lương của một Giáo sư Đệ II Cấp mới ra trường, còn độc thân năm 1964-1965: (Chỉ số lương 470 x 11.50) + (phụ cấp Sư phạm 800$ + phụ cấp đắt đỏ 1200$) = 7405$/tháng. Nếu có gia đình cộng thêm phụ cấp vợ = 1000$; con = 800$ trở lên. Nên nhớ, trước năm 1969, so với đồng đôla Mỹ, hối suất chánh thức là: 1$US = 35$VN.
Từ Tháng Mười 1969, dưới thời Tổng trưởng Kinh tế Phạm Kim Ngọc, hối suất lúc bấy giờ là: 1$US = 100$VN. So với ngạch công chức và quân đội, lương Giáo viên, Giáo sư tương đối cao nên đời sống giáo chức được bảo đảm, thư thả. Theo Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm: “Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể thuê được người giúp việc trong nhà”. (Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa).

Nghề thầy luôn được tôn vinh, thầy cô được kính trọng gần như tuyệt đối. Học đường thời Việt Nam Cộng Hòa rất nghiêm túc, áp dụng ba nguyên tắc căn bản: Nhân bản – Dân tộc – Khai phóng, lấy phương châm “Tiên học lễ, hậu học văn” làm gốc. Ở trường, thầy cô dùng cái “tâm” hết lòng dạy dỗ học trò. Ngoài đời, như đã phân tích trên, họ xứng đáng làm khuôn mẫu trong cách đối nhân xử thế. Học trò rất lễ phép với mọi người, hết lòng kính yêu thầy cô trong tinh thần “tôn sư trọng đạo”, “kính thầy mến bạn”. Ngày xưa, trong bậc thang giá trị Quân-Sư-Phụ, nhà giáo được xếp sau vua, trước cả cha mẹ, nhưng được kính thờ như một:
Vua-Thầy-Cha ấy ba ngôi
Kính thờ như một, con ơi ghi lòng.
Sách Luân Lý Giáo Khoa Thư do Trần Trọng Kim chủ biên, xuất bản năm 1941, có ghi rõ: “Luân lý ta lấy quân, sư, phụ làm trọng hơn cả. Người học trò tốt phải biết ơn thầy, phải tôn kính thầy, phải yêu mến thầy và phải vâng lời thầy” (tr.26). Nếu làm trái lại bị xem là “những quân vô hạnh”, “như thế là vong ân bội nghĩa rất đáng khinh bỉ” (tr.28).

Như vậy, quan hệ thầy-trò là mối quan hệ thiêng liêng cao cả. Nó gắn bó về tình và lý: Thầy ra thầy, trò ra trò. Nó ràng buộc con người phải sống cho “phải đạo”, ăn ở cho có tình có nghĩa với nhau: Đạo nghĩa thầy-trò. Có người còn ghi nhận thời kỳ 1955-1963 là “thời kỳ vàng son” của nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa.
*Kết: Câu ca dao và các dị bản dẫn trên, một mặt thể hiện cái “mặc cảm tự tôn” của con nhà khá giả, được ăn học đến nơi đến chốn nên xem thường ngành Sư phạm; mặt khác còn thể hiện cái “mặc cảm tự ti”, lời than vãn của con nhà nghèo khi chọn vào Sư phạm. Cả hai loại mặc cảm trên – đặc biệt mặc cảm tự tôn thường bị cô lập trong tập thể, đều làm tổn thương đến nghề thầy! Có khi đám con nhà nghèo, kể cả con nhà trung lưu vì muốn nối nghiệp cha ông nên hăm hở chọn nghề dạy học làm lý tưởng cho đời mình và chỉ sống bằng nghề dạy học, vui với nghề dạy học, như câu ca dao:
Dưa leo chấm cá thòi lòi
Con em nhà nòi, mới học Nọt-man.

Cũng như đại đa số đồng nghiệp đã từng hít thở không khí học đường qua học hành, thi cử và giảng dạy trước năm 1975, tôi vô cùng nuối tiếc thời vàng son của nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa. Tôi cũng lấy làm hãnh diện vì được đứng chung hàng ngũ giáo chức của nền Cộng hòa tuy còn non trẻ nhưng có nhiều đóng góp đáng kể trong việc đào tạo nhân tài cho đất nước. Mặc dầu không được hưởng nhiều ân sủng bởi vận nước, nhưng tôi luôn biết ơn nền giáo dục ấy, qua bao cuộc bể dâu, đã tạo cho tôi một chỗ đứng khiêm tốn và một quá khứ để hoài niệm – một thứ hoài niệm về dĩ vãng vàng son trôi theo năm tháng cuộc đời!

*Chú thích:
(1) Đặc sệch: đáng lẽ phải viết “đặc sệt”.
(2) Quản Trọng tức Quản Di Ngô (725 TCN – 645 TCN) là Tướng quốc triều vua Tề Hoàn Công thời Xuân Thu Chiến Quốc, tác giả của quốc sách “trồng người”, có viết trong sách Quản Tử: “Thập niên chi kế mạc như thụ mộc; chung thân chi kế mạc như thụ nhân” (Kế hoạch mười năm không gì hơn trồng cây; kế hoạch trọn đời [trăm năm] không gì bằng trồng người).

Gs Nguyễn Kiến Thiết

https://www.facebook.com/sam.nguyen.7505468


Tiến sĩ dỏm: lỗi do ai?

RFA

Nhiều đề tài luận án tiến sĩ bị cho là chỉ tương đương với báo cáo, tham luận làm suy giảm nền học thuật Việt Nam. Nguyên nhân từ nghiên cứu sinh hay từ giáo sư chấm luận văn… là điều dư luận quan tâm.


Luận án sao chép
Mới đây, Tiến sĩ Hoàng Ngọc Vinh - nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp - cho rằng, nhiều đề tài luận án tiến sĩ không xứng tầm tiến sĩ, không liên quan đến ngành giáo dục, sư phạm và không có ý nghĩa về mặt khoa học. Ngoài ra, những đề tài kiểu như thế, đã đánh mất niềm tin, trách nhiệm với khoa học và xã hội.
Nêu quan điểm của mình về vấn đề trên, Giáo sư Đặng Hùng Võ nói với RFA:
“Tôi là một người chuyên làm khoa học, tôi thấy Hội đồng chấm tiến sĩ rồi các buổi nghiệm thu các đề tài khoa học không có những phản biện gay gắt để mổ xẻ chất lượng. Ngay bản thân một cái luận án tiến sĩ nhiều khi tôi phản biện, tôi đặt vấn đề là tác giả chỉ cho tôi xem cái gì là cái mới, nhỏ thôi cũng được, nhưng mãi không chỉ ra được. Ví dụ như thế”.

Không có cái gì ‘mới’ trong các luận án tiến sĩ cũng là điều được nhà giáo Đinh Kim Phúc nêu lên với RFA:
“Một yếu tố quan trọng của một đề tài tiến sĩ đó là yếu tố "mới". Anh (người bảo vệ luận án tiến sĩ-PV) đã chỉ ra được một quy luật mới nào của nghiên cứu khoa học chưa? Anh đã chỉ ra được cái hướng mới nào, có phát hiện được những vấn đề mới nào trong khoa học chuyên ngành của mình hay không?
Ngay cả khi anh làm đề tài phê phán những cái sai của những đề tài trước đó, thì đó cũng là cái mới. Tôi thấy hầu như những luận án tiến sĩ trong thời gian gần đây không có một yếu tố nào gọi là "mới" mà chỉ lặp đi, lặp lại ý tưởng của những đề tài khác rồi thay thế bằng những số liệu và ngữ cảnh khác nhau mà thôi”.
Nhà giáo Đinh Kim Phúc còn thẳng thắn nhận định hiện nay, hiện tượng mua bằng chạy chức để lấy học vị đã kéo lùi việc nghiên cứu khoa học của Việt Nam, nhất là ngành đào tạo sau đại học đó là tiến sĩ.

Còn với giảng viên Phạm Minh Hoàng, người từng đọc qua một luận án tiến sĩ khiến ông ngạc nhiên, đó là luận án có tựa “Làm thế nào để sử dụng phần mềm Power Point”. Ông nói, nó (luận án-PV) không có một hàm lượng chất xám nào trong đó hết. Ai cũng có thể sử dụng Power Point với nhiều tài liệu sẵn có. Vị giảng viên này kể thêm:
“Chính tai nghe mắt thấy thì tôi thấy có rất nhiều điểm tiêu cực. Tôi nhớ có một lần, một vị giáo sư chấm một luận án về cơ học có nhờ tôi xem qua bài luận văn để cho nhận xét. Tôi đọc cái tựa thì tôi thấy liên quan đến kiến thức của tôi. Đọc vô đề tài thì tôi ngỡ ngàng vì họ xài những ký tự lạ. Xui cho ông nghiên cứu sinh này là ông ta chép từ một cuốn sách ở Pháp, mà cuốn sách đó tôi đang có trong tay. Tất cả những phần quan trọng của luận án tiến sĩ này đều chép từ trong sách nó ra hết. Đề tài dài chừng 100 trang thì chỉ có 20 trang là hàm lượng chất xám của anh ta.
Tôi báo lại với vị giáo sư kia thì họ nói để họ xử. Sau đó anh nghiên cứu sinh này vẫn tốt nghiệp tiến sĩ. Tôi rất là ngạc nhiên nhưng tôi hiểu ra rằng, vị giáo sư này bắt buộc phải cho anh ta đậu, nếu không thì mai mốt học trò của vị giáo sư này sẽ bị những giáo sư của nghiên cứu sinh kia đánh rớt”.

Ở đâu cũng có Tiến sĩ!


Trước đó, hồi tháng 5, Thanh tra Chính phủ đã có văn bản do Phó Tổng Thanh tra Chính phủ Trần Ngọc Liêm ký, chỉ rõ những vi phạm, khuyết điểm trong quá trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội. Có trường hợp giảng viên không đủ điều kiện tham gia Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ; có trường hợp nghiên cứu sinh đề xuất đề tài nghiên cứu không nằm trong danh mục nghiên cứu; sổ cấp phát văn bằng còn tẩy xóa, sửa chữa, thiếu thông tin về nghiên cứu sinh…
Một số luận án tiến sĩ những năm qua và cả gần đây đều gây bàn tán trong dư luận bởi đề tài nghiên cứu không có tầm và càng không có nhiều đóng góp thiết thực cho xã hội. Chẳng hạn như luận án tiến sĩ “Nghiên cứu giải pháp phát triển môn cầu lông cho công chức viên chức thành phố Sơn La” năm 2021, luận án tiến sĩ “Đặc điểm giao tiếp với dân của chủ tịch ủy ban nhân dân xã” hay “Hành vi nịnh trong tiếng Việt”, “Hành vi ngôn ngữ thề của người Việt” của các nghiên cứu sinh tại Học viện Khoa học Xã hội năm 2016… Hoặc như mới đây, luận án tiến sĩ về đề tài áo ngực cho phụ nữ gây bão mạng, khi nhiều người trẻ cho rằng “luận án cho trung học phổ thông thì chính xác hơn là cho tiến sĩ”.
Những đề tài luận án tiến sĩ kiểu như vậy bị cho là lãng phí thời gian, công sức, mà chẳng đem lại giá trị gì cho khoa học và đời sống mà lại làm giảm uy tín của nghiên cứu sinh, người hướng dẫn và cơ sở đào tạo.

Một số chuyên gia trong ngành giáo dục nhìn nhận về vấn đề này, cho rằng, trách nhiệm trước hết cần phải đặt ra là do người hướng dẫn, sau đó đến hội đồng xét duyệt đã cho qua những luận án không đạt yêu cầu.
Trong đó, giảng viên Đinh Kim Phúc nói:
“Muốn đấu tranh với hiện tượng này, muốn phê phán hiện tượng này thì trước mắt chúng ta phải tập trung vào nơi đào tạo, tập trung vào hội đồng chấm luận văn, tập trung nơi các thầy hướng dẫn hơn là học viên.
Nếu các thầy hướng dẫn nghiêm túc, các thầy phản biện nghiêm túc, cơ sở đào tạo nghiêm túc thì một đề tài ‘dỏm’ khó mà lọt qua mắt được hội đồng, chứ đừng nói tới chuyện đứng lên bục để bảo vệ luận án. Đây là chuyện muôn thuở trong bảo vệ luận án tiến sĩ ở Việt Nam hiện nay. Nếu tình trạng đào tạo tiến sĩ như hiện nay không được giải quyết thì đến một lúc nào đó, chúng ta ra đường là đụng đầu tiến sĩ. Nghĩa là tiến sĩ ở khắp nơi”.
Đầu tháng 6 vừa qua, tại buổi làm việc hướng tới công tác xây dựng Chiến lược Quốc gia nhằm phát triển đội ngũ trí thức giai đoạn 2021-2030, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc yêu cầu "Làm Tiến sĩ thay vì học Tiến sĩ như hiện nay". Yêu cầu của Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc bị cho là khó hiểu, bởi không học thì lấy đâu ra mà làm tiến sĩ?

Đào tạo tiến sĩ là đào tạo nhân lực có trình độ cao, nếu cơ sở đào tạo chỉ chạy theo số lượng mà không chú trọng chất lượng, hội đồng xét duyệt và người hướng dẫn không nghiêm minh thì chất lượng tiến sĩ ngày một đi xuống, đúng như lời nhận xét của giảng viên Đinh Kim Phúc nêu ra ở trên.
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam là cơ quan khoa học thuộc Chính phủ, có chức năng nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội, đào tạo sau đại học về khoa học xã hội, tham gia phát triển tiềm lực khoa học xã hội của cả nước. Thời gian qua, một vài lãnh đạo Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam bị kỷ luật do những vi phạm trong công tác liên quan tới sai phạm trong đào tạo sau đại học. Trong đó có Chủ tịch Bùi Nhật Quang và hai Phó Chủ tịch Nguyễn Đức Minh và Đặng Xuân Thanh.

28.11.2022
https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/doctor-fake-whose-fault-is-it-11282022125205.html


Thầy giơ tay lên!

Đoàn Xuân Thu



Chuyện rằng: “Cô ấy dạy Toán ở thành phố Malappuram thuộc tiểu bang Kerala bên Ấn Ðộ. Một ngày nọ, học trò của cô nhìn thấy một người ăn xin gần ga xe lửa. Và sau đó, người học trò đó nhận ra người ăn xin đó đã từng dạy lớp của mình.
Cô ấy nói: “Sau khi về hưu, các con tôi đã bỏ tôi đi. Từ đó, tôi không biết về cuộc sống của chúng” Vì vậy, để sống còn, tôi bắt đầu ăn xin trước Ga xe lửa. Nghe xong, người học trò cũ khóc và đưa cô về nhà mình. Em cho cô ấy ăn, cho cô ấy mặc. Con của cô đã bỏ đi nhưng những đứa trẻ ngày xưa ấy từng được cô dạy dỗ sẽ không bỏ cô. Ðó là sự vĩ đại của nghĩa ân sư.
Ở nước ta, thời triều Nguyễn, cũng có một câu chuyện cảm động như thế. Năm 1862, ông Phan Thanh Giản vào Nam nhậm chức Kinh lược sứ ba tỉnh: Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
Ðến Gia Ðịnh, ông ghé Gò Vấp thăm tôn sư Võ Trường Toản. Khi gần đến lều tranh của thầy, ông truyền xếp võng điều và lọng lại. Ông xuống đi bộ vào bái thăm thầy để hàn huyên ấm lạnh. Lúc bái tạ ra đi, ông dâng cho tôn sư hai nén bạc để uống trà. Tôn sư cho ông một chục bắp. Ông Phan Thanh Giản tự mình xách, không để lính hầu cầm. Ông đi bộ một đỗi xa mới dám lên lại võng lọng. Dẫu làm quan lớn, Kinh lược sứ ba tỉnh Miền Tây, ông Phan Thanh Giản vẫn giữ trọn đạo nghĩa tôn sư.
Nhưng sau 75, cái truyền thống đáng quý nầy trong thời quỷ lộng thần suy không còn nữa.

Chuyện rằng: “Có một ông thầy tên Xuân dạy lớp đệ tam ở một trường trung học tại một huyện thuộc Vĩnh Long. Thầy rất ngạc nhiên vì trong lớp thầy có một em học sinh lúc nào cũng ngủ gục trong lớp. Một bữa, vui miệng thầy hỏi em: “Bộ ban đêm đi đắp mô sao mà thiếu ngủ vậy?!)
Sau ngày 30 tháng Tư, đứa học trò đó làm Chủ tịch huyện. Thầy Xuân bị bắt đi học tập cải tạo trên 3 năm vì cái tội làm thầy giáo mà còn làm cho “xịa” (CIA). Nếu không làm cho CIA, thì làm sao thầy biết tối nào thằng học trò đó cũng đi đắp mô?
Ông độc giả nầy kể xong rồi còn thòng thêm câu: “Chuyện có thật 72 phần dầu đấy nhé!” Chắc ông sợ tui nghĩ làm sao có một đứa học trò trời đánh thánh đâm, tàn nhẫn với thầy cũ của mình như vậy chớ?
Nói nào ngay, nghe xong là tui tin ngay đó là chuyện thật. Vì cách nay chừng hơn chục năm, một ông Phó Giáo sư ngoài Hà Nội có kể một câu chuyện như vầy: “Có một tay đã học và đã tốt nghiệp ở một trường Ðại Học loại có tiếng ở nước ta. (Nước ta xin quý độc giả hiểu là nước VNCS). Sau khi ra trường mấy năm, không hiểu trời xui đất khiến hay tổ tiên phù hộ, độ trì gì đó mà hắn được ‘bắn’ sang một nước ngoài nào đấy sinh sống và làm ăn. Rồi nghe nói: hắn ta dần dần nổi tiếng trở thành một đấng trượng phu?!
Rồi hắn muốn về nước chơi, thăm thú quê hương, mong góp sức mình cho đất nước trong thời kỳ đổi mới. Hắn về thăm lại trường xưa, vinh quy bái tổ. Hắn muốn có một cuộc ‘giao lưu’ với thầy, cô giáo cũ. Cuộc họp cũng không ít người. Các bạn trẻ đến vì tò mò. Các thầy giáo già đến vì muốn xem mặt học trò cũ mà trước đây mình không chú ý nên không nhớ ra.
Sau vài câu xã giao thường lệ, con người thành đạt ấy dừng một lúc để mọi người tập trung chú ý và hỏi: “Ai đã từng dạy tôi thì giơ tay!”. Phòng họp đột nhiên im lặng như tờ. Không một cánh tay khẳng khiu nào giơ lên. Rồi có tiếng bàn ghế di chuyển. Các thầy cô giáo cúi đầu lẳng lặng ra về”.

Ối! ông phó Giáo sư chỉ kể chuyện một con cắc ké. Tui chơi ngon hơn, tui kể chuyện con kỳ nhông. Chuyện rằng: Ông Quang Ðại tướng, Chủ tịch nước về Kim Sơn, Ninh Bình thăm thầy cũ. Cờ xí rợp trời. Kèn trống tưng bừng. Dân cả huyện, cả làng đi rước Ngài Chủ tịch nước vinh quy bái tổ.
Trò cũ lịch bịch như con vịt, vì mập quá, leo lên bục quơ tay chém gió, vừa dạy bảo các thầy cô của ngôi trường mình đã từng theo học là hãy thi đua dạy tốt và học tốt. Còn thầy cũ thì đáp từ phát biểu cảm tưởng: “Dạ thưa Ngài Chủ tịch nước! Ngày xưa, người thường hay trốn học, tụ tập với bọn chăn trâu, lấy cờ lau tập trận như ông Ðinh Bộ Lĩnh rồi làm nên nghiệp bá”.


Phùng Xuân Nhạ Bộ trưởng Giáo Dục cộng sản bắt tay thầy giáo cũ 

Ông Phó Giáo sư Hà Nội chắc cũng có thấy, có nghe, có đọc chuyện tụi bồi bút viết kiếm cơm. Nhưng ông nín khe không dám phê bình ông Chủ tịch. Vì ngu sao mà chọc vô ổ kiến lửa. Ðừng xúi bậy nhe cha!
Ông Phó Giáo sư Hà Nội chỉ dám nghĩ: “Cho dù người học trò cũ có làm ông to, ăn trên ngồi trốc thì đối với người thầy cũ, mình vẫn phải khiêm cung”.
Rồi ông Phó Giáo sư kể chuyện đời của tớ: Tôi nhớ người thầy đã dạy tôi bài học tôn sư trọng đạo ấy ở ngôi trường làng. Thầy thường đánh vào mông tôi mỗi khi tôi viết sai chính tả hoặc làm ồn trong lớp. Tôi cứ mong ước một ngày nào đó, tôi sẽ quay về đúng cái lớp học này, mở cửa bước vào. Tui không chỉ cúi đầu như ông Tổng thống nước Pháp Francois Carnot. Tôi sẽ quỳ xuống trước mặt thầy và nói: “Thưa thầy! Thầy còn nhớ con không?”. Tôi không dám mất dạy, hỗn hào hỏi: “Ai đã từng có dạy tôi thì giơ tay lên”.

Một em độc giả thân mến của tui lại cắc cớ, thắc mắc: “Ờ tụi CS nó về thăm Thầy cũ là vậy. Còn anh, sao tui hổng thấy bài viết nào, anh thuật lại chuyện tưng bừng về thăm trường cũ hết vậy anh?
Tui cười khè khè, trả lời: “Tui giống ngài Tổng Bí Thư Lê Duẩn, chưa có đi học ngày nào thì làm sao có trường cũ, thầy cũ để về thăm để nổ, để khoe, để kêu ai từng có dạy tui thì giơ tay lên cho được?”
Hỏi thiệt ngặt, ông bạn tui mà chơi tao! Vạch cái dốt của tui ra cho thiên hạ cười? Thiệt làm tan nát lòng tui! He he!
Đoàn Xuân Thu


Một suy nghĩ nhỏ về việc xảy ra ở trường Hai Bà Trưng (Huế)


Ảnh cắt từ clip

Những ngày tôi đang ở Huế, lên mạng xem được một đoạn clip cô giáo dạy Văn trường Hai Bà Trưng( Đồng Khánh cũ) bị một đồng nghiệp nam bẻ tay lôi ra khỏi phòng học trước sự chứng kiến của các học sinh đang có mặt trong lớp. Đoạn clip ngắn nên tôi không biết cô giáo này mang tội gì mà phải bị xử sự như thế. Tuy nhiên hành động của nam giáo viên trong clip khó có thể chấp nhận. Trước hết làm người thầy giáo mà có hành động như vậy đối với đồng nghiệp lại là một nữ giáo viên thì đó là hành động bạo lực thiếu văn hoá. Hơn nữa người thầy là tấm gương cho học sinh, việc vi phạm đạo đức nhà giáo ngay trong lớp học có sự chứng kiến của học sinh là hành vi phản sư phạm. Dù cô giáo đó có lỗi gì chăng nữa thì trước mặt học sinh không thể chấp nhận hành động như vậy.
Tôi còn nhớ cách đây hơn năm mươi năm, khi tôi còn học năm cuối bậc trung học, có một giáo sư dạy môn Tân toán học hoạt động cộng sản. Thầy bị theo dõi và có lệnh bắt giam. Cảnh sát đến trường với mục đích bắt Thầy lúc đó Thầy đang đứng lớp. Thầy Hiệu trưởng vốn là một người từ miền Bắc vượt tuyến trốn vào Nam, tất nhiên là cũng không thiện cảm với những người hoạt động Việt cộng. Tuy thế, Thầy Hiệu trưởng không cho phép cảnh sát bắt Thầy ấy trong khu vực nhà trường và yêu cầu đội thi hành chỉ được bắt Thầy ngoài khuôn viên của nhà trường với lý do là không muốn học sinh chứng kiến hình ảnh một thầy giáo bị bắt, gây phản cảm trong học sinh. Chuyện ấy gây cho tôi một ấn tượng rất mạnh và tôi cảm phục cách giải quyết của Thầy Hiệu trưởng.
Có thể đem so sánh cũng hơi khập khiễng nhưng qua hình ảnh cô giáo bị bẻ tay trong clip đang phát tán trên mạng mấy ngày qua và cách giải quyết sự việc của Thầy Hiệu trưởng hơn năm mươi năm trước làm tôi có nhiều suy nghĩ về sự khác biệt trong môi trường giáo dục xưa và nay.
Điều lạ lùng hơn nữa sau khi clip được đăng lại trên Facebook của một người quen, tài khoản của anh bị tấn công liên tục với lời lẽ thiếu lịch sự hòng bao che và bảo vệ cho hành động của người giáo viên nam trong clip. Rõ ràng khi có sự cố, đã có tổ chức lập ra chiến dịch tấn công những người phê phán hành vi này. Có thể là của Đoàn Thanh niên, cũng có thể là của hội đồng nhà trường. Trước đây trong mùa dịch, tôi cũng đã có lần bị như thế khi phê phán việc phát gạo cho người thiếu thốn của một trường đại học. Hàng trăm comment liên tục tấn công Facebook của tôi, đe doạ có, chửi tục có, dùng những ngôn ngữ vỉa hè có và đòi đánh sập tài khoản của tôi. Những kẻ đó khi tìm hiểu toàn là sinh viên, đoàn viên của nhà trường. Trong môi trường sư phạm không nên để những việc như thế xảy ra.
Nhà trường xử sự như vậy, giáo dục học sinh, sinh viên như thế thì còn gì là giáo dục. Bởi vậy giáo dục của chúng ta hiện nay rớt tận hố sâu là chuyện đương nhiên thôi.
29.10.2022
DODUYNGOC

https://www.facebook.com/doduyngoc

 

Đăng ngày 08 tháng 01.2023