Chúng vẫn múa, hát

trên những xác người

Vũ Đông Hà (Danlambao)

Thời gian: 50 năm. Sân khấu: những hố chôn người. Diễn viên: đảng cộng sản Việt-Hoa.
50 năm. Những tang thương không thể chìm vào quên lãng, những ung mũ không thể nào liền da, những nghẹn ngào không cách gì chôn vùi theo năm tháng. Những linh hồn bị treo cổ không thể thoát ra được vòng dây. Không thể! Vì tập đoàn sát nhân vẫn hát, vẫn múa, vẫn lên đồng và hò reo trên những xác người đã bị chôn sống, cắt cổ, treo cổ, thảm sát vào mùa Xuân tang thương 1968.

"Cách đây 50 năm, vào đêm 30, rạng sáng ngày 31 tháng 01 năm 1968, lời thơ Chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu vang vọng trên Đài Tiếng nói Việt Nam “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua/ Thắng trận tin vui khắp nước nhà / Nam, Bắc thi đua đánh giặc Mỹ / Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta” như lời hiệu triệu, thúc giục quân và dân ta đồng loạt nổ súng trên toàn miền Nam, mở màn Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vang dội Xuân Mậu Thân 1968."
Đó là phát biểu mở đầu của Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TPHCM, trong diễn văn tại cái gọi là "50 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968 - 2018)".
50 năm sau, con cháu của tên đồ tể Hồ Chí Minh lại một lẫn nữa xác nhận thủ phạm của cuộc tàn sát dân lành khắp miền Nam và đặc biệt là tại Huế, nơi mà tội ác chưa từng có trong lịch sử của dân tộc đã xảy ra: người Việt chôn sống người Việt. Những kẻ có cùng huyết thống, mang nhãn hiệu giải phóng, cuồng điên theo lời hiệu triệu tiến lên của Hồ Chí Minh, đã lạnh lùng chôn sống hàng ngàn đồng bào của mình.
"Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua". Chính xác. Đó là một mùa xuân "hơn hẳn" khi tên đồ tể Hồ Chí Minh cùng với đồng bọn sát nhân của hắn đã vượt mọi thành tích trước đó trong sứ mạng tàn sát tập thể đồng bào miền Nam.
50 mươi năm trôi qua. Những con đường trắng của xứ Huế đã bị nhuộm đỏ như mọi con đường khác của đất nước. Những thân xác đầu bị đập vở, cổ bị cắt đứt bởi búa liềm đã trở về với cát bụi. Nhưng những linh hồn bị treo cổ vào những ngày tết tang thương ấy vẫn bị tập đoàn sát nhân tiếp tục treo cổ cho đến ngày hôm nay. Những linh hồn đó phải bất tử để cho bài hát cuồng điên của đảng có thể bất tử. Tập đoàn cộng sản Ba Đình từ đời trước đến đời sau không chỉ là tội đồ đối với người sống mà còn đối với người chết. Hồ Chí Minh và đám con cháu của hắn không những chỉ sát hại những người dân xứ Huế và đồng bào miền Nam mà còn liên tục bắn vào linh hồn của họ bằng những viên đạn vô luân, bất lương, khốn nạn khi mỗi độ xuân về.
Và ngày hôm nay, từ lò sát nhân 2018 nhìn về lò sát nhân 1968: "Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước, của ý chí quyết tâm sắt đá, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta để giành độc lập, tự do, được dẫn dắt, soi đường bởi sự lãnh đạo tài tình, đường lối đúng đắn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại." (Nguyễn Thiện Nhân).
Chúng hát như thế. Chúng hả hê như thế. "Biểu tượng sáng ngời của lòng yêu nước" của chúng là những hố chôn người tập thể, là "ý chí quyết tâm sắt đá" dành cho những cụ già, em nhỏ, sinh viên, thanh niên, thiếu nữ bị chúng lạnh lùng đạp xuống mộ địa mới đào, là "tinh thần quyết chiến" khi hả hê xúc từng xẻng đất hất lên những đầu người vẫn còn đang khóc lóc van xin.
"Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ" chính là ngọn đuốc soi đường dẫn lối tài tình của Hồ Chí Minh - chủ lò sát nhân Bắc Bộ phủ. Và mùa xuân năm ấy, Mậu Thân 1968 là cuộc tổng ra quân, khai trương cửa lò "Người Việt Chôn Sống Người Việt" của chúng. Nó đánh dấu một "thành tích có một không hai" mà Hồ Chí Minh khi còn sống và con cháu của hắn ngày nay không thể không tổ chức kỷ niệm ăn mừng mỗi năm. Đó là thành tích biến những con người Việt Nam như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Lê Văn Hảo... cũng như hàng triệu tên mang thẻ đỏ có đóng dấu búa liềm thành những con thú máu lạnh, vô hồn, khát máu mang tên loài sản.
Mậu Thân 1968-2018. 50 năm của tội ác không thể nào tha thứ. Hãy nhớ những xác người nằm trôi sông, trôi trên ruộng đồng, trôi trên những hố thảm, trôi trên những rừng sâu, trôi trên những biển đen, trôi dật dờ theo dòng năm tháng gần một thế kỷ và hãy nhớ mãi những bài hát, những điệu múa may trên hàng vạn xác người và linh hồn dân Việt của những tên sát nhân ngày hôm nay. Hãy nhớ. Đừng quên. Để một ngày nào đó khi dân tộc vùng lên giành lại quyền làm chủ đất nước và vận mạng của chính mình, chúng ta sẽ tính chuyện "tha thứ", "bỏ qua", "hòa giải" đối với chúng ra sao.
02.02.2018

 

Tại sao đổi lịch tết Mậu Thân?

Trần Gia Phụng

 

Biến cố Mậu Thân (1968) xảy ra cách đây đúng 50 năm (1968-2018), bắt đầu từ quyết định rất khó hiểu vào lúc đó là việc sửa đổi âm lịch ở Bắc Việt Nam (BVN) nhân dịp Tết Mậu Thân.

1. Sửa đổi âm lịch ở Bắc Việt Nam
Ngày 8-8-1967, nhà cầm quyền BVN ra lệnh cho Nha Khí tượng Hà Nội đổi âm lịch, và lịch mới sẽ được áp dụng kể từ ngày 1-1-1968. Nha Khí tượng chỉ có khoảng 5 tháng để đổi lịch.
Thông thường, việc soạn lịch do những nhà khoa học lịch pháp nghiên cứu dựa trên những điều kiện thiên nhiên, chứ không phải theo ý muốn của con người, nhưng ở đây lại khác. Xin cùng nhau đọc "Lời giới thiệu của Nha Khí tượng" Hà Nội trong lần ấn hành thứ nhứt năm 1968 quyển Lịch thế kỷ XX của nhà xuất bản Phổ Thông (sau đổi thành nhà xuất bản Văn Hóa), Hà Nội, có các đoạn nguyên văn như sau:
"Lịch thế kỷ XX gồm thời gian đã qua (1901-1967) và thời gian sắp đến (1968-2000)...
"Đối với những năm đã qua, ngày tháng âm lịch và các tiết được sao lục theo đúng các lịch được công nhận là lịch chính thức trong từng thời kỳ, không đính chính. Phần nầy chúng tôi gọi là "Phần lịch sử (1901-1967).
"Đối với những năm sắp đến, ngày tháng âm lịch và các tiết được tính toán dựa theo quyết định số 121/CP ngày 8-8-1967 của Hội đồng Chính phủ. Phần nầy chúng tôi gọi là là "Phần tính toán (1968-2000)…
"… Phần nầy tính căn cứ theo Quyết định số 121/CP ngày 8-8-1967 của Hội đồng Chính phủ. Đã tính tất cả 792 ngày tiết và 408 tháng âm lịch, trong đó có 217 tháng đủ, 191 tháng thiếu, 12 tháng nhuận. Trong thời gian 33 năm sắp tới trên thế giới sẽ xảy ra 73 nhật thực và 48 nguyệt thực: ở nước ta sẽ trông thấy 10 nhật thực và 29 nguyệt thực...” (Nha Khí tượng Việt Nam, Lịch thế kỷ XX (1901-2000), Hà Nội: Nxb. Văn Hóa, 1982. "Lời giới thiệu của Nha Khí tượng", không đề trang.)
Những chữ in đậm do người viết bài nầy, nhằm lưu ý rằng không phải những nhà soạn lịch tự ý đề nghị sửa đổi âm lịch, mà việc sửa đổi nầy do quyết định số 121/CP ngày 8-8-1967 của Hội đồng chính phủ (HĐCP) BVN, tức những nhà soạn lịch phải sửa đổi âm lịch theo ý muốn của nhà cầm quyền.
Vì vậy, trong lời nói đầu, những nhà làm lịch hai lần nhấn mạnh rằng việc đổi âm lịch “được tính toán dựa theo quyết định số 121/CP ngày 8-8-1967 của Hội đồng Chính phủ.” Nghĩa là chính phủ quyết định trước, rồi giao cho những nhà lịch pháp thi hành quyết định đó, phải sửa lịch đúng theo yêu cầu của chính phủ. Dưới chế độ CS, tất cả các ban ngành đều phải phục vụ chính trị, phục vụ chế độ, phục vụ đảng CS.

2. Chỉ khác ngày mồng một tết
Việc sửa đổi âm lịch không ảnh hưởng gì đến dương lịch, chỉ ảnh hưởng đến âm lịch. Theo Nha Khí tượng Hà Nội, trong thế kỷ 20, âm lịch sửa đổi ở BVN có những sai biệt với âm lịch cũ, đang được Nam Việt Nam (NVN) sử dụng, như sau: "Cụ thể là, từ 1968 đến năm 2000 có thất cả 29 ngày tiết và 26 tháng âm lịch thiếu, đủ khác với lịch cũ. Sự khác nhau đó đưa đến kết quả là, so với lịch cũ, ngày Tết Mậu Thân (1968) và Kỷ Dậu (1969) sớm hơn một ngày. Ngày Tết Ất Sửu (1985) sớm hơn một tháng." (“Lời giới thiệu của Nha Khí tượng”, “Phần tính toán (1968-2000), sđd.) (Người viết bài nầy in đậm.)
Trong những sai biệt so với âm lịch cũ, gần nhứt và quan trọng nhứt là tháng Chạp (tháng 12) năm Đinh Mùi không có ngày 30, tức tháng Chạp thiếu, và ngày mồng Một Tết Mậu Thân (1968) ở BVN sớm hơn một ngày so với lịch cũ. Đó là ngày thứ Hai 29-1-1968 dương lịch. Trong khi đó, theo âm lịch cũ, cũng là âm lịch NVN đang sử dụng, ngày mồng Một Tết Mậu Thân là ngày thứ Ba 30-1-1968 dương lịch. (Lịch năm 1967 và 1968 của BVN theo Nha Khí Tượng Việt Nam [Hà Nội], Lịch thế kỷ XX (1901-2000), Hà Nội: Nxb. Văn Hóa, 1982. Lịch năm 1967 và 1968 của NVN theo Nguyễn Như Lân, 200 năm dương lịch và âm lịch đối chiếu [1780-1980], Sài Gòn 1961, tt. 216-227.)
Việc sửa đổi nầy không căn cứ trên nghiên cứu khoa học, mà căn cứ theo quyết định của HĐCP. Hội đồng chinh phủ CS nằm dưới quyền điều khiển của bộ chính trị đảng Lao Động. Lúc đó, chẳng ai hiểu vì sao BVN bớt đi một ngày vào cuối tháng chạp năm Đinh Mùi, và cũng chẳng ai lưu ý bớt để làm cái gi?
Ngày nay, muốn tìm hiểu câu hỏi nầy, cần nhìn lại diễn tiến chính trị và quân sự lúc đó ở BVN, vì ai cũng biết rằng tất cả việc làm, dù lớn dù nhỏ, của nhà cầm quyền Hà Nội đều luôn luôn dựa trên những tính toán chính trị hữu cơ rất chi tiết.

3. Hoàn cảnh đưa đến việc đổi âm lịch
Khi cầm quyền ở BVN từ tháng 10-1954, đảng Lao Động lo ổn định tình hình, cải cách công thương nghiệp, tổ chức công tư hợp doanh ở thành phố, cải cách ruộng đất ở nông thôn, quốc hữu hóa toàn bộ sinh hoạt kinh tế và làm chủ tuyệt đối BVN. Sau đó, CS nhìn về phương Nam, dự tính xâm lăng NVN, bành trướng chủ nghĩa CS.
Hội nghị Trung ương đảng Lao Động lần thứ 15 tại Hà Nội ngày 13-5-1959, đưa ra nghị quyết thống nhất đất nước (tức đánh chiếm NVN bằng võ lực) và đưa miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa. (Nghị quyết đăng trên nhật báo Nhân Dân ngày 14-5-1959) .
Năm sau, đại hội III đảng Lao Động tại Hà Nội từ ngày 5-9 đến ngày 10-9-1960, được mệnh danh là "Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà", đưa ra hai mục tiêu lớn của đảng Lao Động là xây dựng BVN tiến lên Xã hội chủ nghĩa và "giải phóng" NVN bằng võ lực.
Để chuẩn bị tấn công NVN, CSBVN thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) ngày 12-12-1960 tại Hà Nội. Mặt trận nầy chính thức ra mắt vào ngày 20-12-1960 tại chiến khu Dương Minh Châu vùng Tây Ninh ở NVN. (Dương Minh Châu là chủ tịch Uỷ ban Hành chánh Kháng chiến Tây Ninh bị Pháp giết chết trong một trận càn quét vào tháng 2-1947 tại Tây Ninh.)
Ở NVN, chính phủ Ngô Đình Diệm bị sụp đổ năm 1963. Nam Việt Nam bị xáo trộn liên tục trong ba năm. Chiến tranh du kích càng ngày càng lan rộng và càng ác liệt ở NVN. Quân đội Hoa Kỳ và Đồng minh đến giúp NVN càng ngày càng đông. Nền Đệ nhị Cộng Hòa được thành lập giữa năm 1967, ổn định dần dần tình hình. Năm 1967 cũng là năm bắt đầu cuộc vận động tranh cử tổng thống cho năm sau (1968) tại Hoa Kỳ. Chính trường Hoa Kỳ rất nhạy cảm và dễ dao động trong giai đoạn vận động tranh cử.
Chính trong hoàn cảnh đó, BVN dự tính mở một cuộc tổng tấn công để đánh chiếm nhanh chóng toàn bộ NVN, hoặc ít nhất phá vỡ nền tảng hành chánh mới được thiết lập của nền Đệ nhị Cộng Hòa ở NVN, đồng thời để chứng tỏ cho Hoa Kỳ thấy rằng Hoa Kỳ không thể chiến thắng tại Việt Nam, dù vào cuối năm 1967 số quân Hoa Kỳ tại NVN đã lên đến 486,000 người.
Vào đầu tháng 7-1967, tại Hà Nội, diễn ra các cuộc họp quan trọng của Bộ chính trị và Quân uỷ Trung ương đảng Lao Động, duyệt y kế hoạch phát động cuộc tấn công vào các thành phố ở NVN nhân dịp Tết
Mậu Thân (1968). Cuộc họp nầy diễn ra một tháng trước khi HĐCP Hà Nội ra quyết định ngày 8-8-1967, sửa đổi âm lịch. Phải chăng chính cuộc họp của Bộ chính trị đảng Lao Động đã ra lệnh cho HĐCP, rồi HĐCP theo đó thi hành, buộc Nha Khí tượng gấp rút soạn lại lịch, chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công ở NVN?

4. Hưu chiến tết Mậu Thân
Trong cuộc chiến Quốc Cộng, hai bên thường hưu chiến trong ba ngày Tết. Đây là một thông lệ bất thành văn giữa hai bên, tôn trọng tập tục truyền thống dân tộc Việt Nam.
Ngày 19-10-1967, đài phát thanh Hà Nội đưa ra lời tuyên bố của nhà nước VNDCCH, tự nguyện ngưng bắn từ 01G:00 sáng giờ Hà Nội ngày 27-1-1968 đến 01G:00 sáng giờ Hà Nội ngày 3-2-1968, tức trong 7 ngày.(Wikipedia.org. Chữ khóa: “Sự kiện Tết Mậu Thân.)
Ngày 17-11-1967, MTDTGPMNVN đưa ra đề nghị hưu chiến 3 ngày trong dịp lễ Giáng Sinh, 3 ngày lễ Tết dương lịch và 7 ngày Tết âm lịch. (Don Oberdorfer, TET, New York: A Da Capo Paperback, 1971, tr. 70.) Đề nghị nầy được đài phát thanh MTDTGP lập lại ngày 15-12-1967. (Đoàn Thêm, 1967 Việc từng ngày, California: Nxb. Xuân Thu tái bản, 1989, tr. 287,) Đến gần Tết Mậu Thân, ngày 27-1-1968, đài phát thanh Hà Nội đưa ra thông báo của Thông tấn xã BVN sẽ phóng thích ba tù binh Hoa Kỳ nhân dịp Tết vì nhân đạo. (Đoàn Thêm, 1968 Việc từng ngày, California: Nxb. Xuân Thu tái bản, 1989, tr. 38.)
Trong khi đó, ngày 15-12-1967, chính phủ VNCH thông báo sẽ hưu chiến trong dịp lễ Giáng sinh từ 18G:00 ngày 24-12-1967 đến 18G:00 ngày 25-12-1967; hưu chiến 24 giờ vào dịp 1-1-1968, và hưu chiến 48 giờ vào dịp Tết nguyên đán Mậu Thân. (Đoàn Thêm, 1967 Việc từng ngày, sđd. tr. 286.)
Hưu chiến là hai bên thỏa thuận tạm ngừng đánh nhau cho dân chúng hưởng Tết. Tuy nhiên, tình báo quân đội Hoa Kỳ bắt được nhiều nguồn tin là CS sẽ tấn công lớn vào dịp Tết, và thông báo cho phía VNCH biết.
Dầu vậy, trước tình hình ngoại giao có vẻ hòa hoãn, nhứt là vào cuối năm 1967, quân đội Hoa Kỳ hiện diện đông đảo ở NVN (486.000 người), đã tạo một ảo giác bình yên trong tâm lý dân chúng miền Nam, nên ngay cả cá nhân trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, vừa mới đắc cử tổng thống ngày 3-9-1967, cũng rời Sài Gòn đưa gia đình về quê vợ ở Mỹ Tho, và trung tướng Vĩnh Lộc, tư lệnh quân đoàn 2, phụ trách lãnh thổ cao nguyên Trung phần, bỏ về Sài Gòn nghỉ Tết.
Trong khi đó, về quân sự để đánh lạc hướng dự đoán của VNCH và Đồng minh, Việt cộng tấn công mãnh liệt các cứ điểm quân sự ở Cao nguyên Trung phần và đặc biệt tung ba sư đoàn chính quy là 325C, 304, và 308 bao vây Khe Sanh (Quảng Trị) từ ngày 20-1-1968. Khe Sanh là cứ điểm chiến lược kiểm soát trục giao thông và vận tải trên đường mòn Trường Sơn của cộng sản từ Bắc vào Nam, gần khu phi quân sự, do Lực lượng đặc biệt Mỹ trấn giữ, nằm trên đường số 9, giữa biên giới Lào và thị trấn Quảng Trị, cách biên giới khoảng 20 dặm và cách Quảng Trị khoảng 30 dặm.
Nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội còn đưa ra một hư chiêu, bằng cách cho báo chí Hà Nội lên tiếng rằng Khe Sanh sẽ là một Điện Biên Phủ thứ hai, khiến các nhà lãnh đạo VNCH, Hoa Kỳ, và cả thế giới nữa, đổ dồn sự chú ý vào Khe Sanh, và chờ đợi một cuộc thử sức lớn lao giữa hai bên sắp bùng nổ.

5. Tấn công đêm giao thừa
Đúng như tin tức tình báo do quân đội Hoa Kỳ bắt được, bộ đội CS đã nổi lên tấn công đêm Giao thừa và sáng Mồng Một Tết Mậu Thân ở nhiều thành phố NVN (tối thứ Hai 29-1-1968 sáng thứ Ba 30-1-1968 dương lịch). Cộng sản hy vọng tấn công trong dịp hưu chiến, thì còn gì bất ngờ hơn nữa. Tuy nhiên quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng đẩy lui cuộc tổng tấn công của bộ đội CS.
Cộng sản nổ súng đêm Giao thừa mới lòi ra âm mưu đen tối của CS. Rõ ràng BVN thay đổi âm lịch, làm cho ngày Tết Mậu Thân ở BVN trước ngày Tết NVN một ngày, nhắm mục đích diễn trò đánh lén hèn hạ, bất chấp ngày lễ cổ truyền thiêng liêng của dân tộc.
Cộng sản để cho dân chúng BVN và bộ đội của họ ăn Tết trước một ngày. Điều nầy nhắm đến hai mục tiêu: Mục tiêu thứ nhứt, trong ngày mồng Một Tết của BVN theo âm lịch mới, dân chúng BVN cũng như bộ đội CS ở BVN và NVN vui xuân bình thường như mọi năm. Đặc biệt là Không quân Việt Nam Cộng Hòa tức NVN cũng như Không quân Hoa Kỳ tôn trọng hưu chiến, không hoạt động nhân ngày hưu chiến, nên CS hưởng được một ngày an bình trọn vẹn dưới đất cũng như trên không. Mục tiêu thứ hai là đánh lừa sự quan sát theo dõi của thế giới, bảo mật tối đa đến phút chót đối với binh sĩ của họ cũng như đối với quân đội VNCH.
Ngày mồng Một Tết Mậu Thân của BVN tức là ngày 30 tháng chạp âm lịch của NVN (29-1-1968), dân chúng BVN và bộ đội CS, ở ngoài Bắc cũng như bộ đội CS ở trong Nam, đều vui chơi hưởng Tết, khiến ai cũng tưởng rằng CS sẵn sàng tôn trọng cuộc hưu chiến trong dịp Tết và không hoài nghi gì về việc CS đang chuẩn bị một cuộc tấn công quy mô trên khắp lãnh thổ VNCH.
Tuy chuẩn bị kế hoạch đầy đủ, nhưng vấn đề chính trị luôn luôn biến chuyển sinh động từng ngày, từng giờ, đôi khi đột biến bất ngờ. Có thể có những yếu tố đột biến xoay chuyển cả lịch sử. Trên thế giới đang diễn ra những cuộc vận động ngoại giao ráo riết liên tục từ nhiều nước, để giải quyết chiến tranh Việt Nam, nên đảng Lao Động phải đợi đến giờ chót mới ra lệnh là sẽ tấn công hay không tấn công?
Lệnh tổng tấn công nầy cần được ngụy trang, và Hà Nội chọn cách ngụy trang hầu như không ai chú ý, là thơ chúc Tết mà hằng năm Hồ Chí Minh thường đọc trên đài phát thanh Hà Nội. Đây là điều bình thường hằng năm ở BVN, nên chẳng ai chú ý. Lần nầy thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh là hiệu lệnh tổng tấn công.
Lệnh tấn công thì phải đọc trước giờ tấn công. Giờ tấn công định vào giờ Giao thừa ở NVN. Nếu đã định vào giờ Giao thừa, mà đọc thơ chúc Tết sáng 30 tháng chạp thì sẽ bị chú ý ngay, vì đây là một hiện tượng bất thường chưa hề xảy ra về trước. Phải đọc thơ chúc Tết đúng đêm giao thừa và được lập lại nhiều lần sáng mồng Một ở Hà Nội bình thường như mọi năm, mới tránh được sự nghi ngờ từ mọi phía.
Vậy chỉ có một biện pháp duy nhứt là sửa lịch thế nào cho BVN là mồng Một mà NVN vẫn là Ba mươi, tức là BVN trước NVN 24 giờ. Như thế Hồ Chí Minh đọc thơ chúc Tết đêm Giao thừa và lập lại sáng mồng Một ở BVN (trước Giao thừa NVN 24 giờ) nhằm truyền lệnh tấn công cho bộ đội CS vào đêm Giao thừa tức đêm Ba mươi Tết ở NVN (sau đêm Giao thừa Bắc Việt 24 giờ).
Dĩ nhiên đài Hà Nội phát đi phát lại nhiều lần bài thơ nầy trên làn sóng điện từ đêm Giao thừa và suốt trong ngày mồng Một Tết ở BVN, tức trong ngày Ba mươi ở NVN, nên ở đâu trên toàn cõi NVN tức VNCH, các cấp chỉ huy CS cũng đều nghe được mật lệnh nầy, và đều có thời giờ chuẩn bị sẵn sàng nhất loạt hành động. Cách truyền lệnh nầy hầu như không bị chú ý.
Lúc đó phương tiện thông tin liên lạc còn rất kém. Muốn ra lệnh kịp thời vào giờ chót cho các lực lượng CS trên toàn lãnh thổ NVN, trải dài từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mau (từ bắc xuống nam VNCH), thì chỉ có phương tiện duy nhứt là đài phát thanh Hà Nội, là đài phát thanh rất mạnh mà ở đâu trên toàn cõi VNCH cũng có thể nghe được. Do đó, nhà cầm quyền CSBVN chọn đài phát thanh Hà Nội để ra lệnh.

6. Tại sao đêm giao thừa?
Ngang đây, có một câu hỏi phụ thêm là CS có thể giữ nguyên lịch cũ, đêm Giao thừa, Hồ Chí Minh đọc thơ ra lệnh, tối mồng Một tấn công, cũng bất ngờ vậy? Điều nầy đúng, nhưng chắc chắn thời điểm tấn công tối mồng Một không thuận lợi bằng tấn công đêm Giao thừa.
Lý do đơn giản là đối với người Việt Nam ở Bắc cũng như Nam, ở thành thị cũng như nông thôn hay rừng núi, đêm Giao thừa có ý nghĩa linh thiêng, ở đâu mọi người đều lo cúng rước ông bà, tổ tiên về vui Tết với con cháu, và đón mừng năm mới theo tập tục cổ truyền của dân tộc.
Chắc chắn việc trực gác cơ quan hay đơn vị quân sự cũng có phần lơ là hơn là các ngày mồng Một hay mồng Hai Tết. Tại các tiền đồn hẻo lánh, các đơn vị quân đội hẵn cũng tổ chức đón mừng năm mới vào đêm Giao thừa. Do đó, tấn công đêm Ba Mươi Tết là thời điểm bất ngờ hơn cả, hy vọng đạt kết quả hơn cả. Đó là lý do CS chọn đêm Ba Mươi để hành sự. Muốn chọn đêm Ba Mươi (ở NVN) và bảo mật đến mức tối đa đến phút chót, thì CS phải sửa âm lịch theo kế hoạch như đã trình bày ở trên.
Để giữ bí mật đến phút chót, nhà cầm quyền Hà Nội còn ra lệnh cho Nha Khí tượng áp dụng lịch mới đổi từ ngày 1-1-1968, chỉ được phát hành lịch mới nầy vào đầu năm 1968, tức là ngay cả dân chúng BVN, đến phút chót vào đầu năm 1968, mới được biết việc thay đổi âm lịch.
Do đó, về phần Nha Khí tượng Hà Nội, trong lời giới thiệu rất ngắn, để tránh bớt trách nhiệm, kín đáo nhắc lại hai lần: "Đối với những năm sắp đến, ngày tháng âm lịch và các tiết được tính toán dựa theo quyết định số 121/CP ngày 8-8-1967 của Hội đồng Chính phủ. Phần nầy chúng tôi gọi là là "Phần tính toán (1968-2000)".
Đặc biệt, trong những lần ấn hành lịch vào những năm sau, Nha Khí tượng Hà Nội đều không quên in lại lời giới thiệu lần đầu nầy, như một cách tránh né trách nhiệm trước dư luận. Sự cẩn trọng của những chuyên viên lịch pháp Nha Khí tượng Hà Nội chắc chắn có những lý lẽ ngầm mà họ không thể nói ra.

Kết luận
Tóm lại, tất cả những diễn tiến chiến tranh trên đây đã trả lời câu hỏi là Hà Nội sửa đổi âm lịch năm Mậu Thân 1968 để làm gì? Nói văn hoa là để tấn công bất ngờ. Nói nôm na là để đánh lén. (Nói thô tục lả để cắn trộm.)
Tuy bội ước, tráo trở, tấn công bất ngờ, hay đánh lén, CS cũng không thành công trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân, mà còn mang lấy thảm họa, đến nỗi khi nghe nhà văn quân đội CS, đại tá Xuân Thiều trình bày: “Tôi thấy Tết Mậu Thân sáu tám ở Huế chết chóc nhiều quá, mất mát đau thương lớn quá. Bộ đội chết không còn người để chôn nhau. Dân chết cũng nhiều... Mới nghe có thế, Tổng Bí Thư [Lê Duẩn] đã đứng bật dậy, đỏ mặt quát: Ngu! Ngu! Đại Tá mà ngu!... rồi ông đùng đùng bước nhanh ra cửa như chạy trốn.” (Phạm Đình Trọng, Về Với Dân, phần 3: Khắc khoải xuân Mậu Thân 1968, https://nhatbaovanhoa.com/…/tet-mau-than-1968-nhin-tu-mot-n…)
Hứa hẹn hưu chiến, hứa hẹn tôn trọng truyền thống dân tộc. Rồi bội ước, vi phạm hưu chiến, bất chấp truyền thống dân tộc. Vì vậy không ai lấy làm lạ CS bội ước luôn cả những văn kiện quốc tế có nhiều nước trên thế giới làm chứng. Bội ước là thói quen thường ngày của người CS. Chức tước càng cao, càng có nhiều kinh nghiệm bội ước.
(Toronto, 29-01-2018)
Trần Gia Phụng

https://www.tinhthantranvanba.com


Tết Mậu Thân 1968 ở Huế

nhìn từ một nhà văn cộng sản ở Hà Nội

Phạm Đình Trọng

Trích:  Về Với Dân

Part 3: Khắc khoải xuân Mậu Thân 1968

Sau năm 1975, học xong khóa I trường Viết Văn Nguyễn Du, tôi có hai năm làm việc ở Ban Ký Sự Lịch Sử Quân Sự thuộc Tổng Cục Chính Trị.
Ban có nhiệm vụ hoàn thành bản thảo bộ ký sự lịch sử “Trận Đánh Ba Mươi Năm” gồm 5 tập. Từ 1945 đến 1975, ba mươi năm chiến tranh được chia ra làm năm giai đoạn, mỗi giai đoạn là một tập sách.
Gần ba mươi nhà văn, nhà báo quân đội chia làm năm nhóm, mỗi nhóm hoàn thành một tập bản thảo. Tôi và nhà văn Đào Thắng được bổ xung về Ban ở giai đoạn cuối và làm tập năm do nhà văn, Thượng Tá Nam Hà làm trưởng nhóm. Gặp gỡ các tướng lĩnh, những người hoạch định các chiến dịch, những người chỉ huy những trận đánh. Đọc hồi ký của các tướng lĩnh quân đội miền Bắc, quân đội miền Nam, quân đội Mỹ. Sục vào các kho hồ sơ lưu trữ...
Nguồn tư liệu gốc ngổn ngang đó cho chúng tôi hình dung đầy đủ và chính xác từng chiến dịch từ cơn cớ ban đầu, đến diễn biến ở bản doanh, diễn biến ở mặt trận và giá máu phải trả. Từ đó chúng tôi cũng nhận ra những góc khuất của chiến tranh, những góc khuất của lòng người. Người háo danh, háo quyền lực đã không tiếc máu xương của hàng triệu người lính và dân lành để thỏa mãn sự háo danh đó.
Đầu năm 1967, Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam, Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh mới từ mặt trận miền Nam trở ra Hà Nội đã cùng Bí Thư Thứ Nhất Ban chấp hành trung ương đảng Lao Động Việt Nam Lê Duẩn hình thành ý tưởng Xuân Mậu Thân 1968 Tổng Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa, giành thắng lợi quyết định và chỉ đạo cục Tác Chiến Bộ Tổng Tham Mưu làm kế hoạch thực hiện.
Trong mười một ủy viên Bộ Chính Trị, Tướng Giáp là người duy nhất lên tiếng không đồng tình với ý tưởng Tổng Công Kích, Tổng Khởi Nghĩa Xuân 1968. Theo ông sức mạnh chiến tranh của quân Mỹ, quân đồng minh ở Nam Việt Nam và quân đội Sài Gòn đang trên đỉnh cao với hơn nửa triệu quân Mỹ và quân đồng minh, gần một triệu quân Sài Gòn. Chưa đủ thời gian thấm đòn chiến tranh nhân dân của ta, hơn nửa triệu quân Mỹ với máy bay chuyển quân bay rợp trời, xe tăng dàn trận bò kín đất đang chủ động mở những cuộc hành quân lớn đánh vào vùng đất quân giải phóng kiểm soát. Lúc đối phương lực đang còn mạnh và thế đang lên mà dốc vốn vào tổng công kích trận cuối cùng chỉ cháy túi, kiệt vốn, tự sát. Căn cứ quân nước ngoài không đặt trong thành phố, thị xã. Đánh vào tất cả thành phố, thị xã, trung tâm hành chính đông dân là nhằm vào người dân. Đẩy mức độ ác liệt của chiến tranh lên cao ngay trong thành phố là mang chết chóc đến cho dân lành và dàn mỏng lực lượng ta ra phơi mình trên địa hình trống trải, lạc lõng trong đường phố bàn cờ nhằng nhịt sẽ bị tiêu diệt đến người lính cuối cùng, chỉ tự chuốc lấy thương vong lớn, không thể có chiến thắng quyết định.
Thời điểm này chỉ nên mở cuộc tập kích chiến lược: Bất ngờ đồng loạt đánh vào tất cả các căn cứ quân Sài Gòn, quân Mỹ và đồng minh trên toàn miền Nam, cùng với tiêu hao sinh lực là đánh mạnh vào tinh thần chiến đấu của đối phương, thúc đẩy phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ đòi Chính Phủ đưa con em họ về nước, tạo ra bước ngoặt về cục diện chiến tranh. Khi yếu tố bất ngờ không còn, sức mạnh của đội quân khổng lồ, sức mạnh của vũ khí, sức mạnh của công sự phía đối phương được phát huy thì ta phải thu quân bảo toàn lực lượng cho những chiến dịch đánh lớn và quyết định tiếp theo.Lý giải đúng đắn đó của Tướng Giáp chỉ là một ý kiến lẻ loi đã bị bỏ qua.
Tháng 6 năm 1967, dưới sự chủ trì của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, hội nghị trung ương 14, khóa ba quyết định Tổng tấn công và Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân 1968.
Chiều 5.7.1967, Bí thư Trung ương cục miền Nam Nguyễn Chí Thanh được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời cơm trước hôm lên đường trở lại miền Nam triển khai chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Từ bữa cơm đạm bạc, thân tình ở ngôi nhà sàn trong phủ Chủ Tịch trở về nhà riêng ở phố Lý Nam Đế, Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam rạo rực nghĩ đến chiến thắng trong tầm tay. Niềm tin chiến thắng Xuân Mậu Thân mạnh đến nỗi suốt đêm đó Bí Thư Trung Ương Cục miền Nam Nguyễn Chí Thanh âm thầm vui sướng đến mất ngủ. Quá phấn khích, rạng sáng ngày 6.7.1967, ông bị cơn nhồi máu cơ tim cướp đi mạng sống.
Còn Bí Thư Thứ Nhất Lê Duẩn, đồng tác giả Tổng Công Kích Xuân Mậu Thân 1968, cũng có niềm tin vững chắc vào chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 đến mức ông đã trù liệu cả việc giành độc quyền chiến thắng, không cho những đối thủ chính trị được ghé tên, chia phần chiến thắng của ông bằng cách không để Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp có mặt ở trong nước trong suốt thời gian chuẩn bị và quá trình diễn ra chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968.
Không có mặt ở trong nước là không can dự gì vào chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968. Chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 chỉ hoàn toàn từ Lê Duẩn, do Lê Duẩn, của Lê Duẩn.
Từ 5.9.1967, Hồ Chí Minh cùng người thư kí riêng thân tín đã phải lẻ loi, âm thầm rời đất nước sang Bắc Kinh nghỉ ngơi theo “quyết định của Bộ Chính Trị và hội đồng bác sĩ”!
Gần bốn tháng sau, mãi đến 23.12.1967 Hồ Chí Minh mới được điện mời về để tham dự cuộc họp Bộ Chính Trị ngày 28. 12. 1967 và để đọc lời chúc Tết Mậu Thân 1968 cho đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam ghi âm. Xong việc, ngày 2.1.1968 Hồ Chí Minh lại tất tả, lủi thủi lên máy bay sang Tàu.
Là Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch nước, có quê hương đất nước, có mấy chục triệu thần dân sùng bái mà Tết Mậu Thân 1968 tuổi già Hồ Chí Minh phải đón Tết bằng bánh bao, cơm Tàu, trong cô đơn, trong trống vắng lạnh lẽo nơi đất khách quê người như một kẻ thất thế lưu vong, không người thân thích, không hoa đào mứt tết, không bánh chưng, dưa hành. Đối xử như vậy với đương nhiệm Chủ Tịch đảng, đương nhiệm Chủ Tịch nước lại đã ở tuổi 78, thật tệ bạc, tàn nhẫn và độc ác!
Lại nữa, với âm mưu gì mà bố trí để một người già gần 80 tuổi đi chuyến bay vào đêm đông giá rét? Rồi khi máy bay hạ cánh trong đêm thì người lái lâu năm thuộc đường băng liền phát hiện ra đèn sân bay lệch mười lăm độ, máy bay phải lượn đến vòng thứ hai vẫn không dám hạ cánh. Báo cho sân bay nhưng đèn dẫn đường hạ cánh vẫn không thay đổi. Nếu là người lái chưa thuộc đường băng cứ hạ cánh theo đèn dẫn thì máy bay đã trượt khỏi đường băng và nổ tung rồi. Nhờ người lái lão luyện thuộc đường băng như thuộc đường ngõ xóm nhà mình nên cho máy bay hạ cánh theo trí nhớ, nhờ thế máy bay mới an toàn, người đi chuyến bay đó là Hồ Chí Minh mới còn mạng sống.
Không biết trong toan tính giành độc quyền chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968, Bí Thư Thứ Nhất Lê Duẩn có tính đến sự cố chuyến bay chở Hồ Chí Minh hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm đêm 23. 12. 1967 không nhỉ? Một sự cố nghiêm trọng như vậy mà cho chìm xuồng lặng lẽ, không điều tra làm rõ cũng là điều rất không bình thường. Sự cố tày đình đó do sơ xuất của những người quản lí, khai thác sân bay gây ra, tất sẽ được tìm ra và truy cứu trách nhiệm đến nơi đến chốn. Không được điều tra làm rõ, chỉ có thể là sự cố được bí mật tạo dựng bởi quyền lực tối cao như từ trên trời rơi xuống, không ai dám đụng đến, không thể khui ra, thôi đành cho qua!
Trong những ngày Hồ Chí Minh sống khắc khoải cô đơn bên Tàu thì Võ Nguyên Giáp cũng phải ngậm ngùi sống ở trời Tây Hungary hiu quạnh.Chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 đã diễn ra đúng như những gì Võ Nguyện Giáp đã cảnh báo: Mang chết chóc đến dân lành và đội quân ở rừng đánh vào thành phố, ở lại giữ thành phố đã phải chịu tổn thất nặng nề nhất trong suốt cuộc chiến tranh ba mươi năm.
Hai bên tham chiến đã thỏa thuận ngừng chiến dịp Tết Nguyên đán để người dân được bình yên ăn tết.Bội ước thỏa thuận, đúng giao thừa Tết Mậu Thân, đêm 31.1.1968 lịch tây, đội quân ở rừng do Hà Nội chỉ huy, thực sự là đội quân miền Bắc, nổ súng đánh vào tất cả các thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam. Bị bất ngờ, quân miền Nam và đồng minh không kịp phản ứng, đành để mất nhiều khu vực trong các thành phố, thị xã cho đội quân miền Bắc làm chủ. Tình thế này dẫn đến hai hậu quả.
Một. Vùng thành phố, thị xã do quân miền Bắc làm chủ trở thành nơi chiến sự ác liệt nhất, nơi tập trung bom đạn của cả hai phía, nơi tắm máu dân lành. Thành phố Huế là nơi quân miền Bắc ở lại lâu nhất, 28 ngày, cũng là nơi tang thương nhất. Hơn 116 000 ngôi nhà bị tàn phá, trong đó 9 776 ngôi nhà bị san bằng, 3 776 dân lành bị bom đạn giao tranh giết chết. Đội quân từ rừng về coi những người dân làm việc trong bộ máy hành chính của chính quyền Sài Gòn hoặc liên quan đến chính quyền Sài Gòn đều là kẻ thù, là ác ôn phải loại bỏ. Chiến dịch diệt ác trừ gian nhằm vào dân thường cũng diễn ra khốc liệt nhất ở khắp các thành phố, thị xã.
Hai. Đội quân miền Bắc đánh vào thành phố chỉ nhờ yếu tố bất ngờ mà giành được thắng lợi ban đầu. Yếu tố bất ngờ không còn, đội quân đánh vào thành phố từ chủ động thành bị động, phải lấy thế yếu, thế bị động, thế cô lập, bị bao vây, chia cắt, phơi mình ra trên địa hình đường phố trống trải và lạ lẫm đương đầu với thế mạnh áp đảo của đội quân miền Nam. Cố giữ các thành phố, thị xã, những trung tâm hành chính để hòng dựng lên một chính quyền cách mạng thay thế chính quyền Sài Gòn nhưng càng cố giữ thành phố, thị xã thì các thành phố, thị xã miền Nam càng trở thành vực thẳm không đáy chôn vùi quân miền Bắc.
Đơn vị sau thế chỗ đơn vị trước đã bị xóa sổ nhưng đơn vị thế chỗ càng về sau quân số càng ít ỏi! Nhiều đơn vị, cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, cả du kích bị xóa sổ nhiều lần! Nhiều đảng bộ, chi bộ hy sinh trắng không còn một đảng viên!
Tết Mậu Thân 1968 là thảm họa người Việt giết người Việt với quy mô lớn nhất, quyết liệt nhất, mê say nhất, tàn bạo nhất và số người bị giết lớn nhất, phải tính tới con số hàng trăm ngàn mà bên bị tổn thất về người nặng nề nhất chính là đội quân dồn dập đánh vào các thành phố, thị xã miền Nam dưới sự đôn đốc từ Hà Nội do sự háo danh của người nhiều tham vọng quyền lực.
Lứa nhà văn quân đội chúng tôi hình thành trong cuộc chiến tranh Nam Bắc được Tổng Cục Chính Trị tập hợp về từ giữa năm 1976 đến mùa hè năm 1984 vẫn đang có mặt đông đủ ở Vân Hồ Ba, Hà Nội. Và Vân Hồ Ba Hà Nội trở thành địa chỉ thường xuyên lui tới của những người cầm bút đất kinh kỳ.
Một buổi chiều muộn nhà văn Bùi Bình Thi phóng xe máy từ nhà sáng tác Quảng Bá, Hồ Tây đến Vân Hồ Ba hấp tấp kể với chúng tôi câu chuyện nhà văn vừa chứng kiến về người khởi xướng vụ tắm máu Tết Mậu Thân 1968 chạy trốn, chối bỏ trách nhiệm trước người dân, trước lịch sử.
Sau một ngày đóng cửa hì hục viết, trước bữa cơm chiều, các nhà văn đang ở trại sáng tác Quảng Bá thường sang phòng nhà văn quân đội, Đại Tá Xuân Thiều tán chuyện đợi nhà bếp mở cửa. Chiều nay vừa đủ mặt thì bỗng Tổng Bí Thư Lê Duẩn cùng người bảo vệ xuất hiện ở cửa phòng.
Từ đại hội lần thứ tư cuối năm 1976, đảng Lao động Việt Nam đã đổi tên thành đảng Cộng sản Việt Nam và chức Bí Thư Thứ Nhất đổi thành Tổng Bí Thư. Khu nhà nghỉ của cơ quan Trung Ương đảng Cộng sản bên Hồ Tây, cách nhà sáng tác của hội Nhà Văn dăm phút đi bộ. Tổng Bí Thư Lê Duẩn đang nghỉ ở đó. Buổi chiều ông đi dạo và ghé vào nhà sáng tác của các nhà văn.
Các nhà văn đều là đảng viên Cộng sản nhận ra Tổng Bí Thư của mình liền nồng nhiệt đón tiếp. Tổng Bí Thư vui vẻ hỏi tên từng nhà văn. Nghe nhà văn Xuân Thiều tự giới thiệu là Đại Tá, Tổng Bí Thư tươi cười hỏi: Đại Tá hỉ? Nhà văn Đại Tá hỉ? Tốt hỉ? Nghe nhà văn Bùi Bình Thi xưng tên, ông bảo: À, à, Thi lãnh đạo hội Nhà Văn hỉ? Nhà văn cao lớn Bùi Bình Thi có nước da ngăm ngăm đen, có khuôn mặt đầy đặn và hàng lông mày rậm giống nhà văn Nguyễn Đình Thi vội cải chính: Dạ, thưa bác, cháu là Bùi Bình Thi, không phải Tổng Thư Ký hội Nhà Văn Việt Nam Nguyễn Đình Thi ạ!
Trong không khí vui vẻ, nhà văn Xuân Thiều giãi bày: Thưa bác, tôi là Xuân Thiều, Đại Tá, nhà văn quân đội. Tôi đang viết tiểu thuyết về Huế trong tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Tôi thấy Tết Mậu Thân sáu tám ở Huế chết chóc nhiều quá, mất mát đau thương lớn quá. Bộ đội chết không còn người để chôn nhau. Dân chết cũng nhiều...
Mới nghe có thế, Tổng Bí Thư đã đứng bật dậy, đỏ mặt quát: Ngu! Ngu! Đại Tá mà ngu!... rồi ông đùng đùng bước nhanh ra cửa như chạy trốn.
Thực chất của Tết Mậu Thân 1968 là vậy. Đến người chủ mưu khởi xướng ra chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 cũng co cẳng chạy trốn khi nghe nhắc đến Mậu Thân 1968 thì hằng năm có nên tưng bừng kỉ niệm chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 không nhỉ?
Chiến tranh đã qua lâu rồi. Cần thoát ra khỏi tuyên truyền tâm lí chiến, không thể coi chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968, người Việt giết người Việt với quy mô lớn nhất, người Việt bị giết chết nhiều nhất trong một chiến dịch, người Việt kề nòng súng vào tai người Việt bắn ngay trên đường phố là chiến thắng của bất kỳ phía nào, của bất kỳ ai.
Trở về với bản thể con người, trở về với cội nguồn dân tộc để nhận ra rằng Xuân Mậu Thân 1968 là mùa xuân tang tóc của dân tộc Việt Nam, là trang đau buồn của lịch sử Việt Nam. Trang đau buồn đó cần ghi lên hàng đầu tên hai người.
Một tên phải viết bằng mực đen và một tên viết bằng mực đỏ. Tên viết bằng mực đỏ là Võ Nguyên Giáp. Dù Võ Nguyên Giáp bị gạt ra bên lề chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 nhưng tiếng nói của Võ Nguyên Giáp khi chiến cuộc Xuân Mậu Thân 1968 được soạn thảo, tiếng nói không đưa chiến tranh chết chóc vào nơi tập trung dân cư, không đẩy mức độ ác liệt của chiến tranh lên cao ngay trong thành phố, là tiếng nói của trái tim Con Người, tiếng nói của dòng máu đỏ Việt Nam.
(ngưng trích)

image066image064

image068t;image070

image072image074


Tết Mậu Thân

Phan Ba

Cũng như hàng năm vào ngày này, người dân Sài Gòn chào mừng năm mới của Việt Nam vào ngày 31 tháng Giêng 1968. Sự yên tĩnh phủ xuống thành phố trong những giờ đầu tiên. Vào lúc 2 giờ 45, 19 du kích quân bước xuống hai chiếc xe tối đen, đã ngừng lại trước tòa Đại sứ quán Mỹ. Vài giây sau đó, một vụ nổ đã đục thủng một lỗ hổng trên bức tường của khu đất. Trong lúc lính gác Nam Việt Nam bỏ chạy, đội biệt động cố gắng bắn mở đường tiến vào bên trong tòa đại sứ. Mãi sáu giờ sau đó, cơn ác mộng mới chấm dứt. Cũng trong đêm đó, thêm 4000 du kích khác của MTDTGP đã tiến vào các mục tiêu ở Sài Gòn và vùng phụ cận. Với súng máy tự động và súng cối, họ bắn phá trụ sở các bộ, dinh tổng thống, phi trường Tân Sơn Nhứt và những khu nhà nằm kế cận đó của các tổng hành dinh Mỹ và Nam Việt Nam. Cùng lúc, trên khắp nước, tròn 80.000 du kích quân – trong số đó cũng có vài ngàn người lính Bắc Việt – phá vỡ lần ngưng bắn truyền thống và luôn được tôn trọng để mừng Tết. Họ tấn công vào năm trong số sáu thành phố lớn, 36 của 44 tỉnh lỵ, 64 trụ sở hành chánh địa phương và nhiều thị trấn khác. Trận đánh quyết định của cuộc chiến, trận Tết Mậu Thân, bắt đầu.

Sài Gòn trong Tết Mậu Thân
Sài Gòn trong Tết Mậu Thân. Ảnh: The Vietnam Center and Archive

Cuộc tổng tấn công vào dịp Tết này đã được chuẩn bị từ lâu. Ngay từ đầu những năm sáu mươi, MTDTGP đã quyết định mang chiến tranh vào trong thành phố. Thỉnh thoảng, với những vụ đánh bom gây chấn động, họ đã chứng minh rằng những người khủng bố vẫn có thể luồn lọt qua mạng lưới dầy đặc của lực lượng an ninh tuần tra trong các thành phố. Nhưng cuộc chiến trên mặt đất của người Mỹ và sự hiện diện của hàng trăm ngàn người lính Mỹ đã bắt buộc họ phải giới hạn cuộc xung đột ở nông thôn. Tuy là họ có thể giữ được thế chủ động chiến lược. Nhưng chiến lược tiêu hao và chiến thuật “Tìm và Diệt” ngày càng gây tổn thất nhiều hơn. Ngoài ra, trong những năm 1966 và 1967, người Mỹ và Nam Việt Nam đã đẩy lùi được MTGP và mở rộng quyền kiểm soát những vùng ở nông thôn. Dòng người tỵ nạn, đổ vào thành phố và đã khiến cho nhiều vùng đất đáng kể vắng bóng người, đã cản trở việc tiếp tục tiến hành chiến thuật du kích và gây khó khăn cho tuyển mộ người mới. Ở miền Bắc, cuộc chiến tranh ném bom không thể giới hạn khả năng tiếp tục hỗ trợ cho MTDTGP một cách đáng kể. Nhưng những chiếc máy bay ném bom của Mỹ cũng gây rất nhiều khó khăn cho đất nước đó. Vì vậy mà từ 1966, MTDTGP và người Bắc Việt chờ đợi một thời điểm thích hợp cho một đợt tấn công.

Tháng Sáu 1967, người tổng chỉ huy lực lượng quân đội cộng sản hợp nhất, Tướng Thanh, ra Hà Nội để trình bày kế hoạch của ông cho giới lãnh đạo Bắc Việt Nam. Kinh nghiệm của Thanh từ cuộc chiến tranh chống Mỹ đã dạy cho ông rằng phương án của Mao về cuộc chiến tranh giải phóng cách mạng là không thể mang sang Việt Nam được. Trong cuộc nội chiến của Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã kiểm soát những vùng nông thôn và thật sự là đã tước đi các khả năng của khu thành thị. Nhưng vì điều kiện địa lý mà điều này là không thể ở Việt Nam: Ở phía sau một dãy đất phì nhiêu đông dân cư cạnh bờ biển ở phía Đông là những vùng rừng núi rộng lớn. Chỉ đồng bằng sông Cửu Long ở phía Nam của đất nước là có điều kiện địa lý tương đối giống – ở đây, MTDTGP đã thành công lâu nay trong việc noi theo gương mẫu Trung Quốc. Nhưng nói chung thì thiếu không gian để áp dụng chiến lược của Mao. Thanh và giới lãnh đạo ở Hà Nội vì vậy dựa trên một cuộc tổng tấn công nói chung và dựa trên một trận tấn công vào thành phố. Trong trường hợp tốt nhất, người ta hy vọng vào một cuộc nổi dậy của người dân thành phố và hy vọng chế độ Thiệu sẽ sụp đổ. Một chính phủ liên hiệp sau đó sẽ tước đi nền tảng và sự biện hộ cho việc người Mỹ tham chiến. Nhưng ngay cả khi không xảy ra điều đó, thì đợt tổng tấn công ít nhất là phải lấy đi ảo tưởng của người Mỹ, rằng họ đang thành công. Cuối cùng thì nó cần phải dẫn tới việc người Mỹ rút quân. Sau cái chết bí ẩn của Thanh ở Hà Nội – có nhiều người tin rằng ông hy sinh trong một cuộc ném bom, những người khác lại phỏng đoán rằng Thanh phải trả giá cho chiến lược gây nhiều tổn thất của ông – người chiến thắng ở Điện Biên Phủ, Võ Nguyên Giáp, đã tiếp nhận quyền chỉ huy trong miền Nam.
Để có thể chuẩn bị với sự kỹ lưỡng cần có, Giáp cố gắng đánh lạc hướng người Mỹ và người Nam Việt Nam ra khỏi những mục tiêu thật sự. Trong khi du kích quân bí mật mang lậu vũ khí vào thành phố trong mùa thu 1967, Giáp tập trung hai sư đoàn Bắc Việt – chừng 20.000 người – ở Khe Sanh, một ngôi làng trên núi gần vùng phi quân sự. Khe Sanh có một căn cứ nhỏ của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, kiểm soát nhiều nhánh của Đường mòn Hồ Chí Minh. Sau khi diễn ra nhiều trận đánh ác liệt, Westmoreland chuyển 6000 người lính Thủy Quân Lục Chiến đến căn cứ mang tầm quan trọng chiến lược. Vào ngày 21 tháng Giêng 1968, khi người Bắc Việt dùng pháo binh bắn phá Khe Sanh dữ dội và phá hủy nhiều phần của hệ thống phòng thủ rộng lớn, các tương đồng về mặt địa lý và cách tiến hành chiến thuật tương tự đã gợi lên những ký ức không tốt đẹp về Điện Biên Phủ trong tổng hành dinh Mỹ. Westmoreland vội vã tập trung 15.000 người lính tinh nhuệ từ khắp Nam Việt Nam vào Khe Sanh. Ngoài ra, ông tăng cường giám sát những con đường đi tới đó. Chỉ trong vòng vài ngày, 50.000 người lính Mỹ qua đó đã bận rộn với công cuộc phòng thủ căn cứ này. Trong Tòa Nhà trắng, Johnson cho người lập một mô hình của Khe Sanh và bảo đảm mọi sự hỗ trợ có thể có cho những người bị bao vây đó. Khi hỏa lực pháo binh vẫn còn tiếp tục hai ngày sau đó mặc cho những cuộc không kích rộng khắp, một Johnson lo lắng thấy rõ đã yêu cầu chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng, Tướng Earle Wheeler, đưa ra lời hứa giữ vững Khe Sanh trong mọi tình huống: “Tôi không muốn có một Điện Biên Phủ khốn kiếp”.[1]

Nhiều ngày sau lần tấn công vào các thành phố, Johson, Thiệu và Westmoreland vẫn còn tin chắc rằng Khe Sanh thật ra mới là mục tiêu của đợt tổng tấn công. Luôn luôn nhìn thấy lần chiến bại của người Pháp trước mắt, cho tới khi những người Bắc Việt còn sống sót rút quân, Westmoreland đã cho ném 100.000 tấn bom xuống một vùng đất chỉ rộng vài kilômét vuông. Đó là lần tập trung chất nổ dầy đặc nhất đã từng rơi xuống một mảnh đất của Địa Cầu. Nhìn trừng trừng vào Khe Sanh, người Mỹ và người Nam Việt Nam hoàn toàn bị bất ngờ trước những cuộc tấn công của MTDTGP. Do ngưng bắn theo truyền thống cho bốn ngày lễ quan trọng nhất của Việt Nam, phân nửa số quân nhân của QLVNCH được về phép. Các cơ quan tình báo quân đội cũng cho thấy nhiều thiếu sót đáng trách. Một vài cuộc tấn công quá sớm không được coi trọng. Không ai trong tổng hành dinh Mỹ có thể tưởng tượng được, rằng MTDTGP có thể tiến hành một chiến dịch phức tạp tới như vậy. Thêm một lần nữa, quân đội Mỹ đã đánh giá quá thấp đối phương.

U.S. Marines hold a tower position overlooking a street in the stone fortress of Hue, Vietnam's ancient imperial capital, in February, 1968, during the Tet Offensive. (AP Photo) US-Marines halten ihre Position auf einem Turm in Hue (Vietnam). Erst am 24. Februar 1968 wurde die alte vietnamesische Kaiserstadt von den GIs zurückerobert.
Lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ ở Huế, Mậu Thân 1968

Họ cũng sai lầm như vậy đối với phản ứng của QLVNCH. Sau những hoảng hốt vào lúc ban đầu, quân đội Nam Việt Nam và chính quyền Sài Gòn đã nhanh chóng lấy lại tinh thần đến mức đáng ngạc nhiên. Tại thủ đô, người Mỹ và QLVNCH đẩy du kích quân MTDTGP lùi vào trong vùng chằng chịt những con hẻm của khu phố người Hoa, Chợ Lớn. Trong những trận đánh trên đường phố kéo dài nhiều ngày, họ đã gây tổn thất nặng cho MTDTGP. Tuy vậy, trực thăng chiến đấu của Mỹ đã làm bình địa nhiều đường phố của Sài Gòn. Ở các thành phố và thị trấn khác của Nam Việt Nam cũng có một hình ảnh tương tự: sau vài ngày chiến đấu ác liệt, các du kích quân còn sống phải rút lui.
Chỉ ở Huế là những người tấn công còn có thể giữ được lâu hơn. Ở đó, tròn 7500 lính Bắc Việt đã tràn ngập thành phố. Nhờ vào sự giúp đỡ của những người theo Phật giáo và sinh viên mà thậm chí họ còn giữ được quyền kiểm soát đến vài tuần.
Huế cũng là nơi đã diễn ra một trong những vụ thảm sát đẫm máu nhất của cuộc chiến: từ 2000 đến 6000 người dân thành phố trung thành với chính phủ đã bị người Bắc Việt thảm sát.
Cuộc tái chiếm kéo dài cho tới ngày 21 tháng Hai. Chiến tranh trên đường phố và pháo binh đã phá hủy hoàn toàn thành phố của các hoàng đế khi xưa, 100.000 người phải chạy trốn.
Sau đợt tấn công đầu tiên trên khắp nước, chiến sự đã kéo dài cho tới tháng Ba. Bây giờ, MTDTGP chủ yếu sử dụng pháo binh và hỏa tiển để bắn phá các mục tiêu thành thị và cơ sở quân sự. Đầu tháng Năm, họ cố gắng dẫn tới quyết định thêm một lần nữa, nhưng đợt tấn công lần thứ nhì này không còn có được lực mạnh của đợt đầu và đã bị đánh bại nhanh chóng.Không chỉ ở Huế là có cảnh tàn phá.
Ở Đồng bằng sông Cửu Long, cuộc tái chiếm một thị trấn đã khiến cho người sĩ quan Mỹ chỉ huy phải thốt lên câu nói nổi tiếng: “Chúng tôi phải phá hủy Bến Tre để cứu nó.”[2]
Tổng kết của đợt tấn công Tết Mậu Thân thật đáng sợ: 25.000 người dân thường bị thương, trên 14.000 người chết, trong số đó trên 6000 người ở Sài Gòn. Vô số nhà cửa và hộ ở bị phá hủy và khoảng 670000 người vô gia cư. Nhiều người trong số họ không còn trở về quê của họ nữa, và rơi vào trong các trại hay khu người nghèo của các thành phố. Trong đợt tấn công Tết Mậu Thân, sự chán ngán về những thất bại kéo dài bị dồn nén lại lâu nay bây giờ đã vỡ ra, nỗi lo sợ trước những người bắn lén, trước những cuộc cận chiến và bẫy mìn đã bộc phát. Đối với những người lính thường, vấn đề đơn thuần chỉ là sự sống còn.
Đặc biệt kinh hoàng là những sự kiện tại một ngôi làng nhỏ có tên là Mỹ Lai, nơi một nhóm quân lính dưới sự chỉ huy của Thiếu úy William Calley đã gây ra một vụ thảm sát nghiêm trọng trong tháng Ba 1968. Những người lính đã hãm hiếp các phụ nữ và sau đó bắn chết tất cả 200 cư dân trong làng, trẻ em, đàn bà và người già.
Thảm sát Mỹ Lai là một trường hợp cá biệt, nhưng động lực tiềm ẩn cho tội phạm đó giống nhau ở nhiều người lính Mỹ: đối với họ, cuộc chiến từ lâu đã trở thành một cuộc chiến giữa người Mỹ và người Việt. Vi phạm các quy định của luật pháp quốc tế về đối xử với người dân thường hay với tù binh chiến tranh là việc thường ngày ở cả hai bên.
Đối với MTDTGp, đợt tổng tấn công Tết Mậu Thân mà một thất bại về quân sự. Họ và giới lãnh đạo Bắc Việt Nam đã bị thất vọng: không có nổi dậy trong các thành phố. Tuy là chỉ có một phần nhỏ người dân thành thị tích cực ủng hộ chính quyền Sài Gòn, nhưng đa số đã giữ thái độ trung lập và cố để không rơi vào giữa hai chiến tuyến. Tổn thất của MTDTGP rất lớn – các ước tính nói có cho tới 40.000 người chết. Tình hình ở nông thôn là một thảm họa cho MTDTGP. Vì họ không còn đủ mạnh để bảo vệ tất cả những vùng đất lui quân và các thành trì truyền thống, QLVNCH và quân đội Mỹ dễ dàng tiến vào những nơi đó. Điều đó không chỉ có nghĩa là mất một cách đáng kể những nguồn tài nguyên kinh tế và ảnh hưởng chính trị. Cả việc tuyển mộ tân binh cũng khó khăn hơn qua đó. Thụ động và ước ao có hòa bình đã trở thành tâm trạng mang tính quyết định. Sau 1968, MTDTGP không còn đóng vai trò quyết định về mặt quân sự nữa. Bây giờ, việc tiến hành chiến tranh ở miền Nam về cơ bản được chuyển sang cho quân đội chính quy Bắc Việt. Nhưng cuộc Chiến tranh Việt Nam không phải là một cuộc chiến tranh thông thường – về mặt quân sự, MTDTGP đã phải gánh chịu một chiến bại đau đớn, không bao giờ có thể khôi phục lại được nữa. Ngược lại, về mặt chính trị thì đợt tổng tấn công Tết Mậu Thân là một thành công đột phá. Nó đánh dấu bước ngoặt của cuộc chiến. Vì làn sóng áp lực từ Tết Mậu Thân đã gây chấn động về chính trị ở Washington xa xôi.
Phan Ba dịch

_____________

Lý do người cán binh Việt Cộng rời bỏ hàng ngũ

sau biến Cố Tết Mậu Thân 19/4/1968

Thượng Tá Trần Văn Đắc tự Tám Hà ra hồi chánh.
Qua lời kêu gọi của người chiến binh Cộng sản Bắc việt, đủ biết cuộc đấu tranh của CSVN có chính nghĩa hay không?

L’image contient peut-être : 1 personne, texte
Ảnh: Khiết Nguyễn

L’image contient peut-être : 1 personne, assis, enfant et plein air
Tết Mậu Thân 1968 tại cầu Phan Thanh Giản, Sài Gòn.
Có lẽ đây là hình ảnh đẹp nhất, ý nghĩa nhất của người bạn đồng minh Hoa Kỳ.

https://phanba.wordpress.com

 


Những hố chôn người

trong cuộc thảm sát Mậu Thân tại Huế

Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) 

Tóm lược: Bác sĩ Alje Vennema viết một cuốn sách nhan đề "The Vietcong Massacre at Hue," xuất bản năm 1976, mô tả chi tiết cuộc tàn sát dã man người dân Huế do quân cộng sản thực hiện trong Tết Mậu Thân 1968. Là nhân chứng của cuộc thảm sát và tham gia trực tiếp trong việc tìm tòi các hầm chôn và phỏng vấn gia đình nạn nhân, bác sĩ Vennema trình bày cuộc khám phá 19 hố chôn tập thể với ít nhất 2.307 xác người. Báo cáo của Bác sĩ Vennema là bằng chứng hùng hồn cho sự gian xảo và tàn ác của nhóm cầm quyền cộng sản (NCQCS) trong việc che giấu và chối bỏ tội ác tại Huế.
Cuộc thảm sát tại Huế vào Tết Mậu Thân 1968 là một cuộc giết người vô nhân đạo do cộng sản Bắc Việt và cộng sản hoạt động trong miền Nam thực hiện, chắc chắn là do chỉ thị của giới lãnh đạo Hà Nội lúc bấy giờ. Đã có rất nhiều tài liệu, hình ảnh, phim ảnh, tường thuật nhân chứng về tội ác này. Tuy nhiên, vào năm 2013, sau 45 năm im lặng, nhóm cầm quyền cộng sản (NCQCS) tại Việt Nam, trong một nỗ lực tuyệt vọng, cố xóa bỏ tội ác này bằng nhiều kế hoạch và mưu đồ gian ác. Những kế hoạch và mưu đồ gian ác này gồm có những hành động chối bỏ tội ác, thí dụ như cuốn phim "Mậu Thân 1968" do đạo diễn Lê Phong Lan, các bài viết, chương trình trên các phương tiện truyền thông. Năm 2018, NCQCS vẫn tiếp tục coi thường dư luận và chà đạp lên nỗi đau thương của người dân Huế nói riêng và dân Việt khắp nơi nói chung bằng cách linh đình ăn mừng kỷ niệm cuộc Tổng tấn công (Vũ 2018).
Trong hai bài viết đăng trên trang mạng Dân Làm Báo, tôi viết về cuộc thảm sát tại Huế và sự dối trá của NCQCS và Lê Phong Lan (Xem, Cao-Đắc 2014a; Cao-Đắc 2015a). Đặc biệt, tôi trích dẫn tài liệu trong sách viết bởi Bác Sĩ Y Khoa Alje Vennema, xuất bản năm 1976. Trong bài này, tôi sẽ trình bày lại 2 bài viết trên với vài sửa đổi, vài chi tiết cập nhật và kèm theo những hình ảnh trong sách của Vennema theo ý muốn của ông là "sự thật về Huế nên được biết" (Vennema 1976, Preface), để trình bày bằng chứng hùng hồn cho sự dối trá của NCQCS và Lê Phong Lan.

A. Cuốn phim "Mậu Thân 1968" của Lê Phong Lan:
Tôi đã viết về cuốn phim "Mậu Thân 1968" của Lê Phong Lan trong một bài nói về những lừa đảo lịch sử của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam (Cao-Đắc 2014a). Sau đây là những ý chính bài đó và vài chi tiết cập nhật về Bác sĩ Alje Vennema.
Ngày 25 tháng 1 năm 2013, Đài Truyền hình Việt Nam VTV1 khởi đầu phát hình bộ phim "Mậu Thân 1968" gồm 12 tập, do đạo diễn Lê Phong Lan thực hiện (Lê Tâm 2013). Theo Lê Phong Lan, bà ta đã đi đi về về giữa Việt Nam và Mỹ trong suốt 10 năm, "đã gặp và phỏng vấn khoảng 200 nhân chứng" cả mọi bên (cộng sản, Mỹ, và Việt Nam Cộng Hòa) để đi tìm sự thật (Lê Tâm 2013). Đáng buồn thay, cái sự thật mà Lê Phong Lan đi tìm, thực ra chỉ là một nỗ lực tuyệt vọng trong việc xóa bỏ tội ác không tả xiết của cộng sản.
Một cách khôi hài, bộ phim "Mậu Thân 1968" dường như cho thấy sau 45 năm im lặng, đã đến lúc phe cộng sản đem "sự thật" ra ánh sáng. Có ai tin là người cộng sản chịu im lặng trong 45 năm khi họ bị "vu oan"? Tuyên truyền là tài năng họ hãnh diện mà họ chịu im lặng trong 45 năm?
Một cách trắng trợn, tập 8, nhan đề "Khúc ca bi tráng," chối bỏ cuộc thảm sát tại Huế do Việt Cộng, và đổ lỗi cho bom đạn Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Trong một khúc phim, Lê Phong Lan phỏng vấn Nguyễn Đắc Xuân, kẻ nói rằng cuộc thảm sát là do phản kích tâm lý chiến của phe VNCH. Đoạn phim trích dẫn lời các học giả Hoa Kỳ Noam Chomsky, Edward S. Herman, và D. Gareth Porter cho rằng những người chết trong các hầm chôn tại Huế là do bom đạn Mỹ, do quân VNCH trả thù những cảm tình viên cộng sản khi tái chiếm Huế, và là những người lính cộng sản bỏ xác tại chiến trường. Luận điệu chống đỡ này chẳng có giá trị gì cả.
Ai cũng biết Nguyễn Đắc Xuân là một trong những tên sát nhân đã giết những người dân Huế. Những kẻ sát nhân khác gồm có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, và Nguyễn Thị Đoan Trinh (Xem, thí dụ như, Hình 13; Vennema 1976, 94). Phỏng vấn một chiều một kẻ bị coi là sát nhân về tội ác mà hắn gây ra là một chuyện ghê tởm trong phim tài liệu lịch sử. Trích dẫn lời của những học giả phản chiến về cuộc chiến quả thật là một nỗ lực ngu xuẩn của những kẻ muốn sửa lại lịch sử.
Do đó, không ngạc nhiên khi bộ phim "Mậu Thân 1968" không hề đề cập đến một nhân chứng vả tài liệu quan trọng nhất về vụ thảm sát Mậu Thân: Bác sĩ Alje Vennema và cuốn sách ông, nhan đề "The Vietcong massacre at Hue" ("Cuộc thảm sát tại Huế bởi Việt Cộng") xuất bản năm 1976 (Hình 1; Hình 2; Vennema 1976). Bác sĩ Alje Vennema, từng là một cảm tình viên cho phong trào phản chiến, là nhân chứng đáng tin cậy nhất về vụ thảm sát Mậu Thân vì ông đích thân tham gia trong việc tìm các hầm chôn nạn nhân và khám xét hài cốt nạn nhân để xác định nguyên nhân chết với cặp mắt chính xác của một bác sĩ.
Alje Vennema (1932 - June 7, 2011) là một bác sĩ y khoa người Hòa Lan - Gia Nã Đại (Wikipedia 2018). Sinh tại Leeuwarden, Hòa Lan, vào năm 1932, ông đến Gia Nã Đại năm 1951 và học Y Khoa tại trường Y Khoa, McGill University, tốt nghiệp năm 1962. Từ năm 1965 tới 1968, ông là giám đốc về hỗ trợ y tế Gia Nã Đại tại Việt Nam. Ông được ban Order of Canada, một danh dự cao quý cấp cho thường dân của Gia Nã Đại, vào năm 1967. Sau đó, ông làm việc tại Tulane University tại New Orleans lúc ban đầu New York City, nơi ông là giám đốc Phòng Y Tế về Bệnh Lao của New York City. Ông qua đời ngày 7 tháng 6 năm 2011.
Lúc ban đầu khi làm việc ở Việt Nam trong cuộc chiến và chưa biết rõ cộng sản Bắc Việt và Việt cộng hoạt động trong miền Nam, Bác sĩ Vennema là một cảm tình viên cho phong trào phản chiến và tin rằng Mặt trận giải phóng là giải pháp cho cuộc chiến. Ông chỉ trích nỗ lực của Mỹ tại Việt Nam và kêu gọi chính quyền Hà Nội chấm dứt các phương pháp khủng bố. Nhưng những lời kêu gọi của ông không có hiệu quả (Vennema 1976, Preface). Sau đó, vào đầu năm 1968, ông đến Huế trong một công tác y tế, và chứng kiến thảm kịch tại Huế. Khi trận chiến tại Huế chấm dứt, ông rời Huế và tham gia phong trào phản chiến, và được phỏng vấn về những gì xảy ra tại Huế. Sau đó, ông trở lại Huế nhiều lần, lần này qua lần khác để tìm tòi, truy lùng các mối liên lạc, và thăm viếng các làng và gia đình những người mất người thương yêu. Dần dà, ý nghĩ của ông về cuộc chiến và cộng sản Việt Nam thay đổi. Ông "ý thức được hậu quả thực sự của thảm kịch đã xảy ra và cảm thấy sự thật về Huế nên được biết, để được khắc ghi vào những biên niên lịch sử bên cạnh những địa danh [của các vụ thảm sát tại] Lidice, Putte, và Warsaw." (tlđd.)
Chính D. Gareth Porter, sử gia phản chiến Hoa Kỳ và là kẻ bênh vực cộng sản và có ý kiến trong cuốn phim của bà Lê Phong Lan, công nhận Bác sĩ Vennema là nhân chứng. Porter, tuy nhiên, dùng những báo cáo tương phản với những báo cáo của Bác sĩ Vennema.


Hình 1: Bìa cuốn sách "The Vietcong Massacre at Hue" của tác giả Alje Venneme.

Hình 2: Trang bìa trong và mục lục cuốn sách "The Vietcong Massacre at Hue"

Trong sách ông, bác sĩ Vennema mô tả rất chi tiết các hầm chôn, số nạn nhân, cách thức họ chết. Ngoại trừ một số ít có thể chết vì súng đạn, đa số bị chết vì hành quyết, tay trói ngược ra sau, giẻ nhét vào miệng. Bác sĩ Vennema tự hỏi, "Phải chăng người Mặt Trận [Giải Phóng] và đám đỡ đầu ở Hà Nội nghĩ rằng họ có quyền giết, như thể bất cứ ai cũng có quyền giết người?" (Hình 3; Vennema 1976, 183). "Bất cứ họ muốn đạt được chuyện gì, thảm kịch Huế sẽ mãi mãi là bản cáo trạng hành vi họ". Bác sĩ Vennema nhấn mạnh là không có lẫn lộn trong việc giết người. "Các cuộc giết người không phải do bởi nóng giận, hoảng hốt, hoặc trước khi rút lui; chúng được cân nhắc kỹ lưỡng trước đó. Đa số nạn nhân là những người được đánh dấu có tên trên danh sách những người bị tiêu diệt, còn những người khác là vì họ có dính líu với quân đội hoặc chính quyền Sài gòn"


Hình 3: Cảm tưởng Bác Sĩ Vennema về cuộc thảm sát tại Huế

Ngoài cuốn sách của Bác sĩ Vennema, có hàng trăm nhân chứng và tài liệu cho thấy cuộc thảm sát Mậu Thân năm 1968 là một cuộc giết người tập thể dã man của cộng sản Việt Nam theo chính sách cộng sản Bắc Việt. Chi tiết về những hầm chôn nạn nhân và nguồn các tài liệu này được ghi chép tỉ mỉ (Xem, thí dụ như Vennema 1976; Cao-Đắc 2014a).
Bác sĩ Vennema từ trần năm 2011 tại British Columbia, Gia Nã Đại. Nếu quả thật Lê Phong Lan là người muốn tìm hiểu sự thật "trong suốt 10 năm" thì bà ta nên phỏng vấn ông lúc ông còn sống, hoặc ít nhất bà ta lẽ ra tham khảo cuốn sách ông. Lê Phong Lan tuyên bố, "Có người hỏi tôi làm phim tài liệu lịch sử có công bằng không, tôi xin trả lời, tôi phải công bằng vì đó là nghề nghiệp, là thanh danh của tôi” (Lê Tâm 2013). Lê Phong Lan quả thật đã cho một định nghĩa mới cho "công bằng" hoặc bà ta đã coi thường chính thanh danh mình, nếu bà ta có thanh danh.

B. Những hố chôn người tập thể tại Huế:
Tôi đã viết về những hố chôn người tập thể là phần tài liệu lịch sử trong truyện ngắn "Tiếng Khóc Vùi Chôn" (Cao-Đắc 2015a; Cao-Đắc 2015b). Sau đây là những ý chính phần tài liệu đó và vài chi tiết cập nhật về những hố chôn người.
Vụ thảm sát Huế được biết và ghi nhận nhiều (Chính 1998, 134-137; Willbanks 2007, 99-103; Vennema 1976; Robbins 2010, 196-208; Oberdorfer 2001, 198-235; Pike 1970, 26-31). Tuy nhiên, mặc cho sự quy mô và tàn bạo của nó, vụ thảm sát Huế hầu như không được báo cáo ở Hoa Kỳ vào lúc đó và bây giờ gần như bị quên lãng (Braestrup 1994, 215; Robbins 2010, 196).
Mặc dù chứng cớ đầy rẫy cho một vụ thảm sát hơn hai ngàn nạn nhân, một vài học giả Hoa Kỳ cãi là không có một cuộc tàn sát thực sự. D. Gareth Porter, cùng với đồng nghiệp ông ta, đăng một loạt các bài báo (Porter 1974; Herman và Porter 1975) cáo buộc các cơ quan Nam Việt Nam và Hoa Kỳ bịa đặt bằng chứng trong báo cáo số người chết trong vụ thảm sát ở Huế năm 1968. Như được trình bày ở trên, Herman và Porter là hai học giả Hoa Kỳ phản chiến mả Lê Phong Lan trích dẫn trong cuốn phim "Mậu Thân 1968" để hỗ trợ việc chối bỏ tội ác và vu cáo nạn nhân chết do bom đạn Hoa Kỳ và VNCH.
Herman và Porter (1975) bác bỏ báo cáo của Douglas Pike về số dân bị giết bởi Cộng sản và kết luận rằng chữ 'thảm sát' dùng cho sự giết dân Huế của Cộng sản chỉ là một mưu đồ tuyên truyền lừa đảo (tlđd) đồng ý rằng cộng sản có giết một số thường dân trong lúc họ chiếm đóng Huế, nhưng bày tỏ rằng không có bằng chứng cho thấy họ hành quyết số lớn.
Oái oăm thay, một nguồn chính yếu mà Herman và Porter dựa vào để thiết lập lý thuyết họ là báo cáo của bác sĩ Alje Vennema, một bác sĩ Tây phương duy nhất đã xem xét các ngôi mộ, người, theo Herman và Porter, thấy rằng số nạn nhân trong các chỗ chôn cất bị Mỹ ở Sài Gòn thổi phồng hơn bảy lần, tổng cộng chỉ có 68 thay vì tuyên bố chính thức là 477 (tlđd, 2). Herman và Porter xác định thêm rằng theo Vennema, đa số xác chết mặc quân phục và những vết thương cho thấy rằng họ là nạn nhân của cuộc chiến (tlđd). Porter dựa vào Vennema để kết luận rằng chính phủ miền Nam Việt Nam đã thổi phồng số các vụ hành quyết thực sự. Theo Porter, Vennema "bất chợt ở bệnh viện tỉnh Huế trong cuộc Tổng tấn công Tết và là người điều tra riêng về các hầm chôn" (Porter 1974, 3).
Tuy nhiên, những gì Herman và Porter báo cáo hoàn toàn mâu thuẫn với những chi tiết Vennema cung cấp. Bác sĩ Alje Vennema trình bày phiên bản riêng của ông về vụ thảm sát trong sách ông, The Vietcong Massacre at Hue, xuất bản năm 1976, một năm sau bài của Herman và Porter. Trong sách ông, Vennema ghi chi tiết về vụ thảm sát. Báo cáo của ông bao gồm chứng kiến của chính ông về các mộ và các cuộc phỏng vấn các nhân chứng và những người sống sót khác. Vì Porter và Harman coi Bác Sĩ Vennema là nhân chứng đáng tin cậy, sự tương phản đó cho thấy Porter và đồng bọn chính là những kẻ nói láo trắng trợn.
Do đó, sách của Vennema tượng trưng cho các báo cáo đáng tin cậy nhất về những gì đã xảy ra tại Huế. Chúng ta hãy nghe những gì Vennema thực sự nói về vụ thảm sát.
Một cách vắn tắt, Vennema khẳng định quân cộng sản tàn nhẫn giết và chôn sống hàng ngàn người dân vô tội, kể cả phụ nữ và trẻ em, tại Huế. Ông tỉ mỉ liệt kê 19 địa điểm của những hố chôn tập thể quanh Huế, với tổng số 2.307 tử thi. Nên nhấn mạnh rằng con số 2.307 xác người chỉ là số thi thể phát hiện khi các hầm chôn này được phát giác. Còn hàng trăm, hàng ngàn xác người khác không được phát giác và có lẽ vĩnh viễn biến mất và tiêu hủy với thời gian.
Hình 4 (Vennema 1976, 126) cho thấy bản đồ các vị trí hầm chôn tập thể do Vennema phác họa trong sách ông.

Hình 4: Vị trí các nơi có hố chôn tập thể (Vennema 1976, 126)

Hình 5 là bảng tóm tắt do tôi ghi lại dựa vào sách của Vennema (1976, 129-141), liệt kê 19 địa điểm của các hố chôn. Có vài địa danh không được rõ ràng vì Vennema không quen thuộc với tiếng Việt, nhưng dựa vào những mô tả, chúng ta có thể suy ra các địa danh này.

Hình 5: Bảng tổng kết 19 địa điểm các hố chôn và số thi thể

Về các hầm chôn phát hiện và số lượng xác người, Vennema báo cáo những địa điểm sau đây:
1) Địa điểm số 1 (Hình 6): Trường trung học Gia Hội (Vennema 1976, 129). Tổng số hầm chôn: 14 và thêm một số lượng hầm chôn không rõ. Tổng số xác chết: 203, gồm cả nam giới (trẻ và già) và phụ nữ. Trong số người chết là một phụ nữ 26 tuổi "với chân và tay bị trói, một miếng giẻ nhét vào miệng" và những người "không có vết thương rõ ràng"; một cảnh sát 42 tuổi người đã bị chôn sống; một phụ nữ báo rao đường 48 tuổi, "cánh tay bà bị trói và một miếng giẻ nhét vào miệng" và những người không có vết thương trên cơ thể, có thể là đã bị chôn sống.
2) Địa điểm số 2 (Hình 6): Chùa Theravada, được gọi là Tăng Quang Tự (tlđd, 131-132). 12 rãnh có 43 xác. Trong số người chết là một thợ may, tay trói và bị bắn xuyên qua đầu, một số người bị trói tay sau lưng bằng dây thép gai, và một số có miệng nhồi với giẻ rách. "Tất cả những người chết là nạn nhân bị trả thù và báo oán" (tlđd, 132).
3) Địa điểm số 3 (Hình 6): Bãi Dâu


Hình 6: Địa điểm số 1, 2, và 3 (Vennema 1976,129, 131)
4) Địa điểm số 4 (Hình 7): Đằng sau một chủng viện nhỏ, nơi mà tòa án tổ chức các phiên xử (tlđd, 133): 2 rãnh với 6 xác (3 người Việt Nam làm việc cho Đại sứ quán Hoa Kỳ, hai người Mỹ làm việc cho USOM, và một giáo viên trường trung học Pháp nhầm lẫn là Mỹ). "Tất cả đều bị trói tay."
5) Địa điểm số 5 (Hình 7): Quận Tả Ngạn. 3 rãnh với 21 thi thể, "tất cả là đàn ông, với hai tay bị trói, và các lỗ đạn trên đầu và cổ."
6) Địa điểm số 6 (Hình 7): Năm dặm về phía đông Huế (tlđd). 1 rãnh với 25 xác, tất cả bị bắn vào đầu, tay bị trói sau lưng.
7) Địa điểm số 7 (Hình 7): Gần các lăng của hoàng đế Tự Đức và Đồng Khánh (tlđd, 133-135): 20 rãnh với thêm số lượng rãnh nhỏ không rõ. Tổng cộng có 203 xác được phát hiện. Trong số người chết là một linh mục Pháp, Cha Urbain, người đã bị trói hai tay và không có vết thương trên cơ thể, và linh mục khác Pháp, Cha Guy, có một vết thương đạn trên đầu và cổ. Không có xác phụ nữ và trẻ em nào được tìm thấy, cho biết rằng "các nạn nhân bị giết tàn nhẫn và không phải trong hoạt động quân sự."


Hình 7: Địa điểm số 4, 5, 6, và 7 (Vennema 1976,133-134)
8) Địa điểm số 8 (Hình 8): Cầu An Ninh (tlđd, 135). 1 rãnh với 20 xác. Trong số những người chết là Trung sĩ Truong Van Trieu, một lính VNCH, và ông Tran Hy của lực lượng Nhân Dân Tự Vệ. Cả hai bị trói tay trước khi bị bắn chết.
9)
Địa điểm số 9 (Hình 8): Cửa Đông Ba (tlđd, 135). 1 rãnh với 7 xác.
10)
Địa điểm số 10 (Hình 8): Trường tiểu học An Ninh Hạ (tlđd, 135). 1 rãnh với 4 xác.


Hình 8: Địa điểm số 8, 9 và 10 (Vennema 1976,135)
11) Địa điểm số 11 (Hình 9): Trường Vân Chí (tlđd, 136). 1 rãnh với 8 xác.
12)
Địa điểm số 12 (Hình 9): Chợ Thông, một chợ (tlđd, 136).1 rãnh với 102 xác. "Đa số bị bắn và trói, trong đó có nhiều phụ nữ, nhưng không có trẻ em."
13)
Địa điểm số 13 (Hình 9): Trên mặt các ngôi mộ lăng hoàng đế Gia Long (tlđd, 136). Gần 200 xác đã được tìm thấy. Một số người có tay "bị trói sau lưng, và họ bị bắn xuyên qua đầu."
14)
Địa điểm số 14 (Hình 9): Nửa đường giữa chùa Tạ Quang và chùa Tu Gy Văn, 2,5 km về phía tây nam của Huế (tlđd., 137). 4 xác người Đức (3 bác sĩ và một người vợ của bác sĩ).
15)
Địa điểm số 15 (Hình 9): Đông Gi, 16 km trực tiếp phía đông Huế (tlđd.). 110 xác, tất cả là đàn ông và "hầu hết bị trói tay và giẻ nhét vào miệng."
16)
Địa điểm số 16 (Hình 9): Làng Vĩnh Thái, làng Phù Lương, và làng Phú Xuân, khoảng 15 km về phía nam và phía đông nam thành phố (tlđd, 137-138). 3 hầm chôn với hơn 800 xác (gồm có 135 ở Vĩnh Thái, 22 Phù Lương, 230 và sau 357 tại Phú Xuân): Hầu hết là nam giới với một số ít phụ nữ và trẻ em. Trong số người chết là Cha Bửu Đồng và hai chủng sinh.



Hình 9: Địa điểm số 11, 12, 13, 14, 15, và 16 (Vennema 1976,136-137)

17) Địa điểm số 17 (Hình 10): Làng Thượng Hòa, phía Nam lăng vua Gia Long (tlđd, 139). 1 hầm chôn với 11 xác. "Các xác chết cho thấy cùng một loại vết thương ở đầu và cổ, có lẽ gây ra do hành quyết."
18)
Địa điểm số 18 (Hình 10): Làng Thủy Thành và Vĩnh Hưng (tlđd.), hơn 70 xác, "đa số là nam giới với một số phụ nữ và trẻ em." "Có vài người chết có lẽ là trong thời gian chiến tranh vì họ có nhiều loại vết thương và thân thể bị cắt; những người khác trưng bày vết thương duy nhất ở đầu và cổ, nạn nhân của hành quyết."
19)
Địa điểm số 19 (Hình 10, Hình 11): Khe Đá Mài (tlđd.). 500 sọ. "Trong số rất nhiều những bộ xương có các mảnh quần áo bình thường, không phải vải kaki màu xanh của đồng phục Bắc Việt hoặc Việt Cộng. Tất cả các sọ đều trưng bày một vết nứt bị nén của xương trán giống nhau như là kết quả của một cú đánh với khí cụ nặng."


Hình 10: Địa điểm số 17, 18, và 19 (Khe Đá Mài) (Vennema 1976,139)


Hình 11: Địa điểm 19 (Khe Đá Mài) (Vennema 1976,140-141)

Danh sách trên của các hầm chôn cho thấy tổng cộng 19 hầm chôn và khoảng 2307 xác chết. Hầu hết những xác chết này trưng bày những vết thương do hành quyết gây ra và không phải bởi kết quả của chiến tranh. Nhiều người bị trói tay và giẻ nhét vào miệng. Vào cuối tháng 9 năm 1969, hàng trăm người vẫn còn mất tích (tlđd, 140). Ngoài ra, Vennema lưu ý rằng "Ngoài các hầm chôn tập thể, có những sự giết người tàn nhẫn riêng rẽ" (tlđd, 141).
Porter cố gắng đổ lỗi cho cuộc đánh nhau dữ dội tại một trong những bãi chôn nơi 22 xác được tìm thấy. Theo ông ta, "máy bay Mỹ ném bom xuống làng nhiều lần, phá hủy hàng trăm ngôi nhà và giết thường dân" và "khoảng 250 binh lính cộng sản đã bị giết" trong trận đánh cả ngày (Porter 1974, 4). Ông ta viết thêm rằng "250 bộ xương được tìm thấy tại Khe Đá Mai (không phải 400 như lời của Pike) cũng bị giết trong trận chiến hoặc bởi B-52 Mỹ thả bom" (tlđd., 5-6).
Tuy nhiên, Vennema (Hình 11; 1976, 140) xác định với độ chính xác của một bác sĩ rằng con lạch chứa 500 sọ người và "kiểm tra hồ sơ của quân đội Mỹ không tiết lộ bất kỳ hành động quy mô rộng hoặc B-52 thả bom trong khu vực ngoại trừ một trận đánh gần Lộc Sơn, khoảng 10 km cách khu vực này, vào cuối tháng Tư năm 1968." Vennema (tlđd.) nói rằng "Thật vô lý cho việc vác [500] người chết do bom đạn B-52 qua địa hình gồ ghề để chôn ở suối." Ông (tlđd.) tiếp tục khẳng định rằng "tất cả các sọ đều trưng bày một vết nứt bị nén của xương trán giống nhau như là kết quả của một cú đánh với khí cụ nặng" và "các xương khác không bị vỡ nứt thể hiện bằng chứng của gãy xương mà chắc chắn không phải họ chết do bởi kết quả chiến tranh."
Kết luận của Porter rằng "một số lớn xác phát hiện vào năm 1969 thực ra là nạn nhân của lực lượng không quân Mỹ và đánh nhau trên bộ hoành hành ở các thôn chứ không phải là do Việt cộng" (Porter 1974, 6) mâu thuẫn với lời khai của một bác sĩ nhân chứng mà chính Porter dựa vào.
Nhiều nguồn khác cung cấp các ước tính phù hợp với báo cáo của Vennema. Bùi Tín (Bui 2002, 66), một cựu đại tá của quân đội Bắc Việt, xác nhận rằng vụ thảm sát Huế có xảy ra. Theo ông, Đại tá Lê Minh, trưởng khu an ninh cộng sản trong cuộc thảm sát Huế năm 1968, ước tính số người chết là 2.000, nhưng ông nói thêm rằng con số đó có thể thấp. Các ước tính khác báo cáo 2.500 đến 3.500, đa số là thường dân hoặc gia đình các viên chức chính quyền Sài Gòn (Prados 2009, 240; Hammel 2007, 159); 2.800 bao gồm cả viên chức chính phủ, chiến sĩ, giáo viên, linh mục, trí thức và các người phản động khác, và thường dân không may mắn, với một số nạn nhân bị bắn, đập chết, và thiêu sống (Braestrup 1994, 215; Isaacs 1984, 360; Oberdorfer 2001, 232; Pike 1970, 30-31). Woodruff (2005, 244) cho biết tổng số 2.810 xác dần dần được tìm thấy trong những mổ tập thể nông vào giữa những năm 1970. Ngoài ra, 1.946 người vẫn còn mất tích Những con số này có vẻ được lấy từ bài chuyên khảo của Pike (Pike 1970, 30-31). Một tài liệu, tuyên bố là lấy được từ Cộng sản, báo cáo số nạn nhân bao gồm 1.892 nhân viên hành chính, 38 cảnh sát, 790 tên bạo ác, 6 đại úy, 2 trung úy, 20 thiếu úy và nhiều hạ sĩ quan (Woodruff 2005, 244; Willbanks 2007, 101).
Trong khi chắc chắn rằng Hồ chấp thuận, mặc dù có thể chỉ trên hình thức, quyết định khởi động cuộc tổng nổi dậy (Duiker 2000, 557), không rõ là ông ta có đặc biệt thông qua kế hoạch dùng bạo lực cách mạng trên dân Huế. Theo Bùi Tín (Bui 2002, 68), cuộc thảm sát xảy ra vì quân đội Bắc Việt trở thành cuồng loạn, và bị mất hướng - và mất cả nhân tính. Bùi Tín (tlđd., 67) khẳng định rằng không có lệnh từ cấp trên đòi hỏi tiêu diệt cả tù binh hay thường dân. Theo Trương Như Tảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Việt Cộng, Huỳnh Tấn Phát, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng sản (Provisional Revolutionary Government - PRG), nói rằng hoàn toàn không có chính sách hay chỉ thị của Mặt trận để thực hiện bất cứ vụ thảm sát nào, nhưng Tảng thể hiện rằng ông không thấy điều giải thích này đặc biệt thỏa đáng (Truong 1986, 154).
Tuy nhiên cả Bùi Tín lẫn Trương Như Tảng có vẻ không biết đến tòa án nhân dân và những bản án tử hình giao xuống các nạn nhân. Tính chất của việc chuẩn bị cho các vụ thảm sát, gồm chuyện tập hợp dân chúng từ các danh sách đen và sự tổ chức tòa án nhân dân, rõ ràng cho thấy vụ thảm sát là một hoạt động có dự tính với những mục đích chính xác và rõ rệt, ra lệnh từ, và được hỗ trợ bởi, chỉ huy cao cấp của Bộ Chính trị Hà Nội (Robbins 2010, 196; Oberdorfer 2001, 232; Vennema 1976, 183), hoặc ít nhất là Hồ có thể đoán trước và mong muốn (Hubbell 1968, 67). Vennema (1976, 184) lưu ý rằng kích động khủng bố là quan trọng với Đảng cộng sản và các thành viên cộng sản không thể kềm hãm được. Robbins (2010, 208) ghi rằng vụ thảm sát Huế không phải là một hành động tự phát của sự quá đáng mà là một thực hiện tàn nhẫn của chính sách cộng sản Bắc Việt.
Báo cáo về các cuộc tàn sát và sự hiện hữu của tòa án nhân dân được nhiều nhân chứng tường thuật (Robbins 2010, 198; Vennema 1976, 94). Trong một báo cáo, Phan Văn Tuấn, lúc đó 16 tuổi, bị bắt bởi VC và bị ra lệnh đào mồ chôn sống một số nạn nhân. Ông mô tả kinh nghiệm của mình trong một cuộc phỏng vấn (Lê Thy 2013; Phan 2008a; Phan 2008b). Khi kể đến đoạn ông bị thúc lưỡi lê bắt lấp hố vào những người ngã xuống hố còn đang sống, ông bật khóc. Ông nói đến những tia nhìn kinh hoàng của các nạn nhân đang quằn quại dưới hố. Trong một báo cáo khác, bà Nguyễn Thị Thái Hòa kể lại chuyện bà chứng kiến Hoàng Phủ Ngọc Phan, em trai của Hoàng Phủ Ngọc Tường, giết tàn nhẫn anh bà (Nguyễn 2012). Bà cũng mô tả vụ Nguyễn thị Đoan Trinh sát hại các nạn nhân vô tội.
Dựa vào lời tường thuật của ông Phan Văn Tuấn và bà Nguyễn Thị Thái Hòa và các tài liệu lịch sử về trận chiến tại Huế, tôi viết một truyện ngắn song ngữ nhan đề "Tiếng Khóc Vùi Chôn" (Cao-Đắc 2015a), "Buried Cries " (Cao-Đắc 2015b), trong tập truyện ngắn "Fire In The Rain"/"Lửa Cháy Trong Mưa" và vẽ một bức minh họa cho truyện này. Hình 12 là bức minh họa đó, vẽ lại cảnh quân cộng sản ép buộc các thanh thiếu niên lấp đất chôn sống những người dân vô tội theo lới kể của nhân chứng Phan Văn Tuấn (Lê Thy 2013; Phan 2008a; Phan 2008b).
Hình 12: Minh họa cho truyện ngắn "Tiếng Khóc Vùi Chôn."
Theo nhiều nguồn tin, một tòa án ngoài trời được chủ trì bởi Hoàng Phủ Ngọc Tường tại trường Gia Hội ở Quận II, là một quan tòa để ra án tử hình cho 203 người (Vennema 1976, 94). Một người, Nguyễn Đắc Xuân, cũng tham gia vào việc giết các nạn nhân vô tội. Tường, Phan, Đoan Trinh và Xuân là thành phần một lực lượng chính trị được tổ chức trong lúc Cộng sản chiếm đóng tạm thời một phần của Huế. Lực lượng chính trị này được gọi là Liên minh Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình (Chính 1998, 131-132).
Một số nạn nhân bị bắn tàn nhẫn, đôi khi với tội phạm tầm thường (Vennema 1976, 94). Tòa án tại Gia Hội được biết bởi các cư dân địa phương, những người ẩn núp sau khi ra tòa lần đầu và sau đó sống sót, hoặc trốn thoát (tlđd..). Sau phiên toà này, toàn bộ trường học cuối cùng mang lại 203 thi thể của các thanh niên trẻ, những người đàn ông lớn tuổi, và phụ nữ (tlđd.). Cũng nên lưu ý rằng Gia Hội không phải là nơi duy nhất mà một tòa án được tổ chức. Các cuộc xử tòa ngoài trời khác được thực hiện dưới danh nghĩa nhân dân và cách mạng, nơi mà lời tuyên án và bản án được những người không có quyền hạn pháp luật đưa ra (tlđd., 185). Thông thường, một cán bộ chủ trì làm quan tòa, và cũng là luật sư, công tố viên, bồi thẩm đoàn, và người hành quyết (tlđd.).


Hình 13: Các phiên tòa ngoài trời (Vennema 1976,94)

C. Kết luận:
Lê Phong Lan trích lời các học giả phản chiến Hoa Kỳ, gồm có D. Gareth Porter, để hỗ trợ cho sự chối bỏ tội ác thảm sát Mậu Thân trong cuốn phim "Mậu Thân 1968". Trong bài viết phủ nhận cuộc thảm sát Mậu Thân là do cộng sản, Porter dựa vào báo cáo của Bác Sĩ Alje Vennema. Do đó, lời tường thuật của Bác Sĩ Vennema phải được coi là rất có giá trị và chính xác đối với Porter và Lê Phương Lan. Tuy nhiên, Bác Sĩ Vennema tường thuật những sự kiện hoàn toàn trái ngược những gì Porter trình bày. Theo Vennema, quân cộng sản tàn sát dân Huế một cách dã man, giết chết và chôn sống hàng ngàn người trong hàng chục hố chôn tập thể. Vennema mô tả tỉ mỉ vị trí 19 địa điểm các hầm chôn này với ít nhất 2.307 xác người dân.
Nhà cầm quyền cộng sản ca ngợi cuộc Tổng tấn công Mậu Thân là một chiến thắng và tổ chức ăn mừng hàng năm mỗi độ Xuân về. Trên thực tế, cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân là một thảm bại quân sự bi đát của cộng sản và cho thấy hành vi tàn ác giết dân với những phương pháp dã man nhất trong lịch sử loài người. Người dân Việt Nam cần phải bày tỏ thái độ phản đối sự chối bỏ tội ác này và lên án các cuộc tổ chức ăn mừng cho cái gọi là chiến thắng Mậu Thân 1968, để phục hồi danh dự cho hàng ngàn cái chết tức tưởi của dân Huế và đem lại chính xác cho lịch sử Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:
tlđd: tài liệu đã dẫn, thay cho "sđd" (sách đã dẫn) để chỉ tài liệu (sách, trang mạng, liên lạc riêng, v.v...) đã trích dẫn xuất hiện ngay trước trích dẫn này.
Braestrup, Peter. 1994. Big Story - How the American Press and Television Reported and Interpreted the Crisis of Tet 1968 in Vietnam and Washington. Abridged Edition. Presidio Press, California, U.S.A.
Bùi Tín. 2002. From Enemy to Friend, A North Vietnamese Perspective on the War, Naval Institute Press, Maryland, U.S.A.
Chính Đạo. 1998. Mậu Thân 68: Thắng Hay Bại (Tet Offensive 68: Victory or Defeat). Tái bản có bổ sung (Reprinted with supplements). Văn Hóa, Houston, Texas, U.S.A.
Duiker, William J. 2000. Ho Chi Minh: A Life. Hyperion, New York, U.S.A.
Herman, Edward and D. Gareth Porter. 1975. The Myth of the Hue Massacre, Ramparts, Vol. 13, No. 8, May-June.
Hubbell, John G. 1968. The Blood-Red Hands of Ho Chi Minh. Reader’s Digest, November 1968, 61-67.
Isaacs, Arnold R. 1984. Without Honor: Defeat in Vietnam & Cambodia, Vintage Books, New York, U.S.A.
Oberdorfer, Don. 2001. Tet! The Turning Point in the Vietnam War, The Johns Hopkins University Press, Maryland, U.S.A.
Pike, Douglas. 1986. PAVN – People’s Army of Vietnam. Da Capo Press, New York, U.S.A.
Prados, John. 2009. Vietnam: The History of an Unwinnable War, 1945-1975, University Press of Kansas, Kansas, U.S.A.
Robbins, James S. 2010. This Time We Win: Revisiting the Tet Offensive, Encounter Books, New York, U.S.A.
Truong Nhu Tang (with David Chanoff and Doan Van Toai). 1986. A Viet Cong Memoir: An Inside Account of the Vietnam War and Its Aftermath, Random House, Inc., New York, U.S.A.
Vennema, Alje. 1976. The Viet Cong Massacre at Hue, Vantage Press, New York, U.S.A., 1976.
NGUỒN INTERNET
Cần lưu ý rằng nguồn Internet có thể không vĩnh viễn. Một blog có thể gỡ bỏ bởi tác giả, một bài báo có thể bị xóa, hoặc một Website có thể bị đóng cửa.
Cao-Đắc Tuấn. 2015a. Tiếng khóc vùi chôn. 10-3-2015. http://danlambaovn.blogspot.com/2015/03/tieng-khoc-vui-chon.html (truy cập 3-2-2018).
_________. 2015b. Buried Cries. 10-3-2015. http://danlambaovn.blogspot.com/2015/03/buried-cries.html (truy cập 3-2-2018).
_________. 2014a. Những lừa đảo lịch sử của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam. 2-10-2014. http://danlambaovn.blogspot.com/2014/10/nhung-lua-ao-lich-su-cua-ho-chi-minh-va.html (truy cập 3-2-2018).
_________. 2014b. Historical frauds by Hồ Chí Minh and the Vietnamese Communist Party. 2-10-2014. http://danlambaovn.blogspot.com/2014/10/historical-frauds-by-ho-chi-minh-and.html (truy cập 3-2-2018).
Lê Tâm. 2013. Lần đầu tiên khai mở bí mật về Mậu Thân 1968. 23-1-2013. http://danviet.vn/hau-truong-giai-tri/lan-dau-tien-khai-mo-bi-mat-ve-mau-than-1968-87845.html (truy cập 3-2-2018).
Lê Thy. 2013. Tết Mậu Thân 1968: nhân chứng sống. 9-2-2013. https://baovecovang2012.wordpress.com/2013/02/09/tet-mau-than-1968-nhan-chung-song/ (truy cập 3-2-2018).
Nguyễn Thị Thái Hòa. 2012. Mậu thân Huế - Câu chuyện của Nguyễn Thị Thái Hòa. 10-1-2012. http://danlambaovn.blogspot.com/2012/01/mau-than-hue-cau-chuyen-cua-nguyen-thi.html (truy cập 3-2-2018).
Phan Văn Tuấn. 2008a. Hue1968_NhanChungSong-1. http://www.mediafire.com/file/fvf55xophc7w5nw/Hue1968_NhanChungSong-1.mp3 (truy cập 3-2-2018).
_________. 2008b. Hue1968_NhanChungSong-2. http://www.mediafire.com/file/qxbldbg2n0lj1qp/Hue1968_NhanChungSong-2.mp3 (truy cập 3-2-2018).
Porter, Gareth D. 1974. The 1968 ‘Hue Massacre.’ Indochina Chronicle, No. 33, June 24, 1974, pp 2-13. http://msuweb.montclair.edu/~furrg/Vietnam/porterhueic74.pdf (truy cập 3-2-2018).
Vũ Đông Hà. 2018. Chúng vẫn múa, hát trên những xác người. 2-2-2018. http://danlambaovn.blogspot.com/2018/02/chung-van-mua-hat-tren-nhung-xac-nguoi.html (truy cập 3-2-2018).
Wikipedia. 2018. Alje Vennema. 3-2-2018. https://en.wikipedia.org/wiki/Alje_Vennema (truy cập 3-2-2018).


4/2/2018
Cao Đắc Tuấn

http://danlambaovn.blogspot.com/

____________________

Những bài liên quan về tội ác của cộng sản trong Mậu Thân Huế đã đăng trên Danlambao:

- Chúng vẫn múa, hát trên những xác người

Những hố chôn người trong cuộc thảm sát Mậu Thân tại Huế

50 năm cuộc thảm sát Mậu Thân (1968-2018)

- Cuộc tấn công Mậu Thân 1968 trong hoàn cảnh chính trị lịch sử thế giới

Tội ác bí ẩn của Thảm sát Mậu Thân

Bạn tin ai?

- Toàn cảnh trước biến cố Mậu Thân (1968)

- Đón xuân này nhớ xuân xưa

- Hát trên những xác người

- "Tám Nẻo Đường Thành"

- 50 năm máu vẫn chưa khô trên thành phố Huế (1968-2018)

- Những người lính Bắc Việt bị xiềng vào súng trong cuộc tổng tấn công Mậu Thân

- Tổng kết cuộc chiến tết Mậu Thân (1968)

- Nén hương tưởng niệm những nạn nhân Tết Mậu Thân Huế

- 50 năm Tội ác Mậu Thân Huế

- 50 năm - Mậu Tuất (2018) uất nghẹn Mậu Thân (1968) (Từ tiết lộ của người trong cuộc… Nguyễn Đắc Xuân)

- Tại sao đổi lịch tết Mậu Thân?

- Cuộc chiến Mậu Thân trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà

- So sánh giữa vụ khủng bố 9-11 của Al Qaeda tại Mỹ và vụ khủng bố của cộng sản Bắc Việt vào dịp Tết Mậu Thân

- Lệnh tấn công tết Mậu Thân của cộng sản

- Chuyên đề Mậu Thân - Bài 1 - Cộng sản tự hào về thảm sát ở Huế

- Chuyên đề Mậu Thân - Bài 2 - Một vụ thảm sát bình thường vào đầu xuân 1968...

- Chuyên đề Mậu Thân - Bài 3 - Tất cả đều bị đập bể đầu 

- Chuyên đề Mậu Thân - Bài 4 - Đã tìm thấy ngót 2.000 xác

- Chuyên đề Mậu Thân - Bài 5

- Chuyên đề Mậu Thân - Bài 6

- Chuyên đề Mậu Thân - Bài 7 - "Khi năm Tuất đến, Huế vẫn còn khóc cho Tết năm Thân..."

- Thảm sát Mậu Thân 1968

- Mậu Thân 68: CSVN đang lấy “mỡ lợn rán thịt heo”!

- Tiếng tù và Mậu Thân của Lê Phong Lan

- Lê Phong Lan và đồng bọn có còn là con người nữa không?

- Gửi bà Lê Phong Lan và đồng bọn!

- Lê Phong Lan: láo xác chết, lừa người sống

- Đồng bào Huế gửi “quà Xuân” cho nữ đạo diễn Lê Phong Lan

- Lê Phong Lan và bộ phim: “Chạy tội cho CSVN”

- Mậu Thân 1968: “Guinness” nói láo của CSVN

- Vị Thẩm Phán Cuối Cùng: Lương Tâm

- Mậu Thân 1: Đòn đánh nhá của Tướng Giáp

- Mậu Thân 2: Độc thủ của Bác

- Mậu Thân 3: Công lao của Bác

- Phong Lan - con đường Bi-đác

- Mậu Thân 1968: Kẻ đồ tể & Nhân chứng sống (Cập nhật)

- Kỷ vật Mậu Thân

- Xác nào là em tôi, dưới hố hầm này!?

- Nỗi đau Tết Mậu Thân chưa có phút nào nguôi!

- Phim Mậu Thân 1968 - một canh bạc bịp

- 45 năm sau Mậu Thân - Máu vẫn chưa khô trên thành phố Huế

- Mậu Thân trong tâm khảm một nhà thơ

- Nghệ thuật dối trá

- Những sự thật không thể chối bỏ (phần 14) - Ai làm cho Huế đau thương?

- Hãy nói trước ngày chết

- Mậu thân Huế - Câu chuyện của Nguyễn Thị Thái Hòa

- Những con tắc kè ảo vọng

- Biến cố Tết Mậu Thân 1968: Trường hợp Lê Văn Hảo

- Quanh việc chối tội tham gia thảm sát trong biến cố tết mậu thân của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bài phỏng vấn của bs Nguyễn Đức Tùng

- Hãy lột mặt nạ CSVN tẩy rửa Wikipedia

__._,_.___

Đăng ngày 12 tháng 02.2018