Cộng sản VN cống nạp thêm 19 ha đất cho Formosa


Toàn nhà chính của cty Formosa. Ảnh, chú thích: Đức Hùng

Bạn đọc Danlambao - Tỉnh Hà Tĩnh vừa chấp nhận “cống nạp” thêm cho Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh thêm 19 ha đất tại 2 xã Kỳ Phương và Kỳ Liên (Thị xã Kỳ Anh – Hà Tĩnh). Mục đích của việc “cống nạp” đất này nhằm để Formosa xây dựng khu nhà ở lâu dài tại đây.
Dự án xây dựng khu nhà ở lâu dài này được Formosa đầu tư khoảng 90 triệu USD. Quy mô gồm nhiều nhà cao tầng liền kề với khoảng 1.766 căn nhà, mỗi căn 2-3 phòng.
Theo một lãnh đạo Ban quản lý Khu kinh tế Hà Tĩnh (giấu tên) cho biết thì dự án này đã triển khai cách đây vài tháng tại xã Kỳ Liên. Tức là Formosa đã được chính quyền chấp nhận cho phép triển khai dự án này mặc cho thời điểm đó, nhân dân cả nước đang sôi sục xuống đường yêu cầu đóng cửa.
Hiện nay, chính quyền Hà Tĩnh vẫn đang đẩy nhanh, đẩy mạnh việc cướp đất của dân tại Kỳ Liên, Kỳ Phương để "cống nạp” đủ 19 ha đất cho Formosa xây dựng.
Formosa là nguyên nhân trực tiếp gây ra thảm họa môi trường biển tại 04 tỉnh miền trung. Hậu quả và di hại của thảm họa môi trường biển là vô cùng nặng nề và dài lâu đối với đất nước Việt Nam. Thế nhưng nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam không những quyết tâm bảo vệ mà còn cúi đầu để “cống nạp” thêm đất đai cho kẻ thù của nhân dân này. Phải chăng, không chỉ Formosa nhận lỗi, đảng nhận tiền, nhân dân nhận thảm họa mà hơn thế, nhà cầm quyền Việt Nam đang phải từng bước thực hiện Hiệp Ước Thành Đô 1990 – Sáp nhập Việt Nam vào Trung cộng vào năm 2020?

Bạn đọc Danlambao>

danlambaovn.blogspot.com


 Những ký ức không bao giờ cũ

Nhạc sĩ Tuấn Khanh
(viết từ Sài Gòn)

Một nữ bộ đội Bắc Việt trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968 tại miền Nam Việt Nam. Ảnh chụp 1/1/1968.
Một nữ bộ đội Bắc Việt trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968 tại miền Nam Việt Nam. Ảnh chụp 1/1/1968.    AFP photo

Đó là một ngày mùa xuân lạnh lẽo bất thường ở Huế. Mùa xuân 1968. Một người cảnh sát tên Dũng bất ngờ khi thấy những người lính đối phương cầm AK tràn khắp thành phố Huế. Cuộc tiến chiếm và bắt giữ rất nhiều thường dân và viên chức chính quyền thành phố đã diễn ra nhanh chóng trong vài ngày Tết, mà nhiều tài liệu sau này ghi lại, cho biết các thành phần Việt cộng nằm vùng đã âm thầm lên danh sách theo từng tổ, từng tuyến và từng khu vực. Tính bất ngờ khiến cho những người lính phía Bắc Việt nắm ưu thế ngay lập tức. Nhưng Dũng là một người khá may mắn trong phút đầu, vì ông được người nhà nhanh chóng đưa ra sau vườn, đào một cái hố nhỏ và núp ở dưới trong nhiều ngày.

Vào đêm 30 Tết, tức ngày 29/1/1968, khi mọi người dân tin vào lệnh hưu chiến được quân đội Bắc Việt ký kết với phía miền Nam Việt Nam và bắt đầu nghỉ ngơi, đốt pháo ăn Tết, thì rạng sáng mùng 1 tết, những tiếng súng đầu tiên hòa lẫn với tiếng pháo đã khởi đầu cho một sự kiện đẫm máu trong lịch sử chiến tranh Việt Nam: thảm sát Mậu Thân tại Huế.
Mỗi bên đều có ngôn ngữ riêng để nhắc lại giờ phút quan trọng này. Chính quyền Sài Gòn thì diễn đạt rằng Việt Cộng đã “phản bội lại hiệp ước đình chiến” 3 ngày Tết đã ký. Còn phía Hà Nội thì diễn giải rằng hành động đó, là “cướp thời cơ”.
Không chỉ có Huế. Tết Mậu Thân 1968 ghi dấu một cuộc tấn công bất ngờ và đồng loạt của quân đội Bắc Việt vào 25/44 tỉnh lỵ và thị trấn của phía miền Nam Việt Nam lúc đó. Vào sáng ngày mùng 1 Tết (30/1/1968),trên đài phát thanh quốc gia Saigon, cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố phía miền Bắc đã vi phạm việc ký kết hưu chiến trong dịp Tết, và ngay sau đó tuyên bố hủy bỏ lệnh ngưng bắn của phía Việt Nam Cộng Hòa để chính thức mở các cuộc phản công.

Cuộc chiến này, do sự hỗn loạn về truyền thông mà nhiều năm sau, người ta mới có được những số liệu tương đối chính xác. Vào khoảng 3 giờ 40 sáng ngày 30/1, những tiếng súng pháo cối từ phía núi nã vào thành phố Huế, chính là hiệu lệnh cho khoảng 80.000 binh lính chính quy Bắc Việt và quân nằm vùng đã tràn vào kinh đô cổ kính của Việt Nam, nơi có khoảng 140.000 dân sinh sống ở đó.
Lực lượng tương quan được xem là bất cân xứng, vì thuận theo hiệp ước đình chiến ngày Tết, Huế lúc đó - được sách "The Tet Offensive: A Concise History and Abandoning Vietnam" ghi lại – chỉ có khoảng 200 lính Mỹ và các nhân viên người Úc thuộc sư đoàn 1 đồn trú ở đó, cùng một số cảnh sát và binh lính địa phương không đáng kể.
Suốt trong nhiều ngày, người nhà của ông Dũng đã kinh hoàng chứng kiến các vụ xử bắn ngay trước hiên nhà mình, được gọi là “trừng trị bọn phản cách mạng”, mà trong đó có cả những thường dân không hề biết sử dụng vũ khí. Hàng loạt các vụ bắt và đem đi mà người ta không biết là về đâu. Mùng 7, là ngày diễn ra rất nhiều các vụ bắt bớ mang đi mất tích. Khiến rất nhiều gia đình ở Huế, cho đến tận hôm nay vẫn chọn ngày mùng 7 Tết để làm giỗ chung cho người thân của mình.
Phía trước nhà ông Dũng là một khoảng ruộng. Tiếng súng nổ giật bắn thỉnh thoảng từ đó vang lên, như báo hiệu cho những người sống quanh đó rằng đã có ai đó bị hành hình, chôn vội… mà không có tòa án hay một tội danh đúng. Khắp nơi trong thành phố như vậy.

Sau 25 ngày Huế bị tạm chiếm bởi quân đội Bắc Việt, người ta tìm thấy nhiều hố chôn người tập thể, nhiều nơi xác người chôn sống. Các con số tổng kết tại Huế cho thấy các nạn nhân bị thảm sát được tìm thấy tại trường tiểu học Gia Hội, chùa Therevada, Bãi dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng Viện, khu vực phía Tây Huế gần lăng Tự Ðức và lăng Ðồng Khánh, cầu An Ninh Thượng, cửa Ðông Ba, trường An Ninh Hạ, trường Văn Chí, Chợ Thông, Lang Xá Cồn, gần lăng Gia Long, gần chùa Tường Vân, Ðông Gi (Di), Vinh Thái, Thuỷ Thanh, Lương Viện, Phù Lương, Phú Xuân (Phú Thứ), Thương Hòa, Vinh Hưng, Khe Ðá Mài... tất cả 22 địa điểm, tìm thấy được tổng cộng 2326 sọ người trong số 6.000 nạn nhân thuộc tỉnh Thừa Thiên và Huế đã được thân nhân xác nhận là chết hoặc bị bắt đi thủ tiêu, mất tích...

Mvd613258_1-400.jpg
Những lính thủy quân lục chiến Mỹ bị kẹt trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu thân của bộ đội Bắc việt ở Huế. (Ảnh chụp hôm 6/2/1968).

Không chỉ có người Việt Nam giết người Việt Nam. Trong quyển Tet, của nhà báo Don Oberdorfer, xuất bản năm 1971, cho biết có những người như Stephen Miller (28 tuổi) nhân viên Sở ngoại vụ và thông tin Hoa Kỳ bị trói mang ra sau một chủng viện Công giáo để hành hình. Các bác sĩ người Đức Raimund Discher, Alois Alteköster, và Horst-Günther Krainick cùng vợ của ông với công việc là giảng dạy về y tế cũng bị dẫn đi. Sau khi quân đội miền Nam Việt Nam tái chiếm Huế, người ta tìm thấy xác những người này bị chôn ở một khu ruộng gần đó. Một tài liệu tiết lộ vào năm 2011, còn cho biết rằng người ta tìm thấy các móng tay của người vợ ông Krainick bị gãy và đầy đất cát, có nghĩa bà đã bị chôn sống và tuyệt vọng tìm cách thoát ra. Hai linh mục người Pháp là Urban và Guy cũng không tránh khỏi thảm nạn: ông Urban thì bị trói và chôn sống. Còn ông Guy thì may mắn hơn với một viên đạn vào sau gáy.
Khi ông Dũng đang trốn trong cái hố của mình, được phủ đầy lá cây lên trên, vô tình ông nghe được người nhà nói với nhau rằng vợ của ông đang vào bệnh viện do đau đẻ sớm. Sốt ruột, ông Dũng tìm cách lẻn đến bệnh viện để nhìn vợ và con, nhưng khi vừa ra khỏi cổng bệnh viện, ông đã bị một nhóm người ập đến giải đi.
Mùng 13, khi có ai đó nói rằng ông Dũng đã bị bắn, xác chôn ở một khu ruộng gần nhà, mẹ ông Dũng cùng gia đình chạy đến để đào, tìm xác. Nhưng đó là một khu ruộng lớn, chỉ nhìn thôi cũng có cảm giác kiệt sức. Điều kỳ diệu đã xảy ra khi mọi người đã hoàn toàn tuyệt vọng. Mẹ của ông Dũng đã tung đồng xu lên, cầu nguyện rằng nếu ông chết và bị vùi thây nơi đây, hãy để đồng xu rơi xuống nơi đó. Khi mọi người đến nơi đồng xu rơi, đào lên, thì thấy ông nằm dưới xác một người đồng sự của ông. Cả hai đã chết, không biết là bị bắn hay bị chôn sống. Và cũng vì vậy, đám giỗ của ông Dũng hàng năm được tổ chức vào mùng 13 Tết, một ngày vu vơ tạm bợ nào đó, như hàng ngàn gia đình ở Huế đã cắn răng chọn cho người thân của mình, sau vụ thảm sát.

Tôi ngồi nghe câu chuyện của ông Dũng, từ một người thân của ông. Đó là một người đàn ông năm nay đã gần 70 tuổi. Giọng kể chậm rãi, trầm trầm, giống như câu chuyện đọc trước giờ đi ngủ cho trẻ con. Chỉ khác rằng nó sẽ khiến bạn đi vào những cơn ác mộng không bao giờ chấm dứt, vì đó là sự man rợ mà những người Việt đã hành động trên quê hương mình, nhân danh những nấc thang lên thiên đường từ Nga Sô hay Trung Cộng.

Mỗi năm, Tết về, tôi vẫn có thói quen hay tìm hỏi những người đã sống, đã biết, đã chứng kiến thảm sát Mậu Thân, như một cách mặc niệm cho số phận người Việt Nam bị chà đạp bởi hận thù và những lý tưởng xa vời với tình yêu quê hương và dân tộc. Tôi để avatar của mình trên Facebook không màu, như một cách để tang cho những con người đã vô vọng trước họng súng và sự điên cuồng của đồng loại cùng màu da, tiếng nói. Đơn giản vì tôi thương dân tộc mình, và tôi yêu sự thật.
Trịnh Công Sơn đã viết trong tạp Ca khúc Da vàng “Xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng Trên nóc nhà thành phố, trên những đường quanh co”. Không có gì mô tả chân thực như bài hát đó. Lịch sử Việt Nam hôm nay cũng bị bẻ quanh co, quanh những xác người vô tội như vậy, bởi những người cầm quyền. Suốt nhiều năm, những người cộng sản miền Bắc vẫn vỗ tay và gọi đó là một chiến thắng oanh liệt, còn một trong những trí thức nổi tiếng đi trong vũng máu thảm sát 1968 đó, thì nói một cách kiêu hãnh trên loạt phim tài liệu "Vietnam: A History" của Stanley Karnow rằng “cần thì cũng phải giết, vì đó là những con rắn độc”. Nhưng không có đạo lý nào công nhận loại chiến thắng chấp nhận dẫm đạp lên sinh mạng của nhân dân mình. Đó chỉ là một tên gọi khác của thứ tội ác ghê tởm.

Những mùa xuân thật buồn từ đó. Khi tôi đến Huế. Tôi lần bước đến sân vận động, ra trường Gia Hội cũ… và nghĩ về những ngày không bao giờ cũ. Mãi mãi không bao giờ cũ. Nếu người cầm quyền có lòng tự trọng và nhân cách, họ sẽ ghi chép sự thật và được mai sau nhìn nhận. Còn nếu không, chính nhân dân sẽ chép lại, lưu truyền ngàn đời bằng tất cả lòng khinh khi và oán hận.

Tuấn Khanh
Sài Gòn Xuân Đinh Dậu 2017

https://nhacsituankhanh.wordpress.com

http://www.rfa.org/vietnamese


Mặt thật hàng tướng Dương Văn Minh

Lữ Giang

Mỗi lần 30 tháng 4 đến, người Việt tỵ nạn lại nhắc đến Dương Văn Minh và gọi ông là “Hàng Tướng”. Nhưng hành tung và vai trò của ông trong cuộc chiến VN vẫn còn nhiều bí ẩn. Nhiều câu hỏi đã được đặt ra và có một vài tranh luận xung quanh hàng tướng này.
Hôm đám tang Tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Chung, cựu dân biểu VNCH, có đọc một bài điếu văn, nói rằng “Đ3198490776_4597e4ec3c_o3ây là cái chết lần thứ nhì của một người lính suốt đời lo cho đất nước”. Tuy nhiên, qua bài điếu văn đó, người ta nhận thấy Nguyễn Hữu Chung muốn mượn cái chết của Tướng Dương Văn Minh để nói về mình hơn là nói về Tướng Minh. Đó là cái bệnh trầm kha của nhiều “lãnh tụ” quốc gia. Hôm 30 tháng tư vừa qua, nhân kỹ niệm 30 năm mất miền Nam, Đại Tá Vũ Văn Lộc, bút hiệu Giao Chỉ, có viết bài “Tưởng Niệm Big Minh, Một Vòng Hoa Cho Niên Trưởng”, nhưng nội dung bài này cũng chỉ để nói lên tình “huynh đệ chi binh” mà thôi.
Website của Giao Điểm, [một diễn đàn chống “Giatô” và kêu gọi Phật giáo Ấn Quang “hồi tà”, trở về với Giáo Hội Phật Giáo quốc doanh,] đã phổ biến bài “Cái chết của một Hàng Tướng: Dương Văn Minh (1916-2001)” của Vũ Ngự Chiêu, tức Chánh Đạo, tức Nguyên Vũ, nói là trích trong “Ngàn Năm Soi Mặt, tâm bút”, để bênh vực cho Tướng Dương Văn Minh. Trong nỗ lực bôi đen “Giatô”, Vũ ngư. Chiêu viết rằng ông Lâm Lễ Trinh đã “làm án tử hình Ba Cụt hầu chuẩn bị bước lên chức Bộ trưởng Nội vụ – một bản án tiêu biểu cho chế độ giáo phiệt của anh em ông Diệm” (tr. 137), mặc dù Ba Cụt đã chịu đầu hàng. Ở cuối bài, Vũ Ngự Chiêu đã kết kuận như sau: “Hậu thế sẽ có dịp thẩm giá Tướng Minh một cách trung thực hơn. Vì Tướng Minh, giống như ông Trần Văn Hương, chỉ là những tác nhân phụ thuộc, ở buổi “hết quan, tàn quân.” Nhóm Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, v.. v… mới là những tội nhân chính của lịch sử.”
Trong các tướng lãnh tham gia chính trường tại miền Nam Việt Nam, có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất là Tướng Dương Văn Minh.
Biết Dương Văn Minh không hiểu biết gì về chính trị và thủ đoạn chính trị, thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính, lại mắc bệnh tham lam, nên Hoa Kỳ đã biến ông thành một một công cụ đầy oan nghiệt để thực hiện chính sách của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn rồi loại bỏ. Có thể coi cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ. Người Việt ai cũng thuộc câu “Tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng”, nhưng mặc đầu đã chiến đấu với Mỹ trong 20 năm và đã ở trên đất Mỹ 34 năm, đa số người Việt chống Cộng không biết Mỹ và địch đang làm gì, cứ suy nghĩ và hành động theo cảm tính, nên đấu tranh đã 34 năm mà vẫn chưa thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Vì thế, hôm nay nhân kỷ niệm ngày mất nước, chúng tôi xin trình bày tóm lược về một số bí ẩn và tai tiếng chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh với ước mong mọi người có thể nhìn vào đó tìm ra bài học lịch sử khi tiếp tục đấu tranh.

* Vài nét về Tướng Big Minh
Dương Văn Minh sinh ngày 16.2.1916 tại Vĩnh Long (có tài liệu nói sinh tại Mỹ Tho). Sỡ dĩ ông có biệt danh là Big Minh vì cao 6 feet và nặng 200 pounds, và được gọi như thế để khỏi lẫn lộn với Tướng Trần Văn Minh.
Ông có vợ và ba con: hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm hiện ở Pháp, và người con gái là Dương Mai, có chồng là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài, hiện ở Pasadena, California.
Lúc nhỏ ông theo học trường Chasseloup Laubat ở Saigon và đỗ tú tài II vào năm 1938 cùng một lớp với Tướng Trần Văn Đôn.
Năm 1940, ông Minh gia nhập quân đội Pháp, tốt nghiệp khóa Hạ sĩ quan trừ bi. Thủ Dầu Một với cấp bậc Aspirant tức là Chuẩn Úy.
Năm 1945, khi Nhật đảo chánh Pháp, Dương Văn Minh đang phục vụ tại Cap’s Jacques (Vũng Tàu) và bi. Nhật cầm tù. Khi Pháp trở lại, ông trở lại phục vụ trong quân đội Pháp năm 1946 với cấp bậc Thiếu Úy.
Năm 1952 ông mang cấp bậc Đại Úy và phục vụ tại Phủ Thủ Hiến Nam Phần. Từ Năm 1953 – 1954, ông được thăng Thiếu Tá rồi Trung Tá và phục vụ tại Tổng Tham Mưu Quân Khu 1. Năm 1954 – 1955 ông là Chỉ Huy Trưởng Phân Khu Saigon.
Dương Văn Minh là cháu của Nguyễn Ngọc Thợ Khi ông Diệm về chấp chánh, ông Nguyễn Ngọc Thơ được mời làm Bộ Trưởng Nội Vụ, đã đề cư? Dương Văn Minh chỉ huy huy lực lượng bảo vệ Saigon. Ngày 3.5.1955, Dương Văn Minh được thăng Đại Tá và giữ chức Quân Trấn Trưởng Saigon.
dvmvanguyenngoctho
Dương Văn Minh Nguyễn Ngọc Thơ

Người đầu tiên đã giúp ông Diệm chống lại các giáo phái không phải là Đại Tá Dương Văn Minh mà Đại Tá Dương Văn Đức.
Ngày 5.6.1955, Đại Tá Đức được cử chỉ huy Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng bình định miền Tây Nam Phần. Ông cho quân tiến chiếm Cái Vồn (Cần Thơ), phá tan đại bản doanh của Tướng Trần Văn Soái. Ngày 29.6.1955 ông tiến vào núi Ba Chúc, tấn công lực lượng của Tướng Lê Quang Vinh, tức Ba Cụt.
Ngày 21.9.1955, với tư cách Quân Trấn Trưởng Saigon, Đại Tá Dương Văn Minh được cử làm Chỉ Huy Trưởng Chiến Dịch Hoàng Diệu, mở cuộc hành quân truy kích tàn quân Bình Xuyên tại Rừng Sát. Trung tá Nguyễn Khánh làm Chỉ Huy Phó và Thiếu Tá Nguyễn Hữu Hạnh làm Tham Mưu Trưởng.. Sau khi Chiến Dịch Hoàng Diệu chấm dứt, ngày 6.11.1955, ông Diệm cho tổ chức biểu tình hoan hô các chiến sĩ Rừng Sát trở về. Đại Tá Dương Văn Minh được thăng Thiếu Tướng. (Có tài liệu nói Dương Văn Minh được thăng Thiếu Tướng ngày 23.10.1955).
Trong thời gian ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Tỉnh Trưởng các tỉnh Cần Thơ, Long Xuyên và Mỹ Tho, Ba Cụt đã mưu sát ông đến 6 lần, nhưng ông vẫn thoát được. Để đối lại, ông Nguyễn Ngọc Thơ cũng đã cho mở các cuộc hành quân để truy kích Ba Cụt, nhưng không bắt được. Do đó, khi nghe ông Ngô Đình Nhu hỏi ý kiến về việc dẹp loạn Trần Văn Soái và Ba Cụt ở miền Tây, ông xin lãnh trách nhiệm ngay. Đây là một cơ hội tốt giúp ông thanh toán một kẻ thù luôn theo đuổi ông. Ông xin xử dụng Tướng Dương Văn Minh vào công tác này. Vì thế, ngày 29.12.1955, ông Diệm đã ra lệnh chấm dứt chiến dịch Đinh Tiên Hoàng do Đại Tá Dương Văn Đức chỉ huy và cho Đại Tá Đức lên Thiếu Tướng. Tướng Đức tỏ vẽ bất bình về chuyện chấm dứt công tác một cách đột ngột này.
Do đó, ngày 10.6.1956, ông Diệm phải cử Tướng Đức đi làm Đại Sứ tại Nam Hàn.
Rất hận về chuyện ông Nguyễn Ngọc Thơ đưa Tướng Dương Văn Minh xuống cướp chỗ của mình, khi tham gia cuộc chỉnh lý của Tướng Nguyễn Khánh ngày 30.1.1964 lật đô? Dương Văn Minh, Tướng Đức đã đi tìm ông Nguyễn Ngọc Thơ, lúc đó là Thủ Tướng Chính Phủ, kéo ra và đánh mấy bớp tai trước mặt mọi người!
Mặc dầu Dương Văn Minh đang bị điều tra về việc biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bảy Viễn, ngày 1.1.1956, ông Diệm đã cư? Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Dịch Nguyễn Huệ bình định miền Tây. Ngày 13.4.1955 Tướng Ba Cụt đã bị bắt ở Chắc Cá Đao, cách Long Xuyên 15 cây số và bi. Tòa Án Quân Sự tuyên án tử hình. Sáng 13.7.1956, lúc 5 giờ 40 sáng, Tướng Ba Cụt đã bị hành quyết tại nghĩa địa ở đường Hoa Bình, Cần Thợ
Trong cuộc phỏng ván ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y, lúc đó là Tỉnh Trưởng Chợ Lớn, cho biết sau khi xử bắn và chôn Ba Cụt xong, Nguyễn Văn Nhung có về gặp ông và cho ông biết Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho anh ta đào xác Ba Cụt lên đem đi thiêu rồi lấy tro rải xuống sông Cửu Long, để tay chân bộ hạ của Ba Cụt không lấy xác ông ta đem về lập đền thờ. Nhưng có nhân chứng khác cho biết Nguyễn Văn Nhung đã đào xác Ba Cụt lên, văm nhỏ rồi bỏ vào bao bố đem rải xuống sông chứ không hề thiêu.
Trong cuốn hồi ký “VN máu lửa quê hương tôi” Đỗ Mậu phịa rằng “vì ông Diệm nhiều lần dụ dỗ Lê Quang Vinh theo đạo Thiên Chúa mà Lê Quang Vinh nằng nặc không theo. Nếu theo đạo Thiên Chúa thì Lê Quang Vinh sẽ được rửa tội trong một buổi lễ long trọng tại nhà thờ Đức Bà Saigon và sẽ được trọng thưởng, và tất nhiên sẽ được tha mạng.” (trang 124).
Ngày 31.5.1956, Chiến Dịch Nguyễn Huệ kết thúc. Ông Diệm lại cử Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu bình định các tỉnh Tiền Giang và Hậu Giang. Ngày 29.8.1956 ông Diệm cử Tướng Minh làm Tổng Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng, chỉ huy Phân Khu Saigon.Chợ Lớn và tiếp tục chỉ huy Chiến Dịch Thoại Ngọc Hầu bình định miền Tây. Ngày 30.10.1956, chiến dịch này kết thúc với kết quả 441 bị tử trận, 948 về quy thuận, 1169 bị bắt và hơn 1.000 súng bị tịch thụ
Ngày 1.2.1957 Dương Văn Minh được thăng Trung Tướng và giữ chức Chỉ Huy Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Chức Tổng Thư Ký Thường Trực Quốc Phòng được trao lại cho Tướng Dương Văn Đức mới đi học khóa chỉ huy và tham mưu ở Mỹ về. (Khi Tướng Đức xin đi Pháp, chức này lại được trao cho Tướng Nguyễn Khánh). Tướng Minh cũng được gởi qua Mỹ học khóa chỉ huy và tham mưu tại ỤS. Command and General Staff College ở Fort Leavenworth thuộc bang Kansas.
Đầu năm 1960, cơ quan tình báo khám phá ra Tướng Dương Văn Minh đã liên lạc với Hà Nội qua người em là Thiếu Tá VC Dương Văn Nhựt, nên Tướng Minh không được tin dùng nữa (chúng tôi sẽ tường thuật sau). Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã cư? Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu mới từ Hoa Kỳ về làm Tham Mưu Trưởng Bộ Tư Lệnh Hành Quân với nhiệm vụ theo dõi và kiểm soát Tướng Minh.
Cuối năm 1962 Tổng Thống Diệm quyết định giải tán Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”. Trung Tướng Trần Văn Đôn, Tư Lệnh Vùng I, được cử làm Tư Lệnh Lục Quân, một chức vụ mới đặt để thay thế Bộ Tư Lệnh Hành Quân.
minhmap
Lúc đầu, Tướng Harking tỏ vẻ bất bình về chuyện Tướng Minh bị hạ tầng công tác. Ông ta nghĩ rằng ông Diệm sơ. Tướng Minh làm đảo chánh nên đã hành động như vậy. Nhưng sau khi biết được Tướng Minh có liên lạc với VC, cơ quan CIA cũng đồng ý về biện pháp này.
Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm, nên khi muốn lật đổ ông Diệm, CIA quyết định xử dụng Tướng Minh. Nhưng sau đó chỉ cho Tướng Minh làm Quốc Trưởng 3 tháng.
Ngày 30.1.1964, theo sự sắp xếp của CIA, Tướng Nguyễn Khánh làm “chỉnh lý” xúc các tướng đảo chánh và biến Dương Văn Minh thành Quốc Trưởng bù nhìn.
Ngày 24.10.1964, Nguyễn Khánh đưa ông Phan Khắc Sửu lên làm Quốc Trưởng thay Dương Văn Minh. Ngày 24.11.1964, ông Sửu thăng cho cả Nguyễn Khánh lẫn Dương Văn Minh lên Đại Tướng. Ngày 20.12.1964, Nguyễn Khánh bắt Dương Văn Minh đi lưu vong, làm Đại Sứ VNCH tại Thái Lan. Mãi đến năm 1968, khi ông Trần Văn Hương lên làm Thủ Tướng, Dương Văn Minh mới được trở về VN. Ông đã đến Saigon ngày 5.10.1968.
Sau đây là một số bí ẩn chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh.

VỤ BIỂN THỦ MỘT THÙNG PHUY VÀNG
Trong cuốn “Việt Nam một trời tâm sự”, Tướng Nguyễn Chánh Thi có kể lại:
Sáng ngày thứ 4, một toán thuyền và độ vài trăm người có súng đi ra với nhiều lá cờ trắng xin đầu hàng. Tiếp theo là một chiếc tàu chở ông Hồ Hữu Tường và ông Trần Văn Ân, cố vấn của Lê Văn Viễn ra điều đình. Tướng Thi kể tiếp: “Trong toán này có Thiếu Tá Tư Nhỏ trước kia ở Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ theo Bình Xuyên vì y là con rễ của Bảy Viễn. “Tư Nhỏ ra đầu hàng và tình nguyện đi chỉ chỗ vàng bạc chôn giấu của Bảy Viễn. Hắn ta nói: “- Trước đây một toán Bình Xuyên 8 người cùng chiếc du thuyền của Bảy Viễn chở 6 thùng 200 lít đựng bạc và một thùng đựng vàng, hột xoàn đem đi chôn giấu. Khi chôn xong rồi thì 8 người ấy đều bị giết ngay và lấp xuống ở gần đó. “Khi tình hình ở đây được hoàn toàn yên ổn, tôi được quan sát tận mắt sự đào hầm giấu tiền và các bộ mặt căng thẳng của Bộ Tư Lệnh của Đại Tá Dương Văn Minh và Trung Tá Nguyễn Khánh mà đâm ra hoài nghi. “Trung Tá Nguyễn Khánh lúc đó chơi trò “cao bồi”, hai tay cầm hai khẩu súng lục, miệng nói: Cấm không ai được đến gần đây cả! “Tiền!” Thật là khó coi? Chán mắt! “Tôi lạnh lùng cho chiếc tàu của tôi trở về vị trí đóng quân, trong lòng tôi suy nghĩ miên man về thái độ cử chỉ của bọn họ. Tin ít mà ngờ nhiều.” [1]
Câu chuyện về tài sản của Bình Xuyên được Tướng Thi kể lại có nhiều điểm khác với câu chuyện do Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát Quốc Gia, tường thuật lại dưới đây. Vì thế, một câu hỏi đã được đặt ra: Phải chăng đây là hai số tiền và vàng khác nhau? Chúng tôi tin rằng hai số tiền và vàng này chỉ là một, nhưng Tướng Thi chỉ được nghe nói hay nhìn thoáng qua nên không biết chính xác, còn Đại Tá Y là người đứng ra chỉ huy việc truy tìm số tài sản này nên câu chuyện được ông kể lại đầy đủ và chính xác hơn. Về sau, ông Diệm cũng chỉ ra lệnh điều tra về số tiền và vàng mà Đại Tá Y đã tìm được, chứ không nói gì đến số tiền và vàng mà Tướng Thi đã kể.
Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã tường thuật như sau: Lúc đó ông là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chợ Lớn, chỉ huy Tiểu Đoàn 184. Vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Các nhân viên này thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông đã cho thợ lặn xuống tìm nhưng không thấy. Nhân viên Phòng 2 tiếp tục phỏng vấn, người này quả quyết nơi anh ta làm dấu đúng là nơi đã nhận 2 thùng phuy xuống. Thấy thái độ quả quyết của anh này, ông cho thợ lặn xuống mò một lần nữa, nhưng trong một phạm vi rộng hơn. Quả nhiên, thợ lặn đã vớt được hai thùng này cách xa nơi đánh dấu khoảng 100 thước, vì bị nước cuốn trôi đi. Đây là thứ thùng phuy đựng dầu xăng loại 200 lít. Công cuộc kiểm tra cho thấy một thùng đựng bạc giấy, còn một thùng đựng vàng. Bạc giấy toàn là loại 500$, được gói trong những bao nilon nhỏ, có nhiều bao bị nước thấm nước. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Tướng Nguyễn Khánh, lúc đó là Trung Tá Chỉ Huy Phó của Đại Tá Minh, cho biết số vàng này khi giao nạp đã được bỏ vào trong hai cái rương, nhưng rồi sau đó không còn nghe Dương Văn Minh nói gì về số vàng này.
Ông Diệm đã ra lệnh cho Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, mở cuộc điều tra vụ này.
Ông Huỳnh Văn Lang, lúc đó là Bí Thư Liên Kỳ của Đảng Cần Lao và Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái, cho biết ông Lâm Lễ Trinh đã tiết lộ rằng khi được hỏi về số vàng này, Tướng Minh đã sừng sộ và giận dữ, nói rằng ông Diệm là người bội bạc, ông đã giúp ông Diệm đánh dẹp Bình Xuyên mà còn hỏi cái gì. Ông Lang cũng cho biết ông có được đọc bản báo cáo hai trang của Đại Tá Mai Hữu Xuân. Đại Tá Xuân chỉ xác nhận số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh cất giữ và đề nghị nên đem ra chia nhau! [2]
Ông Cao Xuân Vỹ cho biết khi ông Nguyễn Ngọc Thơ đề nghị cho Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Địch Đinh Tiên Hoàng để bắt Ba Cụt, ông Diệm đã nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó số vàng đó đi cho yên!”

CHỨA CHẤP GIÁN ĐIỆP VIỆT CỘNG
Anh Nguyễn Tư Thái, tự là Thái Đen, Phụ Tá Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt, cho biết vào đầu năm 1960, nhân viên của Đoàn thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh, ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra. Những người bình thường không ai làm như vậy. Một hôm, đợi anh ta ra khỏi nhà Dương Văn Minh một khoảng xa, nhân viên tình báo liền bắt đẩy anh ta lên xe và đem về thẩm vấn. Lúc đầu anh ta nói anh ta chỉ là người đến dạy học cho các con của Tướng Minh. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc thẩm vấn khéo léo, anh ta nhìn nhận anh ta là một ủy viên của Huyện Ủy Thủ Đức, được phái đến gặp Dương Văn Minh để lấy tin tức. Anh này đã bị giam giữ luôn, nhưng Dương Văn Minh không hay biết gì cả. Sau vụ này, Đoàn Công Tác Đặc Biệt và Tổng Nha Cảnh Sát đã bố trí thường trực chung quanh nhà Dương Văn Minh, theo dõi từng bước đi của những người ra vào nhà ông, quay phim và chụp hình. Điện thoại của nhà ông cũng bị nghe lén. Khoảng tháng 3 năm 1960, có một người có mặt mày và hình dáng rất gióng Dương Văn Minh, đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu Tá trong bộ đội miền Bắc. Vợ của Dương Văn Nhựt hiện đang sống tại Sài Gòn. Theo dõi sát, nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh viên chống ông Diệm.
Trong cuộc phỏng vấn ngày 16.10., Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn, em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương Văn Nhựt. Vì thế, nhà Dương Văn Sơn cũng bị theo dõi như nhà Dương Văn Minh. Một hôm, Tổng Thống Diệm gọi ông và bảo đem tất cả hồ sơ vụ Dương Văn Minh vào gặp ông. Có lẽ trước đó Đoàn Công Tác Đặc Biệt đã trình nội vụ cho Tổng Thống biết rồi. Khi ông đem hồ sơ vào, Tổng Thống Diệm hỏi: “Dương Văn Minh có theo Cộng Sản không?” Rồi ông nói tiếp: “Võ Nguyên Giáp nhiều công trạng như rứa mà nay Cộng Sản chỉ mới cho lên Trung Tướng. Dương Văn Minh công trạng có bao nhiêu đâu mà nay đã lên Trung Tướng rồi, còn muốn gì nữa?” Đại Tá Y nói ông vốn là đàn em và là người quen biết với Tướng Minh nên chưa biết phải trả lời như thế nào. Tổng Thống liền đưa cho ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: “Mỹ mà nó biết được Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không muốn nhắc tới cái vụ này nữa.” Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cambodia và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: “Nếu trở lại sẽ bị thanh toán”. Câu chuyện này có lẽ Tổng Cục Phản Gián của Hà Nội không hề hay biết.
Sau đó, ông Diệm đã bảo Đại Tướng Lê Văn Tÿ, Tổng Tham Mưu Trưởng, thông báo cho Tướng Minh biết từ nay ông ta chỉ có thể xử dụng các đơn vị cấp đại đội trở xuống mà thôi. Tướng Minh biết lý do tại sao, nhưng các cố vấn Mỹ không biết chuyện gì đã xẩy ra, nên rất thắc mắc. Họ nghĩ rằng ông Diệm sợ Tướng Minh làm đảo chánh nên mới hạn chế như vậy.
Ngày 18.7.1962, ông Diệm thông báo cho Tướng Harkins biết ông quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh vì ông ta “thiếu khả năng.” Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”.
Sau này, báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật của Việt Cộng trong số ra ngày 1.9.1996, dưới đầu đề “Tướng Dương Văn Minh dưới mắt các nhà binh địch vận”, đã tường thuật lại mối quan hệ giữa Tướng Dương Văn Minh và người em là Dương Văn Nhựt như sau: “Năm 1960, Mười Tỵ, thiếu tá thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam – được lệnh về Nam nhận công tác đặc biệt. Nhiệm vụ của ông là quan hệ, tranh thủ người anh ở bên kia chiến tuyến, đại Tướng Dương Văn Minh. Sau khi vượt Trường Sơn vào Nam, Thiếu Tá Dương Văn Nhựt, tức Mười Tỵ, đã được Ban Binh Vận Trung Ương Cục tìm mọi cách đưa vào Sài Gòn. Thông qua một người em gái, ông Mười Tỵ đã đến được và ở lại nhà của Dương Văn Minh suốt một tuần lễ. Hai anh em ở hai phía chiến trận gặp gỡ hàn huyên. Bằng tình cảm gia đình, ông Mười Tỵ thuyết phục Tướng Minh. Từ đó, ông Mười Tỵ cứ phải đi về trong “vùng địch” hoặc ra nước ngoài để tiếp xúc và gặp gỡ anh mình. Khi Dương Văn Minh lưu vong ở Thái Lan, ông Mười Tỵ cũng được bố trí sang Thái Lan qua ngã Campuchia. Ông đến Nam Vang, sống trong nhà một Hoa kiều. Tại đó, trong vòng một tháng, ông vừa học bằng sách vở, vừa thực tập giao tiếp để nói tiếng Hoa hồng để nhập vai người đi buôn. Có khi từ Nam Vang ông phải bay lòng vòng sang Ý, rồi từ Ý được cơ sở Việt kiều đón về Pháp để móc nối chị dâu (vợ của Tướng Minh) từ Thái Lan qua liên lạc”. Bài báo viết thêm: “Kể từ 1972, bộ đội bắt đầu mở nhiều trận đánh lớn, nên Mười Tỵ được lệnh không ra vùng địch và ra nước ngoài nữa vì “sợ rủi ro làm hỏng ý đồ chiến lược”, nên việc móc nối với Dương Văn Minh được giao cho Nguyễn Hữu Hạnh.”

BỊ BIẾN THÀNH TÊN ĐAO PHỦ CỦA MỸ
Vì không hiểu gì về thủ đoạn chính trị, Dương Văn Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành tên đao phủ thanh toán Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn rồi sau đó loại bỏ.

1. Giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu
Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm nên CIA thuyết phục ông ta làm đảo chánh lật đổ ông Diệm. Dương
dvm1963 Văn Minh đồng ý ngay. Trên danh nghĩa, ông ta là người chỉ huy cuộc đảo chánh, nhưng bên trong CIA chỉ giao cho ông ta một nhiệm vụ duy nhất là thanh toán nhà Ngô. Còn việc lập kế hoạch và chỉ huy cuộc đảo chánh được trao cho Tướng Trần Thiện Khiêm. Khi tiến hành cuộc đảo chánh, Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh hạ sát Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân; Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt. Khi được ông Diệm báo tin đang ở nhà thờ cha Tam, Dương Văn Minh đã cho lập “toán hành quyết” đi đón và giết ông Diệm và ông Nhu. Toán này do Đại Tá Mai Hữu Xuân cầm đầu. Tướng Minh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, cận vệ của mình, đi theo làm sát thủ. Khi xác ông Diệm đưa về Tổng Tham Mưu, một quân cảnh cho biết chính mắt ông ta thấy Tướng Dương Văn Minh đã xuống lột quần ông Diệm ra xem có “chim” hay không.
mission-accomplished
Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin hai ông đã chết, ông rất xúc động và đến hỏi Dương Văn Minh: – Tại sao hai ông ấy chết? Ông Minh có vẽ khó chịu, trả lời bằng tiếng Pháp: Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) [3]
200px-diem_dead
“Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) ” DVM

2. Giết ông Ngô Đình Cẩn
Chính Tướng Nguyễn Khánh đã cho soạn thảo và ban hành Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 thiết lập Toà Án Quân Sự đưa ra những quy định trái với nguyên tắc bất hồi tố của hình luật, và cử nhóm tay chân bộ hạ vào làm “phán quan” để tuyên án tử hình ông Cẩn. Sắc Luật lại quy định rằng các bị cáo không có quyền kháng cáo hay thượng tố. Bị cáo bị án tử hình có thể đệ đơn xin ân xá lên Quốc Trưởng trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Trong trường hợp phạm nhân bị xử tử hình đã đệ đơn ân xá, án tử hình sẽ thi hành trong hạn 5 ngày kể từ khi tuyên án, nếu trong hạn đó, đơn xin ân xá không được chấp thuận. Những sự quy định này nhắm gài Tướng Dương Văn Minh, lúc đó đang là Quốc Trưởng bù nhìn, vào cái thế phải chịu trách nhiệm giết ông Cẩn. Mặc dầu đứng đàng sau Tướng Khánh trong vụ làm luật giết ông Cẩn và biết chắc ông Cẩn phải bị giết, Đại Sứ Cabot Lodge giả vờ đứng ra làm con thoi, đề nghị Tướng Minh ân xá cho ông Cẩn. Tướng Minh biết mình bị gài nên nói với Đại Sứ Lodge: “Khánh luôn luôm tìm cách đặt tôi vào tình trạng khó khăn (He always tries to put me in the difficult position). Tôi sẽ bị cả nước thù ghét và tố cáo nếu tôi ân xá Cẩn”. Đại Sứ Lodge nhận xét: “Rõ ràng là Khánh đang sắp xếp các sự việc để cho Minh gánh lấy tất cả trách nhiệm nếu không hành quyết Cẩn”.
dvm03
Hôm 5.5.1964 Tướng Dương Văn Minh đã ký quyết định bác đơn xin ân xá của ông Cẩn và trở thành tên sát thủ ông Cẩn!

BỊ ĐƯA RA LÀM HÀNG TƯỚNG
Vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ thấy tình hình miền Nam Việt Nam không còn cứu vãn được, nên đã sắp xếp cho miền Nam đầu hàng Bắc Việt để tránh sự đổ máu quá nhiều. Biết Tướng Dương Văn Minh có liên lạc với Việt Cộng, Đại Sứ Martin của Mỹ đã phối hợp với Đại Sứ Merillon của Pháp thuyết phục Tướng Thiệu từ chức và lừa Tướng Dương Văn Minh ra làm hàng tướng bằng cách tạo cho ông một ảo vọng rằng chỉ có ông mới có thể nói chuyện với “phía bên kia” để hình thành một “chính phủ liên hiệp Quốc – Cộng!”
dvm02
Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ

Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp, một phân tích viên của CIA ở Saigon lúc đó, nói rằng tại miền Nam lúc đó, không ai tin Hà Nội có thể chấp nhận một giải pháp khi họ đang trên đà chiến thắng. Ông Vũ Văn Mẫu cũng đã nhận ra được điều đó nên khi gặp Đại Sứ Merillon, ông đã nói với ông Đại Sứ bằng tiếng Latin rằng nếu giải pháp một chính phủ liên hiệp không thành thì xin giúp ông được ra đi.
Frank Snepp cho biết thêm:
“Khi tôi đang bận đánh máy bản báo cáo thì Polgar ở trong phòng riêng với các viên chức khác của Trạm Tình Báo (Toà Đại Sứ) thảo luận về việc chuyển giao nhanh quyền hành. Một khi Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành ngay lập tức cho Minh “Lớn”, và Quốc Hội phải sẵn sàng chấp thuận sự chuyển giao, để sự chuyển giao đó có thể được thực hiện “một cách hợp hiến” (nhấn mạnh của Đại Sứ Martin) và “nhanh chóng”. [4]
Sau khi ép buộc Tướng Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng Thống, Mỹ thúc đẩy Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh để đầu hàng Việt Cộng, nhưng ông Trần Văn Hương không hiểu gì về tình hình lúc đó nên tìm cách cù cưa. Ông bí mật đến gặp Tướng Minh và yêu cầu Tướng Minh làm Thủ Tướng, nhưng Tướng Minh từ chối. Tuy nhiên, do sự thúc đẩy của CIA và một số nhân vật chính trị, cuối cùng ông cũng đồng ý trao quyền cho Tướng Minh với điều kiện phải có sự quyết định của Quốc Hội.
Ngày 26.4.1975 lưỡng viện Quốc Hội đã họp tại Thượng Viện dưới quyền chủ toạ của ông Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện, để đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Có 136 trong số 219 nghị sĩ và dân biểu đến họp. Sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, và Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tổng Giám Đốc CSQG trình bày về tình hình, Quốc Hội bắt đầu thảo luận về việc trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh. Có rất nhiều sự bất đồng về việc trao quyền, nhiều người cho rằng sự trao quyền này là bất hợp hiến. Nhưng các nhóm vận động hậu trường đã hoạt động rất ráo riết nên cuối cùng, lúc 20 giờ 54 phút, Quốc Hội đã biểu quyết chấp thuận trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh với số phiếu 147/151.
Chiều 28.4.1975, Tướng Dương Văn Minh đã nhận chức Tổng Thống. Lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng Khánh Tiết của Dinh Độc Lập.
Cũng trong chiều 28.4.1975, Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, vào Dinh Hoa Lan gặp Tướng Minh cho biết tình hình và hỏi Tướng Minh có định ra đi không. Tướng Minh cho con gái là Dương Mai, con rễ là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài và hai cháu ngoại lên tàu di tản với Đô Đốc Cang, còn ông và bà Minh ở lại.
Đêm 29.4.1975, Tướng Minh vào ngũ trong Dinh Độc Lập để tránh pháo kích. Lúc đó, ông chỉ còn hy vọng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Tướng Nguyễn Hữu Có kể lại, lúc 4 giờ 35 sáng ngày 30.4.1975, Thích Trí Quang đã nói với Dương Văn Minh qua điện thoại:
“Thưa Tổng Thống, cũng như Tổng Thống là tôi vẫn chờ đến giờ nầy và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thề hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chính trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là Tổng Thống, hơn nữa là một Đại Tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của Đại Tướng, chứ giải pháp chính trị của tôi coi như chấm dứt, và từ giờ phút này nếu có chuyện gì xẩy đến thì mọi trách nhiệm đều do Tổng Thống, à quên Đại Tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này Đại Tướng rất rành và giỏi hơn tôi. Xin chào Tổng Thống…”
Dương Văn Minh chỉ trả lời gọn một câu: “Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy điện thoại.
Lúc đó là 4 giờ 45 phút sáng. Frank Snepp kể lại, sau đó Tướng Minh đi đi lại lại một cách bực dọc (nervously) trong dinh Độc Lập trống vắng. Đoàn sứ giả đi thương lượng ở Tân Sơn Nhứt không thấy về. Có người khuyên ông nên tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nhưng ông không đồng ý. Ông nói rất nhiều đồng bào của ông sẽ khinh ông. (Too many of his countrymen would think ill of him). Ông muốn hoản lại chuyện này cho đến khi nội các được thành lập. Khi đó ít ra những người khác phải chia xẻ sự sỉ nhục.[5]
Lúc 8 giờ 30, ông đến Phủ Thủ Tướng thảo luận lại thành phần chính phủ của Vũ Văn Mẫu rồi quay về dinh Độc Lập làm lễ ra mắt.
surrender_letter_of_duong_van_minh
“Văn kiện” đầu hàng

Lúc 10 giờ 15 sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng nữa, Dương Văn Minh lên tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi quân nhân, cảnh sát và các lực lượng bán quân sự “giữ vị trí, buông súng để bàn giao chính quyền trong vòng trật tự”. Lúc 11 giờ 30, chiếc xe tăng Cộng Sản đầu tiên loại T-54 tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phía Dinh Độc Lập, ủi sập cổng, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh vang lên: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Dương Văn Minh là người bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phía sau là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền… Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to: “Mọi người giơ hai tay lên!”. Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy tùng nhất loạt tuân lệnh.
duongvanminh2
Hai ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời đầu hàng. Nhưng khi hai ông vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh phát đi vào lúc 13 giờ 30.
duongvanminhdaiphatthanh1
Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều 28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng!

duongvanminh31
Quyết định trả tự do tại dinh Độc Lập tối 2/5/1975

Ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Văn Binh… được trả tự do. Quyết định trả tự do của Ủy ban quân quản được thông báo tại buổi lễ trang trọng và thân mật tại hội trường dinh Độc Lập tối 2/5/1975. Tại buổi lễ này, Phó chủ tịch Ủy ban quân quản Sài Gòn – Gia Định Cao Đăng Chiếm đã phát biểu với một chất giọng miền Nam trầm ấm:
“…Nhân dân Việt Nam chúng ta đã trải qua cuộc đấu tranh anh dũng và khốc liệt, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh bại chính sách Việt Nam hóa chiến tranh để giành thắng lợi vĩ đại và vô cùng to lớn từ xưa đến nay. Thi hành chính sách của Chính phủ cách mạng lâm thời, Chính phủ mong rằng trong tình hình mới chúng ta hãy cùng nhau nỗ lực xây dựng lại Tổ quốc của chúng ta, làm cho nhân dân chúng ta giàu mạnh, Tổ quốc của chúng ta hùng cường. Do đó, chúng tôi mong rằng mỗi người VN chúng ta đều tùy theo khả năng của mình, góp công sức vào việc xây dựng Tổ quốc của chúng ta. Bữa nay, thi hành lệnh của cấp trên, các anh được tự do về với gia đình. Chúng tôi sẽ tổ chức đưa các anh về đến nơi đến chốn…”. (Trích băng ghi âm)
Đáp lại, ông Dương Văn Minh nói ngắn gọn thế này:“ …Ngày hôm nay, đại diện cho các anh có mặt tại đây, tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự thành công của Chính phủ cách mạng trong công cuộc vãn hồi hòa bình cho đất nước. Với kỷ nguyên mới này, tôi mong rằng tất cả anh em có mặt tại đây, cũng như các tầng lớp đồng bào, sẽ có dịp đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước.Riêng cá nhân tôi, hôm nay tôi rất hân hoan khi được 60 tuổi, trở thành một công dân của một nước Việt Nam độc lập”. (Trích băng ghi âm)Mọi người được về với gia đình ngay sau buổi lễ đó. Chiếc xe Ford màu xanh dương đậm đưa ông Minh ra khỏi dinh Độc Lập lúc 22 giờ. Khi xe chuyển bánh, vị tổng thống 48 giờ nói:- Thôi, giã từ quá khứ chết chóc. Vĩnh viễn hòa nhập vào đời sống hòa bình.(Theo Tuổi Trẻ)

NHÌN LẠI CON NGƯỜI CỦA DƯƠNG VĂN MINH
Tướng Nguyễn Chánh Thi tiết lộ rằng khi còn ở Pháp, Tướng Dương Văn Minh có gởi cho ông một lá thư đề ngày 15.4.1987, trong đó có đoạn như sau:
“Thi,
“Được tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm.
“Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không – Pháp chẳng giúp đỡ gì – mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.
“Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết.
“Anh em có đọc sách của anh Đỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Đỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần- lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Đỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.
“Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra…”
Thân phận của Tướng Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành một cái mền rách, nhưng vì quá yếu kém về chính trị, nên cho đến khi gần tới giờ về cỏi âm, ông vẫn chưa nhận ra được! Lãnh đạo mà như thế, mất miền Nam là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên.

Nhìn lại con người của Dương Văn Minh, chúng ta thấy có 3 đặc điểm sau đây:
Thứ nhất là tham nhũng và thiếu trách nhiệm:
(1) Biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bình Xuyên và một số tiền bạc thu được sau cuộc đảo chánh 1.11.1963. Cho một tay chân bộ hạ nổi tiếng tham những là Tướng Mai Hữu Xuân kiêm ba chức quan trọng cùng một lúc để truy lùng tài sản và khảo của các viên chức chế độ cũ, đó là Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo và Đô Trưởng Sài Gòn. Tướng Xuân đã nhận cả tiền của Việt Cộng để thả các cán bộ cao cấp của Việt Cộng ra.
(2) Không quan tâm đến tình hình miền Nam sau cuộc đảo chánh và có quyết định sai lầm: Ra lệnh phá hủy các ấp chiến lược đã được thiết lập để đối phó với Cộng Sản, đưa miền Nam tới bờ vực thẳm khiến Hoa Kỳ phải thực hiện “Pentagon’s coup” để lật đổ và đưa quân vào miền Nam cứu vãn tình thế.
Thứ hai là ngố:
Mặc dầu làm việc với Hoa Kỳ và hành động theo sự xúi biểu của Hoa Kỳ, ông không hiểu gì về chính sách và thủ đoạn của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn, nên đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ:
(1) Ông bị biến thành một tên sát thủ giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn thay cho người Mỹ khi Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó ông bị Hoa Kỳ loại và đưa những tay chân bộ hạ của CIA lên cầm quyền.
(2) Khi Miền Nam sắp sụp đổ, ông bị Hoa Kỳ lường gạt bằng chiêu bài “hoà giải hoà hợp” để đưa ông ra làm Hàng Tướng!
Thứ ba là hèn:
(1) Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, cận vệ thân tín của ông, được ông phái đi giết Đại Tá Lê Văn Tung và Thiếu Tá Lê Văn Triệu, sau đó hạ sát ông Diệm và ông Nhu. Ấy thế mà sáng 30.1.1964, khi linh Nhảy Dù bắt Thiếu Tá Nhung trước mặt ông và dẫn đi, rồi tối hôm đó hạ sát, ông chẳng có một lời nào!
(2) Sáng ngày 30.4.1975, bộ chỉ huy 3 chiến thuật của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang quần thảo với Việt Cộng trước cổng Bộ Tổng Tham Mưu ở Lăng Cha Cả thì Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Thiếu Tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật, đã nói chuyện với Tổng Thống Dương Văn Minh qua điện thoại:
– Tôi là chỉ huy trưởng cánh quân đang tử chiến với Việt Cộng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đang cố liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu thì lệnh ngưng chiến đã ban ra và quân của Việt Cộng vẫn còn đang tiến về thủ đô. Tôi vào trong Bộ Tổng Tham Mưu thì không còn một tướng lãnh nào ở đây, họ đã bỏ chạy hết, do đó tôi muốn nói chuyện với Tổng Thống để xin quyết định.
Tổng Thống Minh trả lời:
– Các em chuẩn bị bàn giao đi.
Thiếu Tá Tài hỏi lại:
– Có phải là đầu hàng không?
Tổng Thống Minh trả lời:
– Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng của Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập.
Thiếu Tá Tài nói:
– Nếu xe tăng của Việt Cộng tiến về Dinh Độc Lập thì chúng tôi sẽ đến cứu Tổng Thống. Nếu Tổng Thống ra lệnh đầu hàng thì Tổng Thống có chịu trách nhiệm với hơn 1000 quân đang tử chiến ở Bộ Tổng Tham Mưu hay không?”
Tổng Thống Minh trả lời:
– Tùy ý các anh em.
Nói xong cúp máy!
(3) Ký giả Borries Gallasch, phóng viên tờ Der Spiegel của Đức, người ký giả ngoại quốc duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào sáng 30.4.1975, đã kể lại thái độ của Tướng Dương Văn Minh khi đối diện với các bộ đội cộng sản đến bắt ông đầu hàng như sau: Đại Tướng Dương Văn Minh im lặng. Dưới chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn ông Minh với vẻ tò mò… Cuối cùng ông Minh đã lên tiếng, hỏi một người lính: “Em trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp chú ấy?”.
Làm tướng mà phải đầu hàng là nhục rồi, nhưng lại còn hèn hơn nữa khi nói mé cho những tên bộ đội nhỏ bé của Cộng quân biết rằng ông có người em theo Việt Cộng là Dương Văn Nhựt để chứng tỏ ta đây cũng thuộc “gia đình Cách Mạng”!

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
Ngày 8.8.1983, Dương Văn Minh, được chính quyền Hà Nội cho phép di cư sang Pháp và sống với hai người con trai là Ddvm04ương Minh Đức và Dương Minh Tâm. Khoảng năm 1988, ông âm thầm qua Pasadena, Nam California, Hoa Kỳ, và sống với con gái là Dương Mai đang định cư ở đó. Trong những những ngày còn lại của cuộc đời, Tướng Dương Văn Minh phải sống trong bóng tối, không dám gặp cộng đồng người Việt tại đây.

Ngày 5.8.2001, ông bị té từ xe lăn, được đưa vào bệnh viện Huntington Memorial Hospital và qua đời ngày hôm sau, hưởng thọ 86 tuổi. Linh cữu ông cũng được phủ cờ vàng ba sọc đỏ, được di chuyển lên xe bởi 6 người thân gồm các ông Hoa Hải Đường, Nguyễn Hồng Đài, Trịnh Bá Lộc, Hoa Hải Thọ, Ngô Long và Nguyễn Trí Dũng. Sau đó, linh cửu ông đã được hoả thiêu trưa thứ bảy 18.8.2001 vào lúc 12 giờ tại vãng sanh đường Skyrose thuộc nghĩa trang Rose Hill, Nam California.
Lữ Giang
29.4.2009

Ghi chú:
[1] Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam: Một trời tâm sự, Xuân Thu, Hoa Kỳ 1987, tr. 27 và 28.
[2] Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Tập II, California, Hoa Kỳ, tr. 66 – 70.
[3] Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, Xuân Thu, California, Hoa Kỳ 1989, tr. 231.
[4] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 382 – 383.
[5] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 540.

https://ongvove.wordpress.com


Dương Văn Minh & Thích Trí Quang là Việt Cộng?

Bs Lê Văn Sắc

Vai trò của Dương Văn Minh và Thích Trí Quang đối với cuộc chiến Việt Nam đã rõ, ít ai còn đặt vấn đề đó nữa. Ông Tú Gàn đã viết một bài về Hàng Tướng Dương Văn Minh, trong đó, còn đôi điều thiếu sót. BS Lê Văn Sắc, nhờ cơ duyên, biết được một số sự kiện, cũng xin bổ túc... Mời quý vị đọc:

SỰ THẬT VỀ DƯƠNG VĂN MINH và THÍCH TRÍ QUANG
Tú Gàn, trong một bài báo viết về Dương Văn Minh đã đưa ra nhiều tài liệu và bằng chứng về Dương Văn Minh rất chính xác, tuy nhiên vẫn còn một số thiếu sót. Nhờ tình cờ lịch sử, nhờ nhiều may mắn đặc biệt và nhờ có tính thích đọc và có trí nhớ dai, tôi đã biết một số điều về Dương Văn Minh, nay xin bổ túc vào những điều mà ký giả Nguyễn Cần đã viết về Dương Văn Minh. Theo thứ tự, tôi xin đề cập đến những vấn đề sau:
1. Dương Văn Minh dưới mắt tôi sau chiến dịch Hoàng Diệu
2. Dương Văn Minh và Thích Trí Quang qua báo Xây Dựng của LM Nguyễn Quang Lãm.
3. Sau ngày 30-4: Kiểm chứng về chuyện người em Dương Văn Minh: Dương Văn Nhựt.
4. Sau khi vượt biên đến Mỹ: Năm 1996-1997: Xác nhận của cục tình báo Việt Cộng về Dương Văn Nhựt.
5. Tình cờ có bằng chứng VC của Thích Trí Quang
6. Đôi hàng về Chính Đạo, Nguyên Vũ Vũ Ngự Chiêu (viết thêm).

I. Dương Văn Minh dưới mắt tôi, sau chiến dịch Hoàng Diệu
Khoảng tháng 10, năm 1954, lúc đó tôi 13 tuổi, theo gia đình di cư vào Nam, sống tại Phú Thọ, Trường Đua, nhưng đến độ tháng 5, tháng 6 năm 1955, theo gia đình dọn lên vùng Nancy, đường Trần Hưng Đạo, vì cha mẹ và chị tôi làm việc cho một hãng thầu (ông Văn) lúc đó đang xây cất một ngôi nhà ngay sau Thánh Thất Cao Đài, trên đường Trần Hưng Đạo, phía đối diện là Tổng Hành Dinh (Quân Đội) (tôi nhớ theo bảng hiệu mà tôi đọc được). Một đêm, nghe tiếng súng nổ, gia đình tôi sống trong căn nhà đang xây dở, có tường gạch, cột đổ bê-tông, nên vững hơn các căn nhà khác, do đó, gia đình nằm yên mà không bỏ chạy tìm chỗ núp. Sáng ra, ra phía trước cửa Thánh Thất Cao Đài thấy một xe Traction đen đậu sát lề đường, trước cửa tiệm “Billard” (banh bàn), và người tài xế bị bắn chết, xác nằm gác chân lên ghế đệm, đầu chúi xuống chỗ chân tài xế…
Theo tin báo chí và nghe dư luận thì biết Bình Xuyên đảo chánh, tấn công vào Tổng Hành Dinh và đã bị đánh bật ra khỏi Đô Thành (Sàigòn) và Tướng Trình Minh Thế của Cao Đài đã quy thuận với Quân Đội Quốc Gia. Ngày sau nghe tin Thiếu Tướng Trình Minh Thế bị tử trận tại Cầu Khánh Hội, nghe bị bắn sẻ từ phía sau. Có tin đồn là ông bị “phòng nhì Pháp” hay tay chân của Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh bắn. Sau đó, chiến sự xa dần và sau khi đám Bình Xuyên của Bảy Viễn, Lai Hữu Tài, Lai Hữu Sang bị đánh bại hoàn toàn, chính phủ Ngô Đình Diệm bèn tổ chức một tiệc mừng chiến thắng kết thúc chiến dịch Hoàng Diệu, có diễn binh và Đại Tá Dương Văn Minh được vinh hạnh dẫn đầu đoàn diễn binh chiến thắng khải hoàn.
Lúc đó, dưới mắt tôi, một thiếu niên mới từ miền Bắc Di Cư vào, hình ảnh đó thật đẹp nhưng cũng vẫn gợn trong tôi một “vướng mắc” vì Dương Văn Minh là sĩ quan xuất thân từ Quân Đội Pháp – người mà đi lính Pháp thì có yêu nước Việt Nam thực không? – nhưng tôi phải đồng ý rằng cuộc chiến thắng đó quả thật có ý nghĩa, vì với quan điểm của tôi, một chính quyền quốc gia phải thống nhất toàn lực quốc gia, không thể chấp nhận việc “thập nhị sứ quân”, mỗi nhóm, mỗi giáo phái hùng cứ một phương (như lời một vị cựu sĩ quan Hòa Hảo, sau này, năm 1987, tại San Jose, cũng xác nhận, đồng ý như thế) và Dương Văn Minh lúc đó là một người hùng. Và điều gợi lên trong tôi lúc đó là e ngại Dương Văn Minh, với bản chất “lính đánh thuê” có biết đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên hết hay lại trở thành kiêu binh v.v…
Sau đó, có tin Dương Văn Minh bị cho ngồi chơi sơi nước và có tin đồn là Tổng Thống Diệm muốn xây dựng một lớp sĩ quan trẻ có lòng yêu nước “thuần khiết” tức là không xuất thân từ quân đội Pháp với việc phát triển và nâng cao trình độ Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt với vị sĩ quan chỉ huy trưởng được đánh bóng tối đa, Đại Tá Trần Ngọc Huyến. Với tin tức này, tôi hoàn toàn đồng ý với TT Diệm nhưng lại gợi lên một lo ngại là các tướng xuất thân từ quân đội Pháp bất mãn, sẽ chống đối TT Diệm, thì nguy cho TT Diệm lắm.
Điều lo ngại của tôi càng ngày càng thấy đúng và kết quả là cuộc binh biến trưa ngày 1-11-1963.
Dĩ nhiên trước đó là cuộc âm mưu đảo chánh của Đại Tá Nguyễn Chánh Thi năm 1960. Thực ra, cuộc đảo chánh này do 2 Trung Tá Vương Văn Đông và Nguyễn Triệu Hồng khởi xướng. Nguyễn Triệu Hồng đã bị tử trận ngay ngoài hàng rào Dinh Độc Lập, nghe nói bị bắn từ phía sau, chứ không phải vì đạn từ Liên binh phòng thủ Dinh Độc Lập bắn ra. Vương Văn Đông, nghe nói, là một sĩ quan thân Pháp mới là kẻ chủ mưu. Sau khi thất bại, Vương Văn Đông cùng với Đại Úy Phan Lạc Tiếp chạy trốn sang Cao Miên, rồi cả hai theo Việt Công luôn. Tham gia cuộc đảo chánh có BS Phan Quang Đán và LS Hoàng Cơ Thụy, em ruột Nha Sĩ Hoàng Cơ Bình, anh cùng cha khác mẹ với Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh và các cụ thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng (theo lời của ông Nguyễn Văn Quang). Sau vụ binh biến của Vương Văn Đông, thì lại có vụ 2 phi công là Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử, thuộc một nhóm Đại Việt Quốc Dân Đảng, lái máy bay “skyrider” ném bom Dinh Độc Lập. Kết quả, máy bay của Nguyễn Văn Cử bị súng phòng không của Hải Quân của Đại Tá Hồ Tấn Quyền bắn rơi, bị bắt vào tù, còn Phạm Phú Quốc thì lái máy bay chạy trốn sang Cao Miên, sau đảo chánh 1-11-1963 mới được về. Sau này, khi có chiến dịch oanh tạc miền Bắc, Phạm Phú Quốc bị bắn rơi, nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác bản nhạc Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc, rất hay, nhưng lại mang tính chất triết lý định mệnh Phật Giáo. Thực ra, Phạm Phú Quốc không chết và chỉ bị mù 2 mắt và sau năm 1975, Phạm Phú Quốc được Việt Cộng cho về sống tại quê hương là Quảng Nam (theo lời kỹ sư Hồ Bẩy, người cùng quê, cho biết).

II. Dương Văn Minh và Thích Trí Quang:
Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ vào ngày 1-11-1963, vai trò Phật Giáo lên rất cao với Dương Văn Minh và Thích Trí Quang. Lúc đó, Dương Văn Minh và Thích Trí Quang là những nhân vật rất mạnh về quyền thế vì lúc đó họ nắm được quân đội và lực lượng quần chúng (phật tử) nhưng ngay sau khi thành công trong việc đảo chánh, Dương Văn Minh lại đưa Nguyễn Ngọc Thơ ra làm thủ tướng và câu nói đầu tiên của ông thủ tướng này “con tôi và con đại tướng Minh đều đang du học tại Pháp” khiến nhiều người dị nghị: “Thế ra 2 ông hô hào người ta yêu nước, đi lính đánh giặc mà lại cho con du học tại Pháp, trốn quân dịch, nhất là Pháp là lại là nước thực dân từng đánh chiếm và cai trị Việt Nam hơn 80 năm qua…".
Hơn nữa, sau khi lật đổ ông Diệm, xã hội càng ngày càng đi vào chốn hỗn mang, suy yếu, đi xuống trông thấy. Ngay khi đó, Linh Mục Nguyễn Quang Lãm, đứng tên là linh mục đàng hoàng, ra tờ báo Xây Dựng, chuyên môn “đánh” “Dương Văn Minh (có em là Thiếu Tướng Việt Cộng) và Thích Trí Quang (là Việt Cộng, có thầy là Thích Trí Độ lãnh đạo Phật Giáo miền Bắc…) dưới bút hiệu Thương Sinh. Linh mục Nguyễn Quang Lãm lấy bút hiệu là Thiên Hổ (cọp nhà trời) là bút hiệu “rất dữ” không đúng với tư cách một linh mục hiền lành, đạo đức chút nào!!!
Việc một linh mục Công Giáo ra báo “đánh” Thích Trí Quang và Dương Văn Minh khiến có người e ngại là sẽ đào thêm mối chia rẽ giữa Phật Giáo và Công Giáo, như vậy làm sao đoàn kết lực lượng để chống cộng? Người ta e ngại là với quyền lực của Phật Giáo lúc bấy giờ, với quân lực mà Dương Văn Minh, và lực lượng Phật tử mà Thích Trí Quang có trong tay thì mười Nguyễn Quang Lãm, 100 tờ báo Xây Dựng cũng phải tan nhưng Dương Văn Minh và Thích Trí Quang hoàn toàn yên lặng, không lên tiếng phản đối hay đe dọa gì khiến người ta lại nghĩ là phải chăng đây là chuyện có thật? Có người còn suy rằng “đây chẳng qua là ông VC Nguyễn Quang Lãm đóng vai linh mục Công Giáo làm bộ đánh Dương Văn Minh và Thích Trí Quang, tố những người này là Việt Cộng, nhưng thực ra là đề cao vai trò của 2 ông trong giải pháp Trung Lập, Hòa Giải Hòa Hợp sau này." Vì “ưng” (chứ không oan) nên Dương Văn Minh và Thích Trí Quang cứ bình chân như vại, không “thèm” phản ứng. Đến ngày 30-4-1975 thì người ta thấy rõ vai trò của Dương Văn Minh và Thích Trí Quang trong việc “trao chính quyền miền Nam cho VC”. Sau đó, lại có nguồn tin LM Nguyễn Quang Lãm cởi áo nhà tu lấy vợ.
Song song với LM Nguyễn Quang Lãm, người ta còn thấy xuất hiện 2 linh mục là Trần Du, ra báo Hòa Bình (chuyên môn tố chính quyền miền Nam đủ chuyện, làm mất uy tín chính quyền miền Nam) và LM Trần Hữu Thanh, chuyên đánh chính quyền VNCH về tội tham nhũng. Sau năm 1975, LM Trần Hữu Thanh bị VC bỏ tù, chết trong tù, còn LM Trần Du thì biến mất, không để lại dấu tích nào. Tôi có dọ hỏi nhiều người nhưng chẳng ai biết LM Trần Du hiện nay ở đâu, sau năm 1975 có “được” hay “bị” VC thăm viếng, đãi ngộ hay không. Hỏi nhà văn Cao Tần Lê Tất Điều (tức nhà viết phiếm Kiều Phong trên báo Hòa Bình của LM Trần Du) thì Cao Tần Lê Tất Điều cũng nói là không biết… Nay còn một vị nữa là nhà phiếm luận Sức Mấy tức LS Đinh Từ Thức, hiện sống tại miền Đông Hoa Kỳ, là cộng tác viên của báo Hòa Bình. Mong rằng ông Tú Gàn liên lạc với ông Sức Mấy tìm hiểu dùm vai trò của LM Trần Du trong cuộc chiến Quốc Cộng ngày xưa xem sao. Theo nhà văn “Bác Tám” Hải Bằng thì ông Vũ Bình Nghi, tức Ký Còm Vũ Xuân Nghị (chủ nhiệm tờ Thời Báo tại San Jose) ngày xưa viết trang trong cho báo Xây Dựng của LM Nguyễn Quang Lãm, vậy có phải ông đã viết những bài “tố Dương Văn Minh và Thích Trí Quang là VC” không? Có phải chính ông là người xử dụng bút hiệu Thương Sinh (chứ không phải là Duyên Anh) để viết những bài đó không?

III. Sau ngày 30-4: Kiểm chứng về chuyện người em Dương Văn Minh: Dương Thanh Nhựt
Sau ngày 30-4-1975, lúc đó tôi còn làm cho Khu Y Khoa Cộng Đồng, thuộc trường Đại Học Y Khoa Sàigòn, trong một buổi học tập chính trị của nhân viên, có Bs Trần Thị Minh Châu tham dự, trong giờ nghỉ giải lao, tôi có hỏi 2 tên Bs VC rằng “Nghe nói trong lực lượng cách mạng có Thiếu Tướng Dương Văn Nhựt là em Đại Tướng Dương Văn Minh mà sao từ ngày cách mạng về đến giờ chẳng nghe nói đến Thiếu Tướng Dương Văn Nhựt”. Nghe câu hỏi, một tên trả lời: “Làm gì có”, tên kia đập tay vỗ đùi nói: “Có, có, nhưng hắn mới chỉ là thiếu tá à!”. Nghe đến đây thì tôi cũng đành im luôn vì không dám “điều tra” thêm.(Sau đó, khi bắt đầu giờ học chính trị trở lại, tôi bèn làm bộ hỏi: “Trước đây, khi tập trung các sĩ quan đi học tập cải tạo, bảo mang đủ gạo ăn cho 1 tháng, nay đã hơn năm rồi mà các người này vẫn chưa được về, như chồng Bs Trần Thị Minh Châu đây”. Nghe nhắc đến chồng, Bs Trần Thị Minh Châu bèn khóc lớn thành tiếng rồi sụt sùi, nước mắt vắn nước mắt dài, khiến nhiều người cảm động muốn khóc theo, làm cho 2 tên Bs Việt Cộng cũng lúng túng. Việc này, dù trong gông cùm cộng sản, coi như tôi cũng đã “sút” một trái banh vô gôn Việt Cộng, nhưng xét cho cùng cũng chẳng nhằm nhò gì).

IV. Sau khi vượt biên đến Mỹ:  năm 1996-1997: xác nhận của cục tình báo Việt Cộng
Sang Hoa Kỳ năm 1979, định cư tại San Jose, đến năm 1996 hay 1997 gì đó, đọc được một bài báo tuyên dương cục tình báo Việt Cộng, có xác nhận là cục tình báo đã đưa được Dương Thanh Nhựt, cấp bậc Thiếu Tá, bám sát “địch vận” Dương Văn Minh để đi đến chiến thắng hoàn toàn 30-4-1975. Đến đây thì mọi chuyện mà tôi nghi vấn về Dương Văn Minh có em là Thiếu Tướng Việt Cộng đã rõ (đúng như Tú Gàn đã viết trong bài báo mà tôi cho đăng lại dưới đây, chỉ khác có điều tên VC em của Dương Văn Minh tên là Dương Thanh Nhựt, chứ không phải Dương Văn Nhựt. Điều này lại khẳng định rằng VC hoạch định kế hoạch thật chi tiết, tỉ mỉ: Vì sợ lộ bí mật là Dương Thanh Nhựt là em Dương Văn Minh thì nhiều người biết y chỉ có cấp bậc Thiếu Tá, quá thấp, không đủ uy tín thuyết phục người ta tin tưởng, gây ảo tưởng anh em giúp hòa hợp hòa giải thống nhất đất nước nên phải đổi lại thành Dương Văn Nhựt, cho giống với Dương Văn Minh, mới khiến người ta tin Dương Văn Nhựt là một người em khác của Dương Văn Minh, cấp bậc Thiếu Tướng. Một điều nữa, năm 1975, Dương Thanh Nhựt mới lên đến Thiếu Tá thì khi báo Xây Dựng của LM Nguyễn Quang Lãm “tố cáo kịch” Dương Văn Minh có em là Thiếu Tướng Việt Cộng Dương Văn Nhựt (1963-1964) (tức 11 năm trước) thì Dương Thanh Nhựt mới có cấp bậc thượng sĩ hay chuẩn úy mà thôi. Từ một tên hạ sĩ quan VC mà báo Xây Dựng của LM Nguyễn Quang Lãm đã bốc lên đến Thiếu Tướng thì quả thật ai cũng phải phục là tài và can đảm.

V. Tình cờ: Tài liệu xác nhận về Thích Trí Quang
Còn trường hợp của Thích Trí Quang thì quả thật tôi mù tịt, chẳng biết gì nhiều cho đến năm 1975, có tin cho biết quả có nhà sư Thích Trí Độ lãnh đạo Phật Giáo Quốc Doanh của VC ở Hà Nội, nhưng tôi cũng chỉ biết đến đó mà thôi. Cho đến năm 1998 hay 1999 gì đó, một thầy giáo dậy môn Công Dân Giáo Dục của tôi tại trường Trung Học Nguyễn Trãi (96 Phan Đình Phùng, Sàigòn, gần Đài Phát Thanh) là GS Lê Văn Quang (em ruột GS Lê Văn Lâm, tác giả các sách giáo khoa Vật Lý, Hóa Học, GS trường Chu Văn An) có gọi tôi đến ngỏ ý muốn xuất bản một cuốn hồi ký. Tôi nghĩ tôi là người học trò mà ông tin tưởng và thấy gần gũi, nên khi cuốn sách hoàn thành, ông lại gọi tôi đến cho một cuốn. Tôi đem về đọc và thấy được toàn bộ nỗi niềm của ông, một người thoát ly đi kháng chiến chống Pháp, nhưng sau khi làm việc với Việt Cộng, ông đã thấy rõ bản chất của chế độ Cộng sản nên ông đã tìm đường ở lại miền Nam, không chịu tập kết ra Bắc. Trong cuốn hồi ký “Trước Sau Như Một” này, khi đề cập đến Thượng Tọa Thích Trí Quang, GS Lê Văn Quang (sau này là GS Đại Học Nha Khoa Sàigòn, có con là một nha sĩ tại San Jose) đã viết: Thượng Tọa Trí Quang là chủ tịch Hội Phật Học Cứu Quốc ở tỉnh Quảng Bình” và cũng có xác nhận Thích Trí Quang là học trò Thích Trí Độ. Thế là 2 năm rõ 10, Thích Trí Quang là VC và tôi tung tài liệu này lên báo, mục đích chỉ muốn khẳng định những tài liệu trước kia viết về Thích Trí Quang là VC là đúng và càng thấy việc báo Xây Dựng của LM Nguyễn Quang Lãm “đánh” Thích Trí Quang chỉ để sửa soạn “đánh bóng” cho vai trò Thích Trí Quang giúp Dương Văn Minh giao miền Nam cho Việt Cộng vào ngày 30-4-1975 mà thôi. Riêng với trường hợp Thích Trí Quang, khi báo Xây Dựng tung tin Thích Trí Quang có người thầy là Thích Trí Độ lãnh đạo Phật Giáo Miền Bắc thì đã đánh được miền Nam 2 đòn: Ngoài Bắc có tự do tôn giáo, bằng chứng là có ông sư Thích Trí Độ lãnh đạo Phật Giáo Miền Bắc, như vậy, miền Nam tố miền Bắc là độc tài, vô tôn giáo, vô thần là không đúng, là vu khống. Còn nói Thích Trí Quang là VC thì đúng là vu cáo, chẳng qua là vì Công Giáo thù Phật Giáo lật đổ ông Diệm mà xuyên tạc ra như vậy mà thôi…

VI. Về Trường hợp Chính Đạo, Nguyên Vũ-Vũ Ngự Chiêu
Đúng ra thì Vũ Ngự Chiêu chẳng quan trọng gì trong bài này. Sở dĩ tôi muốn đề cập đến “y” là vì tôi là người đã đọc những tác phẩm Đời Pháo Thủ, Dựa Lưng Nỗi Chết, Khung Cửa Chết Của Người Tình Si, Trở Về Từ Cõi Chết v.v… của Vũ Ngự Chiêu và không biết rằng Vũ Ngự Chiêu đã có thời gian phản chiến, thay đổi lập trường quốc cộng, và đã bị Cục An Ninh Quân Đội của ta treo bút và phạt kỷ luật vì tội phản chiến, phản bội chiến hữu (điều này do chính Nguyên Vũ viết ra trên Giao Điểm). Khi tôi mới tới Mỹ, năm 1979, đọc được rất nhiều tác phẩm và sách được tái bản (dù bất hợp pháp nhưng cũng là may mắn cho người tỵ nạn chúng ta) tại hải ngoại, nhưng để ý tìm tòi mãi cũng chẳng thấy cuốn nào của Nguyên Vũ. Khoảng năm 1986-1987 gì đó, Nguyên Vũ từ Pháp sang, có ghé San Jose. Lúc đó ở nhà, tôi nghe có người kể lại là Nguyên Vũ ngồi ở quán (chỗ chợ Albertson (Lucky cũ), góc số 7 st và Santa Clara st), có Vũ Trọng Khanh ngồi bàn bên kia, Nguyên Vũ chõ mồm qua nói rằng “Vũ Trọng Phụng chết trẻ vì bệnh lao, chưa có vợ làm gì có con mà có kẻ nhận vơ”. Vũ Trọng Khanh tức quá, đứng dậy, đến đấm cho Nguyên Vũ mấy cú. Đêm sau, tôi gặp Nguyên Vũ, hỏi hắn sao không cho tái bản mấy cuốn truyện trên thì y nói: “Bây giờ tôi viết mấy cuốn khác hay hơn nhiều, sẽ cho xuất bản nay mai…”. Nghe như vậy thì tôi hiểu liền, biết rằng y đã phủ nhận các tác phẩm của y cũng như Xuân Diệu, Huy Cận đã phải phủ nhận những tác phẩm của họ khi sống dưới gông cùm Cộng Sản, đằng này y “bị tẩy não tự nguyện”, tức không bị một áp lực nào, đã tự phủ nhận những tác phẩm của mình. Thế rồi y xuất bản cuốn truyện trường thiên Giặc Cờ Đỏ, bị nhiều người lên án. Kế đến, y bắt đầu viết sử, sau khi khoe học đỗ tiến sĩ sử học tại Pháp. Các bài về lịch sử của hắn chứa nhiều nội dung bôi lọ Việt Nam Cộng Hòa và tỏ ra có nhiều cảm tình với VC… Sau này, Nguyên Vũ còn làm nhiều hành động mất trí khác trong đó có hành động dựng đứng tài liệu bôi nhọ, nhục mạ Công Giáo… Thật đáng buồn và thật đang tiếc cho một người như Nguyên Vũ.
Tóm lại, tôi đã viết lên những điều tôi biết về một giai đoạn lịch sử. Các bạn bè của tôi, những nhà văn, nhà báo ở hải ngoại hay còn trong nước (như GS Ngô Văn Ân, cùng dậy học với tôi tại trường Tinh Thần trong trại Lê Văn Duyệt, Biệt Khu Thủ Đô, như Nguyễn Quốc Thái, nhà thơ cùng là cựu học sinh Nguyễn Trải với tôi, thuộc nhóm Đối Diện của các Lm Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, nếu có thể hãy cho thêm chi tiết về Lm Nguyễn Quang Lãm và báo Xây Dựng).

Bs Lê Văn Sắc

http://www.vnfa.com


Mặt Thật của Thích Trí Quang và nhóm Ấn Quang

TT. THÍCH TÂM CHÂU NÓI GÌ VỀ TRÍ QUANG VÀ PHE ẤN QUANG?


TT. Thích Trí Quang

Ở miền Nam, ngoài Dương Văn Minh, còn có Thích Trí Quang, và phe Phật Giáo Ấn Quang, hay ”PHẬT GIÁO THỐNG NHẤT” là một ổ cán bộ CS nằm vùng trước mũi của chính quyền. Vì giới quân nhân cầm quyền tham nhũng, nên đã dung dưỡng bọn mượn danh đạo, tạo danh đời này, khiến cho miền Nam bị rửa mục, rơi vào tay CS quá dễ dàng. Theo tôi biết, hiện nay ở hải ngoại, nhóm sư tăng đệ tử của Trí Quang, đa số là người miền Trung, trà trộn trong cộng đồng người VN tị nạn rất đông, cấu kết rất chặt chẽ, tạo thành một lực lượng, nếu mai sau thời cơ đến sẽ xử dụng. Tuy mang danh nghĩa tu hành, nhưng nhóm tăng sĩ Ấn Quang ở khắp nơi hải ngoại chỉ chuyên tâm nô nức ganh đua xây chùa bằng tiền cúng dường, vay mượn không lãi dài hạn của bá tánh. Có nơi con số lên tới hàng chục triệu, và thường xảy ra những cuộc tranh chấp, chửi bới nhau chí chóe...
Đây là một hiện tượng đáng để các giới đồng bào khắp nơi hải ngoại phải đặc biệt quan tâm, cảnh giác đối với các tu sĩ đó trước khi quá muộn, như trường hợp Trí Quang. Bởi chính đức Phật đã dạy trong tạng luật ”MAHÃVIBHANGA”, đoạn Một: Có 5 hạng cướp thì hạng Tỳ Khưu không lo tu hành chân chính, chỉ ăn ngon mặc đẹp, chuyên lo xây chùa chiền, tu viện cho nguy nga đồ sộ bằng tiền của bá tánh là một hạng cướp nguy hiểm nhất. Vì tên tướng cướp thường còn bị pháp luật xét xử. Trong khi đó tên cướp mặc áo cà sa vẫn được tự do, đi đến đâu vẫn được bá tánh cúng dường vật thực ngon lành, tinh khiết, y phục, chỗ ở tốt đẹp, và xưng hô cực kỳ cung kính... (theo TÌM HIỂU PHẬT GIÁO, chương 14, Phật giáo với hàng tăng lữ của soạn giả Maha Thong Kham Medhivongs, Phật giáo nguyên thủy). Như trên tôi đã nói: TT Trí Quang là một cán bộ CSBV nằm vùng, đã chụp được thời cơ thuận lợi nhất là vụ treo cờ Phật Giáo, để nổi lên đánh phá miền Nam .
Thực ra chẳng phải đến bây giờ dân chúng miền Nam mới biết tông tích của TT Thích Trí Quang, một cán bộ CSBV đội lốt tu hành, đã phát động cuộc đấu tranh năm 1963, lật đổ chế độ độc tài gia đình trị nhà Ngô. Tông tích và đường lối mượn danh nghĩa Phật Giáo đấu tranh, chống độc tài gia đình trị họ Ngô, mở đường cho sự rối loạn và sụp đổ của miền Nam vào tay CSBV năm 1975 của TT Trí Quang đã được một số người biết từ lâu. Nhưng hoàn cảnh chánh trị ở VN, từ năm 1963 cho đến 1975, đã không cho phép một ai có đủ can đảm để nói lên sự bí mật này. Nguyên do chẳng phải bản tánh cầu an, khiếp nhược của con người, mà còn bởi nhiều yếu tố khác nữa. Những người am tường thời cuộc đều nhận thấy rằng, vào khoảng thời gian ấy, trong không khí chánh trị hỗn độn như thế, giới Phật giáo đấu tranh miền Trung đã trở nên một lực lượng chánh trị vô địch, các tu sĩ miền Trung đã trở thành những kiêu tăng, dám giết người nhân danh ”đạo pháp”, chẳng khác gì các kiêu binh kiêu tướng, và tệ nạn tham nhũng, hối lộ bành trướng khắp các giai tầng chế độ, thì việc phanh phui bí mật cuộc đời của TT Trí Quang ra trước công luận lúc bấy giờ chỉ là một việc làm vô hiệu quả, đồng thời còn là một hành động tự sát một cách ngu đần. Hơn thế nữa, bạn đồng minh Mỹ đến VN với danh nghĩa giúp chúng ta “ngăn làn sóng đỏ”, nhưng tiếc thay, họ lại chỉ là một anh chàng khổng lồ mù lòa, với võ khí là cơ quan CIA trong tay nhưng chẳng khác nào khẩu súng nước trẻ con chơi. Những người khôn ngoan chẳng ai dám tin vào họ!

Bạn đọc hãy tưởng tượng, ngay cả đến Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, một cao tăng đã có một địa vị vững chắc trong khối Phật Giáo VN và cả trên trường quốc tế, thế mà trong thời gian còn ở VN vẫn phải làm thinh “mũ ni che tai”, tránh voi không xấu mặt nào. Sau năm 1975, khi ra hải ngoại sống cuộc đời lưu vong, Hòa Thượng Thích Tâm Châu vẫn tiếp tục “thủ khẩu như bình”, mãi cho đến năm 1994, Hòa Thượng mới công bố quyển “BẠCH THƯ”, trong đó có kể lại đôi điều liên quan đến TT Thích Trí Quang và phái Phật Giáo đấu tranh miền Trung, sau hiệp thành tổ chức gọi là: “GIÁO HỘI PHẬT GIÁO V.N. THỐNG NHẤT”, trụ sở đóng tại chùa Ấn Quang, nên còn gọi là phe “PHẬT GIÁO ẤN QUANG”. Phe nhóm này chủ trương đấu tranh bạo động, gây rối loạn không ngừng ở khắp miền Nam , theo sách lược của CSBV. Đối với HT Tâm Châu, mặc dù là đồng đạo, nhưng phe Phật Giáo Ấn Quang vẫn dùng thủ đoạn khủng bố để uy hiếp tinh thần. Nơi trang 24, của Bạch Thư, HT Thích Tâm Châu kể nguyên văn như sau:
”Tôi về tới VN Quốc Tự (VNQT), bước chân vào cửa văn phòng viện trưởng Viện Hóa Đạo (VHĐ) của tôi thì có một biểu ngữ nền vàng chữ đỏ ghi: MUỐN QUẦN CHÚNG TUÂN THEO KỶ LUẬT THÌ PHẢI THEO QUẦN CHÚNG. Tôi vào tới bàn giấy của tôi thì có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư: ”YÊU CẦU CÁC THƯỢNG TỌA TRONG VIỆN HÓA ĐẠO, KHÔNG ĐƯỢC THEO THƯỢNG TỌA TÂM CHÂU”. Tôi định lên chánh điện VNQT lễ Phật, tại đây có mấy vị tăng thanh niên không cho tôi vào chánh điện VNQT và hăm dọa, ai muốn vào chùa hãy bước qua xác chết của họ.
Tôi vô cùng chán nản, không biết cách nào vãn hồi trật tự được. Tôi trở về chùa Từ Quang. Về chùa Từ Quang cũng có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư CẤM TÔI KHÔNG ĐƯỢC HOẠT ĐỘNG NỮA. Và người trong chùa cho biết là họ hăm dọa sẽ đốt xe, ám sát. Và, chính các vị tăng thanh niên đang tụ tập tại Niệm Phật Đường Quảng Đức (Bàn Cờ) định sang chùa Từ Quang giết tôi. May có sư cô Vân biết được, cấp báo cho tôi biết. Tôi trốn thoát.”
Trang 25, HT Tâm Châu viết tiếp:
”Nhóm Lập Trường ở Huế ra đời... TT Trí Quang cùng nhóm tranh đấu tại Huế, kêu gọi Phật Tử đem bàn thờ ra đường, để ngăn cản bước tiến của quân đội chính phủ, cho các cán bộ CS nằm vùng trà trộn tẩu thoát... Tại Đà Nẵng cũng như một số nơi khác, ngoài việc đem Phật ra đường, còn ghìm súng nấp sau tượng Phật bắn ra, khi quân đội tiến vào kiểm soát chùa.
Đem Phật ra đường rồi, TT Trí Quang vào tòa Hành Chánh tỉnh Thừa Thiên tuyệt thực. Sau chính phủ đưa TT Trí Quang vào Sài Gòn, ở nhà bác sĩ Nguyễn Duy Tài (* Đến đây, tôi xin mở dấu ngoặc để nói thêm về dưỡng đường của bác sĩ Nguyễn Duy Tài, để bạn đọc hiểu rõ hơn. Tôi quen với vợ chồng bác sĩ Tài từ năm 1965, khi tôi với Hồ Ngọc Cứ và Nguyễn Duy Tài cùng ra tranh cử Hội Đồng Đô Thành. Tôi biết cả nguyên nhân tiền bạc, do đâu mà vợ chồng BS tài đã có để lập nên nhà bảo sanh này. Nhưng đó là chuyện riêng của bà tài, đã xả thân để gầy vốn cho chồng làm ăn, nên tôi không đề cập vào đây làm chi). Tôi chỉ đề cập đến BS Tài. Vì hành động của ông ta liên quan đến chánh trị và gắn bó với Trí Quang. Đó là một nhà bảo sanh tư, nằm trên đường Duy Tân, nổi tiếng chuyên môn các dịch vụ phá thai bất hợp pháp, với giá cắt cổ. Những sản phụ nào gần chết mà không đủ tiền cũng đừng hòng được nhận bệnh. Một hôm, thảm cảnh thương tâm sau đây đã xảy ra: một trung sĩ ở trong xóm nhà thờ Tân Định, sau đường Hiền Vương, góc ngã ba Duy Tân, có vợ sanh khó, mất máu quá nhiều đến ngất xỉu mê man rồi. Người chồng đem vợ đến dưỡng đường Duy Tân của BS Tài gần đó xin cứu cấp. Bác Sĩ Tài đòi phải đóng tiền trước đủ 18.000 đồng mới cho nhập viện. Viên hạ sĩ quan nghèo, không đủ tiền, lạy lục xin cho đóng trước vài ngàn, còn lại sẽ trả sau. Bác sĩ Tài trả lời lạnh lùng: ”Không có tiền thì đem đi nhà thương thí, chớ đem đến đây làm gì?!” Và nhất định không nhận bệnh. Sản phụ đó chết. Người chồng đau đớn quá, mỗi chiều chiều, dắt bầy con thơ nheo nhóc đến trước dưỡng đường BS Tài ngồi khóc kể, réo đích danh Nguyễn Duy Tài chửi bới thậm tệ. Chuyện này đã kéo dài cả tháng trời. Những ai có dịp qua lại đường Duy Tân, ngang dưỡng đường Nguyễn Duy Tài thời đó đều không khỏi chạnh lòng khi chứng kiến cảnh thương tâm đó."
Vậy, chuyện Nguyễn Duy Tài chứa chấp, nuôi dưỡng, săn sóc Thích Trí Quang trong bảo sanh viện Duy Tân chẳng qua chỉ là một hành vi ”mậu dịch tình cảm” giữa bọn người quyền thế, giàu có, bất lương với nhau. Quả nhiên, ít lâu sau, Nguyễn Duy Tài đã được khối Phật Giáo Ấn Quang cài vào một danh sách tranh cử Thượng Viện, rồi trở nên nghĩ sĩ, đại diện cho phe nhóm Phật Giáo Ấn Quang. Sau ngày 30. 4. 75, ra hải ngoại, tôi không lấy gì làm lạ khi thấy vợ chồng BS Nguyễn Duy Tài, ở Paris, liên hệ chặt chẽ với TT Thích Minh Tâm, (thuộc nhóm ”Phật Giáo Thống Nhất” miền Trung!).
TT vẫn duy trì việc tuyệt thực (có uống nước thuốc dưỡng sức) cho đến khi chánh phủ quân nhân y lời hứa hồi tháng 4.66, bầu cử Quốc Hội Lập Hiến vào ngày 3.9.66... Tại miền Trung, TT Trí Quang cho tuyên truyền rằng: ”Mỹ mua đứt Tâm Châu với 3 triệu Mỹ Kim" và cho tôi là cậu của tướng Nguyễn Cao kỳ, đem quân đội ra tàn sát Phật Tử miền Trung... tại Sài Gòn TT Trí Quang và nhóm tranh đấu vu khống cho tôi là người Mỹ cho tôi 1 triệu Mỹ Kim và trả lương cho tôi mỗi tháng là 20 ngàn Mỹ Kim. Thực ra, tôi chưa được một đô la của Mỹ, chứ nói chi đến vạn đến triệu...”

Về chuyện Phật giáo Ấn Quang đem người và khí giới đến đánh chiếm và đốt phá VNQT, HT Thích Tâm Châu kể nguyên văn như sau:
”Đùng một cái, một hôm vào khoảng 7 giờ tối, một số tăng tại chùa Ấn Quang, được sự hộ trợ của các dân biểu thân Ấn Quang có súng như Kiều Mộng Thu v.v... đột nhập vào VNQT bắt TT Viện trưởng VHĐ Thích Thiện Tường cùng với rất đông chư tăng, đem về nhốt tại chùa Ấn Quang. Ngày hôm sau Nha Tuyên Úy Phật Giáo can thiệp, mời các vị Ấn Quang ra khỏi VNQT... Vẫn chưa yên. Lại một hôm khác, vào chập tối, phe Ấn Quang lại đem người, đem khí giới, tái chiếm VNQT một lần nữa. Lần này họ bắt hết tăng chúng, lấy hết đồ đạc, nhiều máy may của VNQT, và đốt cháy một dãy nhà phía tay trái Quốc Tự...” (trang 28)

Về hành động của phe Ấn Quang đánh phá, đốt chùa, bắt nhốt tăng chúng, HT Tâm Châu viết:
”Sự việc rõ ràng như thanh thiên bạch nhật, mà nhóm tranh đấu của Ấn Quang, được sự hộ trợ ngầm của CS nằm vùng, lải nhải vu khống cho VNQT chia rẽ giáo hội, Thích Tâm Châu phá hoại và lũng đoạn GHPGVNTH. Thực như câu phương ngôn của VN thường nói: ”Vừa đánh trống vừa ăn cướp, vừa ăn cướp vừa la làng“. Cậy đông lấy thịt đè người, mặc sức vu khống, thao túng không coi nhân quả ra chi cả! Cho đến nỗi những vị tăng không biết chút gì về việc tranh đấu, việc xây dựng giáo hội, cũng như các vị tăng ni, Phật tử ở xa, hay sau này, cũng a dua, hùa theo sự tuyên truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và CS nằm vùng trong suốt hơn 30 năm nay... Về vấn đề này, chính HT Thích Huyền Quang cũng thường nhắc đi nhắc lại: ”CS từng tuyên bố: Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với Cách Mạng“... Khi quân CS từ rừng về Sài Gòn đã có gần 500 tăng ni của phe tranh đấu Ấn Quang ra chào đón...” (trang 29).
...”Ngày 19.5.75, phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Ấn Quang.” (trang 30).

Nói về tinh thần đấu tranh của TT Trí Quang, HT Tâm Châu viết nơi trang 22: ”Trong lúc xáo trộn, TT Trí Quang kéo thầy Quảng Độ (biết tiếng Anh), sư Bửu Phương (biết tiếng Miên) chạy xuống Tân Châu và đang định chạy sang Kamphuchia, thì Sài Gòn trở lại yên ổn, các vị lại trở về.”...
Nhận xét về hành vi trốn chạy của TT Trí Quang, HT Tâm Châu viết nơi trang 34, đoạn 3, nguyên văn như sau:
”Việc TT Trí Quang trốn chạy xuống Tân Châu, định sang Kampuchia, chính tôi tới nhà Phật tử mà thượng tọa cư ngụ tại đường Hồng Thập Tự hỏi thăm, họ nói cho tôi biết như vậy. Và, sau TT cùng hai vị tùy tùng trở về Sài Gòn thì ai cũng biết. Để xác tín việc này, ĐĐ Thích Quảng Thành cũng có nói trong lá thư của Đại Đức gửi cho TT Trí Quang ngày 31. 12. 73 như sau: ”Năm 1964, khi Thiên Chúa Giáo xuống đường dưới thời chánh phủ Nguyễn Khánh, TT đã trút bỏ trách nhiệm, cạo bỏ râu mày, cải trang trốn sang Cao Miên. Nửa đường, nghe tình hình biến chuyển, TT mới trở về. Trong những cuộc đấu tranh, cứ đến khi nào bí lối, nguy hiểm, TT đều dùng hình thức tuyệt thực, để giao trách nhiệm và công việc cho các thượng tọa khác... Gần cuối lá thơ, ĐĐ Thích Quảng Thành với tính tình trung trực đã viết: ”Đến nỗi hiện giờ anh em chúng con so sánh Thượng Tọa (Thích Trí Quang) với nhân vật “NHẠC BẤT QUẦN“, trong tiểu thuyết nổi danh của Kim Dung. Nhạc Bất Quần là chưởng môn của một võ phái nổi tiếng và được giới giang hồ xưng tụng là “Quân Tử Kiếm“, vì lối đánh và đường kiếm của ông rất quân tử. Tuy nhiên mọi người đều lầm. Sau một thời gian mấy mươi năm, ông đã lộ chân tướng của ông là một “ngụy quân tử“, với những mưu mô và thủ đoạn cực ác và cực nham hiểm”... (trang 35).

NGUỒN GỐC GIA ĐÌNH CỦA TRÍ QUANG
Nhân Bạch Thư này, tôi xin giới thiệu thêm về lai lịch, nguồn gốc của Trí Quang, một tên CS nằm vùng hạng gộc, đã tạo nên bao nhiêu biến cố bi thương cho đất nước suốt từ 1963 đến 1975.
TT Trí Quang sanh năm 1922, năm nay đã 75 tuổi, tại làng Diêm Điền (còn gọi là Nại Hiên hay Kẻ Nại), thị xã Đồng Hới, thuộc tỉnh Quảng Bình. Làng Diêm Điền vốn là một làng nhỏ và nghèo khổ nổi tiếng ở miền Trung. Hầu hết dân làng đều làm nghề nông, thợ mộc, hay làm thuê làm mướn, để kiếm sống qua ngày. Vì phong thổ, dân làng Diêm Điền có tật nói ngọng, như dân làng Thổ Ngọa, nên đi đến đâu mở miệng ra cũng khó lẫn. Vì là nơi nghèo khổ truyền kiếp, nên dân làng Diêm Điền có tính bảo thủ, rất cực đoan, và hết sức quá khích. Trong quá khứ, khi phong trào Văn Thân nổi lên, năm 1885, dân làng Diêm Điền và làng Đồng Đình, cũng thuộc tỉnh Quảng Bình đã kéo nhau đến đốt nhà thờ Sáo Bùn, nằm về phía Nam Đồng Hới, của Thiên Chúa Giáo, tạo nên một trận hỏa hoạn khủng khiếp đã thiêu sống mấy trăm giáo dân trong đó. Sau trận đốt phá, giết chóc tàn bạo này của dân làng Diêm Điền, số giáo dân còn sống sót, đã phải chạy lên phía Bắc Đồng Hới lập nên một giáo xứ mới, gọi là Tam Tòa. Khi phong trào Việt Minh nổi lên, làng Diêm Điền đã dễ dàng trở thành “CÁI NÔI” của Cộng Sản, và dân làng này đều trở thành những tay Cộng Sản rất quá khích và khát máu. Đến năm 1947, khi quân Pháp đã tái chiếm Đồng Hới, vãn hồi an ninh, trật tự, và thiết lập đồn bót canh gác khắp tỉnh Quảng Bình, nhưng từ khoảng thời gian 1947 đến 1954, vẫn không một ai dám bén mảng đến làng Diêm Điền. Vì kẻ nào đã lạc bước đến làng đó đều kể như bị thủ tiêu luôn. Trong hoàn cảnh bần cùng ấy của làng Diêm Điền, TT Trí Quang đã xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo khổ và là người anh cả của 3 người em trai. Thuở nhỏ, TT Trí Quang đã được cha mẹ đặt tên cho là Phạm Văn Bồng. Ba người em của ông cũng đã được cha mẹ đặt tên cho. Nhưng vì gia cảnh quá túng quẫn, cha mẹ không nuôi nổi các con, nên người con trai lớn tên Phạm Văn Bồng và người em kế đã phải sớm nương thân cửa Phật để kiếm miếng ăn. Hai anh em lớn nhà họ Phạm đã xuất gia, qui y với Hòa Thượng Phổ Minh, trụ trì ở Đồng Đình, cũng thuộc thị trấn Đồng Hới. Bởi nhân duyên ấy, nên về sau bốn anh em nhà họ Phạm đã được HòaThượng Phổ Minh dùng bốn chữ: Quang, Minh, Chính, Đại, để cải danh cho. Vì thế Phạm Văn Bồng đã cải danh thành Phạm Quang, sau trở thành Thích Trí Quang. Còn ba người em tên là: Phạm Minh, Phạm Chánh, và Phạm Đại.
Nhờ nương thân nơi cửa Phật, nên hai anh em Phạm Quang và Phạm Minh đã được học hành chút đỉnh, khoảng lớp Ba tiểu học. Còn hai em là Phạm Chánh và Phạm Đại đều chịu cảnh thất học.

VỢ PHẠM CHÁNH LÀM NỘI ỨNG ĐÁNH ĐỒN
Đến năm 1945, khi phong trào Việt Minh nổi lên trên toàn quốc, Phạm Minh đã sớm rời bỏ lớp áo tu hành, tham gia kháng chiến. Nhờ có chút đỉnh chữ nghĩa, nên Phạm Minh đã được phục vụ trong Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Xã, tại địa phương. Còn hai người em, tên Phạm Chánh và Phạm Đại thì xung vào Bộ Đội. Chẳng bao lâu sau, Phạm Chánh được kháng chiến quân phong làm Tiểu Đội Trưởng Dân Quân Du Kích. Nhưng đến ngày 4. 6. 47, Phạm Chánh đã bị lính Pháp phục kích bắn chết tại Đức Phổ, thuộc phía Tây thành phố Đồng Hới. Lúc bấy giờ Phạm Chánh mới 21 tuổi. Còn người em út, tên Phạm Đại làm điều dưỡng viên trong Bộ Đội CSBV vẫn còn sống cho đến năm 1954, khi chia cắt đất nước.
Sau khi Phạm Chánh đã bị Tây bắn chết, người vợ của Phạm Chánh cũng là một kháng chiến quân, đã từ chiến khu quay trở về làng Diêm Điền, xin phép được hồi cư, với lý do được gần gũi phụng dưỡng cha mẹ chồng. Điều nên biết là vợ của Phạm Chánh lúc bấy giờ còn rất trẻ, và là một thiếu phụ nhan sắc mặn mòi. Vợ Phạm Chánh cầm đơn xin giấy phép hồi cư, lên Đồng Hới, gặp thiếu úy Huỳnh Công Tịnh. Lúc bấy giờ TU Huỳnh Công Tịnh đang giữ nhiệm vụ trưởng Phòng Nhì của Trung Đoàn Nguyễn Huệ, bộ chỉ huy đóng ở Đồng Hới, đã nhận đơn và bắt cô ta phải làm tờ cam kết không hoạt động cho Việt Minh nữa. Vợ Phạm Chánh tuân thủ, cam kết đủ mọi điều. Nhưng TU Huỳnh Công Tịnh vẫn còn nghi ngờ, nên ngầm ra lịnh cho thượng sĩ Phạm Phòng phải theo dõi sát hành tung của đương sự. Đồng thời TU Huỳnh Công Tịnh cũng ra lịnh cho trưởng đồn Diêm Điền biết sự hồi cư rất khả nghi của vợ Phạm Chánh, để đề phòng chu đáo.
Quả nhiên, chỉ vài tuần lễ sau khi mới hồi cư, vợ của Phạm Chánh đã tìm cách lân la đến đồn Diêm Điền, làm quen với các binh sĩ trong đồn. Nhiều khi cô nàng còn đùa cợt lả lơi, ra chiều khêu gợi tình tứ với anh em binh sĩ. Không bao lâu sau, cô nàng tiến gần đến mục tiêu hơn. Vợ Phạm Chánh đem thân xác trẻ đẹp, còn hấp dẫn của mình ra để thực hiện mỹ nhân kế, suồng sã bắt nhân tình với viên trưởng đồn. Trong những lần gần gũi thân mật, viên trưởng đồn nhận thấy cô nàng đã để lộ nhiều hành vi khả nghi như hay hỏi han về tình trạng binh sĩ trú đóng trong đồn, chú ý theo dõi các cuộc hành quân, và nhất là cô nàng đặc biệt quan sát các vị trí phòng ngự chung quanh đồn, các công sự chiến đấu trong đồn v.v... Vì thế viên trưởng đồn đã ngầm báo cáo cho TU Huỳnh Công Tịnh biết, để phác họa sẵn một chương trình “tương kế tựu kế”.
Về mặt địa thế, đồn Diêm Điền nằm về phía Tây, cách thành phố Đồng Hới khoảng một cây số, và là một trong những đồn vòng đai bảo vệ thành phố. Khi đã nắm vững được tin tình báo, quân Cộng Sản Việt Minh sẽ kéo tới tấn công đồn Diêm Điền, lập tức trung đoàn Nguyễn Huệ liền âm thầm mở cuộc bủa vây, bố trí các địa điểm phục kích chung quanh đồn, đồng thời bố trí các loại súng phóng tạc đạn, súng cối, và các loại trọng pháo đều nhắm vào đồn. Tối hôm đó, như thường lệ, vợ của Phạm Chánh lại vào đồn ngủ với viên trưởng đồn. Khoảng 2 giờ sáng, khi đặc công đã thi hành xong kế hoạch cắt hàng rào kẽm gai, gỡ xong một số mìn chung quanh đồn, vợ Phạm Chánh liền dùng lửa làm ám hiệu, để cho đặc công ở ngoài bò vào trong đồn.
Khi biết chắc đặc công CS đã bò vào sát đồn, viên trưởng đồn mới vùng dậy phóng ám hiệu cho các đơn vị phục kích đồng loạt khai hỏa phản công. Đến lúc bấy giờ, vợ của Phạm Chánh mới biết được kế hoạch của mình đã bại lộ, liền nhảy vào ôm ghì lấy viên đội trưởng. Giữa tiếng súng nổ ròn tứ phía như pháo ran, và tiếng súng cối nổ ì ầm chung quanh đồn, lúc bấy giờ hai người hãy còn trần truồng như nhọng, ôm nhau vật lộn xà ngầu. Cuối cùng viên trưởng đồn đã vớ được khẩu súng lục giấu sẵn dưới giường, bắn chết vợ của Phạm Chánh.
Sáng hôm sau, dư luận cả thành phố Đồng Hới đều xôn xao bàn tán về vụ quân CS Việt Minh đã tấn công hụt đồn Diêm Điền. Người ta cũng thì thào bàn tán không ngớt về chuyện vợ của Phạm Chánh, đã dùng mỹ nhân kế, làm nội gián trong vụ tấn công đồn Diêm Điền, nhưng mưu sự bất thành, và người góa phụ, em dâu của TT Trí Quang, đã bị bắn chết tại trận trong lúc thân xác còn lõa lồ. Vài ngày sau, bà mẹ của Thích Trí Quang đã bị cơ quan an ninh địa phương bắt giam mấy tuần lễ liền, để tra vấn về vụ người con dâu làm nội ứng trong vụ đánh đồn Diêm Điền. Nói về Phạm Minh, người em kế của Trí Quang, đã đi theo Việt Minh từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Theo ký giả Robert Shaplen, đã viết trong quyển “The Lost Revolution” (Nhà x.b. Harper and Row, 1965), có đoạn kể rằng: Khoảng tháng 5, 1964, sau khi nhà Ngô sụp đổ, người em trai kế của Trí Quang, tên Phạm Minh, vốn là một ủy viên của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Bình đã giả trang làm một tăng sĩ Phật Giáo, đổi tên “Thích Diệu Minh” đã cùng với một cán bộ của MTGPMN lén vào chùa Từ Đàm thăm Trí Quang...

TRÍ QUANG BỊ BẮT
Để giúp đồng bào nắm vững được các hoạt động chánh trị thiên Cộng liên tục của Trí Quang, khởi từ thập niên 30 cho đến ngày miền Nam rơi vào tay CSBV, tôi thiết tưởng cần phải mời bạn đọc theo tôi lùi về dĩ vãng, từ khi Trí Quang còn là một tu sĩ trẻ tuổi. Tuy khởi đầu, cậu bé Phạm Quang nghèo khổ đã được HT Phổ Minh cho nương nhờ cửa Phật, để có chỗ ăn học. Ở Đồng Hới, thuở ấy ai cũng biết HT Phổ Minh là một vị cao tăng, đức độ. Ngài đã có gia đình rồi mới đi tu. Nhưng ngài chỉ thông thạo Hán Văn, và biết chút đỉnh chữ Quốc Ngữ, chớ không am tường Tây học. Dù vậy, đến năm 1945, HT Phổ Minh lại không theo CSVM. Ngài đã ở lại vùng Pháp chiếm đóng, trong khi nhiều tăng sĩ Phật Giáo đã đi theo kháng chiến. Trong thời gian này, khoảng năm 1934, bác sĩ Lê Đình Thám (thân phụ của ông Lê Đình Duyên, một đảng viên VN Quốc Dân Đảng, cựu giáo sư trung học, cựu đổng lý Bộ Thông Tin, thời Nguyễn Khánh làm thủ tướng, cựu dân biểu thời đệ nhị Cộng Hòa), đã cùng với Thượng Tọa Thích Mật Thể lập ra trường An Nam Phật Học ở Huế, nhắm mục đích đào tạo tăng sĩ. Năm 1942, lúc đó Trí Quang vừa tròn 20 tuổi, đã được tuyển vào học tại trường này, và thọ giáo với Hòa Thượng Thích Trí Độ, giám đốc trường. Năm sau, 1943, Trí Quang tốt nghiệp khóa Phật Học Trung Cấp. Nên biết HT Thích Trí Độ đã gia nhập đảng CSVN từ năm 1941, lúc đảng này còn hoạt động trong bóng tối. Đến năm 1945, sau khi VM cướp chánh quyền, HT Thích Trí Độ được CSVN cử giữ chức chủ tịch trung ương Giáo Hội Phật Giáo Cứu Quốc (PGCQ). Vì thế HT Trí Độ đã kéo một số tăng sĩ theo CS, trong đó có Thích Thiện Minh, làm chủ tịch Ủy Ban PGCQ tỉnh Quảng Trị...Về phần Trí Quang, khi CSVM tuyên bố “toàn quốc kháng chiến”, và ra lịnh cho quần chúng phải tản cư khỏi các đô thị lớn như: Hà Nội, Huế và Sài Gòn v.v..., thì vào khoảng cuối năm 1946, Trí Quang trở về nơi sinh quán, làng Diêm Điền. Một thời gian ngắn sau, Trí Quang lại theo chân TT Thích Mật Thể ra Vinh. Nhưng Trí Quang chỉ ở Vinh có vài tháng, rồi lại quay trở về Diêm Điền, để giữ chức chủ tịch Ủy Ban PGCQ tỉnh Quảng Bình.
Đến năm 1947, khi quân Pháp tái chiếm Đồng Hới, Trí Quang rời làng Diêm Điền, đến cư ngụ tại làng Trung Nghĩa, vì Diêm Điền nằm quá gần thành phố, nên rất khó khăn thực hiện công tác bí mật. Trong thời gian này, Trí Quang hoạt động cùng một tổ với hai cán bộ nội thành của CSVM, tên Nguyễn Toại (còn gọi là Toại Béo), ở Đồng Đình, và Nguyễn Tịch ở Đồng Phú. Chẳng bao lâu sau, cũng trong năm 1947, Trí Quang, Toại Béo và Nguyễn Tịch đều bị Phòng Nhì Pháp theo dõi bắt trọn ổ. Lần này, Trí Quang và Nguyễn Tịch đã bị giam ở Trạm Thiên Văn Tam Tòa. Tuy bị trói giật cánh khủyu, nhưng không hiểu làm cách nào nửa đêm Nguyễn Tịch đã tự cởi trói và trốn thoát mất dạng. Ít lâu sau Trí Quang cũng đã được Pháp trả tự do. Riêng tên Toại Béo, vì trong thời gian hoạt động cho VMCS, đã chỉ điểm cho CSVM giết hại nhiều anh em hoạt động chánh trị quốc gia, chống CS, nên khi bị bắt, Toại Béo đã phải trả nợ máu. Quân Pháp đã đem Nguyễn Toại ra xử bắn, rồi chặt đầu, đem bêu ở chân Cầu Dài, phía Nam thành phố Đồng Hới. Về sau, Pháp còn đem chiếc đầu lâu của Toại Béo về bêu ở cổng Quảng Bình Quan, nằm về phía Tây thành phố. Nhưng sau khi được trả tự do ít lâu, Trí Quang lại bị Phòng Nhì của Tây bắt lần nữa, vì tội vẫn còn tiếp tục hoạt động bí mật và duy trì liên lạc với các cán bộ CSVM. Sau một thời gian bị giam, Trí Quang đã được một viên chức bảo hộ của Pháp ở Huế bảo lãnh. Lần này Trí Quang đã phải làm tờ cam kết không hoạt động cho CSVM nữa.
Sau lần phóng thích thứ nhì, Trí Quang nhận thấy quê hương Đồng Hới không còn là nơi dung thân với những hoạt động bí mật được nữa, Trí Quang liền vào Huế, trụ trì ở chùa Từ Đàm. Từ đó, bề ngoài Trí Quang làm ra vẻ chỉ chăm lo Phật sự, nhưng ngấm ngầm bên trong ông vẫn tiếp tục hoạt động cho CSVM.

TRÍ QUANG VỚI PHONG TRÀO HÒA BÌNH
Khoảng năm 1953, CSVM khởi sự chiến thuật vừa đánh vừa đàm. Một mặt vẫn đánh nhau kịch liệt với Tây, mặt khác CSVM mở chiến dịch vận động Phong Trào Hòa Bình trong nước và hải ngoại, để áp lực Pháp phải ngưng chiến ở Đông Dương. Vì thế Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình được CS lập ra, do HT Thích Trí Độ lãnh đạo. Ở miền Nam, Trí Quang đã hoạt động tích cực để ủng hộ ủy ban này. Đến năm 1954, sau Hiệp Định Genève, luật sư Nguyễn Hữu Thọ ở Sài Gòn cũng thành lập “Phong Trào Hòa Bình” để yểm trợ cho đường lối chánh trị của CSBV. Ở Huế, lúc bấy giờ Trí Quang đang làm hội trưởng Hội Việt Nam Phật Học, cũng hưởng ứng lời kêu gọi của CSBV, thành lập một Phong Trào Hòa Bình tương tợ như của LS Nguyễn Hữu Thọ. Nhân sự nòng cốt của Phong Trào Hòa Bình ở Huế, do Trí Quang thành lập, ngay từ giây phút đầu tiên đã gồm toàn cán bộ CS nằm vùng thuộc chi bộ Thuận Hóa của bác sĩ Lê Khắc Quyến. Ngoài ra, còn có sự tham gia của một số trí thức miền Trung như: Nguyễn Cao Thăng, bác sĩ Thú Y Phạm Văn Huyến, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, ông Nguyễn Văn Đẳng v.v... Lúc này ông Diệm đã về nước chấp chánh.
Ngày 29. 8. 54, Phong Trào Hòa Bình (PTHB) đã tổ chức lễ ra mắt tại Sài Gòn, và phổ biến tuyên cáo 2 điểm: yêu cầu quân Pháp rút khỏi miền Nam , và phải tổ chức ngay cuộc tổng tuyển cử theo tinh thần hiệp định Genève. Gần một tháng sau, ngày 21. 9. 54, Phong Trào Hòa Bình tổ chức một cuộc biểu tình khá lớn tại Sài Gòn đòi chánh phủ Ngô Đình Diệm phải trả những người Bắc di cư về lại miền Bắc và tổ chức hiệp thương, rồi tổ chức tổng tuyển cử toàn quốc.
Trước tình thế đó, bắt buộc chánh phủ Ngô Đình Diệm phải tỏ thái độ. Ngày 7.11. 54, chánh phủ ra lịnh bắt giam tất cả những nhân vật trí thức đã tham gia hoạt động trong phong trào này. Ở Sài Gòn, LS Nguyễn Hữu Thọ, kỹ sư Lưu Văn Lang, giáo sư Phạm Huy Thông, Kha Văn Dưỡng, cùng với một số ký giả như Nguyễn Bảo Hóa, Trần Chi Lăng... đều bị bắt.
Ở Huế, Thích Trí Quang, Nguyễn Cao Thăng, Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Dương Kỵ, Phạm Văn Huyến v.v...cũng không thoát khỏi mạng lưới an ninh. Nhưng, ở miền Trung, Ngô Đình Cẩn lại muốn nhân dịp này noi gương Gia Cát Lựơng, trổ tài “thất túng, thất cầm” Mạnh Hoạch. Ông Ngô Đình Cẩn đã dùng lời ngon ngọt, đem tiền bạc, địa vị và lợi lộc ra chiêu dụ Trí Quang và đồng bọn. Cẩn tin chắc rằng: với những tài liệu cụ thể của Phòng Nhì Pháp, chứng minh rõ ràng Trí Quang đã từng hoạt động ngấm ngầm cho CS từ lâu, hiện đang nằm trong tay ông, thì Trí Quang sẽ không đời nào dám cựa quậy, hay sanh lòng phản trắc nữa.
Đến ngày 9. 2. 55, chánh phủ Ngô Đình Diệm đã ra lịnh tống xuất 26 nhân vật đầu xỏ của PTHB ra Hải Phòng, trao cho CSBV. Nhưng trong số đó đã không có Trí Quang, không có Lê Khắc Quyến và Nguyễn Cao Thăng, Nguyễn Văn Đẳng... Như thế, ta không lấy làm lạ chẳng bao lâu sau, Lê Khắc Quyến đã được gia đình nhà Ngô trọng đãi, làm y sĩ riêng cho thân mẫu của Ngô Đình Cẩn, lại còn được bổ nhiệm làm khoa trưởng Đại Học Y Khoa, Viện Đại Học Huế, giám đốc bịnh viện trung ương Huế. Nguyễn Cao Thăng được làm chủ nhân ông công ty bào chế thuốc tây OPV, tiền bạc vô như nước lụt! Nguyễn Văn Đẳng, từ ngạch Thừa Phái được chuyển ngạch sang Tham Sự Hành Chánh, rồi được bổ nhiệm đi giữ chức tỉnh trưởng. Từ năm 1955 đến 1963, Nguyễn Văn Đẳng đã được bổ làm tỉnh trưởng Thừa Thiên, kiêm thị trưởng Huế.
Riêng Trí Quang thì được Cẩn bỏ tiền ra giúp đỡ trùng tu lại chùa Từ Đàm cho thêm phần khang trang, mỹ lệ. Nên biết chùa Từ Đàm đã xây nên từ năm 1703, thời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu. Khởi đầu chùa này mang tên “Ấn Tôn Tự”. Đến đời vua Thiệu Trị (1841- 1847) chùa đổi tên là Từ Đàm (3 chữ “Ấn Tôn Tự” bị coi như phạm húy). Vì là một ngôi cổ tự, xây cất bằng những vật liệu thô sơ, nên đến thời Bảo Đại chùa Từ Đàm đã bắt đầu bị hư mục.
Bởi thế trong khoảng thời gian từ năm 1956 đến năm 1963, đồng bào miền Trung, nhất là dân Huế, không còn ai lấy làm lạ khi thấy thỉnh thoảng ông Cẫn đã đến chùa Từ Đàm ăn cơm chay với TT Trí Quang. Ngoài ra ông Cẩn còn tích cực yểm trợ cho các hoạt động Phật Giáo của Trí Quang, ở chùa Từ Đàm, tô điểm thêm hào quang và làm tăng thêm uy tín cho Trí Quang.
Ông Cẩn đinh ninh rằng: với hồ sơ của Phòng Nhì Pháp trong tay cộng thêm sự giúp đỡ tiền bạc dồi dào, chắc chắn ông đã nắm gọn được cả phần hồn lẫn phần xác của Trí Quang. Nhưng ông Cẩn đã sai lầm hoàn toàn. Con rắn CS dù đã lột da bao nhiêu lần, nó vẫn là con rắn. Ông đã chơi trò chánh trị, muốn bắt chước Gia Cát Khổng Minh “thất cầm Mạnh Hoạch”, nhưng rất tiếc, tài trí của ông Cẩn không sánh được với Khổng Minh. Còn Trí Quang lại là một tay cán bộ CS thâm căn cố đế, thì không bao giờ có thể trở thành Mạnh Hoạch được.
Như vậy, nói theo kiểu người Tây phương, ông Cẩn đã “đùa với lửa”, còn nói theo kiểu VN ta thì ông Cẩn đã chơi trò “nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà”, chẳng trước thì sau anh em nhà ông Cẩn cũng sẽ bị Trí Quang tiêu diệt, đồng thời kéo theo cả sự sụp đổ của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa.

TRÍ QUANG VÀ CHẾ ĐỘ DIỆM
Cho đến nay ai cũng biết chế độ Ngô Đình Diệm đã bị quân đội, theo lệnh của Mỹ, làm đảo chánh. Ngược lại, giả thiết, nếu bấy giờ Mỹ chưa muốn lật đổ Diệm thì dù cho Trí Quang, Thiện Minh và nhóm Phật Giáo đấu tranh miền Trung có mọc thêm ba đầu sáu tay cũng không làm nên chuyện. Nhưng trên thực tế, ta phải nhìn nhận rằng, lúc khởi đầu Trí Quang và Thiện Minh đã chủ động trong việc phản đối lệnh giới hạn việc treo cờ Phật Giáo nhân dịp lễ Phật Đản năm 1963. Chẳng bao lâu sau cuộc phản đối này đã được sự hộ trợ tích cực của tập đoàn cán bộ CS nằm vùng ở Huế và một số tỉnh ở miền Trung, biến thành cuộc đấu tranh chánh trị, núp dưới danh nghĩa Phật Giáọ Đặc biệt nhất là sự yểm trợ của một số cán bộ cao cấp CS nằm vùng gồm: Võ Đình Cường, Nguyễn Trực và Tống Hồ Cầm... Trong thời gian Trí Quang dùng Phật Giáo để đấu tranh, dân xứ Huế ai cũng thấy Võ Đình Cường, Nguyễn Trực, và Tống Hồ Cầm đều là những cánh tay mặt và tay trái của Trí Quang. Nhưng trên thực tế, các cán bộ CS cao cấp ấy đều là “cố vấn trực tiếp chỉ đạo” của Trí Quang. Vì thực chất Trí Quang chỉ là một tu sĩ Phật Giáo có một trình độ học vấn rất đơn sơ của bậc tiểu học, với một mớ chữ Hán giới hạn đủ để đọc kinh sách. Trí Quang không có trình độ Hán học của một nhà Nho, và cũng không có chút hiểu biết gì về Tây học. Ngoài tiếng mẹ đẻ, Trí Quang không nói được một ngoại ngữ nào, dù là Anh hay Pháp ngữ. Bởi thế, ta thấy đi đâu Trí Quang cũng phải dắt theo Đại Đức Thích Nhật Thiện, như một bí thư kiêm thông dịch viên. Với căn bản đó, nên tầm hiểu biết của Trí Quang rất hạn hẹp, nhất là trên bình diện chánh trị quốc tế.
Theo hồ sơ của Phòng Nhì Pháp, người ta được biết, Võ Đình Cường vốn là một đảng viên CS thâm niên. Cường đã được kết nạp vào đảng từ năm 1943, cùng một lượt với TT Thích Minh Châu, về sau Minh Châu đã trở nên Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh. Viện đại học này tọa lạc ở gần đầu cầu Trương Minh giảng. Võ Đình Cường đã được CS chỉ định công tác tuyên vận trong giới Phật Giáo miền Trung. Suốt trong thời gian từ 1947 cho đến 1965, Võ Đình Cường đã bị bắt giam vì tội hoạt động cho CS nhiều lần, nhưng đều được Trí Quang bảo lãnh, xin trả tự do. Kể từ cuối năm 1963, tựa vào thế lực Phật Giáo đấu tranh miền Trung đang trên đà thắng lợi, Võ Đình Cường đã ra mặt hoạt động công khai, không còn e ngại gì mạng lưới an ninh của chế độ đệ nhị CH miền Nam. Sau năm 1975, Võ Đình Cường đã được đảng CSVN cử làm dân biểu quốc hội, kiêm tổng biên tập tạp chí Giác Ngộ, cơ quan tuyên vận chánh thức của khối PG thuộc Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng CSVN. Trụ sở tạp chí Giác Ngộ đặt ở số 85 đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3, tp Sài Gòn.
Về phần Thích Nhật Thiện, bí thư của Trí Quang, tuy là tay chân thân tín của Trí Quang, nhưng sau ngày 30.4.75, cũng đã bị CSBV bắt giam để điều tra, vì bị tình nghi đã hoạt động gián điệp cho CIA Mỹ. CSBV đã căn cứ trên sự kiện, đêm ngày 22. 8. 63, khi Ngô Đình Nhu ra lệnh cho Công An Cảnh Sát vây bắt tất cả sư sãi trong các chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Theraveda... không một ai thoát được, duy chỉ có Trí Quang, đã nhờ Thích Nhật Thiện đem đi trốn trong cơ quan USAID, rồi chuyển qua tòa đại sứ Mỹ. (Trong tác phẩm VNNC của Trần Văn Đôn cũng có ghi điều này).
Vậy, phải chăng Thích Nhật Thiện đã có móc ngoặc với CIA Mỹ? Còn Trí Quang thì sao? Đó là những vấn nạn trầm trọng cho cả hai thấy trò Trí Quang và Nhật Thiện!
Ngoài ra, tôi còn được biết thêm Thích Nhật Thiện, tên thật là Lê Mậu Chí, còn gọi là Hàm, sanh quán tại Thừa Thiên. Trước di cư năm 1954, Lê Mậu Chí đã làm công an thuộc ty CA Đồng Hới, rồi chuyển vào ty CA Khánh Hòa. Tại đây, vì gian díu tình ái lăng nhăng, Lê Mậu Chí đã bị đổi ra chi CA Sông Cầu. Không bao lâu sau, năm 1959, Lê Mậu Chí bị sa thải luôn khỏi ngành CA. Mất việc, Lê Mậu Chí mò vào Sài Gòn, xin xuất gia đầu Phật, và học thêm Anh Văn. Khoảng các năm 1963 đến 65, Thích Nhật Thiện trụ trì tại một ngôi chùa thuộc quận Nhì, gần khu chợ Cầu Muối. Trong thời gian này, khi ra tranh cử ở quận Nhì, tôi và Hồ Ngọc Cứ thường gặp Thích Nhật Thiện.
Theo dõi, quan sát kỹ lưỡng cuộc đấu tranh từ khởi đầu, lúc tháng 5. 1963 cho đến ngày miền Nam mất vào tay CSBV, người ta nhận ra các phương thức xách động quần chúng đô thị đấu tranh kiểu Cộng Sản đã được Trí Quang và nhóm Phật Giáo đấu tranh miền Trung đem ra áp dụng triệt để. Cao điểm của cuộc đấu tranh Phật giáo miền Trung đã đạt được là đẻ ra một tổ chức chánh trị hoạt động song hành lấy tên là “HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC” sặc mùi Cộng Sản, và nhóm “LẬP TRƯỜNG”, do toàn cán bộ CS nằm vùng đứng ra lãnh đạo như: Lê Khắc Quyến, chủ tịch chi bộ Thuận Hóa, Lê Tuyên, Tôn Thất Hanh, Nguyễn Ngọc Bang, Cao Huy Thuần, anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo(hiện đang ở Pháp)...
Vì cái tên “Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc” sặc sụa mùi CS, và lộ liễu quá, nên khó thu hút được các thành phần khác, nên chỉ một thời gian ngắn sau, Trí Quang ra lịnh cho cải danh là “LỰC LƯỢNG TRANH THỦ CÁCH MẠNG”. Đây chỉ là trò “bình mới rượu cũ”, một thủ đoạn chánh trị quen thuộc của CS, chẳng khác nào như đảng CSVN cải danh thành đảng Lao Động vậy!
Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, hậu thân của HĐNDCQ, ra đời với sự tham gia bí mật của nhiều cán bộ cao cấp CSBV, nhắm mục tiêu thừa thắng xông lên, mượn danh nghĩa nhân dân bị độc tài gia đình trị áp bức nổi dậy, cướp chánh quyền miền Nam bằng bạo lực chánh trị. Nếu mục tiêu lớn, toàn quốc không đạt được, Trí Quang sẽ tiến tới kế hoạch thỏa hiệp với một số tướng lãnh gốc miền Trung, tranh đấu đòi “MIỀN TRUNG TỰ TRỊ”, làm cho chế độ miền Nam bị tê liệt. Trong thời gian, kể từ sau ngày 1.11.63 trở đi Trí Quang tuy khoác áo tu hành, nhưng thực ra là một lãnh chúa quyền khuynh thiên hạ, các tướng lãnh cầm quyền đều kiêng dè, nể mặt. Điều này ai cũng đã thấy biết. Đặc biệt nhất là Dương Văn Minh, một cán bộ CS nằm vùng ở trong Nam giống hệt như Trí Quang nằm vùng ở miền Trung, đến giờ phút cuối cùng, ngày 30.4.75, vẫn còn phải “nhất bộ tam bái” đến “HOÀNG CUNG ẤN QUANG” chầu chực Trí Quang cả ngày lẫn đêm, để lãnh chỉ thị!
Căn cứ trên các sự kiện kể trên, ta mới có thể hiểu được cách chính xác, vì sao sau ngày chế độ nhà Ngô sụp đổ, các tay chân thân cận của gia đình họ Ngô như: BS Lê Khắc Quyến đã không bị kết tội “DƯ ĐẢNG CẦN LAO NHÂN VỊ”, Nguyễn Cao Thăng, đã kinh tài cho Ngô Đình Cẩn và đảng Cần Lao mà không bị rụng sợi lông chân nào, lại còn được hưởng trọn gia tài OPV của Cẩn để lại.
Riêng vụ nổ trước đài Phát Thanh Huế, chỉ riêng một mình thiếu tá Đặng Sĩ, phó tỉnh trưởng Nội An, cấp thừa hành của tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng, bị đưa ra tòa truy tố và bị tù khổ sai chung thân. Trong khi đó, tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng, kiêm thị trưởng thành phố Huế, người chịu trách nhiệm toàn bộ hành chánh và an ninh tại địa phương lại được nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, rồi về sau lại còn được chuyển về bộ Quốc Phòng giữ chức Công Cán Ủy Viên, thời tướng Đôn làm tổng trưởng.
Bạn đọc có biết tại sao không? Vì Đẳng vốn là tay chân bộ hạ thân tín từ lâu của Trí Quang trong các Phong Trào Hòa Bình đấy!

CẤU KẾT GIỮA TRÍ QUANG VÀ LÊ KHẮC QUYẾN
Trong phong trào Phật Giáo đấu tranh miền Trung năm 1963, do Trí Quang và một số tăng ni nằm vùng và toàn thể cán bộ CS trong chi bộ Thuận Hóa của Lê Khắc Quyến tích cực yểm trợ. Bọn CS nằm vùng này biết rõ hơn ai hết, các thầy trong chùa Từ Đàm chỉ có một số PT giới hạn, nhưng không có cán bộ xách động đấu tranh chuyên nghiệp. Bọn CS có cán bộ thành thạo việc xách động quần chúng, biết cách tổ chức đấu tranh có qui củ. Trong khi đó quần chúng VN đại đa số đều nghèo khổ, không có địa vị, nên thường dễ dàng nghe theo lời tuyên truyền rỉ tai, và dụ dỗ của CS nằm vùng. Nếu có kẻ nào cứng đầu, không nghe, bọn CS nằm vùng không ngần ngại gì áp dụng ngay biện pháp hù dọạ Có khi chúng dùng chính bàn tay của cơ quan an ninh và chánh quyền địa phương mù quáng, để thực thi những lời hăm dọa của chúng, khiến cho người dân thấp cổ bé họng chẳng còn biết nương tựa vào ai, phải khiếp sợ ngấm ngầm CS.
Ngay trong giai đoạn đầu, bọn cán bộ CS nằm vùng kể trên đã xuất hiện với lý do chính đáng là ủng hộ triệt để yêu sách của Phật Giáo, nguyện hy sinh tranh đấu cùng các tăng ni, Phật tử, rồi lại còn hô hào vận động thêm quần chúng tham gia đông đảo hơn nữạ Sau đó các thầy được đề cao lên đến tận chín tầng mây xanh, tưởng chừng như đức Phật Thích Ca sống lại cũng không bằng. Trong trường hợp này, dĩ nhiên các thầy đều không khỏi sướng rên lên. Vì các thầy đâu đã thành Phật hay Bồ Tát gì. Trong bụng ông thầy tu nào cũng vẫn có một phần cơm và một phần cứt như mọi chúng sinh thôi!
Từ đó các thầy chẳng khác nào những con cá đã ngậm phải lưỡi câu vô hình của bọn CS nằm vùng. Khi chợt biết ra, các thầy muốn nhả lưỡi câu trong họng cũng không còn kịp nữa. Vả lại, một khi đã được "thần thánh hoá" rồi còn ai dại gì muốn quay đầu trở lại, hiện nguyên hình làm một tên phàm phu tục tử nữả! Ấy là chưa kể đến yếu tố TT Trí Quang chính là một cán bộ CS gộc. Điều này, tôi sẽ chứng minh trong một đoạn tớị Sau hơn 20 năm lưu vong, đồng bào tị nạn ở hải ngoại cũng như trong nước đều đã biết hết cả rồi.
Trong đoạn này, tôi cần phải chứng minh cho mọi người thấy rõ cuộc đấu tranh của PG miền trung đã bị CS nằm vùng thao túng và lộng hành từ đầu đến cuối, như đang giữa thủ đô cờ đỏ sao vàng Hà Nộị Các sư Trí Quang, Thiện Minh chỉ là những kẻ cho mượn danh nghĩa, các chùa Từ Đàm, Diệu Đế chỉ là diễn trường của những vở bi hài kịch, và lá cờ PG chỉ là một cái vỏ bọc ngoài của một cái nhọt chánh trị đã tới hồi cương mủ, phải được xì ra.
Nếu bạn đọc là những người từng theo dõi thời cuộc nước nhà trong những tháng từ 5 đến 11, năm 1963, chắc hẳn chưa quên tờ báo "LẬP TRƯỜNG", với nhóm cán bộ CS nằm vùng đứng đầu là BS Lê Khắc Quyến. Ngay từ lúc này, chi bộ Thuận Hóa của bác sĩ Lê Khắc Quyến, anh em nhà Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo (hiện đã đào tẩu thiên đàng CS, chạy qua Paris rồi!), Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Thân Trọng Phước, Võ Đình Cường, cư sĩ PG, tác giả cuốn "ÁNH ĐẠO VÀNG"... đã nhập cuộc. Hiện nay Lê Khắc Quyến đã chết rồi, nhưng các đồng chí của ông ta vẫn còn sống và đang hoạt động cho CS. Bây giờ Võ Đình Cường đang phụ trách báo "GIÁC NGỘ", ở đường Nguyễn Đình Chiểu, (tên cũ Phan Đình Phùng) là một tờ báo của tổ chức PG quốc doanh Hơn thế nữa, nhóm CS nằm vùng này lại còn lập ra một tổ chức nhân dân hoàn toàn rập khuôn theo kiểu CS, với cái danh xưng cũng nồng nặc mùi CS là: "HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC". Chính Lê Khắc Quyến đã đứng tên chủ tịch của Hội Đồng. Nhóm ấy đã núp dưới danh nghĩa PG đấu tranh, lợi dụng tình thế rối loạn ở miền Trung, ngày 21. 9. 1964 đã tụ tập và kéo nhau đến đánh chiếm đài phát thanh Huế, đốt phá nhiều cơ sở chánh quyền ở Huế và Qui Nhơn... Đêm 23.1.65, bọn "HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CỨU QUỐC" của Lê Khắc Quyến còn kéo nhau đến phòng thông tin Mỹ ném đá và đốt cháy thư viện Mỹ, gây thiệt hại trên 5000 quyển sách. Khi đó, ông phó lãnh sự Mỹ hay tin, đến nơi lo chữa cháy để cứu sách trong thư viện cũng đã bị bọn tay chân bộ hạ của Lê Khắc Quyến chọi đá vào ông ta, khiến ông ta đã bị thương trầm trọng, phải đưa vào nhà thương cấp cứụ Hành động lợi dụng danh nghĩa PG đấu tranh chống kỳ thị tôn giáo, bọn Lê Khắc Quyến và HĐNDCQ của hắn đã phá rối nền trị an ở Huế đến cùng cực. Những ai đã từng ở Huế trong thời gian này đều không khỏi ngao ngán, tưởng chừng như là một nơi "VÔ CHÁNH PHỦ" hay CSBV sắp vào tiếp thu đến nơi rồi! Mặc dù Lê Khác Quyến và đồng bọn đã hành động phản bội quân dân miền Nam cách trắng trợn và công khai như thế - chỉ còn thiếu việc kéo cờ đỏ sao vàng lên Ngọ Môn Quan nữa mà thôi! - nhưng hắn vẫn không bị điều tra, và chẳng gặp chút khó khăn nào trước chánh quyền và luật pháp. Ngược lại, bọn độc tài quân phiệt Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh và Nguyễn Văn Thiệu... vẫn còn trọng dụng và ưu đãi hắn.
Ngày 8. 9. 1964, Lê Khắc Quyến và Tôn Thất Hanh đã được bổ nhiệm vào cái gọi là: "THƯỢNG HỘI ĐỒNG QUỐC GIA".
Sau đó Lê Khắc Quyến lại còn được đổi vào Sài Gòn cho làm giám đốc bệnh viện Sùng Chính, trong Chợ Lớn. Vây, Lê Khắc Quyến là aỉ Nhân dân cố đô Huế không ai lạ gì ông bác sĩ đã được hưởng nhiều ơn mưa móc nhất của gia đình nhà họ Ngô trong suốt 9 năm trờị Đồng thời người dân xứ Huế cũng thừa biết ông ta là người "thân với bên kia"!

LÊ KHẮC QUYẾN LÀ AI ?
Ngay từ khi ông Diệm chưa về nước chấp chánh, năm 1952, Bs Lê Khắc Quyến đã được gia đình nhà họ Ngô mời làm y sĩ riêng cho thân mẫu của ông Diệm. Đến khi ông Diệm về nước, làm thủ tướng, rồi làm tổng thống, quyền uy lừng lẫy một thời, ở ngoài Trung, ông LK Quyến ra vào dinh Phủ Cam hàng ngày như ra vào nhà của ông. Ngoài những ưu đãi về vật chất và thế lực chánh trị, LK Quyến còn được ông Diệm tặng riêng cho một chiếc xe du lịch hiệu Mercedes, trị gía khoảng 200.000 đồng. Thời kỳ 1955-56, loại xe này được qui định là xa xỉ phẩm, cấm nhập cảng cho quần chúng xử dụng. Xe đó thuộc chế độ ưu tiên nhập cảng, chỉ dành riêng cho chánh phủ và một số dân biểu gia nô trong quốc hội đệ nhất Cộng Hòạ Tưởng cũng nên nhắc lại một chút dữ kiện để bạn đọc trẻ tuởi ở hải ngoại dễ hình dung trị gía của số tiền 200.000 đồng VN thời 1955-56. Lúc ấy, người công chức chỉ được lãnh mỗi tháng khoảng 1.800 đồng. Với số lương đó, người ta có thể nuôi được vợ và một đứa con! Nhờ dựa vào thế lực nhà Ngô, LK Quyến còn được dạy học tại đại học Y Khoa Huế, và sau đó kiêm luôn chức khoa trưởng Y Khoa, thuộc viện đại học Huế.
Trong thời kỳ này chi bộ Thuận Hoá, dưới quyền chỉ huy của cán bộ LK Quyến vẫn âm thầm hoạt động, thật kín đáo, để không bị lộ tung tích. Dù bận rộn một lúc nhiều chức vụ, nhiều công việc quan trọng, như: y sĩ riêng cho bà thân mẫu TT Diệm, giáo sư, khoa trưởng phân khoa y học, bác sĩ LK Quyến vẫn cố gắng duy trì phòng mạch của ông, đã mở từ trước năm 1952, tại gần cửa Thượng Tứ, Huế. Vì chính nơi đây là trạm giao liên, đồng thời còn là trạm cứu thương, đặc biệt dành cho các cán bộ CS cao cấp thường lén về nằm điều trị. Phòng mạch của LK Quyến đã được trang bị chẳng khác nào như một bệnh xá, có nhiều giường điều trị, với đầy đủ tiện nghi tối tân cấp cứu và giải phẫu ngoại khoa.
Bệnh nhân, nếu là thường dân, muốn đến phòng mạch của BS Quyến để khám bệnh phải xin thẻ trước, lấy số trước, hoặc phải lấy ngày, giờ hẹn trước. Nhưng các cán bộ CS, đồng chí của BS thì được ưu tiên nhận bệnh và ưu tiên điều trị, không cần phải có một thủ tục nàọ Bởi các bệnh nhân đặc biệt ấy đã được thông báo trước bằng giao liên, hay bằng mật mã, ám hiệu, hoặc bằng khẩu hiệu đặc biệt của cơ sở, trong trường hợp nghiêm trọng và cấp bách. Tôi xin đơn cử một trường hợp điển hình, cụ thể, mà tôi đã biết được. Dĩ nhiên, còn vô số trường hợp khác nữa, mà tôi không biết hết. Vào khoảng mùa Hè, năm 1952, một cán bộ CS hạng gộc, tên Oanh, thuộc xã Hương Bình, quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, con ông Viên Tứ, khá nổi tiếng ở Huế, đã bị “cảm sốt cấp tính” rất nặng, có thể nguy đến tính mệnh, đã được BS Quyến đặc cách nhận bệnh, và chữa trị trong phòng riêng của phòng mạch, không ghi vào sổ nhận bệnh hay danh sách bệnh nhân. Tóm lại không để lại một dấu vết nào của tên Oanh trong hồ sơ.
Nhân viên trong phòng mạch của BS Quyến đều là cán bộ giao liên của CS. Ngoài một người y tá đàn ông, tên Nuôi, còn có một nữ y tá tên Thảo, người ở thôn Vỹ Dạ, Phú Vang, đã có chồng đi tập kết. Đến sau năm 1954, nữ y tá Thảo của BS Quyến cũng bỗng nhiên biến mất khỏi phòng mạch, không ai biết đi đâu, và cũng chẳng ai tìm ra tông tích. Về sau, trong thời kỳï Tết Mậu Thân, người dân đất Thần Kinh mới đột nhiên hoảng vía khi thấy vợ chồng nữ y tá Thảo thình lình xuất hiện. Theo tôi, người biết rõ tông tích của BS Lê Khác Quyến nhất, hiện nay còn đang sống ở Pháp, là ông Võ Như Nguyện, người đã từng giữ chức giám đốc Công An Trung Phần từ trước năm 1954. Còn thiếu tướng Đỗ Mậu, tuy đã từng nắm chức vụ giám đốc Nha An Ninh Quân Đội trong một thời gian khá lâu dài, dưới thời đệ nhất CH, nhưng cũng đã tỏ ra không biết gì nhiều về mặt trái của LK Quyến. Có thể TT Đỗ Mậu đã e ngại tư thế của LK Quyến, y sĩ điều trị riêng cho thân mẫu của tổng thống Diệm, và là người đã được ông Cẩn rất trọng nể, nên không dám sờ đến. Trong quyển hồi ký VNMLQHT, khi đề cập đến những biến động dữ dội tại miền Trung, dưới thời kỳ tướng râu dê Nguyễn Khánh cầm quyền, tác gỉa cũng chỉ nhận xét về BS Lê Khắc Quyến bằng một câu đơn giản như sau: "Trong hàng ngũ đấu tranh Phật Giáo, trước hết có các ông Lê Khắc Quyến, chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc là một phần tử thân kháng chiến mà nhiều người ở Huế biết rõ." (trang 912). Về mặt nổi LK Quyến làm chủ tịch HĐNDCQ, nhưng về mặt chìm, LK Quyến còn là chi bộ trưởng của chi bộ Thuận Hoá của CSBV. Thành phần cán bộ đảng viên gồm những người có tên sau đây: Tướng Lê Văn Nghiêm, trước năm 1954, khi quân Pháp vừa thất trận Điện Biên Phủ, đồng thời cũng là lúc mặt trận chánh trị Quốc-Cộng ở VN đang sôi động nhất, đã vội vã đem dâng toàn bộ bản đồ hành quân, có chấm tọa độ sẵn, trao cho người thân tín đem ra khu cho CS. Người đó là thầu khoán Nguyễn Ngọc Bang, một đồng chí của Lê Khắc Quyến và Lê Văn Nghiêm. Lúc bấy giờ Lê Văn Nghiêm đang mang lon trung tá. Ông ta vốn xuất thân lính khố xanh. Nhờ đã lập được nhiều công trạng hữu ích cho cách mạng từ nhiều năm qua, nên sau năm 1975, cựu tướng Lê Văn Nghiêm đã không bị quân CSBV bắt đi học tập cải tạo như hàng trăm ngàn sĩ quan khác trong quân đội Ngụy quyền miền Nam . Ông ta đã được CSBV ưu đãi cho ở nhà hú hí với vợ con, tại đường Lý Thường Kiệt, ở Huế, cho đến khi chết. Lê Văn Nghiêm vốn là bạn thân với BS Lê Khắc Quyến, Nguyễn Ngọc Bang và Thân Nguyễn Ngọc Bang vốn làm nghề thầu khoán xây cất, khá nổi tiếng ở miền Trung. Vào khoảng năm 1984, Nguyễn Ngọc Bang đã được sang Mỹ tị nạn theo diện đoàn tụ gia đình, nhưng ông ta đã qua đời khoảng năm 1991.
Một cán bộ CS khác tên Trí, làm nghề thợ mộc, có xưởng mộc tại đường Nguyễn Hoàng (tên cũ) ở Huế. Trong vụ tàn sát ở Huế dịp tết Mậu Thân, tên Trí đã lập thành tích lớn, một tay đã giết khá nhiều người.Theo hồi ký của tướng CS Lê Minh (nay đã chết) có đoạn ghi nguyên văn như sau: ”Riêng chuẩn bị cho Mậu Thân chúng tôi đã đưa 200 khẩu súng với chất nổ C4 vào bên trong nhà anh Lê Hữu Trí, Minh-Cận đều chứa vũ khí ”.Ngoài ra, tôi còn được biết thêm: Tên Trí đã hoạt động cho CS từ thời Pháp còn ở VN, rồi đến đệ nhất và đệ nhị CH không hề bị khó dễ. Tôi càng ngạc nhiên khi thấy các cơ quan an ninh dân sự lẫn quân sự đều làm lơ trước những hành động phi pháp của hắn. Tôi thấy, trước khi vụ tết Mậu Thân diễn ra, nếu chính quyền VNCH ở địa phương bắt tên Trí và đồng bọn, thì hàng vạn đồng bào ở cố đô Huế đâu đã bị chết thảm trong bàn tay tàn ác của quân CSBV! (Vậy mà tướng Trưởng, lúc bấy giờ là người có trách nhiệm bảo vệ Huế, còn dám trơ trẽn chạy tội, tuyên bố với báo chí là ông ta đã áp dụng chiến thuật... ”dụ địch”! Tội ấy với lời nói ngu xuẩn này thực đáng đem ra xử bắn tại chỗ theo quân pháp). Sau ngày 30.4. 75, người dân xứ Huế đã thấy tên thợ mộc Trí, một đồng chí trong chi bộ Thuận Hóa của BS Quyến, đã xuất hiện hoạt động công khai cho chánh quyền CS tại địa phương. Ngoài ra, chi bộ Thuận Hoá của BS Quyến còn có 2 vợ chồng tên Hiển, làm nghề bào chế thuốc tây (préparateur en pharmacie). Vào khoảng năm 1950-51, tên Hiển đã bị Tây hành quân, phục kích bắn chết trong một đêm kia tại bến đò "BA BẾN", nằm về phía quận Hương Thủỵ Còn người vợ của Hiển, sau đó cũng đã bị khai trừ ra khỏi đảng, không hiểu vì lý do gì. Hiện nay người đàn bà này đang sống tị nạn tại Canada, gần chỗ tị nạn của mấy người con của BS Quyến, và mấy người con của tướng Lê Văn Nghiêm. Nếu bạn đọc còn chưa hài lòng về những thành tích nằm vùng, ăn cơm quốc gia thờ ma CS của bác sĩ Lê Khắc Quyến, thì đây, tôi xin kể tiếp một bằng chứng nữa:
Chuyện không may này bất ngờ đã xảy ra vào khoảng cuối năm 1962. Hôm ấy, ty Công An tỉnh Thừa Thiên đã trình sang tòa hành chánh tỉnh một công văn "MẬT" có liên quan đến BS Quyến. Người tiếp phát công văn "MẬT" ấy là Công Tằng Tôn Nữ Như, một nữ tu xuất, em của ông Bửu Đồng (Lm Bửu Đồng bị VC chôn sống trong tết Mậu Thân*) và là chị của ông Bửu Sao (ở Orlando, Mỹ), con ông Ưng Trạo, có trách nhiệm trước tiên vô sổ công văn, ghi trích yếu, rồi mới phân phối ra, đệ trình lên cấp thẩm quyền giải quyết. vì công văn "MẬT" này có tầm mức quan trọng đặc biệt, nên giới chức trong tòa tỉnh đã phải cấp tốc trình thẳng lên ngay cho ông tỉnh trưởng Nguyễn Văn Đẳng duyệt xét.
Nội dung công văn MẬT ấy như sau:
"Một xe chở đầy thuốc tây đã bị lật trên lộ trình Cầu Hai - Lăng Cô, quốc lộ 1, thuộc địa phận quận Phú Lộc. Người phụ trách chuyến xe chở thuốc tây này tên là Phạm Văn Nhân, nhân viên tùng sự tại bệnh viện Huế. Trong cuộc thẩm vấn sơ khởi của công an, Phạm Văn Nhân khai là chở thuốc tây cung cấp cho chi y tế quận Phú lộc, theo lệnh của BS Lê Khắc Quyến, giám đốc bệnh viện..."Theo tường trình của công an tỉnh thì lời khai của Phạm Văn Nhân hoàn toàn sai sự thật. Vì 2 lẽ sau đây:
- Vấn đề giao thuốc tây cho các Chi Y Tế thuộc phần việc và trách nhiệm của Ty Y Tế tỉnh, tuyệt nhiên không liên quan gì đến bệnh viện Huế, dưới quyền điều khiển của BS Quyến.
- Chi Y Tế Phú Lộc nằm tại Truồi, quận lỵ, chứ không phải Cầu Hai - Lăng Cô. Nên biết rằng từ Lăng Cô đến đèo Hải Vân không xa mấỵ Nơi đây vốn là địa điểm giao liên quan trọng của Cộng Sản suốt trong thời kỳ chiến tranh.Theo tường trình của công an tỉnh thì đây là vụ tiếp tế thuốc tây cho CS, và bởi thế nên công an đề nghị nên cần phải thẩm vấn BS Quyến, rồi lập các thủ tục cần thiết chiếu theo luật định.Vì công văn này chỉ là bản sơ trình, nên cần phải được cấp trên cho phép tiến hành thủ tục thẩm vấn, nhiên hậu mới có thể thiết lập hồ sơ theo luật định. Sau khi hồ sơ đã hoàn tất mới tái trình lên tòa tỉnh và các cơ quan thẩm quyền liên hệ, để thực hiện giai đoạn chót của thủ tục là truy tố can nhân và tòng phạm ra tòa án. Nhưng công văn MẬT này của Ty Công An tỉnh đã bị một bàn tay cao cấp nào đó trong guồng máy chánh quyền thủ tiêu luôn. Thế là nội vụ bị xử chìm xuồng, và tội tiếp tế thuốc tây cho CS của BS Quyến cũng được ếm nhẹm luôn.
Điều đáng nói thêm ở đây, nhân viên có trách nhiệm tải thuốc tây cho CS tên Phạm Văn Nhân lại chính là cháu ruột của Phạm Văn Đồng, lúc bấy giờ đang làm thủ tướng chánh phủ CSBV, anh em với giáo sư Việt Văn Phạm Văn Diêu, ở Sài Gòn. Anh Phạm Văn Diêu lớn hơn tôi vài tuổi và đã dạy chung với tôi trong nhiều trường tư thục ở Sài Gòn. Dịch vụ tiếp tế thuốc tây cho CS ở miền Nam, trong suốt thời kỳ chiến tranh, nhất là dưới thời các tẩu tướng tham nhũng, thối nát cầm quyền, đã trở thành gần như "CÔNG KHAI PHỔ BIẾN". Chẳng tin, xin cứ hỏi các ông bà chủ các viện bào chế như: Trang Hai, La Thành Nghệ, Nguyễn Cao Thăng, Trương Văn Chôm, và các dược sĩ như: Ngô Khắc Tĩnh, Trần Văn Lắm, cựu chủ nhân nhà thuốc tây Cường Lắm, ở góc đường Thủ Khoa Huân và Lê Thánh Tôn, gần tiệm vàng con cọp Nguyễn Thế Tài...thì rõ!

Để có một cái nhìn chính xác về biến động miền Trung, tôi nhận thấy cá nhân ông Diệm là người có tư cách đạo đức hơn hẳn nhiều người khác mà tôi đã có dịp biết. Ông Ngô Đình Nhu xứng đáng là người trí thức, có mưu lược, tư tưởng phóng khoáng, quan niệm về tôn giáo và chánh trị rất dứt khoát. Hai ông ấy không cuồng tín và chủ trương kỳ thị tôn giáo như ông Ngô Đình Thục. Nên nhớ là vào khoảng năm 1956-57, tổng thống Ngô Đình Diệm đã duyệt y việc thành lập Phật giáo thống nhất, cho phép các khuôn hội, Niệm Phật Đường mở cửa tự do, và các Phật tử trên toàn quốc dược tự do đi lại hành lễ, không có ai cản trở hay làm khó dễ điều gì.
Như thế chắc chắn lệnh cấm treo cờ trong dịp lễ Phất Đản năm Qúi Mão là do sự đốc thúc của ông Thục. Ông Thục muốn phục vụ đắc lực "nước Chúa" của ông, nhưng không ngờ lại di hại cho toàn thể các em trong gia đình ông, khiến những người này đều bị chết thảm! Riêng ông Thục đã may mắn thoát thân, khỏi bị nhân dân đòi nợ máu, ngay trong khi biến cố trọng đại của đất nước còn đang diễn tiến.
Ngày xưa, nếu nhà vua mù quáng mà có được bầy tôi trung thành, nghĩa khí, như Biển Thước dám mắng tận mặt vua Tần Vũ Vương, thì dù cho ông vua có hôn mê, đần độn đến đâu cũng phải tỉnh ngộ, và đất nước lo gì không có ngày hưng thịnh. Ngược lại, ngay từ đầu, triều đình nhà Ngô đã bị bao vây bởi một số linh mục di cư chỉ biết có quyền lợi trước mắt. Đến khoảng cuối thập niên 50 sang đầu thập niên 60, triều đình này lại bị bao vây bởi một lũ văn quan, võ tướng bất tài, nhưng lại đặc biệt giỏi về tài nịnh hót, bợ đỡ. Đứng đầu sổ gia nô là các ông: Trương Vĩnh Lễ, cựu chủ tịch quốc hội bù nhìn, Nguyễn Phương Thiệp, tổng thơ ký quốc hội, Bùi Văn Lương, nguyên tổng ủy trưởng Dinh Điền, sau làm bộ trưởng Nội Vụ, thay thế thẩm phán Lâm Lễ Trinh. Về phía quân đội thì có Tôn Thất Đính, Huỳnh Văn Cao, Trần Thiện Khiêm... đã từng được coi như con nuôi của ông Diệm. Riêng Trí Quang và Lê Khắc Quyến cũng là những kẻ đã được hưởng ơn mưa móc rất dồi dào của chế độ. Nhưng về sau chính những kẻ thọ ơn ấy đã âm mưu giết chủ của họ. Lòng dạ con người thật là phản trắc vô thường. Đáng ghê sợ thật!

TRÍ QUANG CHO MINH CỒ LEO CÂY THOA MỠ BÒ!
Từ lâu Dương Văn Minh đã đặt hết kỳ vọng vào TT Trí Quang, coi Trí Quang như một cố vấn chỉ đạo đặc biệt, một trung gian thế lực, để thiết lập mọi thương thảo với quân CSBV. Mặt nạ “NẰM VÙNG” và “THAM VỌNG CÁ NHÂN” của Dương Văn Minh và Trí Quang mãi đến phút chót của Sài Gòn mới được hai người ấy tự tay gỡ xuống.
Theo lời của tướng Nguyễn Hữu Có, lúc ấy đang đóng vai phụ tá cho ông Minh, kể lại nguyên văn như sau:
-"Ngày 29.4.75, là ngày tôi vất vả nhất. Đi đâu Minh Cồ cũng đem tôi theo, nhất là họp hội bên Ấn Quang. Lệnh thầy (Trí Quang) bảo đến lúc nào là đi lúc đó. Tội nghiệp cho Minh Cồ làm tổng thống nhưng lại giữ nhiệm vụ kẻ thừa hành, giống như một đại đội trưởng nhận lệnh miệng của tiểu đoàn trưởng thôị Nhiều lúc tôi tự nghĩ Minh Cồ làm tổng thống hay Thích Trí Quang đâỷ...Tôi nhớ có một lần họp tại Ấn Quang do Thích Trí Quang chủ tọa cùng một vài thầy chùa khác, tôi không biết mặt và tên. Phía bên này có Minh Cồ, ông Mẫu, Lý Chánh Trung. Tôi ngồi sau lưng Minh Cồ (gần như cố vấn quân sự của Minh Cồ). Thích Trí Quang nhìn tôi với cặp mắt nhỏ, sâu, đầy nham hiểm, lườm một cái để chuyển sang hướng khác. Mình cũng biết chứ, “thầy” có ưa gì mình đâu vì vụ “bàn thờ Phật“ xuống đường 1966 và vụ biến động lớn miền Trung đâu có thể xóa đi trong đầu óc Trí Quang với ba tên “Thiệu-Kỳ-Có”. Rõ ràng với tôi, Trí Quang không bao giờ ưa và tôi nghĩ rằng nếu ”thầy“ có dịp là trả thù.
Tuy biết phận mình, nhưng Minh Cồ đâu còn ai bên cạnh trong việc đánh đấm? Hơn nữa, lúc đó có lẽ Minh Cồ cũng hiểu rằng chỉ có tôi mới thực sự vì ông ta, vì chính cái thành công của ông ta là cái thành công của tôị. Ở đời ai cũng có tham vọng lớn cả và luôn luôn nghĩ rằng mình sẽ đạt được. Cũng chính vì thế mà đã lắm chuyện.
Thực sự hôm nay ở trong tù tôi nghĩ lại mà thấy tội nghiệp cho Minh Cồ, thích làm tổng thống mà khả năng quá hạn chế, do đó bị Thích Trí Quang điều khiển đủ mọi chuyện...
Ngày lịch sử trong đời làm chánh trị của Minh Cồ không phải là ngày nhận chức tổng thống mà chính là ngày 29.4.75, vì ngày này từ 8 giờ sáng đến 12 giờ khuya Minh Cồ và tôi phải đến "HOÀNG CUNG ẤN QUANG" 5 lần và lần nào cũng với nội dung là "THẦY" cũng hứa hẹn một cách chắc chắn không thể sai lệch là sắp xong. Bên kia chậm lắm là tối 29.4.75 hay sáng 30.4.75 sẽ bàn thảo việc thành lập Chánh Phủ Liên Hiệp...
Sở dĩ đêm 29.4.75 có chuyện tôi đi đến Ấn Quang cũng là vì lời hứa miệng của Thích Trí Quang nàỵ.  Sau lúc 2 giờ sáng, chúng tôi phải rời Ấn Quang về dinh Độc Lập chờ ý “thầy”. Mệt mỏi thật, Minh Cồ ngồi nơi bàn tổng thống bên cạnh một dàn điện thoại, trong đó có một cái đặc biệt nhất dễ nhận ra là cái dành riêng cho “thầy“. Đường dây cho “thầy“ không phải là ưu tiên Một mà ưu tiên “super“, có thể nói đối với Minh Cồ là “over super“.
Chúng tôi mỗi người một chỗ ngồi nghỉ hoặc ngả lưng trên sofa chờ tin tức (phái đoàn bên kia tới để họp bàn). Rõ ràng lời “thầy“ vừa mới nói: ”Tổng thống cũng như quí ngài đây yên chí, tôi đã cho người liên lạc được với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và họ đã gặp riêng tôi nói chắc rằng đã lập xong phái đoàn đang trên đường đến đây, vì bí mật nên không cho biết giờ tiếp đón. Quý ngài cứ yên tâm về nghỉ và khi họ đến là tôi điện thoại ngay...”
Ra về, tôi thấy nét mặt của Minh Cồ còn hy vọng nhiều, ông Mẫu thì thinh thinh ít nói. Lý Chánh Trung đến giờ phút ấy vẫn hớn hở, riêng cá nhân tôi thấy tình hình ồn ào lộn xộn tại nội thành Sài Gòn đã đến lúc phải nổ tung và không thể tránh khỏi...
4 giờ 30 sáng 30.4.75, Minh Cồ sốt ruột không thể chờ thêm được nữa phải nhắc điện thoại lên xin gặp “thầy” trong khi tiếng đì đùng của loại súng AK nghe càng rõ mồn một. Minh Cồ càng quýnh hơn:
-”Thưa thầy, tôi tổng thống Dương Văn Minh, muốn biết ý kiến thầy, sao chờ đến giờ này không thấy gì hết? Anh em chúng tôi đang có mặt hết tại đây, tình hình hiện tại quá lộn xộn, xin thầy quyết định thế nào chớ, tôi thấy hoàn toàn bí lối, có lẽ nguy khốn hơn, chớ không thể nói gì với bên kia được...”
Tiếng Thích Trí Quang rè rè trong điện thoại:
-”Thưa tổng thống, cũng như tổng thống là tôi vẫn chờ đến giờ này (không biết đây là lời nói thật của ổng hay nói dối) và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thế hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chánh trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là tổng thống, hơn nữa là một đại tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của đại tướng, chứ giải pháp chánh trị của tôi coi như chấm dứt, và nếu từ giờ phút này nếu có chuyện gì xảy đến thì mọi trách nhiệm đều do tổng thống, à quên đại tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này đại tướng rất rành giỏi hơn tôi. Xin chào tổng thống...”Minh Cồ chỉ trả lời gọn một câu:”Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy. Lúc đó là 5 giờ kém 15 sáng 30.4.75 “...
(trích trong bài "Tâm tình Tướng N.H.Có trong nhà tù Hà Tây" của nhà báo CS Hồ Văn Quang ghi lại).

TRÍ QUANG DƯỚI CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN
Hiện nay Thích Trí Quang hãy còn sống ở Việt Nam . Nhưng từ 1975 cho đến bây giờ, đã 23 năm qua, không ai nghe nói đến một hoạt động nào, hay một lời tuyên bố nào của người tu sĩ này. Ngay cả những vụ chống đối CSVN về việc thành lập tổ chức Phật Giáo Quốc Doanh của các tăng sĩ chính thống, người dân VN trong và ngoài nước chẳng ai thấy tên Trí Quang tham dự. Cụ thể hơn nữa, trong đơn “XIN CỨU XÉT NHIỀU VIỆC”, đề ngày 25. 6. 92, của Hòa Thượng Huyền Quang gửi cho nhà cầm quyền CSVN, đã được phổ biến rộng rãi khắp trong nước và hải ngoại và đã gây nên một làn sóng dư luận chống đối CS mãnh liệt, ta cũng không thấy HT Huyền Quang nhắc nhở gì đến Trí Quang. Vậy Trí Quang đã và hiện đang làm gì ở VN?
Dư luận về Trí Quang ở hải ngoại cũng rất vụn vặt và mâu thuẫn. Người thì cho là Trí Quang đã lui về tu hành chân chính, không tranh đấu nữa, đã tịnh khẩu... Có người còn suy đoán có lẽ Trí Quang đã bị CS giam lỏng, quản chế...
Dĩ nhiên trong vụ này, tôi cũng như các bạn đều không ai biết gì chính xác về thân phận của Trí Quang trong thời gian sống dưới chế độ CS. Nhưng căn cứ trên một số tài liệu tiết lộ từ trong nước, chúng ta có thể tìm hiểu được phần nào. Vậy xin cống hiến bạn đọc để cùng nhau suy ngẫm.
Theo bài báo “CON ĐƯỜNG KHÚC KHỈU” của Đỗ Trung Hiếu, một cán bộ cao cấp đặc trách Ban Tôn Giáo Vận đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, kể lại những thành tích của ông ta trong thời gian còn hoạt động bí mật thì sau ngày 30.4.75, Trí Quang đã bị CSVN liệt vào thành phần “CIA CHIẾN LƯỢC”.
Đỗ Trung Hiếu đã gia nhập đảng CSVN từ năm 1956, và là mộ cán bộ nằm vùng, hoạt động trong khối Phật Giáo ở miền Nam, đặc trách theo dõi các cuộc đấu tranh của Phật Giáo từ năm 1963. Vì thế Hiếu đã quen biết rất nhiều tăng sĩ thế lực thuộc cả hai phe Ấn Quang của Thích Trí Quang và Việt Nam Quốc Tự của HT Thích Tâm Châu. Đỗ Trung Hiếu kể, khi được lịnh vận động khối Phật Giáo để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN), (tức tổ chức Phật Giáo Quốc Doanh), ông ta đã trình bày vai trò quan trọng không thể thiếu của Trí Quang với các thượng cấp chỉ huy trực tiếp là Trần Bạch Đằng và Xuân Thủy. Lúc bấy giờ Xuân Thủy đang giữ chức Bí Thư Trung Ương Đảng, kiêm trưởng ban Dân Vận Trung Ương, còn Trần Bạch Đằng làm Phó Trưởng Ban.
Khi nghe Đỗ Trung Hiếu nói về vai trò cần thiết của Trí Quang trong tổ chức GHPGVN, Trần Bạch Đằng đã gạt phắt đi, và không đồng ý cho Trí Quang tham dự vào tổ chức này. Vì theo nhận xét của Trần Bạch Đằng thì Trí Quang thuộc loại “CIA CHIẾN LƯỢC”, không thể nào dùng được.
Ít lâu sau Nguyễn Văn Linh thay thế Xuân Thủy lên làm Trưởng Ban Dân Vận Trung Ương, cũng hoàn toàn đồng ý với Trần Bạch Đằng, cho rằng Trí Quang là người không thể xài được.
Kết quả, ngày 4. 11. 1981, đại hội thành lập Giáo Hội Phật Giáo VN (quốc doanh) gồm có sự tham gia của phe Ấn Quang, tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, đã bầu ra một Hội Đồng Trị Sự như sau: chủ tịch HT Thích Trí Thủ, phó chủ tịch HT Thích Trí Tịnh, còn HT Thích Đôn Hậu làm phó Pháp Chủ kiêm Giám Luật của Hội Đồng Chứng Minh...Như vậy, bạn đọc đã thấy rõ, trong suốt cuộc chiến Quốc - Cộng ở VN, dù cho Trí Quang đã lập nên được rất nhiều công trạng lớn với CSVN, nhưng chỉ vì một chút nghi vấn không biện minh được của cái đêm 22. 8. 63 oan nghiệt, cuộc đời của Trí Quang đã bị các đồng chí của ông ta đem chôn vùi âm thầm vào trong bóng tối.

Vậy cái đêm 22. 8. 63 là cái đêm gì?
Đêm 22. 8. 63 là đêm mà Công An, Cảnh Sát, và Mật Vụ nhà Ngô đã ập vào các chùa Xá Lợi, Ấn Quang, Theraveda... để hốt hết các tăng ni, duy chỉ sót có một mình... Trí Quang!
Về sau bí mật mới được tiết lộ là: trong đêm ấy, bí thư Thích Nhật Thiện đã đem Trí Quang chạy trốn vào cơ quan USAID, rồi chuyển qua tòa đại sứ Mỹ, và được đại sứ Cabot Lodge che chở...
Chính vì thế sau ngày 30.4.75, CSBV đã bắt giam ngay Thích Nhật Thiện để điều tra, vì CS nghi Thích Nhật Thiện đã làm tay sai cho Mỹ.
Kể từ khi Thích Nhật Thiện bị bắt, Trí Quang không khỏi lo sợ cho thân phận mình, chẳng khác nào con cá nằm trên thớt, nên phải giả vờ suốt ngày ngồi Thiền, và tịnh khẩu...Nếu bạn đã đọc đoạn “HT Thích Tâm Châu nói về TT Trí Quang” ở trên rồi, hẳn bạn sẽ nhận ra đây chỉ là một phản ứng kiểu con đà điểu, theo thói quen của Trí Quang mỗi khi gặp cảnh nguy nan, sợ hãi mà thôi!...

http://vantholacviet.com

http://vantholacviet.com

http://motgoctroi.com

 

Đăng ngày 07 tháng 02.2017