Chữ nghĩa làng văn

15 tháng 06.2015

phingochung
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

“Chữ nghĩa làng văn” đôi khi chỉ là một chữ, cụm từ, đoạn văn cô đọng, diễn nghĩa, diễn giải một áng thơ văn hoặc một thể tài nào đó. Những trích dẫn được góp nhặt qua sách vở, trên mạng lưới của nhiều tác giả thành danh hay khuyết danh, không ngoài góc nhìn tận tín thư bất như vô thư. Ấy là chưa kể nhiều từ ngữ, đề mục trong bộ sưu tập đang còn trong vòng nghi vấn, cần phải thẩm định lại nếu có thể được với những bậc thức giả văn kiến súc tích. Những phụ chú, dẫn chứng hay giai thoại do người viết kể lại, với chủ quan, khách quan chỉ cách nhau một sợi tóc. Vì vậy người sưu tầm không đặt ra “sai” hay “đúng”, vì cái sai hiện tại có thể là cái đúng ở một thời điểm nào khác. Xin chân thành cảm tạ và cáo lỗi những tác giả đã đóng góp bài vở trong sưu tập này, nhưng vì phương tiện eo hẹp nên người sưu tầm không thể thỉnh ý tác giả trước khi đăng tải.


Đất lề quê thói

Sinh chậm

Trong khi sinh đứa trẻ lâu ra. Nguời chồng phải:

Lật đít ông đầu rau và nhổ nước bọt vào.

(Người Việt đất Việt – Toan Ánh)

Chữ nghĩa tiếng Việt

Tôi đang xun xoe khám phá ra địa phương tính trong cái mới thì chợt nghe bên tai một tiếng cười nghịch ngợm, ngang tàng, của Trần Dần. (Ông Trần sinh ở Nam Ðịnh, mất ở Hà Nội, tức sống và chết trên đất Bắc). Bài "Thằng thịt" của ông viết năm 1962:

Như đã nói, tôi là một cột thịt lực đực

Tư duy nhất ở phía đít (...)

Vũm vĩm, đưa đảy

Một cột thịt vọt đứng ngấn trứng thồn thỗn ao thịt (...)

Những trạm nghỉ thịt, nun nút nún xút. Thút vút vót mực-thịt-đực

Thằng thịt lông lá tẽ mím một vệt thịt

Lực đực, vũm vĩm, thồn thỗn, nún xút, tẽ mím..., cũng như lựng bựng, xập xoài..., e khó bề gặp được trong tự điển. Lời giải đáp chưa thấy, nhưng hiểu đại khái, cảm xúc mơ hồ. Trước mơ hồ sau rõ rệt, dần dần tiếng này chữ nọ được chấp nhận vào tự điển. Tiếng nói đông đảo dần và sẽ đông đảo thêm nữa bằng cách ấy?

 Cùm nụm cùm nựu, lực đực, vũm vĩm v.v..., rồi cũng vậy chăng? Không ai dám chắc điều gì. Xưa nay, trong quá trình tiến hóa vẫn có cái phát triển, lại có những cái bị đào thải, dần dần mất dạng.

Từ khi loài người biết nói đến nay đã có bao nhiêu thứ tiếng nói xấu số tàn rụi, chết đi, rồi mất tích? Tử ngữ la liệt.

 Trong khi ấy, ngôn ngữ của chúng ta dùng đã mấy nghìn năm vẫn còn mới mẻ, táo bạo, vẫn còn sức sống. Mang trên đầu mấy nghìn tuổi thọ mà vẫn sinh động, vẫn mắn con, sinh nở tới tấp những đứa trẻ kháu khỉnh, vũm vĩm!

 Thích nhá!

 (Võ Phiến – Viết chơi)

Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ

 Còn nói, còn... tát!

 Địa danh miền Trung trong văn học sử

 "Xứ Nghệ"
Thời Bắc thuộc có tên chung là Hoan Châu.
Thời Lý, Trần đổi thành Nghệ An Châu.
Thời Lê Thánh Tông gọi là “Xứ Nghệ”.

1490. cũng thời Lê đổi thành Trấn Nghệ An
1831, Minh Mạng thứ 12 chia trấn làm 2: Nghệ An và Hà Tĩnh.

Hồ Xuân Hương tân biên bản mục

 Qua tập Lưu hương ký, tiểu sử của bà đã được bạch hóa:

- Bà không phải là vợ lẽ của ông phủ Vĩnh Tường mà là vợ kế (không phải vợ lẽ) của Quan Hiệp Trấn Trần Phúc Hiển ở Yên Quảng. Trần Phúc Hiển bị tử hình vì bị nghi là nhận hối lộ.

Cũng qua Lưu Hương Ký, bà có hai bài thơ tình chữ Nôm với Quan Hiệp Trấn. Chuyện bà là kế thất của Trần Phúc Hiển cũng ghi trong Thực lục của nhà Nguyễn. Bà than thở: “Cán cân tạo hóa rơi đâu mất – Miệng túi càn khôn khép lại rồi”.

 Bà mất năm 1822…Năm 1823 thời Minh Mạng, phủ Tam Đới của Trần Phúc Hiển mới đổi tên là phủ Vĩnh Tường.

 (Trần Nhuận Minh – Tạp chí Tân Văn)

 

Chảng

 Chảng : mở ra hết

(ngồi chảng hảng – nói bổng chảng: nói toạc ra hết)

 (Tự điển tiếng Việt cổ - Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện)

 

Thứ nhất phao câu, thứ nhì đầu cánh (II)

Mỗi lần có hội hè đình đám, mối lo hàng đầu của ban tổ chức là phải sắp xếp các chiếu ăn, chia phần ăn làm sao cho đúng với ngôi thứ, vai vế của hàng chức sắc.

Cái phao câu, nôm na là cái đít gà, đã từng có nhiều cuộc tranh chấp, sát phạt nhau. Cái danh vọng tột đỉnh của đám chức sắc là được ngồi chễm chệ giữa làng, vừa liếm vừa mút cái đít kia.

Vậy chứ Thứ nhất phao câu, thứ nhì đầu cánhnghĩa là gì ?

Có người hiểu rằng ngon nhất là cái phao câu, ngon thứ nhì là cái đầu cánh. Người khác lại hiểu là phao câu chỉ có một miếng, đầu cánh thì có hai. Do đó phao câu được dành cho người cao nhất trong làng và hai cái đầu cánh là của người thứ nhì.

(Nguyễn Dư – Con gà cục tác lá chanh)

 

Chữ Hán, chữ Nho

 Trường hợp từ kép gồm một tĩnh từ và một danh từ. Khi từ kép mang hai danh từ thì thường thường danh từ non kém thuộc “loại” (species) phải đi trước mà tựa vào danh từ khoẻ hơn thuộc “giống” (gender) đứng ở đàng sau. Tỉ như loài người là một giống mà có nhiều loại, thì chữ “thân” gồm bất cứ ai có hình hài con người, nhưng lại chia ra có kẻ làm cha, có kẻ làm mẹ. Cho nên khi nói về người cha người mẹ, phải viết “ phụ thân; mẫu thân”.

 (Mạn đàm về Hán Việt trong Việt ngữ - Trần Văn Kiệm)

 

Phê bình II

 Sau Phạm Quỳnh, sau đó mãi đến năm 1931 ta mới thấy xuất hiện thêm những bài phê bình của Thiếu Sơn Lê Sĩ quý trên Phụ Nữ Tân Văn ở Sài Gòn. Năm 1933, Thiếu Sơn cho xuất bản quyển Phê bình và cảo luận nhưng thiếu chính xác, sâu sắc.

 Từ năm 1935 trở đi, ta mới thấy những bài phê bình thật sự có tính cách phê bình của Hoài Thanh, Nguyễn Bách Khoa (bút hiệu của Trương Tửu), Trần Thanh Mại, Lê Thanh, Thái Phỉ, Kiều Thanh Quế, Hải Triều, Vũ Ngọc Phan, Thạch Lam.

 Trong suốt thời tiền chiến chỉ có Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan và quyển Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh là đáng kể…

 (Trần Bích San – Văn Khảo)

 

Đề: Tả chú thương binh.

 Gần nhà em có một chú thương binh, chú đã bị thương 2 lần. Một lần ở Buôn Mê Thuột và…một lần ở đùi.

 

Phương ngữ Hà Tĩnh

 Phương ngữ Hà Tĩnh, “óc” không chỉ có nghĩa là “khối mềm màu trắng đục chứa trong hộp sọ” như Từ điển tiếng Việt đã dẫn giải mà còn để chỉ một số các loại quả, hạt. Quả ớt được gọi là“trấy óc cay”. Hạt mít lại là “óc mít”. Hạt bưởi thành “óc bưởi”, hạt bí thành “óc bù”… Phải chăng “óc” là một từ cổ để chỉ hạt.

 Thế nhưng với một số loại hạt như đậu, lạc, ngô, vừng, kê, lúa… thì từ “óc” hầu như không được dùng. Có thể như từ“óc” chỉ dùng để chỉ các loại hạt có kích cỡ nhất định, vì các hạt quá bé hoặc quá lớn thì chẳng bao giờ được gọi là “óc” cả. To như hạt quả xoài, hạt quả quéo, hạt quả đào thì cũng chẳng ai gọi là “óc xoài” “óc quéo” hay “óc đào’ cả. “Óc bưởi” nhưng lại là “hột cam”, “hột chanh” (những con cá rô lúc còn bé được gọi là “cá rô óc bưởi” hay nhiều nơi còn gọi chúng là “ô rô óc bưởi”). 

 (Tống Trần Tùng - Tản mạn về ngôn ngữ địa phương Hà Tĩnh)

 

Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ

Trên trời có đám mây xanh.
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng.
Nếu mà anh lấy phải nàng,
Anh thà…thắt cổ cho nàng ở không.

 

Thêm bớt

 Bài thơ Thu phong của Tản Đà có 8 câu, bị chủ bút Lê Tràng Kiều bớt đi còn 4 câu. Chưa hết, bài Cô lái đò của Nguyễn Bính bị ai đó thêm vào 4 câu cuối như dưới đây:

Xuân đã đem mong nhớ trở về (….)

Để buồn cho những khách sang sông

Và 4 câu thơ ngớ ngẩn thêm vào là:

“…Thế rồi trên bến một đêm kia

Người khách tình duyên lại trở về

Cô gái đã vui duyên phận mới

Khách còn trở lại nữa làm chi…”

 (Xuân Đẩu – Vài nét chấm phá trong thơ)

 

Cú kêu cho ma ăn

 Cú là một loại chim ăn thịt, mắt to, thường đi rình mò kiếm mồi ban đêm. Cú có tiếng kêu đanh, dữ dội, gây cảm giác rợn người. Theo mê tín, hễ nhà ai có cú đến đậu đầu nhà, kêu ba tiếng, thì nếu không chết người thì cũng ốm đau nặng. Đặc biệt, những gia đình đang có người bệnh. Chẳng thế mà dân gian ta hay nói là "cú dòm nhà bệnh" vì vậy trong dân gian tiếng kêu của cú là biểu tượng của điềm xấu, điềm gở.

Theo tín hiệu đó, ma sẽ lần đến để chia phần thi thể người xấu số, nói dân gian là đến ăn. Nhưng rõ là cú chỉ kêu cho ma hưởng phần, chứ bản thân cú nào có được hưởng gì, ăn gì trước cái chết của con người! Cái nghịch lý này được dân gian nói thành cả một thói đời bằng thành ngữ "cú kêu cho ma ăn". Trong tiếng Việt, thành ngữ này để chỉ việc làm cho kẻ khác hưởng.

 Cùng với thành ngữ "cú kêu cho ma ăn", trong tiếng Việt còn có thành ngữ "cốc mò cò xơi".

 (Nguồn: Tìm hiểu điển tích thành ngữ)

 

Chết một cửa tứ

 “Chết một cửa tứ” thì “cửa tứ” là tiếng lóng, nói trại đi từ “cửa tử” là cửa chết khi ra trận mạc thời xưa. (ý nói tình trạng nan giải)

 (Bút Chì – Hiểu đúng thành ngữ, tục ngữ, điển tích)

 Nét đặc biệt trong tiếng Huế

 Tiếng Huế không phải chỉ đơn giản tê mô răng rứa như vẫn xuất hiện trong thơ và văn xuôi như những nét chấm phá rất dễ thương để nói về người và xứ Huế; mà nhức đầu, phức tạp, nhiêu khê, đa dạng và phong phú hơn nhiều. Tùy địa phương của Huế, cách phát âm có chỗ nặng nơi nhẹ; lúc thanh tao khi khó hiểu.
Khóc lảy đảy, không biết ốt dột !

(Khóc ngon khóc lành, không biết xấu hổ!).

En dòm tui, tui dị òm !

(Anh ấy nhìn tôi, tôi thẹn quá !)

Chữ òm người Huế vẫn thường dùng để bổ túc cho cái phủ định của mình: Ngon không ? Dở òm !

O nớ răng mà không biết hổ ngươi !

(Cô đó sao mà không biết mắc cỡ !)

Hổ ngươi cũng là tên của cây trinh nữ, cây mắc cỡ. Cũng như xấu hổ, thẹn, mắc cỡ thì ốt dột, dị và hổ ngươi có nghĩa khác nhau tuy chút ít nhưng tinh tế, nhẹ nhàng.

 (Nguồn ĐatViet.com)

 

Chầy

 Chầy : lâu

(nó cứ ngồi chầy ra)

 (Tự điển tiếng Việt cổ - Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện)

 

Cải tạo

 Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh giải nghĩa rất đơn giản:

Cải tạo: Đem cái cũ đổi lại làm mới.

 Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý dài dòng hơn:

Cải tạo: Làm cho thay đổi một cách căn bản, cho tốt hẳn lên Ví dụ: Cải tạo cơ sở vật chất. Cải tạo nền sản xuất.

 Tự điển Tiếng Việt tái bản có nhiều chữ mới:

Cải tạo: Biến đổi Ngụy quân, Ngụy quyền từ thành phần ăn bám xã hội, có nợ máu nhân dân trở thành con người mới, công dân tốt, hữu ích cho Xã hội chủ nghĩa.

 (Trần Thanh Ty – báo Sài Gòn Nhỏ)

 

Câu đối Tết của Trần Tế Xương

 Nực cười thay:

Nêu không, pháp không, vôi bột cũng không, mà tết.

Thôi cũng được:

Rượu có, nem có, bánh chưng cũng có, thừa chơi .

 

Giai thoại làng văn

Người tự thông báo là “thừa kế duy nhất của nhà thơ Xuân Diệu”, ông Cù Huy Hà Vũ, trong bài Có một Xuân Diệu nhà báo đã viết:

* … năm 1970, Xuân Diệu được cử phụ trách tờ Tác phẩm mới của Hội nhà văn, đã bị phê bình vì cho đăng bài tuỳ bút “Phở” của Nguyễn Tuân”; v.v…

 * Lại vừa đây trên báo Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 162 (tháng 7/2008) cũng Cù Huy Hà Vũ với bài Có một Xuân Diệu – nhà báo cách mạng (tr. 45-47), tương tự nội dung bài trên, tuy đã bỏ chi tiết cho rằng Xuân Diệu là người cho đăng tuỳ bút Phở của Nguyễn Tuân, nhưng tác giả bài báo lại đưa ra như khẳng định một sự kiện: khi phụ trách tờ Tác phẩm mới, Xuân Diệu “lại bị chỉ trích vì cho đăng những bài không thật “lập trường” cho lắm”, và để cách chức ông, đưa ông về quy chế “viết văn chuyên nghiệp”, người ta đã “tạm ngừng xuất bản” tạp chí Tác phẩm mới từ số tháng 2/1976, mãi đến tận tháng 1/1987, tức 2 năm sau khi Xuân Diệu mất (18/12/1985) mới tục bản dưới tên gọi Tác phẩm văn học (về sau đổi lại là Tác phẩm mới và nay là tạp chí Nhà văn)!

 (Lại Nguyên Ân - Những hư cấu văn học sử cần đính chính)

 

Tiếng Việt trên net

ah = à
kon = con, ví dụ: kon gái

(Nguồn: Gio-o.com)

(còn tiếp)