Dương Thu Hương và hai chữ Quốc hận

Luân Tế

Đây là một bài viết của tôi, một người làm văn hóa miền Nam, đối thoại với một nhà văn miền Bắc về cái nhìn thiên lệch của bà về hai chữ QUỐC HẬN nhân ngày 30.4 sắp tới.
Nhà văn Dương Thu Hương (DTH) sinh quán tại Bắc Việt, sống ở miền Bắc, gia nhập quân đội, viết văn từ năm 1985. Bà là một trong số những người lớn lên và sống trong chế độ Cộng Sản, sau này thất vọng về tình trạng trong nước sau khi chiến tranh chấm dứt. Bà tạo được một tiếng tăm lớn ở cả trong nước lẫn ngoài nước về văn chương. Bà viết rất nhiều sách, nhiều thể loại. Sách của bà được dịch sang nhiều thứ tiếng và đoạt nhiều giải thưởng văn bút quốc tế.

* Sau ngày “Giải Phóng” miền Nam, cũng giống một số trí thức trong nước, bà nhận ra bộ mặt thật của Cộng Sản và cay đắng vì đã bị lừa. Bà trở thành một người chống đối chế độ, bị ngược đãi, giam cầm, cấm đoán và sau cùng được cho phép sang Pháp sống từ năm 2006. Bà là một trong những người có tiếng tăm được (hay bị) chính quyền Cộng Sản cho đi sống ở nước ngoài có những bài viết, những phát biểu về Việt Nam.
Tôi bỏ quê hương, chạy Cộng Sản, sống lưu vong ở Mỹ từ năm 1975. Tôi có đọc một hai cuốn sách và một số bài viết ngắn phổ biến trên mạng của bà DTH trong mấy năm gần đây. Rất phục văn tài và văn phong cũng như lập luận sắc bén của bà, nhất là những gì bà nói và viết về đảng Cộng Sản Việt Nam.

Trong một bài tôi viết về ngày 30.4.1975 năm ngoái tên là “39 Năm Nhìn Lại Cuộc Đời” trên web site của tôi có một đoạn như sau: “Nhà văn Dương Thu Hương đã đề cập tới hiện tượng “hối tiếc” phát nguồn từ dân miền Bắc vì đã nghe lời đường mật của Cộng Sản trong bài nhận định tuyệt vời “Giải Ảo”:
(Trích) Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi thuộc số những người vỡ mộng sớm nhất. Nhưng chỉ vài năm sau, con số những kẻ vỡ mộng tăng lên một cách không ngừng. Đầu những năm 80 sự đói khổ về vật chất là con quỷ hiện hình cả ngày lẫn đêm trên toàn cõi. Đói khổ là món quà chia đều cho toàn dân, trừ một số người nắm quyền. Sự giàu có và xa hoa của một thiểu số cộng sản giống như vòi nước lạnh hắt vào mặt dân chúng. Hiển nhiên là trong dân chúng, có vô số kẻ từ chiến trường cởi áo lính trở về. (Ngưng trích)
Phải nói là khi đọc những giòng này tôi rất xúc động và thầm cảm ơn/phục bà đã nói ra được những gì cần phải được nói ra và sự chân thành của bà bộc lộ trong những lời nói đó.

* Năm nay, 2015, tôi đang dự tính viết lại bài này, cập nhật hóa, và đổi tên là “40 Năm Nhìn Lại Cuộc Đời” thì tình cờ được đọc trên mạng cuộc nói chuyện của bà với một ký giả trên đài phát thanh Á Châu Tự Do. Trả lời câu hỏi về biến cố 30-4 sau 40 năm, bà DTH nói về chữ “Quốc Hận" mà chúng ta dùng để chỉ ngày này.
(Trích):Dương Thu Hương: Về mặt những người miền Nam mà gọi là « Quốc hận » thì họ cũng phải nhìn lại. Tại sao ? Tại sao lại là « Quốc hận » Trước khi hận những người khác họ phải hận chính họ . Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi : miền nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại ? Tại sao cùng một cơ hội lịch sử như thế, người Nam Triều Tiên họ đã chớp lấy cơ hội để biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh, còn miền Nam thì không ? Cái đó phải xét lại.(Ngưng trích)
Đến đây thì tôi thấy có bổn phận phải có đôi điều nói chuyện với bà DTH.

Thưa bà,
Có lẽ trong cả cuộc đời bà, bà chưa bao giờ phải xót xa cho quê hương. Từ lúc bà sinh ra ở miền Bắc, quê hương của bà lần lượt thắng Tây, thắng Mỹ, chiếm được miền Nam thì có gì mà bà phải xót xa cho quê hương.
Và có lẽ bà không biết là chữ “Quốc Hận” đã được dùng một lần rồi. Đó là chữ miền Nam Việt Nam dùng cho ngày 20 tháng 7 năm 1954. Tôi không biết những người sống ở miền Bắc gọi cái ngày đó là ngày gì (có thể là “Ngày Chiếm Được Miền Bắc”), nhưng những người sống ở miền Nam như tôi gọi nó là “Ngày Quốc Hận” vì chúng tôi đau lòng, xót xa khi thấy đất nước bị các cường quốc họp lại, chia đôi. Vì đau lòng thấy đất nước chia đôi nên chúng tôi đặt tên cái đại lộ rộng nhất miền Nam là Đại Lộ Thống Nhất. Nhưng chính quyền miền nam chúng tôi cố gắng củng cố cho dân tình miền Nam được ổn định từ thành thị đến thôn quê, lo nơi ăn chốn ở cho gần 1 triệu người di cư từ Bắc vào Nam lánh nạn CS, lo cho học sinh - sinh viên có một nền giáo dục học đường miễn phí (tôi là một trong những người được hưởng ân huệ này). Miền Nam đặt tên con đường lớn nhất Sài Gòn là Thống Nhất nhưng những người cùng tuổi với bà ở lại miền Bắc và các thế hệ sau này chắc chắn chưa hề thấy miền Nam chúng tôi thực hiện kế hoạch nào để “Thống Nhất” quê hương về tất cả mọi lãnh vực, chính trị, kinh tế, văn hóa, và nhất là về quân sự. Sau này có những toán biệt kích nhẩy dù ra bắc hay những hải vụ hay phi vụ là nhằm phục đích “phá hoại” khi miền Bắc đem quân tấn công xâm chiếm miền Nam.
Chúng tôi gọi cái tình cảm đó là Quốc hận vì quê hương bị cưỡng chiếm. Quốc Hận là vì phải bỏ quê hương xứ sở mà đi. Quốc Hận là vì xót xa cho dân tình trong nước khốn nạn quá, đồng bào mình khốn khổ quá. Quốc Hận là vì thấy quốc gia điêu linh quá. Quốc Hận là vì bị đồng minh toa rập với Trung Hoa, Liên Sô lừa cả một dân tộc yêu hòa bình, chống ngoại xâm. Bà chỉ biết chửi Cộng Sản và cái chế độ đã lừa bà chứ bà không biết đến cái tình quê hương để có thể đưa đến sự hiểu biết của bà về hai chữ Quốc Hận.

Chưa hết. Bà còn thắc mắc:
(Trích) “Tại sao cùng một thời điểm, người Mỹ tạo ra những điều kiện để tạo ra chính sách dân chủ của 2 nơi : miền Nam Việt Nam và miền Nam Hàn Quốc. Tại sao Hàn Quốc chiến thắng mà Việt Nam chiến bại ?... Cái đó phải xét lại (Ngưng trích - chữ đậm do người viết).
Bà đòi chúng tôi phải xét lại. Tại sao phải xét lại? Nhất là lời yêu cầu này thốt ra từ miệng một người (trước đây – và không còn dám nhận như thế nữa) trong đám gọi là “Bên Thắng Cuộc” tuy bà DTH đã “phản tỉnh” và bây giờ - có lẽ vì “đau” quá - nên có thái độ chống Cộng Sản VN có lẽ còn hơn chúng tôi, những người đã phải bỏ nước ra đi vì không thể chung sống với CS. Những khám phá mới của bà về sự tồi tệ của Cộng sản chúng ta nghe từ miệng bà thốt ra nghe cũng khoái, nhưng thật sự những chuyện đó quân dân miền Nam biết lâu rồi, từ năm 1954. Bà nghĩ là bà có công với dân tộc vì cái "Eureka" muộn màng lột trần mặt nạ của CS của bà nên bà mới hay lên tiếng nói những câu dậy đời như thế này.
Nhưng dậy bảo chúng tôi là phải xét lại việc dùng chữ “Quốc Hận” này thì tôi e là bà DTH với tay quá trán. Nhất là những viện dẫn của bà trong câu nói trên cho thấy bà, một là thiên lệch (chẳng thương xót gì cái gọi là VNCH, tuy thầm mơ rằng giá mà mình được di cư vào Nam hồi 54), mà còn ngây thơ (tôi không muốn dùng chữ dốt) và mù tịt về lịch sử cận đại.
Thứ nhất là Bắc Hàn chỉ “đe dọa” đòi thống nhất hai miền Nam-Bắc. Các sự kiện xẩy giữa hai miền ra được coi là những cuộc “xung đột nhỏ” nhằm mục đích khiêu khích chứ không phải một cuộc chiến. Rất có thể là Nam Hàn, cũng như Nam Việt Nam cũng đã có những toán đặc công gửi ra Bắc với nhiệm vụ phá rối chứ không phải muốn gây chiến tranh để chiếm lại miền Bắc. Đằng này, không những Bắc Việt để một số quân nằm vùng, du kích ở lại miền Nam mà còn chính thức tấn công bằng vũ lực với cái chiêu bài giả tạo “Chống Mỹ, Cứu Nước” nhưng lại “lừa” được cả bà DTH và đám gọi là trí thức miền Bắc. Chuyện thứ hai là Mỹ không hề “đi đêm” với Tầu, với Liên Bang Sô Viết để bán đứng Nam Hàn như Nixon, Kissinger và tập đoàn tài phiệt thiên Do Thái đối xử với miền Nam Việt Nam.

Bà DTH còn nói:
(Trích)Tại sao cùng một cơ hội lịch sử như thế, người Nam Triều Tiên họ đã chớp lấy cơ hội để biến đất nước của họ thành một xứ sở văn minh phồn thịnh, còn miền Nam thì không?(Hết Trích)
Xem đến câu này thì tôi chỉ còn biết cười nhạt và nghĩ rằng ở cái tuổi 68, chắc trí óc của bà không còn minh mẫn như những lời nói, bài viết của bà cách đây vài năm. Xin thưa với bà, lý do miền Nam chúng tôi không làm được như Nam Hàn là vì trong suốt hai mươi năm (54-75) chúng tôi ở miền Nam phải đối phó với một đồng minh tráo trở, và vì phải chiến đấu trường kỳ chống ngoại xâm là những người Đảng và Nhà Nước của bà đưa vào miền Nam. Một chuyện nữa là nếu đọc lại sách sử, bà sẽ thấy là, trước những năm 80, Đại Hàn thực ra chưa có gì đáng phải cho chúng ta khâm phục. Chỉ trong hơn ba thập niên sau này Đại Hàn mới thực sự tiến bộ để trở thành một “xứ sở văn minh phồn thịnh.” Và “...còn miền Nam thì không.” Thưa bà, “Bên Thắng Cuộc” của bà đã “giải phóng” cho miền Nam Việt Nam bốn thập niên, từ ngày 30-4-75. Một phía là “Bên Bại Trận” có 20 năm để dựng nước trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc; và một phía là “Bên Thắng Cuộc” với 40 năm cầm quyền trong cái gọi là Thống Nhất. Thử đặt chuyện đó lên bàn cân thì ai thắng ai thua, ai giỏi hơn ai? Cách đây trên 40 năm, miền Nam Việt Nam đã vừa phải chiến đấu chống xâm lăng, vừa phát triển đất nước, mà vẫn thành công ngang với một Nam Hàn không chiến tranh!

Có lẽ bà thù ghét cái chế độ đã lừa bà đến nỗi không thèm đọc báo Tuổi Trẻ ở trong nước. Nếu bà đọc thì chắc bà không dám mạnh miệng chê miền Nam chúng tôi vì trên tờ này, gần đây, ông Nguyễn Hoa Lư nhắc đến một bài tên là “Ngậm ngùi rơi lệ” chỉ đạo rất kỹ cho bà về sự “khác biệt” giữa Nam Hàn và Việt Nam hiện nay: “Một quan chức cao cấp của Ban Tuyên giáo T.Ư, ông Vũ Ngọc Hoàng, đã có một phát biểu gây ấn tượng mạnh: “Cách đây bốn, năm mươi năm, VN và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, tôi rà lại tư liệu thì thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại VN và VN cũng có 90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại VN làm ông chủ, làm quản lý, còn người VN ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ôsin. Nghe mà xót lòng”.

Thưa bà DTH, nếu bà “nghe mà xót lòng” thì cái tình cảm dấy lên trong bà đó gọi là Quốc Hận.

Luân Tế


Nhà văn Phan Nhật Nam

Súng đạn nào giải quyết được khổ đau

Lưu Diệu Vân thực hiện

Phần 1

Nhà văn Phan Nhật Nam có tên đầu tiên Phan Ngọc Khuê, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1943. Chánh quán Huế, Thừa Thiên, Năm 1963, ông tốt nghiệp khóa 18, Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt cấp bậc Thiếu Uý, tình nguyện chọn đơn vị Binh Chủng Nhảy Dù. Sau 1975, ông bị Cộng Sản bắt giam vào các trại tập trung cải tạo Nam-Bắc suốt 14 năm, phần lớn nơi những hầm cấm cố, tử hình, hệ thống trại giam Miền Bắc, với hai đợt kiên giam. Ông sang Mỹ định cư cuối năm 1993.
Viết đã hơn 50 năm, chữ viết & lời nói trung trực với các tác phẩm đã xuất bản:
Dấu Binh Lửa - 1969, Dọc Đường Số I - 1970, Ải Trần Gian – 1970, Dựa Lưng Nỗi Chết – 1971, Mùa Hè Đỏ Lửa - 1972, Tù Binh & Hòa Bình – 1974, Những Chuyện Cần Được Kể Lại – 1995, Đường Trường Xa Xăm, 1995, Đêm Tận Thất Thanh - 1997, Những Cột Trụ Chống Giữ Quê Hương, Mùa Đông Giữ Lửa – 1997, Peace and Prisoner of War – 1987, The Stories Must Be Told, 2002, Chuyện Dọc Đường - 2007 (Phần I), A VietNam War Epilogue – 2013, Phận Người, Vận Nước – 2013, Stigmates de Guerre – 2015, L'été Embrasé – 2018.
Đang cố gắng hoàn tất các tác phẩm:
Tội Ác & Tội Lỗi - Tiểu thuyết cố gắng tìm tới ngọn nguồn Sự Ác và Mối Tội.
Những Chuyện Không Thật - Chuyện hằng ngày hiện thực những việc không thực với mỗi phận con người. Thơ Viết Trong Lửa - Thơ viết & sống hằng ngày. Đá Nát Vàng Phai - Trường thiên tiểu thuyết về mỗi phận mệnh của tất cả chúng ta hằng dự phần cùng vận nước: 1954, 1963, 1968, 1972, 1975, 2000… và tiếp tục, nếu còn sống…
Luôn "Học-Đọc-Viết" từ tuổi 20 cho đến nay đã ngoài 70, nhưng ông luôn giữ tâm chất, tính cách là một Người Lính Viết Văn chứ không là một văn gia chuyên nghiệp sáng tạo nên chữ nghĩa, văn chương, thơ ca.
Sau đây là nội dung chi tiết cuộc nói chuyện với Lưu Diệu Vân về những điểm liên hệ đến người, và việc của bản thân Người Lính Viết Văn.

_______

Lưu Diệu Vân (LDV): Trách nhiệm chính của một chiến sĩ là với tổ quốc, và trách nhiệm chính của một người cầm bút là với xã hội. Vậy thì “Người Lính Viết Văn” Phan Nhật Nam cảm thấy mình có trách nhiệm với những gì sau ngày mất nước, khi cây súng không còn là một phương cách đáp trả?
Phan Nhật Nam (PHN): Tôi xin được sử dụng lại những ý, lời từ lần cầm bút đầu tiên vào năm 1968, mà thiết nghĩ, vẫn còn nguyên giá trị để giải thích việc cầm viết trước, sau 1975. Đến cái tuổi này lẽ tất nhiên tôi chẳng hy vọng gì nơi văn chương nữa, cũng không hề ước mơ nhờ cái ngõ văn chương để kiếm một chút danh vị. Hơn nữa, danh vọng của một người viết văn ở Việt Nam cũng chẳng lấy gì làm sáng sủa. Nhưng (tôi) vẫn muốn viết, viết như một "nhu cầu", nói cho có vẻ thiết tha… Sau tám năm ở lính (1961-1968), thời gian thoải mái thật hiếm hoi, trong khi những phiền toái có duyên cớ hay không, chính danh hay ẩn giấu hình như chực sẵn ở trong người, có cơ hội sẽ dấy lên như giông bão…
…Chính vì những cảnh đời đa đoan này mà tôi phải viết. Không viết thì phí đi, bạn bè bảo tôi như vậy. Thế là tôi viết, và đến bây giờ coi như xong, nhưng chắc rằng chưa đủ. Xem lại chợt thấy bùi ngùi và thương thân. Bao năm tháng tột cùng của cực khổ và gian nan, đầy dẫy tủi nhục để viết được chừng này? Tám năm, thời gian gần bằng đoạn đời của gã nông phu Johann Moritz lang thang qua các trại tù của giai đoạn u Châu máu lửa, nhưng trước và sau tám năm đó, anh bạn người Lỗ còn có những ngày vui hy vọng. Tôi có gì vui trước tám năm này và hy vọng nào về một Việt Nam hậu chiến!
Qua Mỹ năm 1993, sau lần mất miền Nam, đi tù về, nay tôi tiếp tục viết (chỉ khác ngày trước viết với cây bút, nay viết với computer), tuy nhiên tâm cảnh cũng chẳng khác gì với anh thanh niên vừa qua tuổi 20 của ba mươi năm trước, chỉ khác chăng là tuổi lớn hơn, thấm đau hơn. Tâm trạng của lần viết Chuyện Dọc Dường (2005).
…Hóa ra tôi đã sử dụng chữ nghĩa tận chân thật mà xét ra cũng không đi đến đâu! Chỉ nghĩ thế thôi đã thấy rã rời kiệt sức… Chế độ xã hội (gọi là cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) lại tiếp sức định chế hóa, chính trị hóa, hợp lý hóa sự ác độc của đời sống nên thành chính sách - Một điển hình văn minh tiên tiến “xã hội xã hội chủ nghĩa”. Làm sao cứu được cho Người? Bắt đầu từ nơi đâu ở Việt Nam? Hơn thế nữa, tình thế hôm nay xem ra còn “đáng sợ” hơn những tháng năm xa xưa kia gấp bội. Vì chỉ một chớp mắt, nay đã trở thành một lão nhân với độ tuổi sáu mươi - Một người già sa cơ thất thế, nước mất nhà tan…
Ngày trước Đỗ Phủ viết câu thơ hàm xúc: "Quốc phá sơn hà tại. Thành xuân thảo mộc thâm." Tạm dịch: "Nước mất sông núi vẫn còn. Vào xuân cây cỏ trổ mầm thắm tươi."
Nhưng đấy chỉ là chữ nghĩa, lời thơ để an ủi, vì trên quê hương hôm nay, hơn bốn mươi năm sau 1975, cây cỏ, con người đồng khô kiệt tang thương đến độ xót xa.
Súng đạn nào giải quyết được khổ đau hơn nửa thế kỷ qua mà tôi đã chứng kiến, sống cùng nếu không muốn nói chính súng đạn (tự thân nó là vật dụng chiến tranh) cũng đã dự phần, phần lớn, vào sự tan vỡ toàn diện của người và quê hương cũng như cả thế giới này. Thế nên, viết cần thiết cho đời sống bản thân (vật chất lẫn tinh thần) một cách cụ thể: không viết biết sống làm sao? như thế nào? Cho dù rằng bản thân cũng hiểu rất rõ: Chữ nghĩa rồi ra cũng chẳng đi đến đâu!!

LDV: Chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến mang đầy sự hoài nghi và trăn trở cho nhiều người, lúc nào là lúc ông cảm thấy tin tưởng tuyệt đối vào sự lựa chọn cầm súng chiến đấu của mình?
PNN: Để trả lời câu hỏi nầy, tôi lại nại đến một tình cảnh mà chính bản thân đã có mặt vào một ngày tháng 6, năm 1972, khi đại quân miền Nam dưới quyền chỉ huy của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng khai diễn chiến dịch Lôi Phong mở đầu kế hoạch tái chiếm Quảng Trị.
Bấy giờ, bắt đầu Mùa Hè 1972, tháng thứ ba kể từ ngày Bắc quân mở cuộc đại tấn công Miền Nam, Quảng Trị, Thừa Thiên là hai nơi hứng chịu tai ương tàn khốc của bom đạn nặng nề trước nhất, và người dân của chốn đau thương này lại thêm một lần tay bế con, lưng cõng cha mẹ già xuôi theo Đường Số I dưới che chở độc nhất, cũng là nguồn tin cậy cuối cùng - Lính cộng hòa ơi, cứu bà con, lính cộng hòa ơi! Trên đoạn đường máu đóng khô vương vãi thây người. Thị Xã Quảng Trị, Quận Hải Lăng, Cầu Mỹ Chánh, không phải chỉ một vài một người, nhưng toàn khối dân bi thương nguy biến cùng gọi lên như thế một lần khi thở hơi cuối, mồm há hốc, tròng mắt thất thần dựng đứng. Họ gọi Người Lính khi nằm xuống nhìn máu chảy từ xác thân bị cắt xé, cứa dập, tay lần chuỗi Thánh Giá, hạt Bồ Đề, trên đầu, chung quanh đại pháo Bắc quân nổ liên hồi. Nổ tàn nhẫn. Đạn nổ không bỏ sót một phần đất, chụp xuống đủ lên thân thể con người. Trong tình cảnh cùng khốn nguy nan ấy, người dân chỉ còn "một lực giải cứu hy vọng duy nhất" để gọi tới sau khi những che chở cầu xin tôn giáo đã bị đám giặc phương Bắc ngụy danh "giải phóng" kia chà đạp thậm tệ, tàn nhẫn khinh miệt.. Lính Cộng Hòa ơi! Người dân thêm một lần kêu lên như thế. Người hằng nhiều lần kêu lên như thế khi đối mặt cùng cái chết, khi lâm tử.
Người Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế nhất định trở về, sống lại cùng làng xưa, chốn cũ bởi: Ông Trưởng đã ra Huế! ÔngTrưởng đã ra ngoài Huế rồi bà con ơi! Người dân hăm hở, tin tưởng mạnh mẽ nói cùng nhau, và những chuyến hàng Đà Nẵng - Huế bắt đầu trở lại với hành khách chen chúc đầy ngập. Trên đoạn đường lây lất, ươn ướt thị da người phía nam La Vang, lối "về ngoài mền/về ngoài mình…" thấp thoáng từng toán người gồng gánh chạy theo đoàn quân. Mền (mình) về Quảng Trị thôi bà con ơi, ông Trưởng đã vô ở trung (trong) Mang Cá giư (như) kỳ Tết Mậu Thân với mền (mình) rồi bà con nè…(Trích đoạn Mùa Hè Đỏ Lửa).
Vâng, tôi đã nghe đồng bào kêu lên như thế trong Mậu Thân ở Huế, 1968; đồng bào đã kêu lên "Lính Cộng Hòa ơi cứu dân!" khi chạy loạn ở An Lộc, 1972. Đồng bào kêu cầu cứu với Lính Cộng Hòa khi di tản từ Cao Nguyên về Tuy Hòa, Bình Định, Nha Trang, tháng 3, 1975. Và sau 1975, trên Biển Đông, trên đường vượt biên ra khỏi nước, toàn dân Việt (không phân biệt Bắc/Nam) đã trở thành một loại tiện dân đọa đày khắp các trại tỵ nạn vùng Đông Nam Á, ở Hồng Kông, trước đám hải tặc, lính Khmer Đỏ… Và hôm nay trên biển Đông, trước "tàu lạ," dân tộc Việt bị khinh biệt, bị đọa đày bởi một điều giản dị: Dân Tộc Việt không còn Người Lính bảo vệ - Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã tan vỡ chung lần cùng Hy Vọng Việt Nam. Tôi luôn tin chắc Lý Chính Nghĩa của Người Lính Miền Nam cho dù có cuộc thất trận ngày 30 Tháng 4, 1975, tai họa từ phận nghiệp đen tối cho toàn Dân Tộc Việt không bởi từ Người Lính QLVNCH.

LDV: Khi nghĩ đến nhà văn Phan Nhật Nam, tôi thấy thấp thoáng nhà văn Mỹ Tim O’Brien: Cả hai đã tham gia chiến đấu tại Việt Nam, cả hai viết nhiều về đề tài chiến tranh và quân đội, cả hai có những tác phẩm nổi tiếng tiêu biểu về cuộc chiến, Phan Nhật Nam với Dựa Lưng Nỗi Chết, Mùa Hè Đỏ Lửa và Tim O’Brien với The Things They Carried, Going After Cacciato. Nếu ông có dịp trò chuyện với Tim O’Brien, ông muốn nói với ông ấy những gì? Ông nghĩ ông ấy sẽ hỏi ông những điều gì?
PNN: Khác hẳn nhau xa vì hoàn toàn không giống nhau giữa người (PNN/Tim O'Brien) và việc (mô tả chiến tranh). Sự khác biệt như sau:
Tim O'Brien viết truyện lấy (chuyện) chiến tranh làm chất liệu. Cụ thể trong tập truyện ngắn "Good Form," Tim phân biệt giữa "Chuyện Thật/Story Truth" và Sự Thật xảy ra/Happening Truth," để từ đó dùng kỹ thuật, có tính cách khách quan để viết nên câu chuyện thực về chiến tranh.
PNN viết về chiến tranh là nguyên trạng của chiến tranh, Người Ở Lại Charlie là chuyện thực về trận đánh của Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù trên cao điểm Charlie ở Kontum từ 12 đến 16 tháng 4, 1972. Sợ rằng viết không đủ 100% về những chi tiết về người, việc của chiến trận. Giọt Nước Mắt Khô Của Hòa Bình Miền Nam là câu chuyện bi hùng của Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân do Trung Tá Lê Văn Ngôn chỉ huy (Khóa 21 Đà Lạt, ra trường năm 1966, có nghĩa lúc chỉ huy Trại Tống Lê Chân, 1973, anh mang cấp bậc trung tá sau 7 năm kể từ ngày ra trường). Tiểu đoàn 92 Biệt Động bị vây từ 1972 mãi đến 11/4/1974, quân cộng sản dùng một lực lượng cấp trung đoàn (Trung Đoàn 271) có chiến xa và pháo binh yểm trợ mới chiếm được căn cứ. Có nghĩa phía cộng sản dùng một quân số 4 tiểu đoàn (khoảng 2000 người) để tấn công tiểu đoàn của Ngôn chỉ còn 259 người còn khá năng chiến đấu, hết đạn, không còn lương thực. Chuyện của PNN không thể thực hơn được. Bởi Sự Thật Lớn Nhất là Sự Chết. PNN viết về Sự Chết-Nỗi Đau, không viết chuyện về chiến tranh như Tim.
Tuy nhiên cũng xin có lời cám ơn Tim, do anh đã không viết những chữ nghĩa rơm rác như Fire In The Lake của Frances FitzGerald; hay cuốn A Bright Shining Lie: John Paul Vann and America in Vietnam của Neil Sheehan, cựu phóng viên New York Times ở Việt Nam trước 1975. Sách của Neil đoạt giải National Book Award năm 1988 của Mỹ dành cho loại sách Không Hư Cấu. Gọi là sách không "hư cấu" nhưng nội dung A Bright Shining Lie thuần túy là một tập tường trình ngụy tạo về chiến tranh Việt Nam mà người có liêm sỉ, trí năng, lương năng không bao giờ viết nên. Sau 25 năm ở Mỹ, tôi có thể nói chắc điều này với tất những người gọi là trí thức, nhà báo, nhà văn thiên tả Mỹ.

LDV: Đôi khi, nhân vật hư cấu phát biểu hộ nhà văn những ưu tư trăn trở ngoài đời thật, vậy thì khi Minh (nhân vật của ông trong Dựa Lưng Nỗi Chết) nói: “Hình như suốt đời tao phải cố gắng làm những việc mà lòng không muốn…” Minh có nói hộ thay cho nhà văn trong suốt những năm tháng chinh chiến và sau này, trong phận người tha hương, nước mất, nhà tan?
PNN: Trong Dựa Lưng Nỗi Chết, những nhân vật lính nhảy dù không phải chỉ có Minh, mà còn có Thuấn, Lạc và những nhân vật lính phụ khác như Chuẩn Úy Ánh, Trung sĩ Tròn, Hạ sĩ Thiên… Thành thử bảo rằng Minh nói thay cho (cá nhân) PNN về nỗi bất bình... “Hình như suốt đời tao phải cố gắng làm những việc mà lòng không muốn,” thì chỉ đúng một nửa - mà một nửa sự thật thì không phải là toàn thể sự thật! Ivan Karamazov có thể "thay mặt" Dostoievsky nghi ngờ một khía cạnh nào đó về năng lực siêu nhiên Thiên Chúa, nhưng bảo rằng Ivan đại diện cho toàn thể "ý hướng vô thần" mà quả tình Dostoievsky (thật sự) không có. Ngay cả Friedrich Nietzche dẫu ngang nhiên cho Zarathoustra tuyên bố: "Tôi chẳng thể nào tin vào một đấng Thượng Đế cứ mãi bắt tôi luôn kính cầu", cũng chẳng có thể bảo rằng nhân vật vô đạo kia là đại diện toàn phần cho tác giả. Thế nên, nhân vật nầy, nhân vật nọ chỉ thay mặt một phần, phần khác là của người viết do hắn ta tạo dựng ra. Nhưng sáng tạo ra thế nào thì cũng phải từ/bởi hiện thực đời sống. Xuân Tóc Đỏ hoàn toàn không là Vũ Trọng Phụng, nhưng thật đến độ ngày nay, qua thế kỷ 21 vẫn thấy ra anh chàng tinh quái này ở ngay giữa chúng ta.

LDV: Thi sĩ, nhạc sĩ hay (bị) được hỏi: Ai khơi nguồn sáng tạo của họ. Riêng cho một nhà văn chuyên viết về chiến tranh gai góc, thì “nàng thơ” của ông chắc hẳn khác với các nghệ sĩ khác?
PNN: Xin trả lời câu hỏi này mau chóng và chính xác: Tôi không có một "nàng" nào để khởi động công việc viết xuống những giòng chữ. Năm 1968 đã vậy, năm 2018 cũng không khác. Nếu có một "nàng" nào đó là của riêng người viết - cũng như muôn triệu "nàng" của muôn triệu chàng khác. Vậy có điều gì để viết nên về các nàng/chàng đó? Tự nhiên đưa một "chàng/nàng" nào đó vào âm nhạc, thi ca, văn chương (trừ hội họa) và bắt "chàng/nàng" ấy đóng một vai trò quá khổ, vượt quá khả năng của bản thân họ để trở thành "người tình muôn thưở/người tình trong mộng/người tình tuyệt vời, v.v., thì chàng/nàng chết ngay từ trang sách sách đầu tiên! Thúy Kiều, Anna Karénine… sống mãi là vì đau đủ cái đau nhân sinh. "Nàng" của tôi hoàn toàn không có vì sống không ra dạng người/Người Việt Nam!
Và nếu muốn trả lời đủ thì đây là tình cảnh (thật) về một "nàng" của tôi. "Hãy nghĩ đến tình cảnh người đàn bà đi thăm nuôi ngàn dặm từ Miền Nam bị dồn ép, đè bẹp, xô đẩy, chửi mắng, đe dọa… trong những chuyến tàu xuyên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tiếp chuyến xe trâu giữa hai sườn núi đá sôi bỏng cỏ cây, vào trại tù với bàn tay che nắng hè vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh, tay dắt đứa con còn tuổi thiếu, ấu. Đêm đến, hai mẹ con ngồi ngủ dưới trời mưa trên sân đất lạnh vì dân chúng trong vùng dẫu đã nhận tiền “cho thuê mái hiên” cũng chỉ cho họ được phép ngồi ngủ ngoài sân, nhận chịu đòn trừng phạt (của nhân dân/nhân dân miền Bắc xã hội chủ nghĩa) vì tội “gia đình bọn Ngụy phản động Miền Nam” - Kiểu đấu tố của bần cố nông đối với đứa trẻ con địa chủ theo lệnh của đội cải cách ruộng đất những năm đầu thập niên 50 ở đồng bằng Bắc Bộ. Sáng mai sau một đêm ngủ ngồi, hai mẹ con vào trại để nói với chồng, cha lời “động viên học tập tốt ” qua năm, mười phút thăm nuôi ngắn ngủi. Đường vạn dặm trở về thấm đủ lượng nước mắt thương tâm trên mỗi cột mốc cây số với ý tưởng không dám nghĩ hết: Lần thăm nuôi cũng là lần vĩnh biệt - Chỉ nghĩ thôi. Nghĩ cũng đủ thấy đau. Nhưng không chết người cha, người chồng nơi chốn lao tù mà là người đàn bà (sau lần thăm nuôi) bị xe hỏa cán nát thân đâu đó khi tuông củi, buôn than theo đường giây “hoạt động kinh tế phá hoại mậu dịch nhà nước xã hội chủ nghĩa.” Long Khánh, Dầu Giây. Cầu Bình Triệu, Sàigòn."
Viết nào đủ được về những "Nàng/Người Nữ Việt Nam" này không?

Phan Nhật Nam
Tháng Hai, 2018, đúng 50 năm Mậu Thân Huế, (1968-2018).

https://luudieuvan.com


Nhà văn Phan Nhật Nam

Cuộc chiến dài hơn trí nhớ

Lưu Diệu Vân thực hiện

Phần 2

Vào tháng 9, 2017, nhà văn Phan Nhật Nam được Chủ Tịch Hội Nhà Văn Hà Nội đích thân gởi thư mời về nước tham dự đại hội văn học, theo tiêu chí “Hòa Hợp Hòa Giải”, và ông đã đáp thư từ chối thẳng thừng, chính xác, dứt khoát: “Tôi xin được hoàn toàn từ chối sự mời gọi vì những lẽ...” qua những lập luận sắc bén và vững vàng, đúng với phong cách của một sĩ quan và một người con đất Việt. Trong thư đáp, ông khéo léo nhắc nhở về sai lầm quá khứ, cũng như những đàn áp, những thái độ đạo đức giả hiện tại của nhà cầm quyền VN.
Mời quý độc giả theo dõi phần hai của buổi mạn đàm với nhà văn chiến sĩ Phan Nhật Nam và Lưu Diệu Vân.

LDV: Tình tự dân tộc (nationalism) và lòng yêu văn hóa (culture), ông thấy có sự khác biệt giữa hai ý niệm này không? Nếu một ngày, Việt Nam bị đổi tên và sát nhập thành một phần của Trung Quốc, ông nghĩ rằng, chúng ta sẽ (hoặc nên) hồi hương về đất nước mình như thế nào?
PNN: Tôi không phân biệt giữa hai tâm thức này, vì giữ gìn, quý trọng văn hóa (quốc gia mình) thì văn hóa ấy có một nội dung rất cụ thể bao gồm vật chất, tinh thần của đất nước mình. Không thể nào quý trọng văn hóa di sản quốc gia mà lại đem bán rẻ tổ quốc như đảng cộng sản VN đã, đang làm… Làm lễ tưởng niệm 1000 Năm Thăng Long với hình tượng Vua Lý Thái Tổ mặc trang phục vua quan triều đình Hán tộc, toàn bộ thành phố Hà Nội tràn ngập một màu "hồng phấn" riêng biệt của người Hoa! Văn hóa Việt Nam nào tồn tại trong tinh thần "xã hội chủ nghĩa" theo mô hình của Bắc Kinh?
Đề cương Văn Hóa Việt Nam được đảng Cộng Sản/mặt trận Việt Minh đề ra từ 1943 là một thứ loại (văn hóa) rất phản bác, đối nghịch với Văn Hóa (thật) của dân tộc Việt, vì được xây dựng trên chủ nghĩa Marx-Lenin. Đấy là một hệ thống tư tưởng chỉ có giá trị nhất thời trong tình cảnh chính trị, xã hội đầu thế kỷ 20 khi Việt Nam đang trong tình trạng một xứ thuộc địa Pháp. Chủ nghĩa này đã hoàn toàn bị vứt bỏ ngay chính nơi khai sinh nó với lần sụp đổ bức tường Bá Linh, hệ thống nhà nước cộng sản Đông Âu, Liên Bang Sô Viết năm 1989, 1990! Làm sao có thể gọi những thủ lãnh Đệ Tam Quốc Tế CS/Chi Bộ Đông Dương như Hồ Chí Minh, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Trần Phú, Trường Chinh… trước kia, hoặc những kẻ cầm quyền ở Hà Nội hiện nay (sau 1975) là những "Nhà Văn Hóa/Người Yêu Nước" được? Cũng không thể gọi là "giới lãnh đạo đảng cộng sản nơi Hà Nội, mà thực tế chỉ là tập đoàn tư bản đỏ, thuộc phường, hội, băng, đảng, phe phái tộc họ, thuộc các địa phương Hà Nam Ninh, Thanh Nghệ Tĩnh… miền Bắc Việt Nam cầm quyền bất hợp hiến, bất hợp pháp! Một bí thư, chủ tịch nhà nước của Hà Tĩnh cho tư bản người Hoa thuê đất hơn 100 năm với giá rẻ! Lòng Yêu Nước/Tính Văn Hóa nào có được trong những con người mà mục tiêu trước sau chỉ kiếm được một số Mỹ Kim để mua tài sản ở Mỹ, gởi con đi du học trước để chuẩn bị cho lần xuống chức. Đám người từ nhỏ đã thuộc lòng câu khẩu hiệu: "Đế quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân ta!" dẫu chưa hề thấy được một người Mỹ, đế quốc Mỹ là gì!
Yêu quê hương Việt Nam thì đồng thời cũng yêu đất nước của dân tộc khác. Tôn trọng văn hóa Việt thì càng phải tôn trọng di sản của toàn nhân loại. Chỉ những kẻ man rợ như nhóm Taliban mới phá hủy những tượng Phật xưa cũ ngàn năm. Chỉ những kẻ cầm thú mới nhân danh "xã hội chủ nghĩa" nhằm tàn sát 100 triệu con người như phong trào cộng sản quốc tế đã thực hiện. Giết hơn 5000 người Huế chỉ để áp dụng lời "thơ:" Nam - Bắc thi đua đánh giặc Mỹ. Tiến lên toàn thắng ắt về ta, của Hồ Chí Minh đọc từ Hà Nội đêm Giao Thừa Mậu Thân, 1968. Làm sao có thể gọi là "về Việt Nam" khi đất nước này trở nên một quận, huyện của Bắc Kinh như cảnh Hà Nội đón Tập Cận Bình với cờ đỏ 6 ngôi sao?! Và âm tiếng người Việt được cải biên thành một ngôn ngữ phát âm theo cách người Hoa mà Viện Ngữ Học Hà Nội đã gióng trước qua kế hoạch của viên phó tiến sĩ, giáo sư ngữ học họ Bùi. Tôi chấp nhận ngay cái chết không do dự nếu buộc phải bước chân xuống một nơi gọi là "thủ đô Hà Nội" của một xứ sở được "Hán Hóa" theo danh sách Mãn, Hồi, Mông, Tạng... Việt!

LDV: Không thể chối bỏ, đóng góp của giới trẻ trong việc gìn giữ văn hóa và đấu tranh cho tự do tại quê hương là cần thiết. Nhưng xã hội Việt Nam vẫn còn giữ tư tưởng: Áo mặc sao qua khỏi đầu, phải kính trên nhường dưới, và vì vậy, sự cộng tác giữa các bậc tiền bối và giới trẻ vẫn chưa đạt được hiệu quả. Ông có những lời khuyên nào để khắc phục điều này?
PNN: Quả thật tôi không mấy lưu ý vấn đề này vì quá trình tranh đấu của người Việt vì Độc Lập Dân Tộc-Dân Chủ-Dân Quyền từ đầu thế kỷ 20 với các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Trung Kỳ Dân Biến… đến cách mạng vũ trang Quốc Dân Đảng với Nguyễn Thái Học, tiếp theo các phong trào cách mạng quốc gia chống Việt Minh/Cộng Sản trước, sau 1945… như một làn sóng liên tục, lớp sau dồn lớp trước. Điều tôi lưu tâm và thấy ra là không phải sự không đồng thuận giữa các thế hệ già/trẻ mà là sự thất bại liên tục của các thế hệ kẻ sĩ người Việt kéo dài từ thế kỷ 18, 19, 20, tiếp hiện thực tại hôm nay! Dẫu hàng ngũ tranh đấu không thiếu kẻ có khả năng, tấm lòng. Sự thất bại thấy rõ tại các thời điểm trước, sau 1945; sau 1954; 1960, 1975... và tiếp tục hiện nay đối với người Việt hải ngoại, tổ chức Cộng Sản trong nước mà thực tế lịch sử đã chứng minh chỉ là một tập đoàn tay em của phong trào Cộng Sản đệ tam quốc tế, lính đánh thuê cho Mạc Tư Khoa trước khi Liên Xô sụp đổ (1990), cụ thể là công cụ của Bắc Kinh nối dài xuống Đông Nam Á. Lực lượng cộng sản VN không phải do cơ may mà đoạt thắng nhưng vấn đề chính phải ở từ chúng ta - lực lượng Người Việt không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Tôi không có khả năng lập thuyết và tổ chức một lực lượng chính trị, chỉ là một người Người Lính làm công việc Viết Văn. Mà cuối đời, nói rất thành thật cũng chẳng đi đến đâu!

LDV: Có luồng tư tưởng cho rằng, tiền gởi về cho từ thiện, cho thân nhân, du lịch về Việt Nam, giao thương với Việt Nam tức là đang gián tiếp nuôi dưỡng một chế độ tàn ác, trì hoãn và ngăn cản sự sụp đổ của nó. Theo ông, nếu người Việt hải ngoại - mà nhà cầm quyền trong nước gọi là “khúc ruột ngàn dặm” - hoàn toàn tuyệt giao với quê nhà một khoảng thời gian, có giúp ích gì trong cuộc đấu tranh hiện nay không?
PNN: Tôi suy nghĩ vấn đề này qua những thực tế khác. Đấy là trong chiến tranh Pháp -Việt Minh (1946-1954) quân đội Pháp chẳng nên mở những chiến dịch lớn như Hành Quân Castor, chiếm đóng cứ điểm Điện Biên Phủ mà chỉ cần tập trung đánh vào vùng an toàn Khu 4, tức căn cứ hậu cần, vựa thóc Thanh Hóa thì chiến cuộc ắt sẽ có một hình thái khác và kết thúc khác chứ không phải Hiệp Định Genève 1954, chia cắt đất nước Việt Nam. Cũng thế, trong chiến tranh 1960-1975, chính quyền, và quân lực VNCH chỉ cần hoàn tất (rất có khả năng) không cho gạo, xăng dầu, thuốc men, dụng cụ y khoa, tiền VNCH vào mật khu Cộng Sản thì cái gọi là "lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam," các binh doàn cộng sản Bắc Việt chỉ trong một thời gian rất ngắn khoảng một tuần lễ sẽ thấy ngay hậu quả! Với 2 tỷ quân-kinh viện trong năm 1972, quân lực VNCH đã lập nên kỳ tích lẫy lừng, đánh tan cuộc tiến công của Cộng Sản miền Bắc (Chiến Dịch Nguyễn Huệ). Năm 1975, quân viện thặng dư vài trăm triệu đô-la cũng không có, miền Nam phải sụp vỡ trước sức tấn công của 16 sư đoàn cộng sản miền Bắc (được cả khối cộng sản quốc tế tăng cường chi viện) như là một sự kiện tất nhiên. Từ 2000 đến 2012, ngoại hối gởi về trong nước đến 100 tỷ đô-la. Trả lời như thế này hy vọng cũng đi sát với vấn đề đặt ra.

LDV: Một người nên làm gì trong lúc “Dựa Lưng Nỗi Chết”? Còn riêng ông, ông đã làm gì lúc ấy? Gần gũi Nỗi Chết đã dạy cho ông những bài học nào?
PNN: Tôi không bao giờ lên mặt khôn ngoan dạy dỗ, chỉ bảo ai dù là điều giản dị, cụ thể đối với thế hệ người ngang tuổi con, cháu… Không bao giờ. Bởi một điều tôi cũng chưa hề nhận một "chỉ dạy" từ bất kỳ ai về bất cứ vấn đề trong suốt cuộc sống mà nay đang đi vào thời đoạn cuối cùng. Thế nên, nếu phải lâm vào hoàn cảnh "Dựa Lưng Nỗi Chết" thì mỗi người phải tìm cách tự cứu chứ không thể ai bày vẽ cho ai được.
Ngày 7 tháng 9, 1981 tôi bắt đầu đợt kiên giam thứ hai, bước chân vào căn phòng cấm cố dài hai thước, cao ba thước, rộng một thước. Sự sống chỉ có được ở ô thông hơi hình chữ nhật 30x20 chận lưới sắt ở trên cao. Căn phòng nóng 40 độ vào mùa hè, mờ mờ hơi lạnh vào mùa đông do khu trại giam thiết trí trong vùng núi đá vôi tỉnh Thanh Hóa. Ruồi, muỗi bay vào thì đậu im vì áp suất căn phòng quá cao, người tù ngồi bất động trên một tấm đanh, cổ chân kẹp vào chiếc cùm sắt hình chữ U. Đại, tiểu tiện trong một ống tre; ngày hai chén bắp (đá), loại thực phẩm dành cho gia súc, và hai chén nước lạnh. Ngồi miết trong bóng tối mất dần tất cả mọi giác quan, ý niệm vào những năm 83, 84. Chiếc đầu có lúc tưởng như bốc khói, sôi lửa do buồn phiền, âu lo… Làm sao có thể sống sót?! Làm sao có thể qua từng giây? Phải, từng giây chứ không được từng phút, từng giờ! Thế nhưng tôi cũng dần hồi đi qua như lời gọi là THƠ viết trên đầu ngón tay. Quả thật sức tôi không sống nổi. Một giờ không nói, tính chỉ năm... Không phải một năm mà một chục. Tận cùng khổ nhục với đau thương… Nhưng người Sống được bởi có Trời! Vâng, có Người do có Trời! Tùy theo mỗi cảm ứng mà con người gọi nên bằng danh xưng tôn giáo của mình. Tôi sống sót được cho đến 29 tháng 5, 1988, cho ra khỏi hầm giam để đưa về Nam với bảy vị như các tướng Lê Minh Đảo, Đỗ Kế Giai, Lê Văn Thân… Sau này, tôi được xác chứng thêm, có những người khác lâm vào hoàn cảnh tương tự nhưng khó khăn gấp bội đấy là các ông Nguyễn Hữu Luyện hơn 21 năm tù, Nguyễn Chí Thiện 27 năm; sau 1975 qua thế kỷ 21 có các ông như Nguyễn Hữu Cầu 35 năm và Linh Mục Nguyễn Văn Lý vượt quá số 30 năm tù tội... Những kẻ ở hải ngoại "tố cáo" Nguyễn Chí Thiện giả, đạo thơ văn; Linh Mục Nguyễn Văn Lý là "ngôn sứ đô-la" theo tôi nghĩ là những kẻ mất tính người, những loại cầm thú hân hoan trên nỗi khổ đau của đồng loại, những kẻ không hề biết sức nặng của chiếc cùm, mỗi giây khắc tưởng như không chuyển dịch trong hầm tối... Nói được với ai từng giờ, phút trên biên giới chết trong khi sống này của một đoạn thời gian 7, 8, 10, 20… năm?!

LDV: Như đoạn mở đầu quen thuộc của Charles Dickens, “Đó là giai đoạn tuyệt vời nhất, đó là giai đoạn tồi tệ nhất,” nói đến chiến tranh, ai cũng nghĩ đến những khốc liệt, chết chóc. Vậy trong giai đoạn đã trải qua, ông có thấy thấp thoáng những hạnh phúc, hy vọng, những gì tuyệt vời trong cái đen tối ấy không?
PNN: Tôi xin nhắc lại một đoạn trong Dấu Binh Lửa, viết cách đây 50 năm lúc vừa qua tuổi 20. Cuốn sách có những nội dung mà bản thân cũng như bạn đọc hằng tin tưởng hơn nửa thế kỷ qua là những dòng chữ trong sáng và chân thật:
Tôi cũng chấp nhận cho sự góp mặt ở chiến cuộc, góp mặt để chấm dứt chiến tranh. Thắng bại không kể, nhưng cốt yếu là không ở ngoài, không chạy trốn trong khi bạn bè những người cùng trang lứa đang tham dự, đang ngã chết. Dù chết bên này hay bên kia, chết trong thù hận hay chết tình cờ.
Những người đi tìm cái chết để biện giải cho đời sống. Tôi tham dự vào cuộc hành trình khốn nạn này. Giải thích này làm tôi yên ổn. Cũng trong những tháng năm đằng đẵng gian khổ ấy, tôi khám phá ra được hạnh phúc của đời người. Hạnh phúc thật sự không có, chỉ có những hạnh phúc tương đối và giản dị. Hạnh phúc là bếp lửa thật nóng, bữa cơm có canh, một mái lều tranh không dột, căng được chiếc võng, uống ly cà phê, đọc tờ báo, sau năm ngày vượt ba mươi cây số đường rừng, rừng thật dầy không thấy trời, trong rét cóng của miền Trung vào những ngày cuối năm. Hạnh phúc nồng nhiệt khi trở về nhà trong đêm khuya gõ cửa, vợ ra đón với con nhỏ ba tháng, kể từ ngày sinh chưa được nhìn bố. Hạnh phúc là cái gì chắc chắn, nắm được ở trong tay khi cánh cửa chiếc phi cơ đóng lại và thân thể được nhấc lên trong độ cao, nhìn lại thành phố Huế đang âm ỉ cháy. Đấy - đời lính - đã dạy cho tôi biết được giá trị của những sung sướng tầm thường đó. Chỉ có thế mà tôi phải trả giá trong tám năm thật dài với tận cùng của khổ cực và căng thẳng. Nhưng đến những tháng ngày hôm nay, (1968) thì quả thực tôi bất lực. Bất lực để giải thích cho chính bản thân, sự có mặt tham dự trong dòng đời hỗn loạn và mệt nhọc này...
…Tám năm lính, tôi hai mươi sáu tuổi, số tuổi gần ba mươi, không bạn bè, xa bằng hữu, số tuổi của nỗi cô đơn kinh khiếp biến con người hững hờ, tàn ác như một lát dao...
…Sau tám năm ở lính, tôi hết còn là vùng đất để nghiệm và chịu ảnh hưởng. Tám năm ở lính để biết mình là một cánh chim tự do nhưng đã bị chặt cánh. Chính thương tích này làm sáng tỏ khả năng tự do bi đát của đời người.
Tôi ghi đủ những dòng chữ (không thể thành thật hơn) đã viết nên từ 50 năm trước. Năm ấy, hai mươi sáu tuổi, chưa xảy ra Mùa Hè Đỏ Lửa 1972; chưa sụp vỡ miền Nam 30 tháng 4, 1975; chưa có vượt biên; chưa thấm đủ hầm tối trại tập trung; 25 lần dọn nhà sau 24 năm nơi đất Mỹ. Bây giờ tôi có thể nói thêm được điều gì về "hạnh phúc" và "hy vọng"?

LDV: Vẫn biết “nếu như” chỉ dành cho những kẻ mơ mộng, nhưng chúng ta cũng hãy thử chơi trò điền vào chỗ trống:
Nếu Ngô Đình Diệm ………., thì ………………….
Nếu Trump không là tổng thống Mỹ, thì …………………
Nếu Phan Nhật Nam không cầm súng, thì………………
PNN: Vâng, tôi cũng xin dự vào "trò chơi" mà có lẽ cũng khá nguy nan này vì chạm vào những điều "cấm kỵ" hình như số đông không muốn nói ra.
Nếu Tổng Thống Ngô Đình Diệm không bị sát hại (kể cả biến cố TT Kennedy bị giết sau 20 ngày, 22/11/1963) thì chắc chắc (với trách nhiệm riêng của bản thân) sẽ không có sự kiện bộ chiến Mỹ đổ bộ lên Đà Nẵng (3/1965) và liên tục trong thời gian của những năm 1965, 1966. NẾU TT Ngô không bị sát hại thì CHẮC không có hình thái chiến tranh của 1964-1973, không có Hiệp Định Ba Lê (27/1/1973) và lẽ tất nhiên không có Ngày 30 Tháng 4, 1975. Hình thái nào sẽ xảy ra bản thân tôi không thể hình dung được vì chỉ là một sĩ quan cấp úy binh chủng nhẩy dù, mà cho dẫu là một tướng lãnh cũng không thể nào trả lời được. Âm mưu sát hại TT Kennedy đến nay vẫn chưa được giải mật kia mà. Cũng bởi, TT Kennedy là người nhận được lời dặn: Đừng đưa quân vào Châu Á/Đông Dương từ TT Eisenhower khi nhận chức tổng thống đời thứ 35 năm 1960.
Trước khi trả lời vấn đề: "Nếu Ông Donald Trump không là Tổng Thống Mỹ…," tôi xin xác nhận: Bản thân không thuộc về Cộng Hòa hay Dân Chủ; cũng không hề tham dự vào sinh hoạt của một tổ chức đảng phái nào trước đến nay. Thế nên chỉ nhận định sự kiện "Nếu ông Trump không là…" qua các khía cạnh văn hóa, xã hội của nước Mỹ. Nếu ông Donald Trump không là tổng thống Mỹ thì...
Cá nhân Tổng Thống Mỹ tiếp tục bị coi thường (một cách công khai) từ Pháp, Đức, Anh, Ý, nhất là Trung cộng, đến ngay các quốc gia hạng nhì, như Cuba, Việt Nam…
Hình ảnh nước Mỹ bị phỉ báng, xem khinh trên toàn thế giới, cụ thể ở các quốc gia theo chế độ Hồi Giáo quá khích; thành phần Hồi Giáo quá khích sẽ phát động những hoạt động phản kháng tương tự xảy ra ở Pháp, Anh, Bỉ, Tây Ban Nha…
Báo chí, các phong trào phản đối chiến tranh (bất kỳ cuộc chiến nào); các phong trào xã hội đòi quyền bình đẵng, hôn nhân đồng tính, phụ nữ phá thai, di dân bất hợp pháp… trở thành quy mô lớn, hiện thực những "mẫu mực đạo đức, tính tiến bộ" của xã hội mới…
Những điều trên không phải mới xảy ra từ một tổng thống Dân Chủ (Obama), hay Cộng Hòa (Bush con), nhưng là hậu quả và hệ quả từ thập niên 60, 70 qua phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam, mà đến hôm nay, điển hình Viet Nam War của Ken Burn, Lynn Novick, vẫn không hiểu được chiến tranh Việt Nam là gì? như thế nào? Để hành vi trốn lính/đốt thẻ trưng binh/đốt cờ Mỹ là một hành vi có tính đạo đức được tu chính án số 1 bảo hành. Người Mỹ đã tự làm xấu/làm nhục/hạ giá trị bản thân trước thế giới.
Tổng thống Trump có làm được Make America Great Again hay không thì thực tế sẽ cho thấy. Nhưng nếu ông Trump không là tổng thống Mỹ thì tình trạng tệ hai của nước Mỹ sẽ được hiến định hóa/chính trị hóa/hợp thức hóa cùng khắp!! Tôi có thể nói chắc như vậy.
Không bi quan, hay lạc quan với Tổng Thống Trump, tôi chỉ nhận định một cách khách quan đối với câu hỏi trên.
Còn vấn đề "NẾU" thứ ba, không cần đặt ra vì trước sau bản thân PNN chỉ là và luôn là một Người Lính. Nếu phải trở lại một lần tuổi trẻ thì tôi vẫn chỉ là một Người Lính làm thêm một công việc Viết Văn. Tôi không là một ai khác như đã tự xác định từ một thưở rất lâu năm mươi năm trước.

LDV: Xin trân trọng cảm ơn Người Lính Viết Văn đã dành cho những lời tâm tình tràn trề đến thế.
PNN: Lời cuối cùng, xin cám ơn Lưu Diệu Vân người chủ biên cuộc nói chuyện này, bởi quả thật chưa bao giờ tôi phải nói về bản thân một cách đầy đủ đến như thế cho dù chưa lần gặp mặt giao tiếp như Lệ Hằng, Trần Vũ, Lê Quỳnh Mai… là những bằng hữu thân quen. Đọc lại có cảm giác "kinh hãi" với câu hỏi: Sao con người khổ đến đến thế? Sao con người đau đến thế? Con người đây là tất cả những đơn vị người gọi là người Việt Nam. Trong tổng số đau thương kia, Người Lính phải chịu phần nặng nhất. Nhưng người lính còn rất trẻ không cần phải dạn dày "trăm trận" chỉ cần một trận máu xương kể từ ngày mãn khóa quân sự, học bài học đầu tiên "Baptême de feu" (nói theo cách của nhà binh Pháp) là tiêu vong ngay tuổi thanh xuân. Hóa ra lời nói ngày trước "Tôi là kẻ sống sót sau một cuộc chiến tranh dài hơn trí nhớ" sao mà đúng đến như thế?!

Phan Nhật Nam
Tháng Hai, 2018, đúng 50 năm Mậu Thân Huế, (1968-2018).

https://luudieuvan.com


Những kẻ ăn cơm Quốc gia thờ ma cộng sản

ngày ấy, bây giờ ra sao?

Trúc Giang

Trong cuộc chiến tranh bảo vệ tự do dân chủ của Việt Nam Cộng Hoà, cái nhức nhối nhất là chỗ nào cũng có bọn VC nằm vùng, chúng tràn lan trong các tổ chức chính quyền, các cơ quan truyền thông, văn nghệ, tôn giáo, sinh viên học sinh…
Trong các tổ chức chính quyền, từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng Tham Mưu, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, Tổng Nha Cảnh Sát, Quốc Hội, và ngay cả trong Dinh Độc Lập cũng có VC nằm vùng. Bọn nầy ẩn nấp dưới hàng trăm hàng ngàn bộ mặt, muôn hình vạn trạng, đánh phá miền Nam, từ công khai hợp pháp, đến bí mật dưới muôn ngàn hình thức. Độc hại nhất là bọn ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản.
Ngày nay, trong cuộc đấu tranh cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ của các cộng đồng tỵ nạn Cộng Sản hải ngoại, cũng không tránh khỏi bọn nầy. Ở thế kỷ 21, kỹ thuật đánh phá tinh vi hơn, nhất là lợi dụng các thứ tự do, công khai và hợp pháp để đánh phá.

1. Phạm vi hoạt động của Việt Cộng
Thời nào cũng vậy, bài bản của phạm vi hoạt động cũng giống nhau. Đó ví như một vòng tròn có ba phần:
Phần trung tâm, là do cán bộ đảng viên thực hiện.
Phần thứ hai của vòng tròn, nối tiếp bên ngoài trung tâm, là những tổ chức được thành lập, do liên minh, liên kết, trong đó cán bộ đảng viên nắm phần lãnh đạo, chỉ huy, và đa số các thành phần quần chúng tham gia là không Cộng Sản. Đó là những “Mặt Trận”, như Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, Mặt Trận Tổ Quốc…
Phần ngoài cùng của vòng tròn, là những tổ chức quần chúng không cộng sản, nhưng thân cộng, bị VC len lỏi bên trong, giật dây, tác động. Đó là những “Phong Trào”, như:
Phong trào hoà bình (chống chiến tranh, phản chiến), Phong trào chống tham nhũng, Phong trào Nhân dân cứu đói, Phong trào bảo vệ phụ nữ, Phong trào bảo vệ văn hoá dân tộc, Phong trào đòi thi hành Hiệp định Paris, Lực lượng quốc gia tiến bộ, Thành phần thứ ba…

2. Những tên Việt Cộng nằm vùng

2.1. Nhà văn nhà báo Việt Cộng nằm vùng
Cuối năm 1957, dưới thời tỉnh trưởng Nguyễn Trân, một mẻ lưới của cảnh sát Định Tường tung ra, bắt giữ những ký giả đem về giam tại Mỷ Tho, gồm có những người nằm vùng trong những tờ báo như sau:
Triệu Công Minh (báo Tiếng Dội), Lương Ngọc (Trời Nam), Nam Thanh (Lẻ Sống), Đồng Văn Nam, Phương Ngọc, Phan Ba (Buổi Sáng), Nguyễn Bảo Hoá (Ánh Sáng), vợ Nguyễn Bảo Hoá là dược sĩ Mã Thị Chu (Tiếng Chuông), LS Nguyễn Văn Diệp, đạo diễn Lê Dân, Mai Thế Đông (giám đốc cải lương).
Nguyễn Trân tổ chức tranh luận công khai tại rạp hát Viễn Trường, Mỷ Tho, nếu nhận CNCS là sai và ăn năn hối cải thì được thả ra. Sau khi được thả, toàn bộ dông tuốt vô bưng, xem như Nguyễn Trân thả cọp về rừng.

2.2. Truy lùng Việt Cộng
Sau cuộc truy lùng trong các báo nêu trên, chính quyền bắt giam hàng loạt cán bộ nằm vùng cấp thành ủy, như GS Nguyễn Văn Chì, Lê Văn Chí, Trần Văn Hanh, Nguyễn Trường Cữu, Cổ Tấn Lương, Bùi Đức Thịnh, bà Bình Minh, đa số là giáo sư tư thục.

2.3. Việt Cộng nằm vùng, nhà văn Vũ Hạnh
Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Đức Dũng sinh năm 1926 tại Quảng Nam. Cán bộ văn hoá khu ủy Sài Gòn-Gia Định, hoạt động công khai đơn tuyến ở nội thành Sài Gòn.
Nhà văn Vũ Hạnh tại hội trường A trường Đại học An Giang đêm 17/03/2006.
Trước 1975, Vũ Hạnh bị bắt 5 lần, nhưng lần nào cũng có người bảo lãnh cho ra. Người bảo lãnh Vũ Hạnh sau cùng, là LM Thanh Lãng, Chủ tịch Hội Văn Bút.
Sau ngày 30-4-1975, Vũ Hạnh giữ chức Chủ tịch Hội Nhà Văn TP/SG. Vũ Hạnh mang súng kè kè bên hông, thì bị thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, nửa đùa nửa thật bảo: “Anh em văn nghệ sĩ chỉ quen cầm bút chư có biết chơi súng đâu”.
Nhưng mấy tháng sau, ông lắc đầu nói nhỏ “Totalement déçu” (hoàn toàn bị lừa). Với chức vụ Chủ tịch Hội Nhà Văn, chẳng có quyền hành và quyền lợi gì, coi bộ đời sống thời bao cấp gặp nhiều khó khăn. Ít lâu sau, nghe nói có một nhà giàu cộng tác để Vũ Hạnh mở ra một gánh hát cải lương, nhưng sau đó dẹp tiệm. Vũ Hạnh lại tìm người có vốn mở xưởng làm xà bong, nhưng cũng không khá vì thiếu nguyên liệu.
Ít lâu sau nữa, một trong những người bạn cho biết, Vũ Hạnh đang tìm đường dây cho con vượt biên, nhưng bạn bè chả ai dám giúp đỡ vì sợ cái bản chất phản bội của tên nằm vùng.

2.4. Những tờ báo của Việt Cộng và có Việt Cộng nằm vùng
2.4.1. Tờ Tin Văn
Báo nhà nước đưa tin như sau:
“Đầu năm 1966, đảng ủy giao cho cán bộ Vũ Hạnh đang hoạt động trong “vùng bị tạm chiếm”, ngụy trang dưới chiêu bài “bảo vệ văn hoá”, xin phép cho ra tờ Tin Văn, chủ trương chống văn hoá đồi trụy, chống văn hoá ngoại lai đầu độc thanh niên.
Tờ báo được các cán bộ ta chỉ đạo, đứng đầu là đồng chí Trần Bạch Đằng, Ủy viên thường trực Thành Ủy SG-GĐ, lãnh đạo tuyên huấn, mặt trận, trí vận, Hoa vận, và thanh niên (bao gồm sinh viên và học sinh).
Chủ nhiệm tờ Tin Văn là Nguyễn Mạnh Lương. Một số nhà văn cộng tác như Lữ Phương, Hồng Cúc, Nguyễn Hữu Ba, Vũ Hạnh. Toà soạn đặt trong một ngôi chùa”.
Sau 1975, Vũ Hạnh viết như sau: “Tuần báo Tin Văn, với những bài phê bình vạch mặt những tên xung kích chống cách mạng, qua các tác phẩm đồi trụy, phản động, đã tạo ra một phong trào quần chúng sôi nổi. Ngụy quyền hoang mang nên tìm cách phản kích. Chúng trắng trợn cho tên Chu Tử, tay sai của Sở Công An và Phủ Đặc Ủy TW Tình Báo ngụy, bắt đầu một chiến dịch đả kích tôi, tố cáo tôi là “VC nằm vùng”, và liên tiếp trong nhiều số báo như vậy, y đã “vu khống tôi” cốt làm cho những người tham gia phong trào sợ hãi. Lúc đó, đảng ủy văn hoá và thường vụ khu ủy, động viên, chăm sóc và giúp đở tôi về vật chất lẫn tinh thần, thông qua vợ tôi. Mở đường dây liên lạc mới, tôi trực tiếp nhận sự chỉ đạo của đảng.” (Trích từ Vũ Hạnh: Trui rèn trong lửa đỏ, trang 179).
Tên VC láu cá nầy là “VC chính cống”, thật sự nằm vùng, mà nhảy lên như đỉa phải vôi, khi bị Chu Tử vạch mặt là “VC nằm vùng”, rồi lại nói là “bị vu khống”. Bọn nằm vùng luôn luôn có phản ứng như thế!
2.4.2. Hai tờ báo có Việt Cộng nằm vùng
1. Tờ Đại Dân Tộc
Chủ nhiệm: Võ Long Triều
Tổng thư ký: Hồ Ngọc Nhuận
VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Bá Thành (hoạ sĩ Ớt)
2. Tờ Điện Tín
Chủ bút Hồ Ngọc Nhuận
Chủ nhiệm: cựu đại tá, cựu nghị sĩ Hồng Sơn Đông
Chủ bút: Hồ Ngọc Nhuận
2 VC nằm vùng là: Hồ Ngọc Nhuận và Huỳnh Bá Thành (họa sĩ Ớt)
2.4.3. Nói về tờ Tin Sáng
Báo Tin Sáng có 3 thời kỳ:
1. Tin Sáng cũ trước năm 1973
2. Tin Sáng lậu từ 1973 đến 1975
3. Tin Sáng bộ mới từ ngày 10-8-1975 đến 1-7-1981
Tin Sáng cũ trước 1973. Toà sọan ở số 124 đường Lê Lai, Q.1. do nhóm dân biểu đối lập, thân cộng và VC nằm vùng, như: Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung, Dương Văn Ba, có cán bộ VC nằm vùng nhưng giữ chức vụ khiêm tốn.
Trên tờ báo có 50 bài viết của LM Nguyễn Ngọc Lan, chửi Mỹ, chửi VNCH và chống chiến tranh. Tin Sáng là nơi kích động các cuộc biểu tình của nhóm SV/VC nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm. Tòa soạn bị đốt và có truyền đơn “Đồng bào quyết đập chết những tên VC nằm vùng Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận. Quần chúng rất phẩn nộ trước hành động đâm sau lưng chiến của dân biểu tay sai VC Ngô Công Đức và Hồ Ngọc Nhuận”.
Tin Sáng sau 1975:
Trần Văn Giàu nhận xét: “Các anh làm báo CS hơn CS”. Alain Ruscio ghi lại trong cuốn Vivre au Vietnam như sau: “Không ai nói ngọt hơn Lý Chánh Trung được. Mặc dù trong thâm tâm họ biết là họ đang nói dối, đang đóng kịch. Nhưng điều quan trọng là lời nói đã phát ra thì không thu lại được”. Đó là những tiếng chửi rất nặng nề của trí thức đối với trí thức. Không biết bọn nằm vùng nầy có hiểu và cảm thấy nhục nhã hay không?
Ngô Công Đức cũng đã sáng mắt ra, trước khi chết cũng để lại chúc thơ bộc bạch phân trần đôi điều, nhưng quá muộn. Nói chung, những tên VC nằm vùng đã mở mắt ra, và té ngửa hết, nhưng đã muộn cho một cuộc đời.
* Tại sao Tin Sáng sống được 5 năm dưới chế độ Cộng Sản?
Thứ nhất, báo Tin Sáng nịnh bợ VC hơn báo VC.
Thứ hai, Võ Văn Kiệt nhận thấy người dân miền Nam còn căm thù VC. Từ đổi tiền, đuổi đi kinh tế mới, cải tạo thương nghiệp, xếp hàng mua gạo, ăn độn, chồng, con, cha mẹ của đa số bị tù cải tạo. Người dân chưa thấy cái “ưu việt” của XHCN như tuyên truyền. Trong khi đó, báo Sài Gòn GP thì còn non trẻ, chờ cho đến khi thành lập tờ Thanh Niên, nói theo giọng điệu o bế người dân, trình diễn màn lừa bịp, là “nói thẳng, nói thật”…, vì thế Võ Văn Kiệt chưa khai tử báo Tin Sáng, để cho sống 5 năm trong tình trạng trái ngược, là mỗi khi số lượng phát hành gia tăng lên cao, thì ban biên tập lại hồi hộp chờ ngày giờ kết liểu cuộc đời nịnh bợ.

2.5. Trí thức thân cộng và bọn “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản”
Ở miền Trung thì nổi bật những tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Ngô Kha, Trần Quang Vọng,Trần Hữu Lực, Trần Duy Phiên, Lê Văn Ngăn, Trần Vàng Sao, Võ Quê…
Hoàng Phủ Ngọc Tường phải sống những ngày khổ nhục, oán hận, khi thấy người đồng chí trẻ của y là Bửu Chỉ đang ngủ với vợ của y là nữ đồng chí, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.
Ở miền Nam, thì có Tôn Nữ Thị Ninh, LS Trần Ngọc Liễng, GS Lý Chánh Trung, LS Ngô Bá Thành. Những LM Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ, các thượng tọa Thích Trí Quang, Nhất Hạnh.

2.6. Thành phần thứ ba và Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói
“Theo chỉ đạo của ta, một lực lượng chính trị mới ra đời, đó là “Thành phần thứ ba” gồm trí thức, nhân sĩ, binh sĩ, dân biểu, báo chí, tu sĩ, công thương gia, cựu tướng lãnh, có khuynh hướng chống Thiệu, đòi hoà bình, nổi bật nhất là các nhân vật như LS Trần Ngọc Liễng, Ngô Bá Thành, KS Dương Văn Đại, DB Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, Nguyễn Văn Hàm, Lý Chánh Trung, LM Phan Khắc Từ, Thích Pháp Lan, ni sư Huỳnh Liên và nhà báo Nam Đình”. Tướng Dương Văn Minh đại diện cho thành phần nầy ra đảm nhiệm chức Tổng thống.
Ni sư Huỳnh Liên, tịnh xá Ngọc Phương biểu tình chống chính quyền Sài Gòn năm 1973
Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói
Ra đời tháng 9 năm 1974 do Đại đức Thích Hiển Pháp làm Chủ tịch. Dân biểu Nguyễn Văn Hàm làm Tổng Thư ký. Các nghệ sĩ Kim Cương, Thanh Nga tích cực tham dự. Ni sư Huỳnh Liên, LM. Phan Khắc Từ, các DB Kiều Mộng Thu, Hồ Ngọc Nhuận, GS Lý Chánh Trung, LS Ngô Bá Thành…
“Ta đưa một số cán bộ đứng tên vào mặt trận: Ngọc Trảng, Ba Thép, Xuân Thượng, với khẩu hiệu “Lá lành đùm lá rách” ẩn chứa nội dung tố cáo chế độ. Hình thức biểu tình rất sáng tạo, biểu tình có ca hát “Dậy mà đi”. Biểu tình “xa luân chiến”, không lớn mà liên miên từ ngày nầy qua đêm khác, đêm nầy qua đêm nọ như bánh xe quay, làm cho cảnh sát ngụy mất ăn mất ngủ”. Phong trào thì công khai, nhưng ra báo thì bí mật. Công khai thì có Kiều Mộng Thu trong báo Đại Dân Tộc, ở tờ Điện tín thì có Lý Chánh Trung. Về phía bí mật, Cứu Đói in 10,000 bản phổ biến trong quần chúng.
Mặt Trận Nhân Dân Cứu Đói lập khối Dân Tộc Xã Hội ở Hạ Viện để đấu tranh nghị trường.
Tổ chức “báo nói”, “văn nghệ chạy”, “biểu tình ngồi”, “phát chẩn”.
Ni sư Huỳnh Liên sinh tại Mỷ Tho năm 1923, mất ngày 16-4-1987, tên thật là Nguyễn Thị Trừ, ni sư trưởng Tịnh xá Ngọc Phượng. Đại biểu QH Khoá VI. Phó Chủ tịch UB/MTTQ Sài Gòn, Ủy viên TW MTTQ/VN.
Bọn cứu đói cứng họng, cảm thấy ô nhục khi nhân dân kêu đói, khi đồng bào ăn bo bo, ăn độn mà chúng lặn mất, im thin thít của thái độ hèn nhát, lưu manh.

3. Dân biểu Việt Cộng nằm vùng và dân biểu thân cộng
Trên tờ Tuổi Trẻ trong nước, bài viết đề ngày 31-7-2012 với tựa đề “Dân tin người thật tâm, thật tài”, nói đến 2 dân biểu VNCH là những “chứng nhân lịch sử” của 37 năm về trước. Đó là dân biểu Nguyễn Văn Hàm từng giữ cương vị Phó Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn, sau ngày 30-4-1975, và dân biểu Đinh Văn Đệ, từng làm Chánh Văn Phòng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH.
DB Nguyễn Văn Hàm

3.1. Dân biểu Nguyễn Văn Hàm
Nguyễn Văn Hàm khoe thành tích như sau: “Ở Sài Gòn có những cuộc biểu tình mà tôi và những người khác đã tổ chức rất công phu như “phong trào cứu đói”, “ký giả đi ăn mày”. Cũng có những cuộc biểu tình tự phát, không cần ai tổ chức cả. Quần chúng qui tụ quanh chúng tôi, gọi là “lực lượng thứ ba”.
“Quê ở Mộ Đức, Quảng Ngãi, Nguyễn Văn Hàm làm thơ, viết báo, giảng dạy triết học, văn chương. Tham gia Quốc Hội Hạ Viện khoá 2 (1971), là một dân biểu đối lập, thủ lĩnh phong trào quần chúng Phật giáo”.
Sau 1975, đương sự làm Phó Chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân, bên cạnh Ủy Ban Nhân Dân. Hội đồng chả có quyền hạn gì cả, rồi hắn bị đá ra. Vợ và con vượt biên qua Úc. Có đứa con gái đang sống ở Minnesota, nhưng không nhìn cha.

3.2. Dân biểu Đinh Văn Đệ
Sau năm 1975, nhiều người “bức xúc” khi thấy cựu dân biểu Đinh Văn Đệ ra vào làm việc trong Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Sài Gòn. Võ văn Kiệt cho biết: Hắn là người Cộng sản mà không có đảng” (Il est communiste sans parti)
3.2.1. Đinh Văn Đệ là lính VNCVH
Tờ báo viết: “Ông Đinh Văn Đệ bị động viên đi lính rồi trở thành trung tá Chánh văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH (1954-1961). Làm Tỉnh trưởng Tuyên Đức kiêm Thị trưởng Đà Lạt (1963). Tỉnh trưởng Bình Thuận (1964-1967).
Năm 1967, ra ứng cử dân biểu Quốc hội. Giữ chức Chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện. Tổng thống Thiệu cử ông làm “trưởng phái đoàn” sang Mỹ xin viện trợ khẩn cấp. Kết quả chuyến đi, ông Đệ được Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Miền Nam tặng thưởng Huân Chương Chiến Công hạng nhất.”
Đinh Văn Đệ phát biểu: “Tôi được giáo dục từ nhỏ, mang sẵn trong lòng tình yêu nước thực sự, yêu con người thực sự, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chính thể. Bị động viên, tôi đành phải đi lính, và luôn luôn giữ cái tâm lành, trung thực, ngay thẳng. Bao nhiêu năm đeo lon, đeo súng, tôi không một lần sát sanh. Bây giờ xuất gia, theo đạo Cao Đài”.
Đinh Văn Đệ sinh năm 1924, mồ côi cha lúc 15 tuổi. Nhà nghèo, học hết Trung học đệ nhất cấp rồi ra đi dạy học, theo đạo Cao Đài.
3.2.2. Người có công xây dựng gián điệp U4
Năm 1969, danh sách điệp viên của tình báo chiến lược Việt Cộng có thêm một tên mới, Đinh Văn Đệ, bí số U4.
Người có công đầu, móc nối, tác động, xây dựng U4, là Đinh Văn Út, chú của Đinh Văn Đệ. Út có bí danh là Chín Mẫn, sinh năm 1919 tại Châu Đốc. Chín Mẫn thuộc phòng tình báo T4 của Thành Ủy Sài Gòn Gia Định, thuộc Trung Ương Cục miền Nam, còn gọi là Cục R, B2 và “Ông Cụ”. T4 do Mười Hương phụ trách.
Năm 1969, Đinh Văn Đệ cung cấp tài liệu kinh tế hậu chiến của VNCH, chính Đệ lấy xe riêng đưa người và tài liệu đến nơi an toàn. Cũng năm nầy, Đệ thoả thuận và tiếp nhận toàn bộ qui ước liên lạc, mực mật, giấy viết mực mật, thuốc hiện mực mật, vật ngụy trang, mật khẩu giao liên… nói chung, Đinh Văn Đệ, Chủ tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện Quốc Hội VNCH, đã chính thức trở thành một gián điệp của Việt Cộng, mang bí số U 4 trực thuộc phòng Tình báo mật danh J.22 của Cục R (còn gọi là B2). Em của Đinh Văn Đệ là Đinh Văn Huệ, trước làm chính trị viên tiểu đoàn giao thông vũ trang thuộc J. 22

*Đinh Văn Đệ kể những chiến công như sau:
1) Kế hoạch oanh kích Lộc Ninh
“Sau khi ta (VC) giải phóng Phước Long ngày 6-1-1975, đồng chí Phạm Hùng muốn biết địch (VNCH) có ý định tái chiếm Phước Long hay không? Tôi được giao phó nhiệm vụ trả lời câu hỏi nầy.
Trước hết, tôi điện qua Phủ Thủ Tướng, mời Tổng trưởng Quốc Phòng ra điều trần trước Hạ Viện, tại sao thất thủ Phước Long? Trách nhiệm của ai?
Tại buổi điều trần, Tổng trưởng QP đổ mồ hôi hột, bối rối vì bị chất vấn sôi nổi, tới tấp. Tôi binh vực và đề nghị, mỗi lần điều trần như thế nầy vất vả lắm, vậy Bộ QP cấp cho tôi cái giấy được tự do ra vào các nơi liên hệ, để hỏi trực tiếp các cấp chỉ huy phần hành. Thế rồi, với tờ giấy trong tay, tôi đến Phòng Hành Quân, thì gặp ngay người quen biết cũ, là một chuẩn tướng, ông ta nói: “Đại ca đừng lo. Ai lại dại gì kéo quân đi lấy lại nơi mà mình phòng thủ đã bị thất bại. Tôi sẽ trả thù bằng cách dội bom cho nát Lộc Ninh”.
Tôi báo cáo tin đó. Vài hôm sau, địch (VNCH) đã ném bom Lộc Ninh, nhưng quân ta tránh được thiệt hại.
2) Trung Ương cục ở đâu?
Trung Ương cục Miền Nam (TWCMN) hay Cục R, B2, “Ông Cụ”, là cơ quan đại diện cho Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, để chỉ đạo chiến trường miền Nam. Ban Anh ninh TWCMN do thiếu tướng Cao Đăng Chiếm phụ trách từ năm 74 đến 75.
Ban An Ninh T4 thuộc về Thành Ủy Sài Gòn Gia Định do Mười Hương phụ trách.
TWCMN hỏi tôi là địch (VNCH) có biết Cục R ở đâu không?
Tôi gọi điện qua Bộ QP/VNCH xin 3 chiếc trực thăng, cho tôi là Chủ tịch Ủy Ban QP/HV, cho Trung tướng Tôn Thất Đính, nghị sĩ, Chủ tịch UB/QP Thượng Viện và cho Trung tướng Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng, mỗi người một chiếc trực thăng, thành lập một phái đoàn đi ủy lạo binh sĩ đang cố thủ tại Pleiku, Đà Nẳng và Bến Cát (SĐ 5 đóng ở Bình Dương). Đi đến đâu tôi cũng hỏi các cấp chỉ huy “Địch nó biết rõ vị trí của ta, vậy ta có biết Cục R ở đâu không? Tôi đúc kết các câu trả lời và báo cáo về Cục R.
3) Xin viện trợ để cắt viện trợ
“Tôi tham gia phái đoàn sang Mỹ để xin viện trợ khẩn cấp, vì Thiệu ngoan cố, cố chống giữ. Phái đoàn chia nhau đi “vận động hành lang” với các cơ quan và chính khách Mỹ. Trước khi đi, tôi suy nghĩ, làm thế nào để vận động xin viện trợ mà kết quả là bị cắt viện trợ. Khi sang Mỹ, mỗi dân biểu, nghị sĩ đều có nhân viên của toà đại sứ đi kèm, nếu sơ hở là bị lộ ngay.
Với cái chiêu “nói vậy mà không phải vậy”, làm cho các đại biểu trong đoàn thấy tôi là người tận tâm, tha thiết nhất trong việc xin viện trợ để cứu chế độ Sài Gòn.
Với mục đích làm cho Mỹ nản chí và bỏ cuộc, tôi đưa ra hình ảnh của người lính VNCH không còn muốn chiến đấu, đã bỏ chạy bằng cách níu càng trực thăng, trốn ra khỏi chiến trường, thì người Mỹ hiểu ngay là họ phải làm gì.
Khi tiếp phái đoàn, Tổng thống G. Ford cho biết: “Thôi các bạn cứ yên tâm ra về, tôi sẽ cử một viên tướng qua thị sát tình hình rồi sẽ có quyết định sau”. Nghe vậy, tôi hiểu là Mỹ đã bỏ cuộc”.
Theo chỉ thị của trên, Đinh Văn Đệ đã đưa một gián điệp mang bí danh “Số 6” vừa tốt nghiệp cao học nước ngoài vào làm việc trong Ủy Ban QP của Hạ Viện QH/VNCH.
Năm 1972, tình báo Hà Nội đã nhận đầy đủ chi tiết về hệ thống tổ chức, về quân số ở các quân khu, về ngân khoản QP/VNCH, thậm chí còn nhận những khoản viện trợ không công khai cho VNCH, ẩn dưới chương trình PL (Program Law), thương mại hoá, tức không viện trợ bằng tiền, mà bằng hàng hoá, để VNCH bán lấy tiền dùng cho quân sự.
Sau khi 2 giao liên Ngô Viết Triều và Nguyễn Thị Thành bị bắt, cuối năm 1971, Đinh Văn Đệ được chuyển sang hoạt động đơn tuyến, nhận lịnh trực tiếp của Cục R thông qua một nữ tình báo giao liên.
Đinh Văn Đệ
Đinh Văn Đệ hiện sống ở Sài Gòn vẫn khỏe mạnh và nổi tiếng là một Thiên Vương Tinh đức cao trọng vọng của đạo Cao Đài.
Có một điều Đinh Văn Đệ dấu đầu lòi đuôi là “tôi luôn luôn có cái tâm lành, trung thực và ngay thẳng”. Một tên gián điệp phản quốc, sống dối trá, hành động phản bội mà còn cái gì gọi là tâm lành, trung thực, ngay thẳng cho được?

4. Sinh viên nằm vùng
4.1. Danh sách 16 sinh viên bị chính quyền VNCH bắt giữ
Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Lê Thành Yến, Phùng Hữu Trân, Trần Khiêm, Đỗ Hữu Ứng, Lê Anh, Võ Ba, Đỗ Hữu Bút, Hồ Nghĩa, Cao Thị Quế Hương, Trương Hồng Liên, Trương Thị Kim Liên, Võ Thị Tố Nga.
4.2. Danh sách sinh viên thoát ly ra căn cứ Bắc Lộ 7, Campuchia
Phan Công Trình, Nguyễn Đình Mai,Tôn Thất Lập, Trần Long Ân, Nguyễn Văn Sanh, Lê Thành Yến, Trương Quốc Khánh, Huỳnh Ngọc Hải, Huỳnh Quang Thư, Dương Văn Đầy, Trần Ngọc Hảo, Hai Nam, Năm Sao, Trần Thị Ngọc Dung, Hà Văn Hùng, Trương Quốc Khoách.
4.3. Sinh viên Việt Cộng nằm vùng Huỳnh Tấn Mẫm
4.3.1. Huỳnh Tấn Mẫm
Huỳnh Tấn Mẫm tên thật là Trần Văn Thật, sinh năm 1943 tại Sài Gòn. Trước 1975 là một đảng viên cộng sản nằm vùng, hoạt động công khai ở Sài Gòn. Sau 1975, học tiếp y khoa, ra bác sĩ. Sang học Liên Xô về Triết học Mác Lênin.
Trở về VN được cử làm Tổng Biên Tập báo Thanh Niên. Là thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc và hội viên Hội Liên Hiệp Thanh Niên.
Với những chức vụ như thế, Huỳnh Tấn Mẫm (HTM) trở thành một cán bộ thuộc hàng cao cấp, có tiếng tâm của Sài Gòn.
4.3.2. Huỳnh Tấn Mẫm mở mắt nhưng quá trễ
Con đường hoạn lộ của HTM bị nhiều trắc trở, vì thực tế sau 1975 cho thấy, cái quan điểm tự do dân chủ kiểu “tư sản” của miền Nam không còn được áp dụng trong chế độ chuyên chế XHCN. Ngoài HTM ra, các sinh viên VC khác cũng đều vở mộng, cho nên đã thể hiện những hành động bị cho là “chệch hướng”, không được lòng đảng vì khác đường lối, nên bị hạ tầng công tác, loại trừ.
Đã vậy, vợ của cán bộ cao cấp lại làm chủ hụi và giựt hụi. Vợ ra toà lãnh án đã đành, Huỳnh Tấn Mẫm còn bị kêu ra toà làm chứng chống lại vợ, nên mất uy tín.
Thế là một cuộc đảo chánh trong nội bộ, đã khai trừ HTM ra khỏi tờ báo Thanh Niên năm 1990. Được chuyển về Hội Hồng Thập Tự, làm bác sĩ phụ trách phòng mạch miễn phí, thế là hết cơ hội chấm mút, thu hoạch như các đồng chí khác trên đường hữu sản hoá cán bộ trong thời đổi mới, mở cửa.
Mở phòng mạch ngoài giờ, chuyên chăm sóc da mặt, nặn mụn cho phụ nữ, nhưng chẳng có ai chiếu cố tới, vì bác sĩ cách mạng, có một thời không được bịnh nhân tin tưởng bằng “bác sĩ ngụy”. Riêng cá nhân HTM, trước kia chỉ lo biểu tình, đấu tranh, chạy trốn và ở tù, thì còn ngày giờ đâu mà học với hành. Hơn nữa, đảng cần “hồng” hơn “chuyên”, chỉ cần có quan điểm lập trường 101% cộng sản là một bác sĩ tốt rồi. Phòng mạch ế. Bị gán là bác sĩ chính trị, mà thứ chính trị của CNCS đã bị ném vào sọt rác từ lâu rồi. Người ta nhận xét: “bác sĩ nửa vời, chính trị nửa vời, cuộc đời cũng nửa vời, gia đình tan nát, sự nghiệp tiêu tan. Hình ảnh “anh hùng” vang bóng một thời, làm rung chuyển chế độ miền Nam đã chấm dứt trong cay đắng, chán chường, tiêu cực, mệt mõi”.
Kể ra ông trời cũng có con mắt.

5. Thành Đoàn Cộng Sản Sài Gòn Gia Định lộng hành
Thành Đoàn là tên gọi tắt của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh đang hoạt động trong nội thành Sài Gòn.

5.1. Thành Đoàn Cộng Sản giết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật
Ngày 28-6-1971, Biệt Động Thành bắn chết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật ngay tại hành lang trường Luật Sài Gòn.
Ban ám sát Thành Đoàn cử 2 tên tới Đại Học Luật Khoa, số 4 đường Duy Tân, nhận là người nhà muốn gặp Lê Khắc Sinh Nhật có việc cần. Lúc đó, sắp tới mùa thi cuối năm, Nhật đang hướng dẫn sinh viên năm thứ nhất về cách thức thi cử tại một giảng đường. Nhật vừa ra tới hành lang, thì một tên móc súng bắn liền 3 phát vào ngực. Hắn phóng lên một chiếc Honda nổ máy chờ sẵn. Hắn ném lại một quả lựu đạn nhưng may mắn, lựu đạn không nổ. Cảnh sát gác bên ngoài bắn 3 phát chỉ thiên. Nhạc sĩ Vũ Thành An sáng tác một bài hát tưởng niệm Lê Khắc Sinh Nhật.

Lý do giết SV Lê Khắc Sinh Nhật:
Thành Đoàn CS giết SV Lê Khắc Sinh Nhật (LKSN) vì 2 lý do:
Một là răn đe các sinh viên thuần túy, có tinh thần quốc gia
Hai là để trả mối hận bị đánh bại trong 2 cuộc bầu cử, mà Liên danh của LKSN đã thắng Liên danh SV Việt Cộng Trịnh Đình Ban, trong cuộc bầu cử Ban Đại Diện SV trường Luật niên khoá 1970-1971. Và đã thắng Liên danh SV/VC trong tay Thành Đoàn trong cuộc bầu cử Ban Đại Diện Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, tại Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp (Nông Lâm Súc) ngày 20-6-1971. Trong cuộc bầu cử nầy, khi thấy kết quả nghiêng về phía Liên danh LKSN do SV Lý Bửu Lâm đứng đầu, thì bọn SV/VC giở ngay bản chất côn đồ, nhảy lên bục “đá thùng phiếu để hủy bỏ kết quả bầu cử” và ấu đả, hỗn chiến xảy ra” (Trích trong “Trui rèn trong lửa đỏ” trang 21 của thiếu tướng Trần Bạch Đằng)
Bị thất bại trong cuộc bầu cử, Thành Đoàn CS cay cú, đưa ra 2 quyết định:
Một là, sát hại SV Lê Khắc Sinh Nhật
Hai là, chỉ thị cho SV Huỳnh Tấn Mẫm, tập họp một số SV tại Tổng Vụ Thanh Niên Phật Tử, số 294 Công Lý, vào ngày 28-7-1971 để bầu ra một tổ chức ma, chưa bao giờ có, đó là “Tổng Hội Sinh Viên VN” do Huỳnh Tấn Mẫm làm Chủ tịch. Tổ chức nầy không đại diện cho ai cả, ngoài đám SV/VC và một số ít bị lừa.
Quyết định hạ sát SV Lê Khắc Sinh Nhật là một hành động tội ác của Thành Đoàn CS/SG.

5.2. Thành đoàn CS/SG giết GS Nguyễn Văn Bông
Ngày 10-11-1971, SV/VC Vũ Quang Hùng (bí danh Ba Diệp, năm thứ 3 Khoa học) và tên Lê Văn Châu, dùng chất nổ ám sát chết GS Nguyễn Văn Bông, Viện trưởng Quốc Gia Hành Chánh, tại ngã tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản. Hai tên Hùng và Châu thuộc Trinh sát võ trang bí số S1, hoạt động nội thành SG-GĐ, thuộc Ban An ninh T4 của Thành Ủy SG-GĐ (trong mật khu). Cả hai bị bắt, đày đi Côn Đảo.
Sau ngày 30-4-1975, Vũ Quang Hùng viết : “Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng” và rất hảnh diện về thành tích đó. Tên Hùng giải thích lý do giết GS Nguyễn Văn Bông như sau: “Tin tình báo cho biết, GS Nguyễn Văn Bông sẽ làm thủ tướng vì chính quyền ngụy muốn chuyển từ quân sự sang dân sự. GS Bông là một trí thức rất có uy tín mà lên làm Thủ tướng, thì cách mạng sẽ khó khăn hơn. Để giữ bí mật, tôi đặt tên mục tiêu phải giết với bí số G.33”.
Đến tháng 4 năm 2000, trong lễ kỷ niện 25 năm ngày “chiến thắng 30 tháng 4”, nhà báo chuyên về tình báo Nam Thi của báo Thanh Niên, cũng kể lại “thành tích” nầy, trong đó có sự trợ giúp đắc lực của SV kiến trúc Nguyễn Hữu Thái, người đã theo tướng Dương Văn Minh đến đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng trong ngày 30-4-1975. Chính SV Nguyễn Hữu Thái làm “xướng ngôn viên bất đắt dĩ”, đã giới thiệu tướng DVM đọc tuyên bố. Sau đó, Nguyễn Hữu Thái xuất cảnh sang Canada theo diện đoàn tụ gia đình.
Phu nhân của GS Bông có lẻ đã biết tên tòng phạm nầy.
Trong phỏng vấn của đài RFA, ký giả Mạc Lâm ghi lại như sau: “Đã hơn 40 năm, những nạn nhân như bà Lê Thị Thu Vân, tức bà Jackie Bông, phu nhân của cố giáo sư lừng danh Nguyễn Văn Bông, bị tên SV Vũ Quang Hùng ám sát, tuy không bao giờ quên nổi biến cố bi thương, bổng ập xuống cuộc đời bà và các con nhỏ dại của bà năm xưa. Nhưng bà đã lấy tâm Phật mà “cầu nguyện cho ông ấy (tức tên Vũ Quang Hùng, kẻ đã giết chồng bà) và mong nhà cầm quyền Hà Nội “mở mắt ra”, “mở tấm lòng ra”. (RFA ngày 5-5-2011)
Ngoài việc ám sát GS Nguyễn Văn Bông, Thành Đoàn còn ném lựu đạn M-26 vào xe của BS Lê Minh Trí, Tổng trưởng GD&TN ngày 6-1-1969.
Hai tháng sau, đến lượt BS Trần Anh, Tân Viện Trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, bị bắn chết trước cổng trường Chu Văn An, bên cạnh Đại học xá Minh Mạng, ngang nhà thờ Ngã Sáu, Chợ Lớn. BS Trần Anh đang đi bộ từ Bộ Y Tế trên đường về nhà ở bên cạnh Đại học xá Minh Mạng.

6.  Phan Nhật Nam tố cáo Việt Cộng nằm Vùng
6.1. Thiếu tá “VC Killer” Thái Quang Chức
Trong bài viết tựa đề “Những tên Việt Cộng nằm vùng”, một thiếu tá Hải quân có danh hiệu là “VC Killer” mang tên Thái Quang Chức, em của tướng Thái Quang Hoàng.
Năm 1957, thanh niên Thái Quang Chức lội qua sông Bến Hải vượt tuyến vào Nam. Tốt nghiệp trường Bộ Binh Thủ Đức, về làm việc tại Bộ Tư Lịnh Hải Quân Vùng 4, Sông Ngòi, Mỷ Tho.
Năm 1970, mang lon thiếu tá, nổi tiếng là “VC Killer”, vì sau cuộc hành quân, xác VC được kéo chạy trên sông để biểu dương ý chí chống Cộng.
Trong những ngày sau cùng của tháng 4 năm 1975, tướng Thái Quang Hoàng cho người em xuống Mỷ Tho gọi Chức về để cùng gia đình di tản, đương sự quyết định ở lại để góp phần xây dựng quê hương.
Trình diện học tập cải tạo, Chức được đưa đến trại Hoàng Liên Sơn.
Hai năm sau, năm 1977, một người mặc thường phục đến bộ chỉ huy đoàn 776, đưa thiếu tá “VC Killer” ra khỏi trại, về làm nhiệm vụ mới.
6.2. Trung úy Trần Trung Phương, tiểu đoàn 3 Nhảy dù, VC nằm vùng
Do được giới thiệu, tác giả đến một đường dây chạy giấy xuất cảnh. Đến một cơ sở không có bảng hiệu, nhân viên thường phục tiếp đón với thái độ “chúng tôi đã biết rõ tất cả”, “chào anh Nam, anh có mạnh không?”. Anh ta nói: “Tôi biết anh nhiều lắm”, rồi mở tủ hồ sơ lấy ra cho coi Chứng Chỉ Nhảy Dù do Trung Tâm Huấn Luyện Sư Đoàn Dù cấp, có ký tên đóng dấu của trung tá Trần Văn Vinh.
Anh ta tự giới thiệu: “Trung úy Trần Trung Phương, gốc Đại Đội 33, tiểu đoàn 3 Dù, đơn vị cuối cùng là “Biệt Đội Quân Báo Điện Tử Sư đoàn. Là nhân viên Đặc vụ Sở Phản Gián Bộ Nội Vụ (Cộng Sản).
Điều kiện đưa ra, tôi có thể làm hồ sơ cho anh ra khỏi VN tối đa là 8 tháng. Gia đình anh tại Mỹ phải trả cho người của chúng bên đó 2,000 đô là, và kèm thao một số điều kiện…
“Lẽ tất nhiên, tôi không chấp nhận điều kiện của Phương, từ 2,000 đô la đến “những điều kiện khác…”.
Sau đó, năm 1993, để giúp một người quen cần phải xuất cảnh để giải quyết những khó khăn, tôi tìm đến Trần Trung Phương ở một địa chỉ mới, là một văn phòng ở khách sạn đường Nguyễn Văn Trỗi, nhân viên văn phòng cho biết, ông Phương đang Hoa Kỳ, ở vùng Westminster, Cali.
Trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, Hạ Lào, những bãi đáp đổ quân, những vị trí tấn công, toạ độ dội bom B-52 của SĐ Dù, đã bị quân báo VC giải mã từ cơ quan đầu mối, tối cao, là Biệt Đội Điện Tử và Phòng Hành Quân SĐ.
Ngày 30-4-1975, viên hạ sĩ quan ở đơn vị đó mà tôi biết, đã dẫn trung tá Nguyễn Văn Tư, Chỉ huy trưởng Tổng Hành Dinh SĐ Dù, qua Camp Davis để giao nộp hồ sơ trận địa của đơn vị mà hạ sĩ quan nầy đã lưu giữ từ hơn 10 năm trước đó.
Phan Nhật Nam: “Tôi có bổn phận chỉ đích danh những cá nhân tác hại, điển hình như Trần Trung Phương, Thái Quang Chức, những hạ sĩ quan và những công an VC, đã đi theo diện ghép với những gia đình HO và ODP hiện tràn lan khắp các cộng đồng người Việt hải ngoại”.
Ngoài những tên VC nằm vùng mà ông Phan Nhật Nam nêu trên, còn có 1 tên vô cùng lợi hại, đó là một thượng sĩ.
“Giữa tháng 4, 1975, Bộ Chính Trị nêu vấn đề, nếu chúng ta đánh lớn, liệu Mỹ có nhảy vào cứu nguy hay không?
Giải đáp câu hỏi nầy là công lao của đồng chí Nguyễn Văn Minh, là thượng sĩ giữ hồ sơ tuyệt mật của Cao Văn Viên. Lúc đó, thư của TT/HK gởi cho Thiệu: “Cuộc chiến tranh VN coi như đã chấm dứt đối với Mỹ, chi viện 700 triệu đô la, còn mọi việc khác thì tùy theo quý ngài định liệu”. Bản sao bức thư được gởi cho Cao Văn Viên. Đồng chí Minh lập tức chép lại, gởi ra bộ chỉ huy miền. Nhờ tài liệu nầy mà BCT nắm được điểm yếu của địch, nên nêu phương châm tấn công “Thần tốc - Táo bạo - Chắc thắng”.

7. “Những bí ẩn của báo Người Việt”
Đó là cái tựa của bài viết trên tờ SGN ngày 28-7-2012.
Căn cứ vào 2 trang web Tân Đại Dương và trang tài liệu 401k-plans, để xác định “Nguoi Viet Daily News không phải là một công ty,, “Corporation Nguoi Viet Inc.” như đã công bố trên báo chí. Tác giả bài viết đặt câu hỏi: “Ai là chủ thực sự của báo Người Việt?”
Đây là một câu hỏi cần được phải trả lời để đánh tan những nghi ngờ gần như xác định về báo Người Việt, đang sôi nổi trong những ngày gần đây. Đương nhiên là báo NV có quyền không trả lời, tuy nhiên, nếu không trả lời rõ ràng và hợp lý thì dễ biến sự nghi ngờ trở thành xác định.
Hôm nọ, xem ông Ngô Kỷ liệt kê “thành tích” của báo Người Việt trên You Tube, thì quả thật, báo Người Việt rất đúng, chẳng sai tí nào đối với những tố cáo của các đoàn thể vừa qua. Hết phương chối cãi. Những lời lẻ binh vực xem như ngụy biện, không thuyết phục.

8.  Kết
Đem tình trạng “Việt Cộng nằm vùng ở miền Nam trước năm 1975”, đặt vào tình trạng của phong trào đấu tranh cho một nước VN tự do, dân chủ, nhân quyền hiện tại, thì mới thấy rõ bài bản, âm mưu và kỹ thuật đánh phá của VC trong nước. Thời nào cũng vậy, ở đâu cũng có bọn lưu manh nằm vùng cả. Bản chất của bọn nằm vùng là gian manh, xảo trá và phản bội, tôi ác của bọn chúng là đã góp phần đưa dân tộc VN vào chế độ độc tài Cộng Sản hiện nay.
Trăm năm bia đá cũng mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ, đừng có tưởng chết là hết.
Trúc Giang

http://gardprint.blogspot.com


Nuôi ong tay áo

Một trong những lý do quốc gia Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ chính là đã có quá nhiều con ong chui vào tay áo và một trong số đó là Đinh Văn Đệ nguyên Tỉnh Trưởng Tỉnh Bình Thuận.

Sinh năm 1924, vào năm 1963 Đệ đã là Trung Tá Thị Trưởng Đà Lạt rồi được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng Tuyên Đức.
Sau đảo chánh, hắn được thăng Đại Tá và thuyên chuyển về làm Tỉnh Trưởng Bình Thuận.
Chính trong thời gian này, Đệ lọt vào tầm ngắm của Việt Cộng và chúng cử tên Chín Mẫn (bí danh) tiếp cận, lôi kéo, dụ dỗ nhân vật mà theo bọn chúng là "có khả năng chui sâu, leo cao". Năm 1969, lúc Đệ đã chấp nhận làm một điệp viên nằm vùng cho Việt Cộng thì hắn trúng cử Dân Biểu Hạ Nghị Viện và được bầu giữ chức Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện (than ôi !)Với chức vụ như thế, hắn có quyền đòi hỏi những Tướng lãnh và giới chức quân sự cung cấp những bí mật quân sự - quốc phòng, những kế hoạch chiến lược - chiến thuật cho hắn biết. Tất cả tin tức quan trọng được cung cấp, Đệ đều báo cho tên trùm tình báo Việt Cộng Cao Đăng Chiếm trong Cục R.Vài "chiến công" của Đệ: Sau khi Tỉnh Phước Long thất thủ vào năm 1974, Việt Cộng muốn biết QL VNCH có điều động quân đội tái chiếm hay không. Tên Đệ đã dò hỏi nhiều người có trách nhiệm và đây là báo cáo của hắn: "Không có chuyện tái chiếm Phước Long vì QL VNCH không còn đủ quân để làm việc đó. Nhưng một Chuẩn Tướng đã cho tôi biết vài ngày nữa Không Quân sẽ dội bom Lộc Ninh". Từ nguồn tin của Đệ, Việt Cộng đã nhanh chân chạy ra khỏi nội thị Lộc Ninh, tránh được trận không kích sau đó 3 ngày.Lúc miền Nam nguy ngập, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thành lập phái đoàn đi Hoa Kỳ vận động viện trợ và với cương vị đang nắm giữ, Đệ phải có tên trong danh sách phái đoàn.
Bề ngoài hắn tỏ vẻ sốt sắng vì công việc nhưng lại bí mật "than thở có dụng ý" với các quan chức Hoa Kỳ rằng quân đội đã sa sút tinh thần không muốn chiến đấu nữa, miền Nam không còn hy vọng cứu vãn!Kết quả như ta đã biết, Hoa Kỳ từ chối nguồn quân viện, đưa VNCH vào tình thế không còn bất cứ tia hy vọng nào và đành ngậm ngùi buông súng trong Tháng Tư Đen...
ST FB


NHÂN THÁNG TƯ ĐEN & QUỐC HẬN,

NHẮC: VC TÌM XÓA TỘI PHẢN QUỐC TRƯỚC LỊCH SỬ

Nguyễn Phúc Liên

Đảng cướp CSVN đang sợ hãi những tội ác rành rành của mình sẽ được ghi vào Lịch sử Dân tộc để truyền lại cho hậu thế trăm, ngàn năm sau. Không những không dậy cho tuổi trẻ Lịch sử củ Tổ Tiên qua 1050 năm nổi dậy dành Độc lập từ Hai Bà Trưng đến Ngô Quyền. Sau khi danh Tướng Ngô Quyền với trận Bạch Đằng, các Triều Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê luôn luôn phải đánh đuổi quân Tầu xâm lăng để bảo toàn Lãnh Thổ và giữ vững nền Tự chủ.

Tổng Bí Thư Lê Duẫn đã phải thú nhận về những tội ác mà đảng CSVN đã làm cho Dân Tộc Việt Nam: “Chúng ta đánh là đánh cho Liên Xô và Tầu”, nghĩa là đảng cướp CSVN làm tay sai phục vụ cho đế quốc ngoại lai, từ Ý thức hệ đến những vũ khí giết người, để thực hiện cuộc xâm lăng đẫm máu trên Lãnh thổ và Lãnh hải Việt Nam.

Phục vụ ngoại lai để gây chiến tranh xâm lăng là hành động phản quốc. Việc phản quốc này Tiền nhân đã kết án nặng nề: “Một thước núi, một tấc đất của ta lẽ nào lại tự liệu vất bỏ được! Kẻ nào dám đem một thước núi, một tấc đất của Tổ Tiên giống nòi đđi làm mồi cho giặc thì kẻ đó phải bị trừng trị nặng!” (Vua Lê Thánh Tôn 1460-1497). CSVN ăn hối lộ để bán cả Biển, Đảo cho Tầu, bán loang lổ đất đai đồi núi, ven biển như hình da báo trên nội địa Việt Nam. Tiền nhân đã kết án và Lịch sử ghi lại cho hậu thế tội phản quốc bán nước của CSVN. Chúng ta ngày nay thi hành bản án mà Tiền nhân đã tuyên đọc dù quân phản quốc ở trong nước hay tìm cách lẩn trốn ra nước ngoài: khối 90 triệu dân quốc nội sẽ nghiền nát chúng, khối 5 triệu ngừời tỵ nạn ở nước ngoài sẽ moi chúng ra dù chúng chui rúc ở hầm lỗ nào đi nữa!

Chúng tôi bàn trong bài hôm nay hai điểm sau đây:
- Đâu là những tội phản quốc chính của đảng cướp CSVN đối với toàn Dân Tộc.
- CSVN đã sử dụng đám bầy tôi Hải ngoại nhằm xóa QUỐC HẬN 30/4 như thế nào.

Đâu là những tội phản quốc chính của đảng cướp CSVN đối với toàn Dân Tộc
1) HIỆP ĐỊNH CHIA ĐÔI ĐẤT NƯỚC
Chính Hồ Chí Minh manh tâm với Pháp để cắt đôi nước Việt Nam ra. Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã chỉ thị cho Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ không được ký vào Hiệp Định cắt đôi đất nước này. Đây là việc chia cắt Lãnh thổ để một nửa nước nằm dước quyền của Đế quốc Cộng sản Nga--Tầu. Làn sóng gần 1 triệu dân Miền Bắc bỏ nhà cửa ra đi vì chán ghét chế độ phi nhân bản Cộng sản. Nhưng chúng lại xảo trá cắt nghĩa rằng đây là những người Công giáo ra đi chứ không phải là dân chúng ghét Cộng sản! Thượng tọa Thích Tâm Châu ở Chù Đồng Đắc gần Phát Diệm cũng bỏ Chùa vào Miền Nam. Thượng tọa không phải là Công giáo!!! Chúng xảo trá để tránh tội trong Lịch sử.

2) TẾT MẬU THÂN ĐẪM MÁU DO CỘNG SẢN BẮC VIỆT GÂY RA
Theo Hiệp Định Geneva, thì Cộng sản phải rút về bên kia Vĩ Tuyến 17, nhưng Cộng sản Bắc Việt đã gian xảo để lại những Cơ sở tổ chức để sau này thành cái công cụ xâm lăng với tên là Mặt Trân Giải Phóng Miền Nam. Mặt Trân này do Cộng sản Bắc Việt đẻ ra , nhưng chúng tuyên truyền với dân và với Quốc tế đó là Tổ chức tự đứng lên chống lại Chính quyền Miền nam. Cuộc tấn công đẫm máu Mậu Thân 1968 là do chính Hồ chí Minh gửi quân lính Bắc Việt vào Miền Nam và chỉ huy cuộc xâm lăng. Nhưng ngày nay chúng tổ chức Kỷ niệm 50 năm Tết Mậu Thân và chỉ treo CỜ MẶT TRẬN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, đó là sự xảo trá trắng trợn để tránh trách nhiệm chôn sống người tại Miền Nam, nhất là ở Huế, do chính Hồ Chí Minh gửi quân vào giết lát dân. Chúng muốn Lịch sử ghi lại rằng dân Miền Nam giết nhau chứ không phải là Cộng sản Miền Bắc vào giết dân Miền Nam! Đồ đểu cáng!

3) QUỐC HẬN 30/04/1975
Một nửa nước dưới ách Cộng sản rồi, Miền Bắc vẫn tiếp tục đánh thuê cho Liên Xô và Tầu cộng để xâm lăng trọn Miền Nam. Quân đội và vũ khí Cộng sản tiếp tục xâm nhập ồ ạt vào Miền Nam qua ngả đường mòn Hồ Chí Minh dọc nước Lào đến Attopeu. Chiến trường Miền Nam do tham vọng của đế quốc Cộng sản, chúng đã giết chết bao dân Việt, tàn phá đời sống đang phát triển hài hòa dưới một Thể chế Cộng hòa Tam Quyền phân lập lấy người dân làm mục đích phục vụ. Sau khi Hiệp Định Paris để quân đội Mỹ rút ra khỏi Miền Nam, đảng cướp CSVN đã phản bội lại Hiệp Định và đã mở một cuộc tổng xâm lăng đẫm máu trên toàn lãnh thổ Miền Nam. “Cột đèn có chân, nó cũng ra đi để thoát ách Cộng sản tàn ác!”. Những đoàn người đổ ra biển, xuyên qua rừng sâu... để ra đi thoát ách Cộng sản. Họ ra đi mà bất chấp cái chết. Cuộc ra đi này đã làm cho trên 800'000 người chết! Cuộc ra đi liều mạng chứng tỏ sự phủ nhận Thể chế CSVN! Nhưng CSVN vẫn lẻo mép và ác độc tuyên truyền rằng đây là cuộc tỵ nạn Kinh tế! Họ coi ngày 30/04/1975 như một ngày Giải Phóng và tổ chức "Lễ Mừng Giải Phóng" để nhồi sọ những lớp trẻ nhằm tránh Lịch sử ghi lại ngày đó là ngày CSVN làm đầy tớ cho Cộng sản Quốc tế, nhuộm đỏ toàn lãnh thổ Việt Nam. Không những xuyên tạc tuyên truyền như vậy, họ còn sử dụng đám người Việt tay sai cho họ ở Hải ngoại để làm thế nào xóa cái NGÀY QUỐC HẬN LỊCH SỬ 30/4. Từ năm 2005, đám tay sai bưng bô này liên tục dùng mưu kế XÓA NGÀY QUỐC HẬN. Xin xem phần thứ hai của Bài này về việc CSVN sử dụng đám chính trị xôi thịt và bầy tôi Hải ngoại trong mưu đồ xóa ngày QUỐC HẬN 30/4 như thế nào.

4) TỘI PHẢN QUỐC BÁN NƯỚC CHO TẦU
CSVN đã bắt đầu bán nước cho Tầu từ thời Hồ Chí Minh/ Phạm Văn Đồng sinh thời. Công Hàm bán biển do Phạm Văn Đồng ký còn đó. Rồi tiếp theo là Lê Khả Phiêu bán biên giới phía Bắc. Toàn đảng cướp CSVN ngày nay, vì ham tiền hối lộ đã bán nát bét Lãnh thổ Việt Nam như hình da báo. Vũng Áng là tỉ dụ cụ thể. Tội bán nước này Trời không tha và Đất không dung. Biết rằng bản án "Chu di tam tộc" này đang treo trên đầu toàn đảng cướp CSVN, chúng tìm cách sử dụng những tay sai bưng bô để mở những Phong trào "Chống Tầu mà không chống Việt cộng". Làm thế nào chống Tầu lan tràn ở Việt Nam mà không chống đám phản quốc bán nước cho Tầu được. Phải diệt đám bán nước trước khi đuổi Tầu. Khi Lm.Nguyễn Văn Lý hay những Phong trào khác hô hào "Chống Tầu mà không nhắc đến một chữ chống CSVN bán nước", đó là muốn đánh lừa dân chúng, xạo láo rằng Hán chệt bành trướng xâm lăng, chứ không phải là CSVN bán nước vì ăn hối lộ. Những Phong trào này làm tay sai chạy tội cho CSVN trước Lịch sử.

CSVN đã sử dụng đám bầy tôi Hải ngoại nhằm xóa QUỐC HẬN 30/4 như thế nào?
Chủ đích của CSVN là Lịch sử Dân Tộc đừng ghi ngày 30/4/1975 là ngày QUỐC HẬN. Những Nhóm Chính trị xôi thịt Hải ngoại thực hiện ý đồ ấy của CSVN, những xạo láo nói với Cộng đồng Người Việt tỵ nạn VC rằng đây là khuynh hướng "Hòa Giải Hòa Hợp". Chúng tôi xin kể ra đây những mưu đồ xóa ngày Quốc Hận 30/4, thậm chí còn muốn bỏ "CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ" !
* Năm 2005, Việt Tân "ma" muốn tổ chức FREEDOM MARCH tại Hoa Thịnh Đốn đúng ngày Quốc Hận dưới danh nghĩa Tự do, nghĩa là “Giải Phóng” cho ăn nhịp với Lễ Mừng Giải Phóng của CSVN tại Quốc nội;
* Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích sau đó cũng hô hào đổi ngày Quốc Hận ra ngày Việt Nam để tránh Lịch sử ghi 30/4 NGÀY QUỐC HẬN
* Nghị sĩ Ngô Thanh Hải đã bắt tay với Thứ trưởng Việt Cộng Nguyễn Thanh Sơn và dùng mưu, cùng với Quốc Hội Gia Nã Đại, đổi ngày 30/4 thành ngày Hành Trình Tìm Tự Do cho hợp với hai chữ Giải Phóng của CSVN.
* Năm 2017, cũng mùa Tháng Tư Đen, một nhóm chính trị xôi thịt tự xưng là "Tập Hợp Dân Tộc Việt" đã lợi dụng hai Linh mục Phan Văn Lợi và Lm Nguyễn Văn Lý để phát động Phong trào Chính trị dưới chiêu bài "Chống xâm lăng Tầu (nhưng không chống CSVN bán nước cho Tầu)". Phong trào này muốn thay Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ bằng Cờ lễ hội ngũ sắc được gọi là "Cờ Quốc Tổ". Phong trào này được phát động đúng mùa Quốc Hận nhằm làm lu mờ đi lòng HẬN của Dân Tộc đối với CSVN. Chỉ chống Tầu mà không chống CSVN phản quốc bán nước cho Tầu, đó là việc muốn bắt tay với CSVN cho "Hòa Hợp Hòa Giải" giả tạo theo đúng "quy trình" của CSVN !
* Cũng năm này, Phong trào Trần Kiều Ngọc tại Úc châu cũng hô hào chống cái ác mà không chống cộng nữa.
* Năm nay 2018, một Phong trào đang kêu gọi trong Cộng đồng Tỵ nạn tại Calỉfornia nhằm "xóa bỏ hận thù" và bắt tay "Hòa Giải Hòa Hợp" với CSVN.
Đó là "quy trình" của CSVN nhằm xóa đi Lịch sử ghi lại tội ác đẫm máu đánh thuê cho Tầu và Liên xô trong việc nhuộm đỏ toàn Lãnh thổ mà NGÀY 30/4/1975 LÀ NGÀY GIỖ CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ CHẾT VÀ NGÀY GHI NHỚ MÃI MÃI CHO CÁC THẾ HỆ ĐẾN SAU!

Lời kết
CSVN và đám chính trị xôi thịt Hải ngoại luôn luôn uốn lưỡi xảo trá, sử dụng những chữ "Hòa Hợp Hòa Giải" Dân Tộc để làm lá chắn che đậy cho âm mưu đen tối của mình. Nhưng Cộng đồng Người Việt tỵ nạn CSVN nhìn thấy rõ âm mưu muốn bắt của đám chính trị xôi thịt với CSVN nhằm kéo dài Cơ chế CSVN trên đầu Dân Tộc. Nhóm chính trị xôi thịt này thường bô bô tự xưng rằng mình "Chống Cộng" để đánh phá những ai chống Cộng thực sự. Đây là thủ thuật đánh phá Cộng đồng chống Cộng thực sự để che lấp cho tội cấu kết với CSVN của đám chính trị xôi thịt mà thôi! Quá hèn!
Người dân Việt Nam ngày nay đã quá biết rõ cái bản chất XẢO TRÁ của lũ cướp CSVN. Người dân chờ đợi NGÀY HÀNH QUYẾT cái đảng cướp thô bỉ va tàn nhẫn này.
Lưới Trời lồng lộng, CSVN không thể gian xảo chạy những tội tầy đình của chúng, đã bắt Dân Tộc Việt Nam phải chịu trong nhiều chục năm trường:
* 90 triệu Đồng bào Quốc nội sẽ nghiền nát đám CSVN tội đồ này
* 5 triệu Người Việt tỵ nạn Cộng sản ở Hải ngoại sẽ truy lùng đám tội đồ CSVN lẩn trốn ra nước ngoài và vạch mặt đám chính trị xôi thịt Hải ngoại xảo trá muốn chạy tội phản quốc cho CSVN.
Ts NGUYỄN PHÚC LIÊN

http://bacaytruc.com


Làm sao quên được ngày quốc hận

Huỳnh Quốc Bình

LTG: Nhân thời điểm 30-4 năm nay, tôi xin quảng bá lại những ý tình liên quan đến đến ngày đen tối ấy mà tôi từng đề cập bàn bạc trước đây, để kính tặng đồng bào tôi, đặc biệt các bậc trưởng thượng, bậc đàn anh là những người đã từng hy sinh tuổi thanh xuân, xương máu, trong cuộc chiến đấu bảo vệ nền tự chủ cho miền Nam đến 30-4-75; và cuối cùng tiếp tục chiến đấu đến khi vào tù, để cho người khác đủ thì giờ lên phi cơ, xuống tàu di tản ra hải ngoại lánh nạn VC.
Bài viết này tôi cũng muốn đặc biệt tâm tình với quý linh mục, mục sư, giáo sĩ Việt Nam và cấp lãnh đạo những nơi được gọi là “Hội Thánh”. Nhân tiện tôi cũng muốn đặt câu hỏi với những con dân Chúa là: Chúng ta nên tuân phục một chính quyền thật sự vì dân như Kinh Thánh đã dạy, hay lại nghe lời giảng dạy của thành phần “giáo quyền” gồm những tay sợ VC hơn sợ Thiên Chúa, rồi muốn người khác cũng giống mình là tiếp tục cúi đầu tuân phục bọn côn đồ VC đã và đang cướp của, giết người và bán nước hại dân tại Việt Nam ngày nay?
Bài viết này cũng để nói rằng, không một tên cướp hay đảng cướp nào lại muốn mọi người nhớ mãi những hình ảnh đau thương, tang tóc mà bọn chúng tạo ra cho những nạn nhân của chúng. Đảng cướp VC cũng vậy, chúng rất muốn người dân miền Nam Việt Nam chóng quên đi ngày “Quốc Hận 30-4” để chúng an tâm tiếp tục đè đầu, cởi cổ những người thấp cổ, bé miệng đang nằm trong sự kiềm kẹp của chúng. Để làm được việc đó, chúng có cả khối đứa muối mặt ăn lương chế độ để viết bài ru ngủ những người nhẹ dạ.
Theo tôi, muốn thắng VC, muốn ngăn chận tội ác… người ta phải sử dụng cái đầu khôn ngoan, chứ không chỉ bằng những lời cầu nguyện suông, hoặc những câu nói thiêng liêng nửa vời, hay những lời chửi đổng, hoặc dựa vào bằng cấp tiến sĩ, bác sĩ, hoặc kỹ sư… là được. Và để thắng VC, những ai nhận mình là người Quốc Gia, không thể lâu lâu “trồi lên yêu nước” một lần hay vài lần trong một năm, hoặc chỉ duy nhất vào ngày Quốc Hận 30-4, còn những ngày tháng khác thì nghỉ khỏe, không làm gì cả. (HQB)

***

Đối với người Việt Quốc Gia, ngày 30-4-75 là một ngày đau thương, ngày miền Nam Việt Nam bị quân cộng sản Bắc Việt thôn tính trọn vẹn, ngày mà cả hai miền Nam Bắc hoàn toàn rơi vào ách thống trị bạo tàn của những kẻ vô thần. Tại hải ngoại, hằng năm, người Việt khắp nơi tổ chức ngày 30-4 trong tinh thần “Quốc Hận 30-4” để tưởng niệm biến cố lịch sử đau thương của dân tộc, hoặc tổ chức ngày “Quốc Hận Đối Kháng 30-4” để lên tiếng tranh đấu chống lại những bất công và sự đàn áp người dân một cách thô bạo và tội buôn dân bán nước mà chế độ VC áp đặt lên đất nước Việt Nam suốt 43 năm qua, nếu chỉ lấy móc điểm ngày 30-4-75.
Nói với người Tin Lành Việt Nam: Trong các sinh hoạt có tính cách đấu tranh, sinh hoạt cộng đồng, người ta thấy hầu hết những người nhận mình là “Đạo Tin Lành” thường không muốn tham dự vì ngại dính dấp đến chính trị. Đây cũng là sự chọn lựa rất bình thường trong phạm vi sinh hoạt tự do, dân chủ. Thế nhưng, những người phản ứng như thế cũng đều biết là: Nếu xét đến bổn phận căn bản của một người công dân bình thường, thì dù là ai, cũng phải làm tròn trách nhiệm của mình đối với quê hương, dân tộc trên trần gian này. Là một Cơ Đốc Nhân, tôi biết trong Thánh Kinh có dạy: Con dân Chúa là phải tuân phục những chính quyền biết lo cho hạnh phúc người dân, kính kẻ đáng kính, phục kẻ đáng phục (Rô-ma 13); phải lên tiếng bênh vực cho những người thấp cổ bé miệng (Châm-ngôn 31:8-9); kẻ nào làm chứng dối, nói tốt cho kẻ ác sẽ bị dân tộc rủa sả và gớm ghiếc, còn ai quở trách kẻ ác sẽ được đẹp lòng Chúa và phước hạnh sẽ giáng lên người đó (Châm-ngôn 24: 24-25); kẻ biết điều lành mà chẳng làm là phạm tội (Gia-cơ 4:17). “Ðừng sợ kẻ giết thân thể mà không giết được linh hồn..” (Ma-thi-ơ 10:28). Ngoài ra, tôi cũng biết rằng Chúa Jesus khi còn ở trần gian, Ngài từng cầu nguyện với Đức Chúa Trời rằng: “Con chẳng cầu Cha cất họ ra khỏi thế gian, nhưng con xin Cha gìn giữ họ cho khỏi điều ác” (Giăng 17:15)

Căn cứ vào những gì tôi đề cập, vậy thì câu hỏi được đặt ra cho người Tin Lành, là vào những ngày mọi người tưởng niệm Quốc Hận 30-4 thì Cơ Đốc Nhân phải phản ứng thế nào? Đây là một câu hỏi khá hóc búa liên quan đến một vấn đề hết sức gai gốc mà hàng giáo phẩm Tin Lành thường không muốn nhắc đến. Nếu có nhắc, cũng chỉ trong tinh thần khuyên mọi người nên tìm cách lãng quên, tha thứ cho kẻ thù; phải có tình yêu thương; phải nhịn nhục, nhân từ; người cộng sản cũng cần được cứu ra khỏi tội lỗi… Đây là những lời dạy đã được chép bàng bạc trong Thánh Kinh. Thế nhưng, thiết nghĩ chúng ta cũng cần áp dụng đúng đối tượng, đúng lúc và đúng nơi, chứ không thể nói chung chung hay nói một chiều. Chúng ta không thể nói hay dạy người khác những điều mà chính chúng ta không bao giờ áp dụng vào đời sống của mình, hoặc có khi còn làm ngược lại. Câu nói “người Tin Lành không làm chính trị…” chỉ là câu nói khôn ngoan của một số vị trong hàng lãnh đạo Tin Lành ngày xưa đã phản ứng khi khước từ hợp tác với Hồ Chí Minh và đảng VC mời gọi góp phần áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên đất nước Việt Nam lúc bấy giờ, chứ không phải đây là những lời bất di bất dịch của Thánh Kinh để chúng ta dựa vào đó mà né tránh trách nhiệm.

Ý nghĩa của sự tha thứ: Trước khi chúng ta đi sâu vào những điều có liên quan đến tiêu đề của bài viết. Chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa đích thực của hai chữ “tha thứ” để chúng ta thấy rõ những gì mình đang quan tâm. Trọn bộ Thánh Kinh, hai chữ “tha thứ” được nhắc đến ít nhất là 43 lần trong 37 trường hợp khác nhau. Ý nghĩa tha thứ trong Thánh Kinh được đề cập về sự tha thứ mà Thiên Chúa dành cho con người, và chính con người dành cho nhau. Tôi xin nói ngay: Tha thứ tức là bỏ qua chứ không phải vì khiếp nhược mà không dám nhắc đến, hoặc dung dưỡng những điều sai trái bằng những mỹ từ: tình yêu thương, lòng nhịn nhục, nhân từ, hay lấy câu Kinh Thánh “khôn như rắn, đơn sơ như chim bồ câu” để làm cái vỏ bọc cho sự né tránh trách nhiệm bằng lối giả hình mà Chúa Cứu Thế Jesus từng lên án những tập đoàn thầy thông giáo của Do Thái ngày xưa. Liên quan đến ý nghĩa “tha thứ”, Kinh thánh chép: “Hãy ở với nhau cách nhơn từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy. (Ê-phê-sô 4:32)

Những lời giảng dạy lạc điệu: Chúng ta thường nghe giảng dạy trong các Nhà Thờ là “hãy quên và tha thứ”, nhưng thực chất thì những ganh ghét, đố kỵ không phải hiếm thấy từ những người dạy ra điều đó tại các nhà thờ. Chúng ta cũng thường nghe một số người chủ trương và kêu gọi “quên quá khứ, xoá bỏ hận thù” nhưng cảnh người dân vô tội bị chế độ VC đàn áp cũng không hề thuyên giảm bên cạnh những tiếng kêu lạc điệu về những chủ trương nghe có vẻ hài hoà, đạo đức nửa vời này. Người ta tìm cách bao che tội lỗi của những kẻ gây ra bao nhiêu tội ác tại Việt Nam rằng: “kẻ thù của dân tộc Việt Nam là nạn nghèo đói và lạc hậu” và người ta kêu gọi chất xám hải ngoại về giúp nước, thế nhưng người ta không đủ công bằng và liêm sỉ để nhìn nhận nguyên nhân nào đã gây ra nạn nghèo đói và lạc hậu tại Việt Nam? Chính đảng cướp VC đã gây ra tình trạng tàn tệ đó.

Đừng bẻ cong lời Chúa: Chúa Cứu Thế Jesus từng khuyến cáo các môn đệ của Ngài rằng: “Các ngươi hãy giữ lấy mình. Nếu anh em ngươi đã phạm tội, hãy quở trách họ; và nếu họ ăn năn, thì hãy tha thứ. (Lu-ca 17:3). Áp dụng cách tha thứ, chúng ta thấy Chúa Cứu Thế Jesus dạy chúng ta là: Hãy giữ lấy chính bản thân mình, đừng phạm tội. Nếu biết anh em nào đã phạm tội, hãy quở trách họ, (Biết chắc và có bằng chứng là họ phạm tội, chứ không phải nghe những lời đồn đãi vu vơ) nếu người phạm tội biết ăn năn, thì hãy tha thứ. Ăn năn phải được hiểu là biết lỗi của mình và tỏ ra thống hối, từ bỏ những sai trái và quay lại với điều ngay, lẽ phải, chứ không phải chỉ “ăn năn” bằng cái miệng, còn hành động gian ác thì không chịu ngừng nghỉ. Chúa không dạy chúng ta là cứ làm tội, rồi sử dụng quyền lực, vây cánh để chểm chệ xét tội người khác. Chúa dạy đối với kẻ gây ra tội ác, phải lên tiếng tố cáo, quở trách họ. Và nếu những người phạm tội thật lòng ăn năn thì chúng ta mới tha thứ, chứ Chúa không dạy tha thứ cho những kẻ ngoan cố, hay dạy chúng ta ngu khờ trước sự gian manh của những con cáo già đội lốt cừu non.

Theo tôi, thay vì kêu gọi “quên và tha thứ” một cách chung chung, chúng ta cần tìm cách giúp đỡ nạn nhân của các loại tội ác, có một cuộc sống ổn định để bù đắp lại những ngày khốn nạn mà họ từng trải qua. Thay vì kêu gọi “quên quá khứ, xoá bỏ hận thù”, chúng ta cần tiếp tay để chấm dứt các tội ác, bất công, tàn bạo, được chế độ VC tiếp tục áp đặt lên những người dân vô tội. Nếu chúng ta không làm được những điều đó, mà chỉ biết hùng hồn dạy mọi người phải “quên và tha thứ” một cách thiếu thực tế, là đạo đức giả, là trốn tránh trách nhiệm, là lừa dối chính mình. Chỉ kêu gọi “quên quá khứ, xoá bỏ hận thù” mà không dám ngăn chận những nghịch lý đã và đang xảy ra tại Việt Nam là bất công, là dung dưỡng tội ác, là chiêu bài của những kẻ gian manh, là lối nguỵ biện của những kẻ mơ hồ về chủ nghĩa cộng sản, là hành động dối trá, chứ không phải đạo đức.

Những kỷ niệm không thể quên: Trong cuộc đời của mỗi chúng ta, ngoài những kỷ niệm đẹp, ai cũng có những kỷ niệm buồn không quên được. Người ta gọi đó là dấu ấn sâu đậm trong cuộc đời. Có người thời thơ ấu vì bị ngược đãi, hoặc chứng kiến cảnh tượng hãi hùng, đến khi về già vẫn còn nhớ như in trong trí, và mỗi khi gặp cảnh tương tự như thế thì tinh thần bị chấn động.

Có người lúc còn trẻ dại bị người lớn nhồi nhét vào đầu những hình ảnh tiêu cực không đúng sự thật, liên quan đến đấng sanh thành mà mình không được gần gũi. Khi lớn lên, dù nạn nhân có đủ bằng chứng là những gì mình biết trước đó là sai sự thật, nhưng vẫn không làm sao bôi xoá những điều đáng quên đã in đậm trong tâm trí của nạn nhân… Đó là lý do tại sao, trong ngành sư phạm người ta khuyến cáo các bậc thầy cô phải tránh tối đa để không vô ý viết sai trên bảng, trên sách, dù sau đó được lập tức sửa lại. Trong phạm vi gia đình, có những người con bị cha mẹ, anh em ruồng bỏ, hoặc những bậc cha mẹ bị các con đối xử tệ bạc… Dù họ tìm cách bỏ qua, không trách hờn, cố lãng quên, nhưng không dễ gì phai nhoà những hình ảnh phũ phàng mà họ từng chứng kiến. Trong tình yêu, có người bị người tình, người phối ngẫu phản bội, dù không chủ trương thù hằn, nhưng mỗi khi có ai vô tình hay cố ý nhắc đến, thì lòng họ quặn đau… Văn chương Việt Nam gọi đó là “vết thương lòng”. Trong sinh hoạt chính trị, xã hội, có người bị các chế độ độc tài đàn áp, giam cầm, tra tấn một cách vô cớ nhiều năm tháng, đến khi được tự do, dù không chủ trương báo oán những kẻ từng hành hạ mình, nhưng hễ có ai nhắc đến chuyện cũ là lòng căm phẫn của họ sống dậy…. Đây là phản ứng hết sức bình thường từ những con người bình thường ở trần gian này.
Làm sao có thể quên?  Một con người còn liêm sỉ và lòng tự trọng không thể quên được hình ảnh thân nhân của mình bị mang ra đấu tố, chôn sống trong cái gọi là cải cách ruộng đất năm 1954 tại miền Bắc, hoặc bị quân VC tàn sát trong biến cố tết Mậu Thân 1968. Làm sao mà quên được những năm tháng dài, bị hành hạ, bị tra tấn, bị đối xử như một con vật trong các nhà tù mà chế độ VC gọi là trại “cải tạo”. Làm sao mà quên được khi con em, chồng cha của họ bị giam cầm hằng chục năm trong tù, hay phải gục ngã ở những vùng rừng thiêng nước độc, trong khi nhà cửa bị tịch thu, tài sản bị chế độ VC cướp giựt một cách công khai, khiến cho họ phải sống lê la trên vỉa hè hay những vùng kinh tế mới dành cho những người của “chế độ cũ”.

Những người đàn bà Việt Nam có chồng bị tù, phải nuôi cha mẹ mình, cha mẹ chồng và đàn con dại, chịu những bất công ngược đãi của công an khu vực; sự tàn bạo, nhẫn tâm của những tên cai tù tại các trại giam chồng của họ, thì làm sao mà quên được? Làm sao những phụ nữ Việt Nam yếu đuối có thể quên được cảnh bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp trên đường vượt biên, vượt biển, vì không thể tiếp tục sống với chế độ VC độc tài? Làm sao những người con gái thời xuân sắc phải bấm bụng bán thân để nuôi đàn em nhỏ dại đang cần được no lòng khi cha mẹ bị cầm tù, có thể quên được những quá khứ tủi nhục đó? Làm sao những người được trưởng thành trong đau khổ, từng bị ngược đãi, khinh miệt, có thể quên được quá khứ đau thương của họ?

Tôi xin phép lạc đề một chút: Truyện danh nhân Trung Hoa có nhắc đến nhân vật Câu Tiễn trong điển tích “nằm gai nếm mật”. Nhân vật Câu Tiễn có mối thù chung của đất nước cần phải trả. Vì ông sợ mình hài lòng với địa vị và cuộc sống sung túc mà ông đang có, rồi ngày qua ngày lại quên đi “nợ nước, thù nhà” nên ông đã tự khắt khe với chính bản thân mình bằng cách ngày nào cũng vậy; trước khi ăn ông nếm mật đắng, khi ngủ thì nằm trên đống củi gai để dặn lòng mình không quên mối thù chung…

Tôi nhắc đến câu truyện của Câu Tiễn và thành ngữ “nằm gai nếm mật” không phải để kêu gọi người khác nuôi lòng hận thù, hay trả hận theo lẽ thông thường, nhưng tôi xin mọi người đừng vội quên tội ác của VC. Bằng chứng cho thấy, có nhiều người từng bị VC giam cầm tra tấn trong tù, từng làm nhục họ, từng cướp giật tài sản của họ và làm cho gia đình họ ly tán v.v… Nhưng khi được sống đời tự do, cơm no áo ấm, có chút địa vị hay danh hảo tại xứ người… Thì họ lại quên tội ác của VC ngày xưa và nay. Có người còn muối mặt quay về Việt Nam móc ngoặc là ăn với kẻ thù VC qua nhiều vỏ bọc khác nhau. Họ ngang nhiên ngồi chung bàn, ăn chung mâm với phường gian ác. Tại hải ngoại, có kẻ còn nhậu nhẹt với bọn VC, Việt gian, nhưng lúc nào cũng trân tráo hô hào chống cộng và “đấu tranh cho một Việt Nam tự do dân chủ” để lừa những người “không thích chuyện chính trị” hay thích được an thân và luôn làm thinh trước điều quấy.

Trí thức và thiêng liêng: Có kẻ nhận mình là “trí thức”, thích sử dụng ngòi bút của mình để bênh vực VC và Việt gian và còn có lời lẽ hay hành động xúc phạm Cờ Vàng, biểu tượng của người Quốc Gia chân chính. Thành phần này còn lên giọng thầy đời là khuyên người khác hãy “thức thời”; hoặc có nhận xét thiếu công bằng khi đồng hoá những bài viết mà bọn VC hay bọn tay sai của chúng chửi rủa những người Quốc Gia một cách tàn độc và bẩn thỉu, với những bài viết do người tử tế tố cáo tội ác VC và Việt gian, rồi cho rằng “người Quốc Gia chửi nhau”… Tôi cũng nhắc lại câu truyện này để muốn nói rằng: Người Việt Nam tỵ nạn VC cần xét lại vị trí của mình. Chúng ta là người tỵ nạn VC chứ không phải là thành phần “xấu xa” trong xã hội bỏ nước ra đi như bọn VC từng nhục mạ chúng ta. Chúng ta tìm cách vượt thoát khỏi Việt Nam là vì không thể sống chung với bọn VC gian ác. Xin đừng ai thờ ơ trước tình trạng của đất nước Việt Nam ngày nay. Xin đừng ai cố tình làm lu mờ ý nghĩa của ngày Quốc Hận 30-4. Xin đừng ai quên Tháng Tư Đen của đất nước Việt Nam vào năm 1975. Xin đừng ai xem việc tưởng niệm ngày đau thương của dân tộc là “làm chính trị”. Xin đừng ai thiêng liêng nửa vời để rồi tự mình đánh mất quê hương trần gian, mà Quê Hương Trên Trời cũng không vào được, chỉ vì bản chất đạo đức giả thay thiêng liêng nửa vời của mình.

Trở lại tiêu đề của bài viết: Chẳng những chúng ta không quên những đau thương mà người khác tạo ra, nhưng còn phải nhớ để dặn chính mình đừng bao giờ phạm những điều ấy. Nhắc đến những tội ác không phải để thù hằn, nhưng để giúp mọi người hiểu rõ sự thật và để thế hệ mai sau biết mà tránh. Cơ Đốc Nhân phải góp phần ngăn chận tội ác bằng những lời cầu nguyện và những hành động cụ thể. Cơ Đốc Nhân không thể hối lộ kẻ gian để được yên thân còn ai chết mặc ai. Cơ Đốc Nhân không thể làm chứng dối về những điều “thật nhưng không thật”, về những ưu đãi mà kẻ gian dành cho mình để mờ mắt người nhẹ dạ, che đậy những tội ác mà họ đối với anh em mình, với đồng bào mình. Cơ Đốc Nhân không cường điệu trong lời làm chứng, hay làm cho người khác hiểu sai giữa kịch tính, và ơn phước thật của Chúa…

Kết luận: Ngày nào những bất công còn, chúng ta còn nói đến những điều đó. Ngày nào nhà thờ, thánh đường, chùa chiền, thánh thất còn bị đóng cửa, bị cào sập, con dân Chúa hay đồng bào còn bị VC đàn áp thì ngày đó chúng ta còn kêu gọi thế giới can thiệp. Ngày nào đồng bào Việt Nam chúng ta còn sống trong cảnh đói nghèo và lạc hậu hoặc bị bỏ tù vì bày tỏ lòng yêu nước thì ngày đó chúng ta còn tranh đấu và còn nhớ đến tội ác của VC… nhưng không phải để thù hằn như đã nói. Chúng ta không nhớ để rủa sả, hay nhớ bằng cử chỉ hít hà, tắc lưởi theo kiểu giả hình, nhưng nhớ để góp phần chấm dứt những khổ đau tại Việt Nam. Vậy thì, nếu đồng bào ta, anh em ta vẫn còn bị chế độ VC đoạ đày thì chúng ta sẽ không “làm sao quên được”? Bằng mọi cách, chúng ta phải nhắc cho thế hệ con cháu chúng ta biết rõ ngày “Quốc Hận 30-4” là gì? Và tại sao chúng ta cần ghi nhớ ngày tang thương đó.
Huỳnh Quốc Bình
P.O. Box 20361, Salem, OR 97307, USA
(503) 949-8752
E-mail: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

 

Đăng ngày 27 tháng 04.2018