Kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Viện Đại Học Huế:

Lại suy ngẫm về đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”

vienDHH
Tòa nhà Viện Đại học Huế trước 1975

Nguyễn Văn Nghệ

“55 năm theo dòng lịch sử (1957-2012)”
Cách nay hơn năm năm vào ngày 11/02/2012 tôi có nhận của Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Huế một Thư ngỏ. Trong thư có viết: “Ngày 19 và 20 tháng 4 năm 2012, cùng với trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, Khoa Lịch sử sẽ tổ chức kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Ngành/Khoa (1957-2012).
Đây là dịp để các thế hệ thầy cô giáo, sinh viên, học viên Cao học, Nghiên cứu sinh đã từng làm việc, học tập về lại mái trường thân yêu gặp gỡ, ôn lại kỷ niệm, chia sẻ những tình cảm, thành công trong cuộc sống của mình và được nghe, được thấy sự thay đổi, trưởng thành của cán bộ, sinh viên hiện đang làm việc, học tập tại Khoa Lịch sử hôm nay
Do bận công việc gia đình nên tôi không thể đến Huế tham dự được. Và sau đó vào ngày 11/05/2012 tôi nhận được hai cuốn sách từ Khoa Lịch sử “Kính biếu” gởi vào, trong đó có cuốn “ 55 năm theo dòng lịch sử (1957-2012)” của nhà xuất bản Thuận Hóa do Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Huế làm chủ biên. Cuốn sách dày 300 trang nhưng chỉ dành 3 trang nói về giai đoạn hình thành cho đến năm 1975. Sau khi đọc xong cuốn sách này, vào lúc 12h51’ ngày 16/05/2012 tôi đã gởi E-mail đến Khoa Lịch sử có nội dung như sau:
“Kính gởi quý thầy cô Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Huế.
Em đã đọc xong hai cuốn sách mà Khoa đã gởi biếu. Riêng cuốn “55 năm theo dòng lịch sử(1957-2012)” cho em biết thêm nhiều tư liệu mà em chưa bao giờ biết. Nhưng khi đọc xong cuốn sách này em có chút buồn “theo dòng lịch sử”. Bởi vì “55 năm theo dòng lịch sử” chỉ nhắc đến cái ngọn mà quên mất đi cái gốc. Để “ôn cố tri tân” em giở cuốn “Bên giòng lịch sử” của linh mục Cao Văn Luận đọc từ trang 277- 301 để giải tỏa nỗi buồn. Xin quý thầy cô tha thứ cho đứa học trò cũ ăn nói bộc trực này.
Chúc quý thầy cô luôn dồi dào sức khỏe”.

“60 năm theo dòng lịch sử (1957-2017)”
Năm 2017 Viện Đại học Huế kỷ niệm 60 năm thành lập Viện Đại học, nhưng mỗi trường lại tổ chức vào ngày khác nhau: Trường Đại học Sư phạm Huế ngày 19/03/2017; Trường Đại học Khoa học- Đại học Huế ngày 24/03/2017; trường Đại học Y Huế tổ chức lễ chính vào ngày 22 /04/2017… Trong Thư Ngỏ kính gửi : Các thế hệ thầy cô, cán bộ, học sinh, sinh viên, học viên Trường Đại học Khoa học- Đại học Huế có ghi: “Những thành quả đạt được hôm nay ngoài sự hợp tác giúp đỡ của các cơ quan, đơn vị, cá nhân,tổ chức trong và ngoài nước, là công lao đóng góp to lớn của các thế hệ thầy cô giáo, cán bộ và sinh viên của Trường Đại học Khoa học- Đại học Huế hiện đang ở trong nước, ngoài nước và kể cả những người đã vĩnh viễn không còn nữa”

Lần kỷ niệm này, tôi đã đến tham dự và đã được Khoa Lịch sử Trường Đại Học Khoa học Huế kính biếu một số sách, trong đó có cuốn “60 năm theo dòng lịch sử (1957-2017)”. Cuốn sách dày 219 trang. Nội dung cũng chỉ nhắc đến phần “ngọn” còn phần “gốc” chỉ nhắc sơ sài.
Nếu hai cuốn “55 năm theo dòng lịch sử( 1957-2012)”và “ 60 năm theo dòng lịch sử (1957-2017)” do Khoa Văn hoặc một Khoa nào khác biên soạn thì tôi sẽ không buồn “theo dòng lịch sử”. Đằng này lại do Khoa Lịch sử biên soạn nên tôi mới buồn “theo dòng lịch sử”. Hai nhân vật quan trọng trong việc thành lập Viện Đại học Huế là Tổng thống Ngô Đình Diệm và linh mục Cao Văn Luận nhưng không hề được nhắc đến tên.
Bên giòng lịch sử (1948- 1965): Ông Diệm và văn hóa giáo dục.
Thế hệ trẻ trong nước chắc có nhiều người chưa bao giờ nghe, thấy và đọc cuốn “Bên giòng lịch sử” của linh mục Cao Văn Luận. Có đọc qua mới thấy công lao của Tổng thống Ngô Đình Diệm và linh mục Cao Văn Luận trong buổi bình minh của việc thành lập Viện Đại học Huế.
Theo linh mục Cao Văn Luận vào ngày mùng 3 Tết năm Đinh Dậu (1957) tại nhà từ đường của Tổng thống Ngô Đình Diệm ở Huế, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã nói với linh mục Cao Văn Luận: “ Này cha, tôi thấy cần phải thành lập tại Huế một viện Đại học lớn, vì hai lý do chính. Thứ nhất là Huế từ trước đã là một trung tâm văn hóa của nước ta. Ở Huế đã có những truyền thống văn hóa sâu đậm, có những cơ sở văn hóa lâu đời, như trường Quốc tử giám, các cuộc thi cử Hán học. Dân miền Trung lại hiếu học mà nghèo, có bao nhiêu thanh niên ưu tú muốn lên Đại học mà không thể vào Sài Gòn học tiếp. Thứ hai là hiện nay dân chúng xôn xao đồn đại rằng chính phủ một ngày nào đó có thể bỏ Huế, vì hiện nay Huế không quan trọng lắm về phương diên chính trị, kinh tế. Vậy lập Viện Đại học Huế là chứng minh cách cụ thể với dân chúng, với quốc tế cũng như với bên kia rằng chính phủ nhất định bảo vệ Huế. Huế chỉ cách vĩ tuyến 17 khoảng 100 cây số, lập ở đây một Đại học lớn chẳng khác nào thách đố với bọn cộng sản. Nếu bây giờ tôi quyết định lập Đại học Huế, cha có bằng lòng giúp tôi không?”
Linh mục Cao Văn Luận đã trả lời: “Thưa cụ, nếu tôi có thể làm được việc gì để góp công vào việc thành lập một Đại học ở Huế, thì cụ có thể tin rằng tôi không ngần ngại chút nào”.
Tổng thống Ngô Đình Diệm thấy linh mục Cao Văn Luận nhận lời liền nói: “ Vậy thì ít hôm nữa tôi sẽ sai một phái đoàn ra đây gặp cha, để thảo luận và nghiên cứu các chi tiết cụ thể”.
Và khoảng một tháng sau, một phái đoàn từ Sài Gòn ra Huế gặp linh mục Cao Văn Luận có các ông Ngô Đình Nhu, Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Dương Đôn, Viện trưởng Đại học Sài Gòn Nguyễn Quang Trình và những giáo sư chuyên viên khác.
Một cuộc họp được tổ chức tại Tòa Hành chánh tỉnh Thừa Thiên. Linh mục Cao Văn Luận trình bày trước cử tọa những lý do mà Tổng thống Ngô Đình Diệm đưa ra và kèm theo những lý do thực tế của linh mục. Nhưng cuộc họp đã đi đến quyết định “là vì những hoàn cảnh đặc biệt những khó khăn trong ngành giáo dục, chưa nên làm việc vội vàng hấp tấp quá.Họ nói rằng ở Huế chỉ nên lập một chi nhánh của Viện Đại học Sài Gòn tùy thuộc hoàn cảnh vào viện Đại học Sài Gòn và Bộ Quốc gia Giáo dục. Như vậy Đại học Huế sẽ không thành một đơn vị độc lập mà chỉ là một số phân khoa đặt dưới quyền Viện Đại học Sài Gòn mà thôi” và linh mục Cao Văn Luận được cử làm đại diện cho ông Viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn Nguyễn Quang Trình để tổ chức. Linh mục không đồng ý .“Nhưng đành khuất phục trước quyết định của đa số”.
Phái đoàn về Sài Gòn được mấy hôm thì có nghi định thành lập Đại học Huế, nhưng với các điều khoản đặt Đại học Huế lệ thuộc Viện Đại học Sài Gòn.
Linh mục Cao Văn Luận đã ghi lại những khó khăn của Đại học Huế bị lệ thuộc Viện Đại học Sài Gòn: “ Sau hai tháng hoạt động mỗi ngày tôi thấy thêm nhiều khó khăn chỉ vì Huế thì xa Sài Gòn, tôi lại không có đủ thẩm quyền quyết định bất cứ việc gì mà phải phúc trình về Viện trưởng Đại học Sài Gòn, về Bộ Quốc gia Giáo dục, rồi lên ông Nhu, ông Diệm. Các thủ tục đó làm cho công việc chậm trễ, làm cả tôi và những người góp sức lúc đầu chán nản.Tôi vào Sài Gòn trình bày các khó khăn đó thẳng cho ông Diệm. Tôi nói với ông Diệm rằng ý kiến đầu của ông Diệm là muốn có một Đại học Huế độc lập, lớn quan trọng để thành một chứng minh và thách đố với thế giới và bên kia nếu cứ phải chạy quấn trong những thủ tục giấy tờ rắc rối, và những hành lang của giới giáo dục Sài Gòn, thì không thể đi đến kết quả tốt được. Tôi yêu cầu ông Diệm cho Đại học Huế quy chế riêng biệt và độc lập, và tôi có quyền quyết định mọi việc trong phạm vi ích lợi cho Đại học Huế. Tôi ngỏ ý nếu không được như vậy thì xin ông Diệm chọn người khác, và tôi nhận thấy không thể làm việc trong các điều kiện quá rắc rối như vậy được. Tôi không phải là người có thể đi vòng vo qua bao nhiêu hành lang các bộ sở được mãi”. Tổng thống Ngô Đình Diệm trả lời: “Cha yên tâm. Tôi đồng ý với cha về những điều đó, và sẽ có nghị định thành lập Viện Đại học Huế tự trị ngay cho cha, và tôi xin mời cha làm Viện trưởng đầu tiên Viện Đại học Huế”.
Sau khi linh mục Cao Văn Luận trở về Huế được ít hôm thì có nghị định thành lập Viện Đại học Huế cùng với sắc lệnh cử linh mục Cao Văn Luận làm Viện trưởng.

Giới trí thức nhận xét công lao của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Linh mục Cao Văn Luận
Giáo sư Nguyễn Văn Hai nhận xét: “…Số là sau khi mới về Việt Nam nhậm chức, ông Ngô Đình Diệm ra Huế. Lẽ tất nhiên ông ấy cần một sự tiếp đón nồng hậu của dân Huế nói chung và của học sinh Huế nói riêng. Linh mục Cao Văn Luận lúc bấy giờ là giáo sư Triết tại trường. Ngài năn nỉ tôi tổ chức diễn hành tiếp đón. Tôi bàn với một số giáo sư, trưởng lớp và trưởng ban sinh hoạt của trường. Tất cả đồng ý đặt điều kiện là ông Diệm phải hứa sau này có quyền hành thời phải mở một Đại học tại Huế, để con em miền Trung nghèo có cơ hội cầu tiến.Lời yêu cầu cũng vừahợp ý ông Diệm.Saukhi được đoan chắc như vậy, chúng tôi mới mặc đồng phục trắng có thắt cà vạt xanh lơ mang biểu ngữ đòi mở Đại học Huế đi hàng lối chỉnh tề diễn hành chào đón. Sau đó Tổng thống Ngô Đình Diệm giữ lời hứa cho mở Đại học Huế mặc dầu có sự phản đối dữ dội của các vị khoa bảng ở Sài Gòn. Đại học Huế được thành lập, con em miền Trung có chỗ trau dồi chuyên môn và nhiều lớp sinh viên tốt nghiệp đãgóp công xây dựng nước Việt Nam”.
Với giáo sư Nguyễn Văn Trường- từng là giáo sư Viện Đại học Huế khi mới thành lập và sau này hai lần đảm trách chức vụ Tổng trưởng (tức Bộ trưởng) Giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa- đã nhận xét về Linh mục Cao Văn Luận: “ Với cha Luận, cái nhìn của tôi thuở ban sơ và bây giờ cũng khác đi nhiều. Cha là người linh mục độc nhất làm Viện trưởng một Viện Đại học công lập. Nếu giáo sư Nguyễn Quang Trình là ông Viện trưởng đầu tiên, có công hóa giải sự chống đối việc thành lập Viện Đại học Huế của một số khoa bảng Sài Gòn bấy giờ thì cha Luận là ông Viện trưởng đã xây dựng và hình thành những cơ sở chính yếu của Viện Đại học Huế: khởi đầu là trường Luật, Văn khoa, Khoa học, Sư phạm. Sau đó thêm trường Y. Tôi có lắm dị đồng với cha Viện trưởng của tôi, nhất là trong mấy niên học đầu. Dị đồng và mâu thuẫn ở cái nhìn cách hành xử”
Linh mục Cao Văn Luận luôn ôm ấp Viện Đại học Huế có một ban giảng huấn giỏi giang: “ Cha Viện trưởng, vài năm trước khi thành lập Viện Đại học Huế, đã có kế hoạch trồng người. Cha gởi nhiều học trò giỏi đi du học. Muốn là giáo chủ ,khai đạo, phải có tông đồ. Nhưng tông đồ của cha, người đi thì có , người về không mấy ai”
Do “người về không mấy ai” nên linh mục Cao Văn Luận “ phải tuyển các hộ pháp, thời quân, sứ giả của Cha ở nhiều nguồn khác nhau: tại chỗ, Sài Gòn, Pháp, Anh, Mỹ ,Đức , Bỉ… và đa số thì rất trẻ. Bên những bậc cha anh như cụ Nhu, cha Thích, bọn trẻ học hỏi và trưởng thành”.

 Giữa nói thật và không nói thật
Tại sao công lao của Tổng thống Ngô Đình Diệm và linh mục Cao Văn Luận trong việc thành lập Viện Đại học Huế sờ sờ ra đó mà trongcác lần kỷ niệm thành lập Viện Đại học Huế, không một trường nào của Viện Đại học Huế nhắc đến tên của hai vị ấy dù chỉ một lần mà thôi!
Giảng viên Hà Văn Thịnh công tác tại Khoa lịch sử Trường Đại học Khoa học Huế từ năm 1978 đến nay đã có lần trả lời bà Mạc Việt Hồng trên báo mạng Đàn Chim Việt trong bài viết “ Nhà sử học Hà Văn Thịnh nói về Hồ Chí Minh”: “Tôi nói thật với chị, lịch sử Việt Nam hiện đại chỉ có 30% sự thật, 70% giả dối. Đó là điều rất đau lòng. Ví dụ đánh nhau 30 năm với Pháp và Mỹ mà Việt nam không thua trận nào là không thể chấp nhận được…
Sự dối trá đó làm cho sinh viên không thích sử nữa. Thấy sử là bịp bợm, chán quá! Tôi đã viết trên báo Lao Động năm 2005, “ Lịch sử theo trang sách học trò”, tôi vạch rõ, dạy sử mà suốt ngày phải nói dối, điều đó đau lòng lắm. Ở Việt Nam hiện nay, rất nhiều trí thức ở vào hoàn cảnh nan giải giữa nói thật và không nói thật” (Dan Chim Viet online 19/05/2010).
Không biết chỉ riêng những đồng nghiệp trong Khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Huế có đồng ý với nhận định của giảng viên Hà Văn Thịnh không? Tôi là sinh viên Khoa Lịch sử K.19 (1995-1999) của Trường Đại học Khoa học Huế, cũng từng là học trò của giảng viên Hà Văn Thịnh. Trong bốn năm đại học khi học đến Hiệp định Genève và Paris , tôi muốn đọc nguyên văn Hiệp định bằng tiếng Việt mà thôi nhưng lục lọi khắp thư viện của Khoa cũng như của Viện Đại học Huế mà không thấy một văn bản nào cả! Những vị lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam luôn tự hào là đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, buộc chúng ngồi vào bàn hội nghị để ký Hiệp định nhưng không biết tại sao trong thư viện của Khoa Lịch sử cũng như thư viện của Viện Đại học Huế không có một văn bản Hiệp định nào để sinh viên nghiên cứu kỹ từng điều khoản trong Hiệp định? Còn nếu tìm tài liệu liên quan đến Cải cách ruộng đất hoặc vụ Nhân văn giai phẩm…thì nói theo ngôn ngữ dân gian đến “Tết Ma rốc” mới tìm thấy!Chắc là lãnh đạo đảng nghĩ rằng sinh viên chưa đủ trình độ nhận thức những tài liệu ấy cho nên chưa cho tiếp cận!
Những người làm công tác dạy bộ môn lịch sử có ngộ ra mình dạy điều giả dối như giảng viên Hà Văn Thịnh đã thố lộ không?Chắc là có người ngộ ra nhưng cũng có lắm người chưa ngộ ra.
Giảng viên Hà Văn Thịnh khẳng định: “Ở Việt Nam hiện nay, rất nhiều trí thức ở vào hoàn cảnh nan giải, giữa nói thật và không nói thật”. Đúng là nan giải thật, bởi vì “ đang làm quan mà nói thật, thì mất hết, thân có thể vào nhà lao, tinh thần có thể bị dày xéo, nhục mạ, đã và đang có bao nhiêu điển hình! Vì thế mà không thể nói thật. Nói dối cưỡng bức, lâu ngày thành nói dối hồn nhiên, bạo dạn, trơn tru…” (Lời ông Hạ Đình Nguyên- Boxitvn online 27/09/2013).
Cũng vì chén cơm manh áo nhiều người chấp nhận nói dối, cho nên sau khi về hưu, nhiều giáo viên thố lộ: “Tôi chỉ giảng dạy theo y như sách mà thôi. Sách viết sao tôi giảng vậy!”. Ngay cả giảng viên Hà Văn Thịnh cũng ở trong tình trạng nan giải khi trả lời phỏng vấn một cách ấp a ấp úng với bà Mạc Việt Hồng về điều IV- Hiến pháp: “ Cái đó thì…thực sự trả lời không được đâu, chị ạ. Nguyên tắc của nhà nước này, chế độ này, bắt dân phải nghe theo như vậy, nên tôi không thể chống lại điều IV- Hiến pháp được. Tôi là công dân của nhà nước này nên không thể chống lại Hiến pháp được. Có điều ai cũng muốn tự do dân chủ cả…”
Để hưởng bổng lộc và bảo toàn mạng sống nên nhiều người chấp nhận “nói dối cưỡng bức”. Trong bài viết “Tôi đi cải táng thầy tôi” của tác giả Phạm Tuân viết về việc cải táng học giả Phạm Quỳnh đăng trên Tễu- blog, có một độc giả nặc danh nhận xét về nhạc sĩ Phạm Tuyên , con trai học giả Phạm Quỳnh vào lúc 19:22 ngày 09/09/2015: “ Anh Phạm Tuyên đã phải chui vào vỏ ốc để tồn tại. Cũng như cụ nhà văn Nguyễn Tuân đã nói: “Tôi sống được là nhờ biết sợ!”.

“ Lịch sử, sự thật và sử học”
Khi còn là sinh viên, chúng tôi luôn được dạy bảo là chỉ có sử học Mác xít mới là khách quan mà thôi.
Giáo sư Hà Văn Tấn nhận định về nền sử học mác xít: “Lịch sử là khách quan, sự kiện lịch sử là những sự thật được tồn tại độc lập ngoài ý thức của chúng ta. Nhưng sự nhận thức lịch sử lại là chủ quan. Và người ta chép sử vì những mục đích khác nhau” và “ các nhà sử học chúng ta thường tự coi là mác xít nhưng bệnh thiên lệch lại hay dễ mắc. Mà thiên lệch cường điệu một cách phiến diện một mặt nào đó, lại là đặc trưng của chủ nghĩa duy tâm. Cũng chính vì vậy nhiều sự thật lịch sử đã bị bỏ qua”
Giáo sư Hà Văn Tấn nhắc nhở các nhà sử học mác xít: “Đã là con người, không phải là ông thánh, thì có lúc đúng, lúc sai. Đó là chuyện thường tình. Nhưng thật là không công bằng khi chỉ vì khuyết điểm của thời kỳ này, ta sổ toẹt hết cả công lao của nhân vật đó, khi ở thời kỳ khác, đóng góp của người đó là rõ ràng, không thể chối cải. Nhà sử học Mác xít không thể chấp nhận một thái độ như vậy” .
Ông Phạm Cao Dương nhận định: “ Người ta có thể nói rằng nền sử học mác xít Việt Nam, phân biệt với nền sử học Việt Nam dù là ở miền Bắc trước năm 1975 và trên toàn quốc sau năm 1975, với những thành tích sửa đổi văn bản, ngụy tạo nhân vật, uốn cong các dữ kiện lịch sử, chắc chắn thay vì mở đường cho việc tìm hiểu lịch sử nước nhà sẽ làm cho các nhà sử học tương lai phải mệt mỏi lắm mới tìm ra được một số không nhỏ những sự thực…” (https://nghiencuulichsu.com/2013/02/18/su-that-lich-su-va-cac-nha-su-hoc-mac-xit-viet-nam)
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là đạo lý của con người. Chúng ta đừng làm cho đạo lý ấy bị mai một mà phải làm cho nó ngày càng sáng ngời hơn!

Nguyễn Văn Nghệ
Diên Khánh, Khánh Hòa

Đăng ngày 22 tháng 04.2017