Tác giả & Tác phẩm

15 tháng 3.2016

phingochung
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

Dẫn nhập: Với cái nhìn chủ quan của người biên soạn, tuyển tập 300 tác giả và tác phẩm đơn thuần chỉ là công việc góp nhặt sỏi đá những tác phẩm tiêu biểu một thời của những tác giả tiền chiến, hậu chiến, trước hay sau 75 của hai miền Nam Bắc, trong nước cũng như ngoài nước, già hoặc trẻ, cũ hoặc mới. Tác giả và tác phẩm được góp mặt mỗi tuần theo thứ tự họ hoặc tên qua mẫu tự A, B, C… Xin thành thực cám ơn những tác giả có mặt trong tuyển tập nhưng vì trở ngại thông tin, chúng tôi đã không thể xin phép quý vị trước khi đăng tải. – Ngộ Không Phí Ngọc Hùng.


Nguyễn Tường Thiết (I)

Tiểu sử
Sinh năm 1940 tại Hà Nội.

Tác phẩm
Chai rượu khai xuân
Về lại Cẩm Giàng
Tiếng pháo giao thừa

nguyen tuong thiet

Mục lục
Chai rượu khai xuân
Chuyện bên phố cũ
Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Tường Thiết – Du Tử Lê
Tiếng pháo giao thừa
Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Tường Thiết – Lê Quỳnh Mai
Hình bóng
Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Tường Thiết - Da Màu
Nhất Linh cha tôi – Nguyễn Tường Thiết

Phụ đính:
Tờ truyền đơn
Buổi sáng của một ngày hưu
Gặp Hemingway nơi quán rượu
Con thạch sùng
Món quà ngày sinh nhật
Rãi tro theo gió
Bãi Ô Quắn

____________

Chai rượu khai xuân

Mùa hè vừa qua nhân ghé tỉnh Vancouver BC bên Canada để thăm một người quen tôi tình cờ được đọc một tờ tạp chí cũ in từ Việt Nam. Đó là số báo Xuân Đinh Hợi 2007 với chủ đề Chơi Xuân của tạp chí NHÀ ĐẸP do Hội Kiến Trúc Sư Việt Nam thực hiện.
Số báo Xuân này là một bộ sưu tập giới thiệu những “quán đẹp” của ba miền Trung Nam Bắc với những hình ảnh màu tuyệt mỹ được in với kỹ thuật tinh xảo không thua bất cứ một magazine quảng cáo nào của các hãng máy bay mà ta thường thấy trên các chuyến phi cơ bay đường quốc tế.
Khi giở đến trang báo giới thiệu quán cà phê La Poste của thành phố Đà Lạt tôi ngẩn ngơ xúc động và vội xin chủ nhà số báo đó để mang về cất giữ làm kỷ niệm. Bởi vì quán cà phê này chính là căn nhà xưa mà chúng tôi đã từng ở 52 năm trước và là nơi ghi dấu biết bao kỷ niệm êm đềm của tôi với cha tôi.
Đây là một biệt thự lớn hai từng có lối kiến trúc rất tây, xưa kia nó mang số 12 đường Yersin nay đổi thành 12 đường Trần Phú. Nguyên từng dưới của biệt thự một thời từng là nhà hàng bán thực phẩm và rượu tây mang tên Poinsard et Veyret, nay biến thành một Restaurant. Tầng trên của biệt thự chia thành nhiều phòng nhỏ thuộc nhiều đơn vị gia cư, trong đó gia đình chúng tôi chiếm 2 gian có ban công nhìn sang Hôtel du Parc nằm bên kia đường Yersin. Những gian phòng đó nay chắc đã được phá ra tân trang lại để biến thành quán cà phê La Poste.
Tôi nhìn vào bức ảnh căn biệt thự ấy. Mặt tiền dưới nhà trên cái cửa chính tấm bảng hiệu Poinsard & Veyret thay bằng Le Café de la Poste, Restaurant.
Bên cạnh bức ảnh là mấy lời giới thiệu quán La Poste của tác giả Lạc Việt: Có lẽ uống cà phê là một cái thi vị không thể thiếu của thành phố Đà Lạt. Thú nhất là được nhâm nhi cà phê và nhìn từ trên cao quan sát thành phố sương mù. Món “đắt”nhất của quán này là những view nhìn bên cửa sổ. Đó chính là những bức tranh thiên nhiên sinh động, mà tại đó bạn có thể hàng giờ đọc sách và ngắm mưa rơi để được hưởng cái lạnh của Đà Lạt. Bạn có thể ngồi tại vị trí ban công để cái lạnh mơn man da thịt và để những giọt cà phê nóng ấm tan trên đầu môi và hoà vào trong bạn…
Tôi nhìn bức hình cái view đắc ý nhất ấy của quán La Poste. Hình chụp một ban công với cái bàn vuông, chiếc ghế gỗ, bên kia đường là khách sạn Du Parc, xa xa là “nhà thờ con gà” của Đà Lạt.
Lòng tôi bâng khuâng…
Cái view đó cũng đúng là cái view mà cha tôi đã nhìn ngắm và vẽ nên một họa phẩm bằng bút chì. Rất tiếc là nay tôi không giữ được bức họa ấy.
Tôi nghĩ tới một ngày nào đó tôi sẽ ngồi trên chiếc ghế ấy để nhìn lại cảnh cũ mà người xưa không còn để ngậm ngùi hồi tưởng một thời xa vắng đã qua trên nửa thế kỷ. Ngồi uống cà phê ở đó tôi biết là mình sẽ có một cảm giác rất riêng tư nó không thể giống cảm giác của bất kỳ một người khách nào của quán La Poste, bởi vì tôi là người duy nhất ngồi đó mà có cảm tưởng như được ngồi lên chính tuổi thơ của mình…

***
Thời gian tôi ở căn nhà đó là năm tôi học lớp Đệ Lục trường trung học công lập Quang Trung Đà Lạt niên khóa 1955-56. Trường cách nhà khá xa, đi bộ cũng mất trên nửa tiếng. Mỗi chiều tan trường lủng lẳng cạc táp trên vai đứa bé 15 tuổi tung tăng đi dọc con đường men theo hồ Xuân Hương để về nhà. Bước qua đập Ông Đạo lần nào cũng vậy mùi cá tanh của phân bón bốc lên từ cánh ruộng rau trong ấp Ánh Sáng sộc vào mũi nó nhắc nhở tôi là mình đã sắp sửa về đến nhà. Qua đập nước tôi rẽ phải lên một con dốc rất ngược, ngắn mà cong, là dốc Lê Đại Hành. Đứng lại ở đầu dốc để thở tôi ngước nhìn lên đỉnh nhà thờ Đà Lạt. Trên cao chót vót có một con gà bằng thép nhỏ xíu gắn trên đầu cây thánh giá. Rẽ trái trên đường Yersin đi ngang nhà bưu điện của thành phố đã thấy biệt thự Poinsard & Veyret quét màu vôi vàng hiện trước mắt.
Trên lầu biệt thự đó khi thì tôi thấy thấp thoáng trên ban công bóng dáng cha tôi đang lui cui treo một giỏ hoa phong lan khi thì có tiếng kèn của cha tôi vẳng ra một bản nhạc tây mà hồi đó ông thường hay thổi, đó là bản nhạc mang tên Quán trọ chiều tà: L’Auberge au crépuscule…Où je reviens toujours… Lorsque l’oiseau module… Un dernier chant d’amour…
Từ nhà bưu điện Đà Lạt bước qua đường Tự Đức tôi đặt chân lên vỉa hè xi măng kẻ ca-rô rộng thênh thang. Ngôi nhà chúng tôi nằm ở vị trí giữa hai khách sạn lớn nhất của thành phố là khách sạn Du Parc và khách sạn Langbian, tọa lạc ngay trên mũi nhọn của hai con đường châu nhau là đường Yersin và đường Tự Đức. Lần nào đi trên vỉa hè ấy tôi cũng không quên ghé nhìn bên trong cửa hàng Poinsard&Veyret. Sau một quầy kính bán thực phẩm Pháp như pa-tê, xúc-xích, phó-mát, bơ… một bà đầm béo phục phịch bận áo choàng trắng đứng bán hàng. Có bận cha tôi dẫn tôi vào tiệm mua thuốc lá và rượu vang. Trong lúc tôi đứng lơ ngơ trong tiệm cha tôi nói chuyện ở quầy với bà đầm, thỉnh thoảng bà ta lại phá lên cười. Tôi chẳng hiểu hai người nói gì chỉ nghe thủng được mỗi một tiếng Écrivain thốt ra từ cửa miệng cha tôi. Tôi đoán là bà ta hỏi cha tôi làm nghề gì. Dù là ở ngay trên lầu của nhà hàng nhưng chúng tôi lên gác bằng cầu thang riêng, không dính gì đến nhà hàng phía dưới. Đi trên vỉa hè qua mấy cửa tiệm boutique, salon… trên đường Yersin, gần đến phía sau khách sạn Langbian, tôi rẽ vào một cái sân rộng lát đá hình tam giác, xung quanh sân là mặt lưng của những cửa tiệm nói trên. Bước qua một cái chuồng ngựa ở cuối sân tôi lên một cầu thang gỗ rộng là lối đi chung của tất cả các đơn vị gia cư ở trên lầu.
Đấy là khung cảnh tổng quát căn nhà cha con chúng tôi đã từng ở nơi mà ngày nay 50 năm sau biến thành quán cà phê La Poste. Chắc bạn bây giờ đã hiểu tại sao họ đặt tên La Poste cho quán vì nó ở rất gần nhà bưu điện chính của thành phố.
Là một số báo Xuân nên trong tạp chí NHÀ ĐẸP cuối bài quảng cáo cho quán La Poste trong một cái khung có ghi những hàng chữ sau đây: Địa chỉ 12 Trần Phú TP Đà Lạt. Giờ mở cửa: 6G-22G30. Không nghỉ Tết.
Chính cái hàng chữ “Không nghỉ Tết” như một lời mời gọi mọi người hãy ghé đến quán La Poste để thưởng thức ly cà phê đầu xuân mà tôi nghĩ tới viết bài Chai Rượu Khai Xuân này để ghi lại kỷ niệm về một cái Tết xưa, Tết Bính Thân 1956, cũng là cái Tết ghi dấu kỷ niệm sâu đậm nhất của tôi trong thời gian tôi ở căn nhà cũ mà nay là quán cà phê La Poste ấy.
Ngày ấy… những ngày cuối năm…
Thành phố như phủ một làn mưa rất mỏng lẫn vào trong sương khiến khách đi đường cảm thấy như có những mũi kim trong suốt và lạnh giá chích lâm râm trên da mặt mình.
Phía hông bên trái của căn biệt thự chúng tôi ở là con đường nhỏ Tự Đức, con đường cong vòng đâm xuống hồ Xuân Hương ở ngay chỗ trước nhà Thủy Tạ. Cha tôi yêu con đường ấy lắm. Nó ngắn thôi nhưng rất nên thơ. Một bên đường là hông của khách sạn Langian, bên kia, sau hàng thông xanh mặt hồ hiện ra lấp loáng ánh nắng. Hai bên hè trồng hai hàng lê mà năm ấy hoa lê nở trái mùa trắng xóa. Những cánh hoa trắng theo cơn gió đông bay lả lả trong sương. Mỗi lần đi ngang cha tôi lại khẽ ngâm câu thơ Kiều: Cành lê trắng điểm một vài bông hoa… Có lần cha tôi nói với anh Thạch tôi là ông mong muốn một ngày nào đó con đường ấy sẽ mang tên Nhất Linh.
Để sửa soạn cho cái tết năm ấy cha tôi và chị Thoa ra đó bẻ những cành lê mang về cắm trong những lọ thủy tinh. Ngoài hoa phong lan treo trên tường căn phòng đầy những lọ hoa lê trắng thay cho hoa mai vàng để đón xuân.
Còn tôi, một buổi chiều cuối năm đi học về tôi đón nhận cái Tết Bính Thân ấy với lòng rộn rã khôn tả. Bước chân sáo trên vỉa hè rộng của đường Yersin ngay phía dưới ban công nhà tôi, tôi nghe từ phía bên kia đường trong khuôn viên của Ty Ngân Khố thành phố Đà Lạt có tiếng nhạc tiếng trống tiếng pháo tưng bừng rộn ràng. Thì ra là nhân viên của Ty đang tổ chức liên hoan Tất Niên.
Chạy vội lên gác tôi quẳng cái cạc táp rồi chạy ngược trở ra băng qua đường tới trước Ty Ngân Khố tọa lạc ở góc đường Yersin và Bá Đa Lộc. Quây chung quanh Ty Ngân Khố là một bờ tường thấp trên cắm hàng rào sắt. Tôi không thể nhìn vào phía trong được vì người đứng xem đã chiếm chật suốt dọc hàng rào. Bất chấp mấy ông già khó tính cự nự tôi chen bừa vào giữa đám đông trèo lên đứng trên bờ tường, hai tay vịn song sắt, nhìn vào trong.
Trên một khoảng vườn rộng người ta thiết lập ở góc một cái sân khấu gỗ có mái che trang trí hoa lá cành xum xuê và những bóng đèn xanh đỏ. Trên mái của sân khấu có treo bức ảnh lớn được kết hoa ở xung quanh, ảnh chân dung Tổng thống Ngô Đình Diệm. Trước sân khấu là mấy chục chiếc bàn phủ khăn trắng, bàn nào cũng có bình hoa, chung quanh bàn quan khách ngồi vừa ăn uống vừa hướng mặt về phía sân khấu. Khách đàn ông bận đồ vét cổ đeo cà vạt, khách đàn bà lộng lẫy trong những chiếc áo dài, áo măng tô.
Một nữ ca sĩ bước ra sân khấu cúi chào khán thính giả cầm lấy micro gõ gõ mấy cái. Rồi nhạc trổi lên, ca sĩ hát. Người ơi… nước Nam của người Việt Nam… Vì đâu oán tranh để lòng nát tan.. Đây Bến Hải là nơi ngăn cách đôi tình… Đứng lên tìm chốn yên vui thanh bình…. Người ơi… (Nhạc phẩm Về đây anh của Nguyễn Hiền).
Tiếng vỗ tay ran lên trong đám thực khách khi cô ca sĩ ngưng tiếng hát khẽ cúi đầu đi lùi về cuối sân khấu. Đám thính giả đứng ở ngoài đường coi cọp như tôi không một ai vỗ tay hết. Họ đang bận chửi lộn. Ê! thằng nhóc này! Mày đạp bẩn hết cái áo mới của tao rồi… Tôi quay lại phía sau. Một người đàn bà mặt mày nhăn nhó đang cúi xuống phủi một vết lấm trên cánh áo trắng. Tổ sư cha mày… Bà ta vừa nói vừa ngửng lên làm tôi biết ngay không phải bà chửi tôi. Cái thằng nhóc đứng cạnh tôi trên bờ tường, trong lúc xem nó ngứa ngáy thò chân đạp phía sau, nhè đụng ngay áo bà đứng trên hè. Nó cười giả lả rồi xây lưng lại nhẩy từ trên bờ tường xuống miệng nói: Dở ẹt! Hát vậy mà cũng đòi hát… Xong nó kéo thằng em nó bỏ đi chỗ khác chơi. Tôi có chỗ đứng rộng hơn ở lại coi thêm hai màn diễn nữa, một màn kịch tố Cộng và một màn múa thượng Đường Lên Sơn Cước rồi tôi cũng bỏ về, vừa đi vừa nhẩy cẫng lên bắt chước điệu bộ của mấy anh cán bộ trong vở kịch tố Cộng tôi vừa xem, miệng hát: Son mì son, mì son tố mì…
Sáng hôm sau tôi được nghỉ Tết. Buổi trưa có thầy giáo Khuê của tôi lại thăm cha tôi. Thầy Khuê là thầy giáo dậy môn Việt văn của tôi trong niên học trước, khi tôi còn ở Sài Gòn học lớp Ðệ Thất trường trung học tư thục Chi Lăng ở ngã sáu Chợ Lớn. Hè vừa rồi khi tôi theo chân cha tôi lên sống ở Đà Lạt thì thầy Khuê cũng rời trường Chi Lăng, thầy tìm được một việc làm mới ở đây với chức vụ quản đốc đài phát thanh Đà Lạt. Từ ban công nhìn qua khách sạn Du Parc tôi có thể nhìn thấy đài phát thanh chiếm 4 từng lầu bên cánh phải cùng của khách sạn Du Parc.
Nói đến đài phát thanh Đà Lạt tôi lại nhớ tới trong khoảng thời gian ấy chúng tôi không lần nào quên đón nghe chương trình nhạc yêu cầu của đài này, phát thanh mỗi tuần một lần, chương trình mở đầu bằng một bản nhạc ngoại quốc điệu Paso Doble vui tươi rộn rã. Tuần nào cũng vậy hai bản Đường về miền BắcChiều vàng do Tôn Thất Niệm hát được thính gỉa Đà Lạt yêu cầu nhiều nhất. Mỗi chiều thứ sáu giọng hát vừa cao sang lại vừa trầm ấm của người ca sĩ tài tử này lan đi từ đài phát thanh ấy truyền khắp không gian ẩm lạnh của miền cao nguyên thấm vào hồn và sưởi ấm lòng người dân Đà Lạt; giọng hát có sức truyền cảm và quyến rũ đến độ ngày nay - tôi tin thế - sau hơn nửa thế kỷ, những người của Đà Lạt thuở nào đã từng một thời nghe Tôn Thất Niệm hát trên đài ấy, nay hẳn vẫn còn giữ nguyên mối xúc động khi nghe lại … chiều nào áo tím… nhiều quá.. lòng thấy rộn ràng.. nhớ người… Đường về miền Bắc bao cách xa … Nhìn về đường lối muôn khó khăn… Đây núi cao… Đây suối sâu… (Đường về miền Bắc) hoặc… đường về lòng người tha phương nhớ… Chiều dần mờ mờ cô thôn vắng… Người yêu dấu ngàn đời thấu chăng… Ta nén đau thương gắng bước hoài… Thuyền chèo tới nơi đâu ngừng bến… (Chiều vàng). Ca sĩ Niệm là anh rể tôi. Anh lấy chị họ tôi, chị Nguyệt, con gái lớn của bác Thụy. Anh Niệm không bao giờ là người hát chuyên nghiệp. Cha tôi mê giọng hát của anh lắm có lần nói đùa: “Cháu hát hay thế thì theo nghề bác sĩ làm gì!”.
Thầy Khuê nói chuyện với cha tôi khoảng một tiếng đồng hồ. Thầy mang biếu cha tôi một chai rượu vang. Tôi đứng chơi ở cửa khi cha tôi tiễn thầy Khuê về. Thấy tôi cha tôi mắng: “Thằng này hay nhỉ? Đứng ỳ đó hả? Sao không ra chào thầy đi!”. Tôi cúi đầu nói li nhí trong miệng: “Chào thầy ạ!”. Cha tôi đưa mắt lườm tôi trong khi thầy Khuê xoa đầu tôi nói: “Thằng này đứng nhất môn Việt văn của tôi đấy! Không biết sau này có theo được nghề văn của bố nó không?”.
Sau khi thầy Khuê ra về cha tôi mở giấy bọc chai rượu đưa chai lên cao chăm chú đọc những hàng chữ nhỏ trên chai rồi quay qua nói với mẹ tôi: “Chai rượu vang Bordeaux này đắt lắm đây… thế là Tết này mình có được chai rượu quí để khai xuân rồi…”.

Mồng một Tết.
Tôi thức dậy rất trễ. Tiếng pháo nổ lẹt đẹt ở xa. Nó chỉ vừa đủ thấm vào trong giấc mơ chứ không đủ sức lôi tôi ra khỏi giấc nồng. Cho tới khi anh Triệu đốt một phong pháo đùng ở ngay trên ban công nhà thì tôi choàng dậy. Mùi pháo thơm - mùi của Tết - từ ngoài hiên ập vào phòng ngủ. Tôi dụi mắt. Mọi người đã chỉnh tề trong bộ quần áo mới. Chị Thoa nói:
– Em mặc quần áo đi rồi còn mừng tuổi cậu mợ chứ!
Tôi mặc quần áo mới rồi qua phòng bên cạnh. Hai phòng thông nhau qua ngã hành lang ở ban công. Phòng này bình thường chỉ có một mình cha tôi ở. Cũng như phòng bên cạnh chỉ có mình tôi và chị Thoa. Nhưng Tết năm ấy có thêm mẹ tôi và anh Thạch từ Sài Gòn lên, anh Triệu hồi ấy dậy học ở dưới Sóc Trăng cũng lên, thành thử hai gian phòng nhỏ bỗng trở thành chật chội. Phòng cha tôi ở có một cái lò sưởi nhưng không mấy khi đốt. Trên vách tường treo đầy những giỏ phong lan. Bộ sa lông chỉ có độc một cái ghế đặt trước lò sưởi. Ở góc buồng có một cái phản gỗ làm giường ngủ, cũng dùng để ăn cơm thay bàn ăn. Cha tôi còn mặc bộ đồ ngủ, ngoài khoác chiếc áo choàng dầy có giây thắt ngang bụng, ông ngồi uống trà tàu trên ghế sa lông. Mẹ tôi đầu vấn khăn bận chiếc áo dài nhung ngồi trên phản. Trước mặt bà là một cái tráp đựng trầu cau, hai ba cái thẩu đựng kẹo bánh. Các anh chị tôi đứng quanh phản, miệng người nào cũng nhóp nhép cắn hạt dưa. Tôi cúi xuống bốc một nắm mứt sen bỏ miệng. Mẹ tôi quay qua nói với cha tôi:
– Mình ngồi xuống phản đây cho con nó còn mừng tuổi.
Cha tôi ngồi yên trên ghế, không nhúc nhích. Ông nói:
– Các con mừng tuổi mợ thì còn có tiền mà tiêu Tết chứ. Mừng tuổi cậu thì cũng như không.
Mẹ tôi cúi xuống mở cái cháp lấy ra mấy phong bao đỏ. Bà cầm một cái đưa tay về phía anh Triệu. Anh cúi xuống toan cầm. Chị Thoa nhắc:
– Không nói gì à?
Anh Triệu nói như máy:
– Năm mới con chúc cậu mợ được dồi dào sức khoẻ, an khang, thịnh vượng, buôn bán phát tài…
Rồi anh ngừng lại không biết nói gì hơn. Chị Thoa bảo:
– Ăn nói thế mà cũng đòi đi dậy học Việt văn.
Đến người cuối là tôi, mặc dù chỉ lí nhí nói vài câu, tôi cũng được mẹ tôi lì xì những hai cái phong bì. Bà bảo mọi người:
– Thằng út này hôm nọ được thầy giáo khen, thưởng nó gấp đôi.
Thế là Tết ấy tôi có nhiều tiền nhất nhà để đánh tam cúc và đánh bất. Mừng tuổi bố mẹ xong chúng tôi ra ngoài ban công thì thấy ở bên kia đường trên lầu hai của khách sạn Du Parc trước một cái cửa sổ mở rộng có một người đang giơ tay vẫy qua vẫy lại. Nhìn kỹ thì đó là bác Thụy tôi. Cha tôi cũng ra đứng ở hiên vẫy tay chào lại bác. Thật là một ngạc nhiên lớn cho chúng tôi vì bác Thụy năm ấy không hiểu vì lý do gì lại không ăn Tết với gia đình ở dưới Sài Gòn mà lại một mình lên Đà Lạt ăn Tết với chúng tôi. Hình ảnh bác Thụy và cha tôi vẫy tay chào nhau buổi sáng mồng một Tết Bính Tuất 1956 ấy lưu giữ mãi trong ký ức tôi. Cố nhiên cái hình ảnh ấy đối với một đứa bé 15 tuổi như tôi hồi ấy không mang một ý nghĩa gì đặc biệt. Nhưng nay, 52 năm sau, nhớ lại hình ảnh ấy tôi không thể nào không liên tưởng đến Hội nghị trù bị Đà Lạt 1946 xẩy ra đúng 10 năm trước đó, cha tôi là trưởng phái đoàn Việt Nam và bác Thụy tôi là cố vấn của đoàn. Khách sạn Du Parc này 10 năm trước đã là nơi trú ngụ của tất cả các nhân viên phái đoàn Việt Nam trong thời gian phái đoàn thương thảo với Pháp tại hội trường của lycée Yersin Đà Lạt. Thời gian đó vào những buổi chiều sau những giờ phút căng thẳng của hội nghị cha tôi và bác tôi thường ngồi uống rượu ngắm cảnh hồ Xuân Hương trước thềm hiên của khách sạn Langbian. Bây giờ hồi tưởng lại tôi tự hỏi biết đâu sự hiện diện bất ngờ của bác tôi vào dịp Tết năm ấy chẳng phải là sự tình cờ mà do sắp xếp trước của cha tôi mời bác lên Đà Lạt để hai anh em kỷ niệm (riêng với nhau) 10 năm những ngày lịch sử trọng đại đầy sóng gió ấy.
Chúng tôi đang đánh tam cúc thì bác Thụy qua chơi. Bác người cao lớn, mắt sâu mày rậm mũi cao, trông bác như một ông tây. Bác bận bộ đồ lớn đi đứng đường vệ, một cánh tay gấp trước ngực, vung cái ống pipe khi nói chuyện. Nguyên là tổng giám đốc bưu điện quốc gia Việt Nam con người bác toát ra một vóc dáng bề thế nó làm lũ trẻ chúng tôi luôn luôn nhìn bác với cặp mắt e dè kính nể có phần nào xa cách gần như sợ hãi. Vì vậy ngồi đánh bất với bác buổi sáng mồng một Tết năm ấy lần đầu tiên tôi nhìn thấy con người bình dân trong bác và từ đó mỗi lần nhớ về người bác cả của tôi, tôi thấy bác gần gũi hơn nhiều trong tâm tưởng.
Thấy chúng tôi ngồi đánh tam cúc bác nói:
– Dẹp bộ tam cúc đi! Đánh bất vui hơn…
Nói rồi bác vén hai gấu quần tây ngồi xếp bằng xuống chiếu. Chúng tôi bốn người có thêm bác là năm. Anh Triệu trao bài. Bác hỏi có ai muốn làm “chương” không, chỉ có anh Triệu giơ tay. Bác nhường anh tôi làm cái trước. Anh Triệu đang làm chương thắng được mấy ván lớn thì bác Thụy chìa hai con bài và giành làm nhà cái. Mất chức làm cái anh tôi tiếc rẻ hát bài Kiếp Hoa: Thương thay đời… chương, kiếp sao sớm nở tối tàn… Tôi vì không thuộc mặt bài nên tôi chỉ hai con bài của bác Thụy hỏi chị Thoa:
– Lá bài có vẽ con cá là thế nào?
– Đó là bát vạn. Lá kia là nhị văn. Tám cộng hai là mười, mười to nhất được làm chương, hiểu chưa?
Rồi chị quay qua nói với bác Thụy:
– Bác hên quá! Nhị tống bát mà lại không tống cửu!
Bác Thụy bảo:
– Bác bắt con bát vạn trước, con nhị văn sau.
Tất cả bỗng ồ lên:
– Trời! Sao bác liều quá vậy… tám mà bốc nữa thì dễ “bương” lắm.
Biết được cái “tủ” ấy của bác chúng tôi thắng lớn. Khi thấy nhà cái chỉ rút có độc một cây thì chúng tôi cầm chắc đó là con cửu. Đánh mà biết rõ cách chơi bài của bác chúng tôi chỉ có một là thắng hoặc hòa chứ rất ít thua. Một tiếng đồng hồ sau bác tôi đứng lên nói:
– Tụi bây vắt hết tiền của bác rồi! Thôi không chơi nữa.
Tết ấy tôi có dư tiền mua một cái kèn Harmonica mới. Nhớ tới buổi đánh bất ấy bây giờ tôi mới hiểu ra là Tết đó bác đã cố tình đánh thua và tiền chúng tôi thắng được chính là tiền lì xì của bác, một hình thức cho tiền mừng tuổi hết sức tế nhị của bác Thụy tôi.
Buổi trưa cha tôi mời bác Thụy ở lại dùng cơm nhưng bác nói có việc phải đi hẹn hôm sau trở lại. Chúng tôi quây quần ngồi trên mâm cơm đặt trên phản. Cơm có thịt kho dưa chua. Hai cái bánh chưng được cắt bằng giây lạt thành những miếng hình tam giác.
Trước khi ăn cha tôi nói:
– Nào! Có chai rượu quí phải mở ra để uống mừng xuân chứ.
Rồi ông nhìn quanh tìm cái mở rượu. Không thấy cái mở rượu đâu ông quay qua hỏi mẹ tôi. Đặt đĩa dưa chua trên phản, mẹ tôi nói:
– Hình như ở trên lò sưởi ấy.
Nói rồi mẹ tôi tiến lại lò sưởi giơ tay lên bệ cao để tìm. Bỗng “xoảng” một cái. Chúng tôi giật mình quay lại. Chai rượu quý đặt trên bệ cao rơi xuống sàn vỡ tan. Cha tôi lúc ấy đang ngồi trên ghế xa lông cạnh lò sưởi nhỏm ngay dậy đưa tay dựng đứng chai rượu vỡ trên sàn. Mẹ tôi cúi xuống cầm lấy chai đặt lên bàn. Chai rượu vang bị vỡ đôi ngang chỗ cổ chai. Nhờ cha tôi nhanh tay nên rượu trong chai vẫn còn gần đầy. Nhưng chúng tôi đều biết là mảnh vụn thủy tinh đã lẫn vào trong rượu.
Chị Thoa giúp mẹ tôi quét dọn miểng thủy tinh và lau chùi rượu trên sàn.
Cha tôi chỉ chai rượu trên bàn bảo mẹ tôi:
– Còn chai này nữa. Sao không dẹp đi cho rồi.
Mẹ tôi nhìn chai rượu tiếc rẻ nói:
– Rượu còn đầy nguyên mà. Rượu đắt tiền chứ có phải rẻ đâu mà đổ đi. Phí của trời!
–Uống vào để cho thủy tinh nó cứa thủng bụng hả?
Mẹ tôi trầm ngâm một lát rồi nói:
– Tôi có cách!
Bà xuống nhà bếp lục lọi một hồi mang lên nhà một cái phễu lại đi tìm một cái chai rượu không đặt phễu lên trên. Xong bà lấy thật nhiều bông gòn bỏ trên phễu và bắt đầu trút rượu trong chai vỡ lên trên miếng bông gòn. Mẹ tôi làm công việc trút rượu này rất chậm rãi và cẩn thận. Khi chai rượu được đổ sang gần hết mẹ tôi chừa lại ít cặn trong cái chai vỡ rồi mang chai này vào bếp vứt thùng rác. Cha tôi nhìn mẹ tôi làm yên lặng không nói gì. Nhưng rõ ràng là ông bực mình. Mẹ tôi nhìn cái mũi cau cau nhăn nhăn của cha tôi thì biết ngay là ông đang cáu, bà nói:
– Ông không uống thì để tôi uống. Rượu đắt thế này mà không uống có phí của trời không chứ.
– Bà thì chỉ nghĩ đến cái lợi nhỏ mà quên cái hại lớn. Lỡ mà còn có mảnh chai nó cứa vào bụng thì có phải chết người không?
– Mình không thấy tôi làm à? Lọc kỹ thế này làm sao mà còn thủy tinh trong đó cơ chứ?
Nói xong mẹ tôi tự rót cho mình một nửa cốc đưa lên uống một hơi cạn. Rồi “khà” một cái bà tấm tắc khen rượu ngon như để chọc tức cha tôi.
Quay sang mâm cơm mẹ tôi bảo chúng tôi:
– Uống đi. Ai uống được rượu cứ uống. Mợ cho phép đấy!
Anh Triệu vội đứng dậy. Anh là một tay uống rượu cừ không thua cha tôi. Rót cho mình một cốc đầy anh nói với cha tôi:
– Cậu uống đi. Con chắc chắn là mợ đã lọc kỹ rồi. Thủy tinh nặng hơn rượu nên lắng xuống đáy chai, lúc nẫy con để ý mợ đã cẩn thận chừa lại chỗ rượu ở đáy không trút qua. Như vậy là chắc ăn rồi.
Cha tôi không nói gì. Lát sau ông mới lên tiếng:
– Uống rượu là để tìm cái thú. Uống mà vừa uống vừa lo thì uống làm gì. Cậu không uống vì có uống cũng sẽ không còn thấy ngon nữa. Không thấy ngon mà vẫn cứ uống, nghĩa là uống chỉ vì tiếc tiền thì rất không nên.
Câu nói của cha tôi không có tí nào tác dụng đối với chúng tôi vì sau đó cả anh Thạch và tôi cùng đứng lên đòi uống.
Thế là cái chai rượu quý khai xuân thầy giáo Khuê tặng cha tôi trong dịp Tết Bính Thân năm 1956 đó cha tôi không thưởng thức được lấy một giọt.
Ngồi trên xa lông nhìn bốn mẹ con tôi chia nhau uống sạch bách chai rượu vang lại say sưa ăn nói huyên thiên ông chỉ yên lặng khẽ lắc đầu.
Seattle, bên thềm Xuân Ất Sửu 2009.

_____________

Chuyện bên phố cũ

Phố cũ là phố Hàng Bè Hà Nội, chuyện xẩy ra bên phố cũ thì nhiều lắm.
Tôi chỉ xin kể dăm ba chuyện thôi. Chẳng hạn:

Chuyện bố tôi bắt trộm
Câu chuyện ấy mẹ tôi kể tôi nghe tự hồi nào nhỉ? Không thể nhớ. Thỉnh thoảng nó xuất hiện loáng thoáng trong mớ ký ức mịt mờ của tôi về thời thơ ấu. Mà tự cái thuở xa vời vợi ấy bây giờ có cố nhớ lại cũng chẳng thể nhớ rõ mà đoan chắc chuyện gì. Chẳng hạn có chắc gì mẹ tôi đã trực tiếp kể chuyện ấy cho tôi nghe?
Rất có thể câu chuyện “bố tôi bắt trộm” tôi đã nghe “trộm” được của bà khi mẹ tôi vừa ăn trầu vừa kể với bà bạn hàng cau, trên chiếc sập gụ của bà, một căn nhà mang số 15 bên phố cũ hàng Bè Hà Nội. Và tôi, đứa bé tình cờ có mặt, bắt được mẩu chuyện. Mẩu ấy đâm vào tuổi thơ tôi, dính mãi vào trí nhớ tôi. Cho đến tận giờ. Dẫu vậy cái mẩu mà tôi còn nhớ được nó cụt lắm. Nếu cứ chép lại nguyên lời thì “chuyện” ấy tài lắm chỉ kéo được dăm dòng, chẳng thể nào thành “truyện” được, cho dù là truyện “cực ngắn”. Cũng may loài người còn có trí tưởng tượng. Và tưởng tượng đã pha loãng rất nhiều cho lời kể của mẹ tôi năm xưa để ngày nay câu chuyện có thật ấy, chuyện ông Nhất Linh bắt trộm, có thể được kể lại dưới một hình thức mới trang trọng hơn gọi là hư cấu.

Truyện hư cấu ấy nó như sau:
Hồi đó…
tôi mới chừng chín mười tuổi. Tôi hay chơi trò búng cóc. Cóc là những mảnh giấy vuông nhỏ được xếp thành hình con cóc. Tôi đặt một dọc những con cóc giấy lên mép cái sập gụ rồi búng tay thật mạnh vào đít cóc xem con nào nhẩy xa nhất.
Trên sập gụ có tiếng mẹ tôi kể với bà bạn hàng cau:
–Thấy có tiếng động tên ăn trộm chui tọt vào gầm giường.
Bà bạn hỏi:
–Thế hả? Nó chui vào gầm giường hả bà?
Tôi dừng tay lắng nghe. Con mèo tam thể nằm trong lòng mẹ tôi cũng lắng nghe.
–Tôi và nhà tôi nằm trên giường, nó nằm ngay dưới gầm cả tiếng đồng hồ mà cả hai chúng tôi không ai biết.
–Bà nói chiếc sập gụ này?
–Ừ, đúng chiếc sập này nhưng không phải tại căn nhà 15 này đâu, hồi đó chúng tôi còn ở bên căn số 9. Chuyện xẩy ra cũng lâu rồi. Đêm đó chúng tôi dự đám cưới ông bà Lơ-Muya Cát Tường, khuya trở về nhà thì thằng ăn trộm không biết từ lúc nào đã lẻn vào trong nhà trước rồi.
Mẹ tôi chỉ tay vào tôi:
–Hồi đó tôi chưa sinh thằng này.
Bây giờ…
tôi tưởng tượng khác. Bố tôi tinh lắm. Mẹ tôi nói tên ăn trộm nằm dưới gầm giường cả tiếng mà cả bố lẫn mẹ tôi không biết, chắc bà nói sai. Bố tôi biết chứ nhưng ông còn đang nghĩ mưu tìm cách đối phó.
Mẹ tôi nhỏm dậy hỏi bố tôi:
–Mình này, mình có nghe thấy tiếng động gì là lạ ở trong nhà không?
Bố tôi giả vờ lắng nghe một lúc rồi nói:
–Có gì đâu. Chắc chuột nó rúc dưới gầm tủ đấy.
Miệng nói thế nhưng bố tôi suy nghĩ…
nếu mình để vợ hốt hoảng làm toáng lên tên ăn trộm đâm hoảng mà liều mạng thì nguy hiểm lắm. Nếu hắn có mang vũ khí, một con dao chẳng hạn, lại càng nguy hơn. Mình không sợ lắm nếu hắn to lớn mà không mang vũ khí vì mình những hai người nhưng khi nó đã liều mình thì… Tốt nhất là mình nên đối phó bằng đường lối ngoại giao. Nhưng ngoại giao cũng cần sức mạnh. Mình phải tỏ cho hắn biết là mình cũng có vũ khí…
Bố tôi nhỏm dậy với tay bật ngọn đèn con ở đầu giường.
–Chiều nay uống nhiều rượu người cứ nôn nao cả lên khó ngủ quá. Mình nằm quay mặt phía trong cho tôi bật đèn đọc sách.
Bố tôi cầm lên cuốn truyện Đoạn Tuyệt mới in xong. Cuốn sách in trên giấy bản, chưa rọc, còn thơm mùi giấy. Trí ông thoáng hiện lên hình ảnh cô Loan giết chồng bằng con dao rọc giấy. Ông quay sang hỏi vợ:
–Quái con dao rọc giấy mình vẫn để ở đầu bàn đâu mất rồi?
–Tôi cất dưới bếp ấy. Mình xuống mà lấy.
Bố tôi vào bếp. Thay vì lấy con dao díp nhỏ ông mang ra một con dao phay thật lớn. Trước khi lên giường ông thoáng nhìn phía dưới gầm.
Vừa rọc giấy ông vừa nói to với vợ nhưng cốt để tên trộm nghe thấy:
–Tôi không thấy con dao díp ở đâu, dùng tạm con dao phay lớn này. Chà, con dao này sắc quá, mình mới mua hả?
Bố tôi giả vờ chăm chú đọc sách. Nhưng trí ông thì lại nằm dưới gầm giường…
nếu mình là thằng ăn trộm thì chỗ trốn nhanh nhất và kín nhất là chui tọt xuống dưới gầm giường. Cái sập gụ này tuy cao thật đấy, nhưng không phải dễ chui. Chung quanh sập có gờ trạm trổ bao quanh che kín gần nửa chiều cao của sập. Vậy thì muốn chui lọt được tên ăn trộm phải là một đứa bé con hay là người lớn gầy tong teo. Cả hai trường họp đều không đáng sợ, thứ nữa mình lại có con dao phay lớn này. (Ông nghĩ thế và thấy yên tâm). Bây giờ mình phải ăn nói làm sao cho khéo để dụ nó ra…
Bà hàng cau sốt ruột hỏi mẹ tôi:
–Thế sau ra sao? Có bắt được nó không?
Mẹ tôi đưa tay vuốt vuốt lưng con mèo tam thể rồi bà với cái ống phóng đưa lên gần miệng nhổ bã trầu vào đó chậm rãi nói:
–Mới đầu tôi cứ tưởng là ông nhà tôi say ăn nói lung tung. Sau thấy tôi ngạc nhiên ngồi nhỏm hẳn dậy ông khẽ bấm vào đùi tôi và đưa một ngón tay lên miệng thì tôi hiểu ngay cái dụng ý của nhà tôi.
–Ông nhà nói gì với bà?
–Nhà tôi nói: “Cuốn sách này mới mua có một truyện ngắn hay lắm. Để tôi đọc cho mình nghe!”.
Rồi thay vì đọc cuốn sách cầm tay ông nhà tôi lại bịa ra một câu chuyện kể về đời của một thằng bé có bản chất tốt nhưng trót sinh ra làm con nhà nghèo nên phải làm nghề trộm cắp. Một bữa nọ hắn lẻn vào nhà một gia đình kia, chưa trộm được món nào thì gia chủ đã về, hắn hoảng sợ trốn ngay xuống dưới gầm giường. Chủ nhà biết được dùng dao đe dọa bắt được hắn. May quá ông ta là một người có lòng từ tâm nên không những không đi báo sở cẩm mà lại còn khuyên bảo và giúp tiền cho nó ăn học. Đứa bé về sau này trở thành một người hữu ích cho xã hội. Chuyện ông nhà tôi kể cứ y như là một câu chuyện thật ấy bà ạ, nghe cảm động lắm. Khi nhà tôi đọc xong chuyện ấy thì ở dưới gầm giường có tiếng khóc thút thít và một thằng bé chừng mười lăm mười sáu tuổi lòm còm chui ra. Nhà tôi giữ đúng lời hứa với thằng bé. Chúng tôi giúp nó ăn học trong mấy năm liền cho đến khi nó bước qua khỏi tuổi trưởng thành.
Kể xong mẹ tôi cúi xuống lấy tay xoa đầu tôi một lát rồi bà quay sang tiếp tục câu chuyện buôn bán với bà khách.

Chuyện con bé Phương (hay Phượng?)
Cho mãi đến nay mặc dù đã rời xa phố cũ Hàng Bè trên nửa thế kỷ tôi vẫn còn nhớ như in căn nhà mang số 15 ấy nơi mẹ tôi mở tiệm bán cau khô.
Căn nhà ấy ghi dấu rất nhiều kỷ niệm của tôi thời thơ ấu. Cái sân gạch kia, cái buồng chứa cau nọ, cái sàn đá hoa ấy, cái sập gụ này… chỗ nào cũng nhắc nhở tôi một vài hình bóng của tuổi thơ in đậm trong trí nhớ. Những kỷ niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với hình ảnh đứa em trai tôi, thằng Thái, kém tôi hai tuổi.. và hình ảnh một con bé láng giềng.
Tên con bé là Phương. Hay Phượng? Tôi không nhớ. Năm đó tôi 10 tuổi. Con bé lớn hơn tôi. Nó độ chừng 11, 12 gì đó. Tôi đoán thế. Nhà nó ở sát cạnh nhà tôi, số 17 phố Hàng Bè.
Nhà tôi hai từng, nhà nó một tầng. Ở trên gác nhà tôi chỗ trên cái hành lang lát đá hoa từ một cái cửa sổ hông nhìn qua nhà nó tôi thấy hai cái mái ngói phủ rêu châu xuống hai đầu của một cái sân gạch lộ thiên. Sân này nối nhà trên với nhà bếp nên mọi người đều phải đi băng qua đó. Hầu như lúc nào tôi cũng thấy trên sân có người qua lại. Ở góc sân có một cái chum lớn đựng nước mưa. Tôi thấy thằng Tý em con Phương vạch quần đứng đái vào thành cái chum ấy nhiều lần. Có bận nó mải đái mẹ nó dón dén lại đằng sau phát vào đít nó một cái mạnh làm nó giật nẩy mình: “Tiên sư bố mày! Đây là chỗ để mày đứng đái đó hả thằng Tý?”. Mẹ nó chửi nó thế nhưng chính bà cũng có lần ngồi đái ở sân. Một đêm tình cờ đi ngang qua cửa sổ nhìn xuống tôi thấy bà nhìn trước nhìn sau không thấy ai rồi ngồi sụp hẳn xuống. Dưới ánh trăng cái mông của bà lộ ra trắng hếu. Còn con Phương thì hay kiễng chân chúi đầu vào trong miệng chum để vớt những con cung quăng ở trong đó. Một bữa thằng anh cả nó nghịch chụp ngang bụng nó dúi đầu nó sâu vào trong chum. Con bé sợ quá kêu oai oái, hai chân nó dẫy đành đạch. Nhà số 17 bán nước mắm. Thảo nào mà người con Phương hôi mùi nước mắm. Tôi biết thế vì có lần bọn tôi 4 đứa chơi trò đi trốn, tôi và nó cùng chui vào trốn trong những bồ cau, nó sợ bị bắt nên rúc hẳn người vào tôi. Dẫu sao tôi thân với con bé này nhất, thân hơn cả thằng Thái. Thằng Thái trẻ con lắm, động một tí là khóc. Còn thằng Tý bằng tuổi tôi nhưng tôi ghét nó thậm tệ. Nó hay phá đám. Lại có tính gian nữa. Khi nào chơi trốn oẳn tù tì nó bị là người phải đi bắt thì nó giở trò gian liền. Nhà mẹ tôi rộng lắm, có nhiều buồng. Chính giữa nhà có một cái buồng rộng nhưng tối lắm, mẹ tôi dùng làm kho chứa hàng, kho lúc nào cũng đầy những bao cau xếp đống cao gần đụng trần. Đây là chỗ đi trốn lý tưởng cho bốn đứa tôi. Giữa những đống bao tải có chừa một khoảng hở rất hẹp chỉ một người đi lọt lại tối tăm và ngoắt ngoéo, trốn vào đó thì ngay người trốn cũng lạc chứ đừng nói là người đi bắt.
Con Phương và tôi là hai người khỏe nhất bọn. Đi trốn hai đứa chúng tôi xoạc chân giữa hai đống bao tải mà trèo dần lên cao. Nằm sát trần nhà áp mặt trên bao tôi ngửi thấy mùi cau nồng nồng toát ra từ những bao bố. Trên đó nhìn xuống tôi thấy cái đầu của thằng Tý di chuyển giữa những bồ cau. Đi trốn, thằng Thái bao giờ cũng là người bị chộp trước tiên. Nó nhát cáy lại sợ ma không bao giờ dám mạo hiểm chui sâu vào những ngõ ngách. Nếu gặp phải thằng Tý là người đi tìm thì nó lại bị chộp nhanh nữa vì thằng Tý đếm gian không để nó có đủ thì giờ tìm chỗ nấp kín đáo. Thay vì phải đứng dựa cột nhà lấy hai tay bịt kín hai mắt mình lại và đếm năm mười mười lăm hai mươi… thật to và chậm cho đủ số một trăm để mọi người có thì giờ tìm chỗ trốn thì thằng Tý lại đếm nhỏ và nhanh, đã thế vừa đếm vừa xoè mấy ngón tay ra để nhìn lén. Nó đếm nhẩy cóc: 5, 10, 15, 20… rồi bắt qua 45, 50, 55… cứ thế cho đến con số 100 là nó chạy đi liền làm thằng Thái không kịp trở tay. Còn khi nào thằng Thái phải đi tìm thì tội nghiệp quá! Nó không dám chui sâu vào những chỗ tối. Tìm mãi không bắt được ai nó bèn đứng yên một chỗ mà khóc tỉ tê. Mẹ tôi đi ngang thấy nó khóc thì dừng lại hỏi. Thế là bà biết được cái trò chơi nguy hiểm của chúng tôi. Mẹ tôi hét tướng lên: “Mấy cái bồ cau nó mà đổ xuống đầu thì tụi bay cứ mà chết bẹp!”. Sau đó bà cấm tiệt không cho chúng tôi vào nhà kho nữa.
Chúng tôi tìm trò chơi khác. Cạnh nhà kho có một cái buồng nhỏ chứa đồ, tuy nhỏ nhưng vì ít đồ đạc bên trong nên chúng tôi có một khoảng khá rộng để chơi. Chúng tôi làm nhà để ở trong đó. Làm nhà là sáng kiến của con Phương. Nó mang sang nhà tôi một cái chiếu hoa thật to. Đặt chiếu dựa sát tường nó uốn cong cái chiếu lại thành một cái nhà vòm. Mặt kia của chiếu nó lấy mấy cái ghế chặn lại. Bốn chúng tôi chui vào cửa tò vò ở hai đầu. Con Phương còn bắt tôi đi vơ vét thật nhiều gối rồi mỗi đứa ngồi trên một cái gối rù rì nói chuyện. Vì muốn tránh mẹ tôi bắt gặp nên chúng tôi phải đóng cửa. Đóng cửa thì buồng này tối om. Con Phương kiếm đâu ra một cái đèn pin. Thế là dưới ánh đèn bốn chúng tôi ngồi hể hả trong căn nhà mới. Thằng Tý và thằng Thái thoạt đầu thích lắm nhưng hôm sau là chúng hết thích ngay. Ngồi mãi trong bóng tối chỉ để nghe con Phương và tôi nói chuyện, thằng Tý chán quá năn nỉ chị nó ra ngoài chơi đánh khăng, nhưng con Phương không chịu. Căn nhà tôi cũng có một cái sân gạch lộ thiên rộng, còn rộng hơn sân nhà con Phương, và chúng tôi thường chơi đánh khăng ở đó. Thằng Tý bèn rủ em tôi ra ngoài chơi khăng. Lát sau có lẽ vì nó chê thằng Thái chơi dở quá nó cáu sườn mở cửa rồi chẳng nói chẳng rằng nhẩy ụp lên trên cái nóc nhà vòm. Con Phương và tôi đang nói chuyện trong chiếu bị nó đè lên ngã dúi vào nhau. Lần đầu tiên tôi nằm đè lên người nó. Tôi chỉ thấy cái đùi nó êm êm chứ không nhớ có một cảm giác nào khác. Con Phương nổi sùng với thằng em phá đám nhất định không thèm chơi với nó nữa. Thành thử căn nhà chiếu từ đó chỉ còn mỗi hai đứa tôi. Mỗi buổi chiều đi học về là con Phương và tôi quẳng hết mọi thứ, hai đứa chui vào nhà chiếu thủ thỉ với nhau.
Chiếu đèn pin vào mặt tôi con Phương hỏi tôi: “Tao đố mày con muỗi và con ruồi con nào sống dai hơn?”. Tôi bảo con muỗi sống lâu hơn vì nó hút máu người, máu người tốt lắm. Con ruồi ăn cứt chỉ tổ mau chết. Con Phượng cãi: “Tao thấy con ruồi sống lâu hơn vì nó to hơn con muỗi, nó khoẻ hơn. Khoẻ thì phải sống dai”. Cuộc tranh luận giữa hai đứa kéo dài bất phân thắng bại.
Mấy hôm sau nhìn thấy anh Doãn, một người anh họ lớn tuổi của tôi hồi đó còn ở chung hút thuốc lá Cotab tôi bèn nẩy ra một ý kiến. Tôi lén bóc hai cái bao thuốc lá Cotab của anh Doãn lấy ra hai cái bao giấy bóng kính. Đưa một bao cho con Phương tôi bảo nó bắt ruồi bỏ vào đó, còn tôi thì bắt muỗi. Ruồi thì ở đâu cũng có lại dễ bắt, chỉ việc lấy bao giấy bóng chụp lên lưng con ruồi đậu là xong. Muỗi thì khó hơn phải chờ đến đêm có con nào chui vào màn mới bắt được. Chúng tôi nhét hai cái bọc giấy kính lên cái bệ cao trong căn chứa đồ. Thế là chiều chiều đi học về hai đứa lấy xuống mang vào trong nhà vòm chiếu đèn pin quan sát. Mấy ngày đầu hai con đều còn khỏe, vẫy nhẹ một cái là chúng bay vo vo trong bọc. Nhưng sau đó mỗi ngày phải lắc mạnh thêm thì hai con vật mới chịu nhúc nhích. Rồi một buổi chiều vừa mới rọi đèn pin thì hai đứa biết ngay là con ruồi đã chết ngắc: nó co quắp nằm ngửa ra đưa mấy cái chân bé xíu lên. Còn con muỗi tuy suội lơ nhưng vẫn còn sống. Tôi thắng cuộc. Con Phương thua. Nó tức lắm. Cả tuần lễ sau nó không thèm nhìn mặt tôi.
Vào tháng Ba của năm 1950 ấy cả thành phố Hà Nội bị một nạn dịch hoành hành. Đó là bệnh dịch tê liệt trẻ em. Thằng Thái lên cơn sốt. Mẹ tôi chở nó vào nhà thương Phủ Doãn. Khi biết nó bị bệnh dịch mẹ tôi sợ tôi ở nhà bị lây nên tức tốc gửi tôi qua phố Hàng Trống ở tạm nhà bác cả Chi. Tôi ở đó tới gần một tháng. Ngày tôi trở về căn nhà Hàng Bè thì tôi được biết cả nhà đã đi chôn thằng Thái từ mấy hôm trước rồi. Tôi còn nhớ ngày chết của nó; rất dễ nhớ, cứ đếm từ hai đến năm là ra. Thứ Hai, mồng Ba, tháng Tư, năm Năm mươi. Khi nghe tin nó chết tôi chẳng thấy buồn, chỉ thấy nhà thiếu nó thì có vẻ vắng hẳn đi. Cho mãi đến buổi chiều ngày hôm sau tôi lên gác nhìn qua cái cửa sổ hông thấy cái sân gạch bên nhà con Phương vắng hoe, đứng mãi cũng không thấy bóng người qua lại. Căn nhà im lìm không nghe một tiếng động. Hỏi ra mới biết là cả nhà nó đã dọn đi ở chỗ khác. Lúc đó tôi mới thấy buồn. Thật buồn. Cái buồn lắng sâu vào tuổi thơ tôi và là nỗi buồn xa xôi nhất của thời quá vãng mà ngày nay tôi còn nhớ được. Đám bốn đứa chơi với nhau nay chỉ còn trơ lại mình tôi. Từ nay tôi phải tập chơi lấy một mình. Ngày tháng qua hình ảnh thằng Thái và con Phương nhanh chóng phai mờ. Năm 1951 tôi theo bố tôi và chị cả tôi là chị Thư vào sống ở trong Sài Gòn. Từ đó tôi hoàn toàn không nhớ gì về chúng nó nữa.

Chuyện mảnh giấy đi cầu của anh tôi
Đời có những chuyện run rủi lạ lùng. Chỉ một chút xíu thôi mà thay đổi hẳn cả cuộc đời. Những chuyện ấy nghe xong người ta dễ tin vào số mạng. Chẳng hạn như chuyện cái mảnh giấy đi cầu do anh tôi kể lại.
Vào năm 1950 bố tôi còn ở bên Hồng Kông chưa về nước. Chúng tôi sống với mẹ tại căn nhà số 15 phố Hàng Bè. Anh cả tôi, anh Việt năm ấy 19 tuổi, còn tôi lên 10. Sau khi em Thái của tôi mất vào tháng Tư năm ấy thì tôi bị đẩy xuống làm em út trong nhà.
Anh cả thường dẫn em út đi chơi. Tôi còn nhớ mãi những buổi anh đèo tôi trên chiếc xe đạp từ phố Hàng Bè lên Petit Đồ Sơn ở ven Hồ Tây để thuê thuyền perissoire chèo sang bên kia hồ phía Quảng Bá. Lúc về anh em chúng tôi ăn bánh tôm trên đường Cổ Ngư rồi anh dẫn tôi vào vườn bách thảo để chụp ảnh. Anh tôi mê chụp ảnh lắm. Hồi đó trên căn gác căn nhà số 15 anh đã tự làm một phòng tối để rửa ảnh lấy. Đứa em út của anh đôi lần vén màn vào phòng nhìn người anh cả thả những miếng giấy ảnh vào một chậu nước hoá chất. Dưới ánh đèn màu đỏ nó ngây người nhìn trong thau nước miếng giấy trắng nổi dần lên những bức hình anh chụp mới đầu còn mờ mờ nhưng hiện ra mỗi lúc một rõ nét. Ngay từ hồi nhỏ anh tôi đã có khiếu về khoa học. Thảo nào mà khi sang Pháp du học anh đã đoạt bằng tiến sĩ về vật lý và sau này anh được mời làm giảng sư để hướng dẫn sinh viên lấy bằng tiến sĩ tại truờng đại học danh tiếng Stanford của tiểu bang California.
Năm 1950 cũng là năm anh đi Pháp du học. Anh ở luôn bên ấy cho mãi đến tận năm 1973 mới trở về Việt Nam lần đầu. Sau hai mươi ba năm dài xa cách lần đầu tiên gặp lại nhau tại căn nhà số 39 chợ An Đông Sài Gòn tôi nhìn anh ngỡ ngàng. Anh đã 42 tuổi và tôi 33. Mặc dù tôi đã trưởng thành nhưng anh vẫn xem tôi như một người em nhỏ thuở nào: hôm gặp mặt, tôi ngỡ là anh sẽ ôm chầm lấy tôi khi anh tiến lại gần tôi nhưng không, anh đứng áp sát hẳn vào người tôi giơ một bàn tay đặt lên đầu tôi, lưng bàn tay ấy chạm vào trán của anh như để đo lường xem là thằng em út 10 tuổi của anh nay đã cao lớn chừng nào rồi. Từ ngày anh qua Pháp anh có một cuộc đời khác hẳn với chúng tôi. Hai mươi ba năm xa nhà anh sống nơi một thế giới khác trong khi ở trong nước có bao nhiêu là biến chuyển. Cả một cuộc di cư vào Nam, cả một cuộc chiến khốc liệt, anh không hề chứng kiến, như thể anh là người đã sống ngoài lề của lịch sử. Những người bạn thân thiết của anh từ hồi còn ở Hà Nội như các anh Quí, anh Tô, anh Ái, anh Khang mỗi người một số phận. Anh Quí qua Pháp sống, anh Ái anh Tô ở lại Hà Nội sau ngày di cư, anh Khang vào Nam đăng vào quân đội sau này lên đến cấp bậc Đại Tá. Trong số những người học cùng lớp với anh Việt ở Hà Nội hồi đó có cả tướng Nguyễn Cao Kỳ. Cách đây vài năm tình cờ lên mạng Internet tôi đọc một bài báo ở Việt Nam tường thuật những người bạn cũ cùng lớp Chu Văn An tiếp đón ông Kỳ ở Hà Nội, trong số tôi thấy có tên anh Nguyễn Tô.
Năm 2002 anh tôi và tôi từ Mỹ cùng về thăm Hà Nội. Anh 71 tuổi và tôi cũng đã 64. Hai anh em rủ nhau đi thăm lại căn nhà cũ 15 Hàng Bè, nơi anh đã sống trước khi đi Pháp hơn nửa thế kỷ trước. Chúng tôi nhờ một người em họ ở phố Cầu Gỗ có quen biết với chủ căn nhà dẫn đến giới thiệu và được phép vào hẳn bên trong nhà để xem. Mặc dù con số nhà 15 rành rành gắn phía trước nhưng tôi không nhận ra căn nhà xưa. Cho đến lúc ngước mặt nhìn lên cao tôi mới nhận ra đúng là căn nhà cũ của mình bởi vì mặt tiền trên cao vẫn giữ nguyên trạng như trước với ba cái cửa sổ rộng và bức từng vôi loang lổ. Hoá ra hiệu bán cau rộng rãi của mẹ tôi nay bị chia làm hai căn nhà nhỏ, chính giữa là một cái cổng gỗ. Căn bên trái là hiệu cắt uốn tóc Thu Hương. Người em họ bảo chúng tôi đứng đợi phía ngoài rồi anh ta đẩy cổng gỗ vào trong. Lát sau chủ nhà, một người ở tuổi trung niên, mời chúng tôi vào nhà.
Lúc ấy giữa trưa mà bên trong tối tù mù. Chúng tôi vào nhà mà cứ như vào một đường hầm hẹp. Vừa bước vào hầm chủ nhà dẫn chúng tôi lên một cái cầu thang nhỏ lên gác. Ông ta tiếp chúng tôi trong một gian phòng rộng và sáng sủa nhìn ra hành lang nơi có ba cái cửa sổ rộng hướng ra ngoài phố. Qua cửa sổ ấy tôi nhìn thấy tàn lá xanh của mấy cây dâu da xoan. Tôi nhớ rõ là tại một góc của hàng hiên này anh Việt tôi ngày xưa đã thiết lập phòng rửa ảnh. Trong lúc dùng trà người em họ tôi nói với chủ nhà: “Ông biết không, nhà này xưa kia là nhà ông Nguyễn Tường Tam ở đấy!”. Ông ta gật đầu nói: “Tôi có nghe”. Trước khi về tôi ngỏ ý muốn được xem toàn thể căn nhà. Ông ta có vẻ chần chừ một lát, nhưng sau cũng nhận lời. Trước khi bước xuống cầu thang tôi nhìn sang bên hông nhà tìm cái cửa sổ mà năm mươi hai năm trước tôi đã thường nhìn qua căn nhà bên cạnh. Cái cửa sổ vẫn còn nguyên đó. Hình ảnh con bé Phương (hay Phượng?) vụt loé lên trong tôi và một ý nghĩ muốn tiến lại gần cửa sổ để nhìn xuống nhưng chủ nhà đã vội vã dẫn chúng tôi xuống cầu thang. Xuống tới bậc cuối cùng, thay vì đi về phía cửa để về thì ông ta dẫn chúng tôi đi sâu vào con đường hầm mà ở hai bên, trong những gian buồng rất nhỏ và tăm tối, tôi thấy người ta ở lố nhố. Căn nhà lớn của mẹ tôi năm xưa nay đã bị cắt thành nhiều hộ nhỏ chỉ chừa một lối đi chung là con đường hầm này để đi vào nhà sau nơi có một khoảng sân lộ thiên và sau đó là nhà bếp, cầu tiêu.
Đến sân lộ thiên chủ nhà dừng lại. Tôi nhìn cái sân gạch cũ mà lòng bồi hồi. Trên cái sân gạch này những trò chơi năm xưa của tuổi ấu thơ được gợi lại. Tôi thấy tôi ép vào lòng bàn tay cái đầu cao su của một chiếc đạn đũa vào nòng khẩu súng lò xo Eureka và nheo mắt bắn bia trên bức tường vôi kia, tôi thấy chị Thoa nhẩy giây trên sân cứ quay vài vòng chị lại bắt chéo hai tay, tôi thấy thằng Thái cúi xuống bắn hòn bi ve, nó chăm chú đến nỗi mồm miệng nó méo xẹo cả lại. Cũng tại cái sân gạch này, trước bức tường vôi này, ngày bố tôi từ bên Tàu về nước có chụp một bức ảnh kỷ niệm tôi còn cất giữ cho đến tận giờ. Bức ảnh chụp bố mẹ tôi, chị Thoa và tôi. Ảnh chụp lúc tôi cúi xuống ôm một con chó nhỏ.
Đứng nói chuyện một lát ở sân chúng tôi đi trở ra. Tôi ngoái nhìn lần sau cùng vào trong bếp nơi đó sau cánh cửa gỗ là cái cầu tiêu mà hồi đó chúng tôi gọi là “nhà trồ”. Có lẽ suốt đời tôi không bao giờ quên được cái nhà trồ ấy. Được xây xi măng nhà trồ nằm trên cao, có năm sáu bực thang đi lên. Trên nền nhà trồ khoét một vòng tròn hơi trũng xuống có hai chỗ gồ lên để chân được dũa trên xi măng bằng những nhát gạch chéo, chính giữa là một cái lỗ. Khi đi cầu có thể nghe rõ tiếng những cục phân rớt bịch bịch trên một cái thùng nhôm, lại còn nghe cả tiếng ruồi nhặng vo ve ở phía dưới. Cái thùng phân ấy nằm ở cuối một con hẻm dài và hẹp ăn thông sang một con phố khác. Mỗi sáng có người gánh phân theo con hẻm ấy mà vào thay thùng mới. Chúng tôi là những người rất may mắn vì ở nhà rộng và sâu nên có đường lấy phân riêng. Còn những nhà bên cạnh không được may như thế. Họ phải chịu cái cảnh mỗi ngày người gánh phân vào nhà bằng lối trước, khi đi ra họ gánh một thùng phân đầy làm thối um cả nhà.
Chính ở cái nhà trồ ấy mà số phận cuộc đời của anh Việt tôi được định đoạt. Và nó định đoạt bởi một cái giấy đi cầu!
Khoảng cuối năm 1950 anh Việt nộp đơn xin du học bên Pháp. Hồi ấy muốn du học không phải dễ. Qua những thủ tục giấy tờ phức tạp sau cùng anh cũng được chính phủ chấp thuận. Mọi chuyện xong xuôi, vé tàu đã có, anh chỉ việc chờ có chuyến tàu thủy từ Sài Gòn ra Hải Phòng để đưa anh đi Pháp. Hồi đó những chuyến tàu như vậy rất hiếm. Anh ngồi chờ dài cổ ngày này qua tháng nọ mà vẫn chưa có tin tàu đến. Người ta nói khi có tàu từ Pháp về Việt Nam lúc tàu ghé bến Sài Gòn trước khi ra Bắc họ sẽ đánh điện tín báo cho biết ngày tàu cập bến Hải Phòng và ngày tàu rời bến Hải Phòng để đi Pháp.
Hai tháng sau một bữa nọ anh mót đi cầu. Hồi đó trong nhà cầu làm gì có sẵn giấy chùi như bây giờ. Ai ấy đều vớ đại một mảnh giấy lộn nào đó vò nhàu cho nát ra cho đến khi giấy mềm thì dùng mà chùi đít. Anh tôi mở cái ngăn kéo mà mọi người vẫn dùng để bỏ vào những giấy tờ vứt đi không dùng nữa. Anh vớ một tờ giấy màu xanh rồi vừa chạy vào nhà trồ vừa vò nát tờ giấy. Vì cầu tiêu hồi đó luôn luôn hôi thối nên thời gian đi cầu được cắt giảm đến mức tối đa. Nhưng hôm đó có chuyện bất thường. Người gánh phân đến sớm hơn thường lệ. Cái thùng phía dưới là thùng mới thay. Nhà trồ sạch ít hôi hám, và cũng chính vì thế anh tôi đi cầu lâu hơn thường lệ. Ngồi lâu buồn buồn anh tẩn mẩn giở tấm giấy vò nhầu nát trong tay ra đọc và tá hỏa tam tinh khám phá ra cái giấy đi cầu chính là cái tờ điện tín báo cho biết tàu đã đến bến từ mấy hôm trước và ngày mai là ngày tàu nhổ neo rời Hải Phòng để đi Pháp. Tờ điện tín ấy được gửi đến nhà mẹ tôi gần một tháng trước, nhưng không biết ai nhận được (có thể là người làm vì nhà mẹ tôi có đông người giúp việc lắm) đã sơ ý không báo cho anh tôi biết và tờ giấy ấy không biết bằng cách nào lại lọt vào cái ngăn đựng những giấy tờ vứt đi.
Câu chuyện mảnh giấy đi cầu ấy anh tôi kể tôi nghe lúc hai anh em rời căn nhà Hàng Bè trên đường đi bộ về khách sạn Prince ở đường Lương Ngọc Quyến. Chuyện anh kể khiến tôi liên tưởng ngay tới một truyện ngắn của bố tôi, truyện Cái Tẩy, trong truyện ấy một cái tẩy cỏn con đã thay đổi hẳn cuộc đời của anh chàng “Huy địa dư” và tôi tự hỏi: nếu cái tẩy ấy nó “nặng” hơn một tí, nếu cái cầu tiêu ấy nó “thối” hơn một tí, thì có lẽ cuộc đời của anh chàng Huy, của anh Việt đã khác hẳn. Anh Việt kết luận: “Hôm ấy nếu anh không mở tờ điện tín ra đọc thì chắc chắn anh đã trễ chuyến tàu đi Pháp. Cơ hội đi Pháp có thể không bao giờ xẩy đến một lần thứ hai. Cuộc đời của anh đã khác. Nhưng đâu biết “cái khác” đó là rủi hay là may? Chuyện đời biết sao mà nói cho cùng. Biết đâu ở lại Việt Nam anh lại làm lớn, như anh Khang, như ông Kỳ?”. Tôi không nói gì nhưng tôi nghĩ trong bụng: “Hay là anh đã chết rục xương trong cuộc chiến tranh rồi”. Về đến khách sạn Prince đứng trước cửa anh quay sang nói với tôi:
–À này, lúc nẫy nhìn vào hiệu cắt tóc Thu Hương anh thấy có hai con bé xinh xinh. Anh mới cắt tóc ở bên Mỹ nhưng cần gì cắt lại và xấy gội cũng không sao. Chiều nay anh sẽ đến đó để hai nàng chăm sóc mái đầu, lại được ngồi ngay trong căn nhà cũ của mình, cũng thú vị lắm chứ?

____________

Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Tường Thiết

Du Tử Lê

nguyen tuong thiet

Di chúc của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.

Du Tử Lê: Thưa anh Nguyễn Tường Thiết, gần đây, độc giả được đọc nhiều sáng tác của anh, thí dụ trên tạp chí Hợp Lưu, báo Người Việt... Câu hỏi đầu tiên của chúng tôi là: Xin anh cho mọi người được biết chút tiểu sử của anh?
Nguyễn Tường Thiết (NTT): Tôi sinh năm 1940 tại Hà Nội, là con út của nhà văn Nhất Linh. Trước năm 1975 ở Sài Gòn tôi dạy học rồi nhập ngũ khóa 2/68 quân trường sĩ quan Thủ Ðức. Năm 1973 tôi trông nom nhà xuất bản Phượng Giang. Năm 1975 định cư ở Mỹ, tôi làm việc tại nhà máy lọc nước thải của thành phố Seattle với tư cách một chuyên viên phòng thử nghiệm hóa chất cho đến ngày về hưu, tháng 4 năm 2006. Cộng tác với các tạp chí Thế Kỷ 21, Văn Học, Hợp Lưu và các báo mạng Talawas, Da Mầu, Diễn Ðàn Thế kỷ... Ðã có hai tác phẩm xuất bản, hồi ký Nhất Linh, cha tôi (Văn Mới 2006) và tập truyện Mùa Hạ Năm Ấy (Văn Mới 2008).
DTL: Anh thực sự bước vào con đường văn chương từ bao giờ? Ra sao? Thế nào?
NTT: Tôi thực sự bước vào con đường văn chương rất muộn, mới cách đây 8 năm, lúc tôi đã trên 60 tuổi. Vào tháng 7 năm 2002 tập san Thế Kỷ 21 ra số báo Tưởng Niệm Nhất Linh. Số báo đặc biệt này đã khơi dậy trong tôi cảm hứng cầm bút, bắt đầu từ những bài viết về Nhất Linh, rồi sau đó viết hồi ký và gần đây truyện ngắn.
DTL: Khi sáng tác, anh có luôn nghĩ, anh đang viết văn trong chiếc bóng lớn của thân phụ là văn hào Nhất Linh và, những chiếc bóng lớn khác của dòng họ Nguyễn Tường, như Thạch Lam, Hoàng Ðạo...
NTT: Sống trong bóng rợp của người cha và hai người chú nổi tiếng trên văn đàn, rồi ngồi viết hồi ký về những người đó, về mặt tâm lý không phải là chuyện dễ dàng, như nhà văn Duy Lam đã từng nhận xét. Một mặt cái bóng tỏa đó làm chùn chân những toan tính của tôi khi bước vào thế giới chữ nghĩa, mặt khác nó buộc tôi phải khó khăn với chính mình không thể để mình quá dễ dãi với ngòi bút. Ðó có thể là nguyên do đã khiến tôi không chọn nghiệp văn ngay từ lúc khởi đầu, mà chỉ bắt đầu viết ở tuổi xế chiều. Ðó có thể là lý do khiến chuyện viết lách với tôi luôn luôn là một công việc khổ ải nhọc nhằn. Ở một khía cạnh khác thì cái bóng lớn của người cha nổi tiếng có một điểm tích cực mà những nhà văn khác không may mắn có được: đó là qua hình ảnh ông cụ những bài viết của tôi được đa số độc giả đón đọc với ít nhiều thiện cảm tiên khởi. Ðiều này là phần thưởng lớn cho tôi khiến cho cái công việc khổ ải nhọc nhằn khi viết kia trở thành niềm vui thanh cao khi tôi đọc lại những bài viết của mình phản ánh qua cái nhìn của độc giả.
DTL: Thưa anh trong vai trò của một người con, mà thân phụ là người đóng góp lớn lao cho đất nước trên phương diện văn chương cũng như lịch sử. Xin anh có thể nói sơ qua về thân phụ anh - Nhà văn Nhất Linh, nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam.
NTT: Thưa anh, trong quá trình hoạt động, đúng là trong ông cụ tôi có hai con người nhập lại. Một con người chính trị, cách mạng Nguyễn Tường Tam, và một con người thứ hai - nhà văn Nhất Linh. Thật ra hai con người đó, tôi nghĩ không phải là phát triển cùng một lúc. Có giai đoạn, con người thứ nhất mạnh hơn con người thứ hai. Và cũng có giai đoạn ngược lại. Vấn đề còn tùy thuộc vào yếu tố bên ngoài đem đến. Chẳng hạn như khoảng thời gian mà đất nước ta trong thời gian sóng gió nhất. Những biến động lớn của đất nước về mặt chính trị thì con người cách mạng Nguyễn Tường Tam trỗi dậy để thực hiện những điều mà ông ấp ủ. Và khi tình trạng đất nước trở nên bình thường, con người nghệ sĩ Nhất Linh lại thắng thế. Chính vì điều đó thành ra hai tính cách trong một con người đã song hành với nhau trong từng giai đoạn, đôi khi cũng xâu xé nhau dữ dội.
DTL: Mặc dù anh nói là song hành, nhưng liệu nó có ổn thỏa không? Xin anh nói rõ thêm về sự xâu xé này?
NTT: Tôi nghĩ sự xâu xé thể hiện rõ trong lần ông đi Pháp về. Ðó là vào khoảng năm 1927 khi ông tốt nghiệp cử nhân khoa học. Khi về nước ông dạy học được một thời gian thì bỏ dạy, mặc dù đời sống của một giáo sư thuở ấy là đời sống bao người mơ ước. Ông cụ tôi bỏ hết để lao vào nghiệp báo mà không biết tương lai thế nào. Tôi nhớ mẹ tôi cằn nhằn chuyện này lắm. Vì lợi tức ông mang lại cho gia đình bằng nghề dạy học rất lớn. Tôi còn nhớ nếu lương của thầy giáo lúc giờ là 20 thì làm báo chỉ là 2. Chính vì lẽ đó tôi hiểu sự đam mê của ông cụ phải lớn lao lắm. Sau một thập niên làm báo, con người nghệ sĩ trong ông được dịp bộc phát, ông thành công, ông đạt được ước mơ của mình là xây dựng được tờ báo càng ngày càng vững mạnh và cũng thành lập được nhóm Tự Lực Văn Ðoàn. Vào những năm của thập niên 40, khi tình hình chính trị của đất nước thay đổi, tất cả những biến cố đó làm cho con người thứ hai của ông trỗi dậy. Ông thấy rằng phải có bổn phận làm một cái gì cho đất nước và mục tiêu trước mắt là giành lại độc lập từ tay người Pháp, đó cũng là mục tiêu của những người yêu nước bấy giờ nghĩ đến. Thời gian đó tôi cũng đã trưởng thành và ý thức được những giằng co rất mạnh mẽ trong ông cụ.
Tự Lực Văn Ðoàn gồm có 7 thành viên nòng cốt, trừ nhà văn Thạch Lam là chú tôi đã mất năm 42 tuổi. Sáu người còn lại, sau biến cố 1945, họ đi theo 2 dòng khác nhau. Tôi muốn nói, giữa những người cùng chí hướng, cùng lý tưởng dạt ra làm hai con đường.
DTL: Anh có thể nói rõ hơn?
NTT: Hoàng Ðạo, Nhất Linh, Khái Hưng là những người ở trong mặt trận chống Cộng. Ðó là 3 người nòng cốt. 1954 Khái Hưng và Hoàng Ðạo mất, ông cụ tôi vào Nam. Ba người còn lại là Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ ở lại ngoài Bắc. Và sự giằng xé nội tâm mà tôi nhìn thấy rất rõ ở ông cụ là việc mất tích của Khái Hưng. Hiển nhiên đó là kết quả của sự lựa chọn chính trị. Ông cụ tôi khổ tâm lắm, ở chỗ những người đồng chí cùng làm việc với mình, nay vì những vấn đề chính kiến chính trị mà bị sát hại. Về sau càng nhiều các đồng chí của ông bị thủ tiêu, và điều đó càng làm ông cụ đau đớn hơn.
DTL: Thưa anh, ông cụ thân sinh của anh có bao giờ tâm sự với vợ con những u uẩn của mình?
NTT: Không bao giờ, bao nhiêu u uẩn ông nén hết trong lòng.
DTL: Thưa anh, như vậy làm sao anh được biết?
NTT: Cũng là do tình cờ. Tôi nhớ có một đêm, khi chúng tôi mới vào Nam, ở nhà bác Nguyễn Tường Thụy. Một đêm anh em chúng tôi nghe tiếng khóc trong phòng bố tôi. Chúng tôi hồi đó còn rất bé không biết điều gì xảy ra. Người anh họ con bác Thụy, bảo cho chúng tôi biết, bố chúng tôi khóc vì thương tiếc chú Long (Hoàng Ðạo). Hoàng Ðạo mất trên tàu hỏa năm 1948, trong khi đang di chuyển từ Hồng Kông sang Quảng Châu, ông bị bệnh tim nghẽn. Hoàng Ðạo là cánh tay phải của ông cụ tôi. Hoàng Ðạo mất đi, đối với ông cụ tôi, không phải ông chỉ là mất một người em mà ông còn mất đi một đồng chí. Tôi có thể nói, khi Thạch Lam mất, Bố tôi có thương tiếc, nhưng đó là cái thương tiếc của con người văn nghệ Nhất Linh. Nhưng khi Hoàng Ðạo mất, cái đau đớn đó là của nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam. Ông như mất đi một giấc mộng lớn. Và nếu không có cái đêm tình cờ đó thì tôi làm sao hiểu được sự khác nhau giữa hai nỗi đau mất em trong một con người.
DTL: Nếu tôi nhớ không lầm thì ông cụ tự vẫn ngày 7 tháng 7 năm 1963, vì ông từ chối phải ra tòa, và ông đã để lại một câu, có thể nói là một câu danh ngôn rất nổi tiếng: “Ðời tôi để lịch sử xét xử.” Thưa anh, là người trong gia đình, anh có thể cho biết tại sao lại đưa đến chuyện ông cụ phải bị ra tòa?
NTT: Thật ra cũng khó mà trả lời một cách vắn tắt. Những lời ông cụ tôi để lại cho hậu thế, nguyên văn có 72 chữ và tự nó đã nói lên lý do, và không gì bằng dẫn chứng. Tôi lại là người cầm tờ giấy đó, chứng kiến những phút cuối cùng của ông cụ. Hiện nay tôi còn giữ bản di chúc của bố tôi. Bản di chúc có tất cả 72 chữ và tôi thuộc nằm lòng: “Ðời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để cho ai xử tôi cả, sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Ðức tự thiêu để cảnh cáo những người trà đạp mọi thứ tự do. 7-7- 63. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.”
Cả cuộc đời ông cụ có hai con người, có khi ông ký tên Nhất Linh, có khi ông ký tên Nguyễn Tường Tam. Khi ông viết văn ông ký tên Nhất Linh. Khi ông viết một bản văn thuộc về chính trị, chẳng hạn như khi ông viết thư từ chức bộ trưởng Ngoại Giao gửi cho Hồ Chí Minh, ông cụ ký Nguyễn Tường Tam. Lần duy nhất và cũng là lần sau cùng, ông ký tên gộp cả hai là tờ di chúc để cho hậu thế: Nhất Linh - Nguyễn Tường Tam.
Tôi nghĩ, phải chăng ông cụ muốn nhắn nhủ cho hậu thế rằng, mục tiêu của cái chết này là mục tiêu chính trị nhưng phương cách, phong thái ông lựa chọn cái chết bằng tâm hồn của người nghệ sĩ, của một nhà văn.
nguyen tuongDTL: Nhân anh nói về việc anh là người cầm và còn giữ tờ di chúc của ông cụ, đồng thời trong một hồi ký của anh, anh cũng có nói anh cũng còn giữ rất nhiều những tranh vẽ phác của ông cụ. Phải chăng anh là người được giữ rất nhiều những di sản văn hóa của ông cụ?
NTT: Ðúng vậy.
DTL: Tại sao anh được chọn mà không phải là những người con khác?
NTT: Tôi nghĩ có lẽ do ông cụ nhìn ở tôi có một khiếu nào đó về văn chương. Năm tôi 16, 17 tôi cũng viết những truyện ngắn. Tôi có đưa cho ông cụ coi, ông cụ có khen hay, nhưng ông lại giấu đi không cho phổ biến mà cũng không khoe với người nào khác. Tôi nhớ một truyện ngắn tôi viết về một giấc mơ của mình, trong đó có cảnh ông cụ chết trong một chuyến lên Ðà Lạt. Ông với một cành hoa huyết nhung lan, bên bờ suối, một loại lan mà ông rất thích thì ông sẩy chân ngã xuống hồ mà chết. Tôi có cảm tưởng ông không khuyến khích tôi vào con đường viết văn. Có lẽ ông thấy con đường viết văn cũng quá nhiều hệ lụy.
DTL: Hơn ai hết, chắc chắn anh là người đọc, lưu giữ với tất cả hãnh diện (chính đáng) về gia tài văn học, tôi dùng chữ văn học vì văn chương của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn từ nhiều chục năm trước, ở miền Nam đã đi vào chương trình giảng dạy văn chương ở bậc trung học cũng như đại học. Do đấy, câu hỏi của tôi là anh có nghĩ văn chương của anh bị ảnh hưởng Tự Lực Văn Ðoàn, từ văn phong, kỹ thuật, bố cục, tâm lý nhân vật - - Ngay cả khi những sáng tác của anh, có tính hồi ký?
NTT: Tôi không nghĩ là tôi bị ảnh hưởng của Tự Lực Văn Ðoàn khi viết văn. Hoặc có thể là tôi bị ảnh hưởng dưới hình thức nào đó mà chính tôi không tự biết. Một nhà văn khi viết đương nhiên là bị ảnh hưởng không nhiều thì ít bởi môi trường sống và nền văn hóa mà người ấy hấp thụ; hiểu theo nghĩa rộng ấy thì có thể tôi bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi những nhà văn của thế hệ sau Tự Lực Văn Ðoàn, lớp nhà văn của miền Nam Việt Nam thế hệ 1954-1975, thời kỳ mà tôi ở tuổi mới lớn và dễ bị ảnh hưởng nhất. Tuy nhiên tôi biết chắc là một lời khuyên của ông cụ đã ảnh hưởng nhiều đến tôi: “Viết về cái gì cũng được miễn là phải viết cho hay”. Mỗi lần viết nhớ tới lời ông cụ tôi cố gắng hết sức để viết cho hay (hay theo ý tôi - cố nhiên - vì thế nào là hay lại là một chuyện khác, nó tốn nhiều giấy mực lắm). Mặt khác có sự khác biệt giữa cách viết của tôi và ông cụ tôi. Nó không nằm ở nội dung mà nằm ở kỹ thuật viết. Văn của tôi chịu ảnh hưởng nhiều của nền điện ảnh hiện đại với rất nhiều hồi tưởng flashback, một kỹ thuật mà thời ông cụ tôi không có. Thời xưa người ta viết tay. Thời nay người ta gõ máy vi tính. Máy có thể làm những chuyện mà viết tay không làm được. Ðó là chuyển đổi một đoạn văn từ chỗ nọ sang chỗ kia trong nháy mắt. Sự tiện lợi của máy vi tính tạo nên cho tôi một lối viết khác với lối viết xưa: Truyện hay hồi ký của tôi vì thế thường là thời gian đảo lộn với những mảnh đời được cắt dán chồng chéo không trước sau, không thống nhất như lối viết truyện hay hồi ký cổ điển.
DTL: Sau 3/4 thế kỷ kể từ ngày Tự Lực Văn Ðoàn xuất hiện, với những thành tựu, ảnh hưởng lớn trên cả hai mặt văn chương và đời sống xã hội, hôm nay, nhìn lại, từ góc độ khách quan tối đa mà anh có được, anh thấy đâu là điểm mạnh thực sự của Tự Lực Văn Ðoàn và đâu là điểm mà anh cho là yếu hay chưa đạt tới?
NTT: Theo tôi điểm mạnh thực sự của TLVÐ nằm ở chỗ, đây là một tổ chức có tôn chỉ và mục đích rõ ràng, có một chương trình hoạt động rõ rệt sản xuất ra được những tác phẩm có ảnh hưởng mạnh mẽ trong xã hội cũng như văn học, được điều hành bởi những thành viên có thực tài làm việc trong tinh thần tương nhượng và dân chủ. Tự Lực Văn Ðoàn lại có cơ quan ngôn luận riêng là hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay, có nhà xuất bản riêng Ðời Nay, có cơ sở ấn loát riêng theo đúng tinh thần Tự Lực. Trên địa hạt xã hội nhóm Tự Lực Văn Ðoàn muốn phá bỏ những hủ tục để cải cách xã hội theo những quan niệm mới. Trong sự đả phá những cái cũ TLVÐ đôi khi đã đi quá trớn. Các tập quán phong tục của ta không nhất thiết là phải bỏ hẳn mà cần có sự phán đoán linh động. Ðây có lẽ là điểm yếu của TLVÐ.
DTL: Ðặt trường hợp anh là một thành viên thế hệ thứ hai của Tự Lực Văn Ðoàn, anh sẽ làm gì?nguyen tuong thiet Tôi muốn hỏi, anh có những toan tính đổi mới nào không?
NTT: Xin cho được miễn trả lời câu hỏi này vì tôi không bao giờ nghĩ mình là thành viên thứ hai của Tự Lực Văn Ðoàn.
DTL: Thưa anh Nguyễn Tường Thiết, thêm một năm nữa đã đi qua trên cảnh đời tỵ nạn chung, của người Việt ở xứ người. Một cách cá nhân, năm 2010 vừa qua, những gì anh cho là mình đã làm được và những gì chưa?
NTT: Anh nói đúng, lại một năm nữa vừa trôi qua trên mảnh đời ty nạn của chúng ta. Ðúng 35 năm trước khi đặt chân lên đất Mỹ tôi vừa đúng 35 tuổi. Năm nay ăn sinh nhật cái tuổi “thất thập cổ lai hy” tôi hể hả cười trong bụng chúc mừng 35 năm Việt-Mỹ đề huề! Thế là Half and Half nửa Việt nửa Mỹ nhé! Thời gian đi nhanh thật anh nhỉ, càng nhiều tuổi thì hình như bóng chiều càng kéo xuống mau. Câu hỏi của anh làm tôi sực nhớ: Mình chưa làm được gì cả trong năm 2010 ngoài nhìn thời gian trôi. Nhưng như thế cũng tốt. Sống mà cứ phải toan tính thực hiện chuyện nọ chuyện kia sao tôi thấy mệt quá. Từ ngày về hưu hết bận bịu với đời tôi cứ thả hồn rong chơi như đám mây kia trôi đi lặng lẽ, không cam kết những chuyện “lớn lao” của tuổi trẻ. Ngay cả chuyện cam kết với chữ nghĩa tôi cũng coi nhẹ: Viết lách phải được xem là một cái thú, không phải là cái nghiệp, lại càng tuyệt đối không phải là một sự nghiệp.
DTL: Tình trạng sức khỏe của anh, hiện tại ra sao? Anh có nghĩ nó đủ cho anh thực hiện những chương trình, dự tính của anh trong năm 2011? Nếu anh không cho là tôi quá tò mò, thì những dự tính văn chương cũng như đời thường của anh, ở năm 2011 là những gì?
NTT: Tình trạng sức khỏe của tôi nói chung khá tốt. Tôi nghiệm ra là cái lối sống “không cam kết” của tôi tuy không mang lợi ích gì cho đời nhưng lại rất tốt cho sức khỏe của mình. Hàng ngày tôi lái xe đến hồ Green Lake, đậu xe rồi đi rảo bộ một vòng quanh hồ chu vi 5 cây số. Tôi mang theo trong giây lưng cái máy odometer nhỏ xíu, đi một bước thì máy nó nhảy một số, mỗi ngày phải đi 10 ngàn bước mới đủ cữ, theo lời bác sĩ dặn. Tôi học được cái thú đi bộ từ ông cụ tôi. Không mấy ai biết Nhất Linh là người rất thể thao. Những năm của thập niên 50 thế kỷ trước ở Ðà Lạt hàng ngày cha tôi đi bộ để tầm lan, đi xa trên 10 cây số, chúng tôi trai tráng đi theo ông mà muốn đứt hơi. Ði bộ xong tôi lấy laptop trên xe bước sang quán Starbucks gần đó, mua ly cà-phê, chiếc bánh ngọt, tờ báo Seattle, rồi ngồi đọc báo hoặc ngắm cảnh đời hoặc... viết, nếu hứng. Những bài viết của tôi, ký hay truyện, phần lớn đều đẻ ra từ những quán cà-phê ấy. Vài truyện của tôi có người nói đùa phảng phất mùi thơm cà-phê Starbucks. Tôi viết lai rai tí một nhâm nhi như kiểu các cụ xưa uống rượu nhấm mấy hột lạc. Khi nào tập họp lại những bài viết được khoảng 2, 3 trăm trang thì tôi xuất bản sách. Ðể trả lời câu hỏi của anh về dự tính văn chương của tôi thì cuốn sách thứ ba của tôi dự tính sẽ ra đời vào năm tới 2011. Còn dự tính đời thường thì năm tới Thái Vân nhà tôi về hưu, chúng tôi sẽ có nhiều thì giờ hơn để đi du ngoạn nhiều nơi trên thế giới, một công việc mà trong quá khứ chúng tôi đã thực hiện. Với tôi du lịch ngoài cái thú chung của một du khách tôi còn một cái thú riêng: Biết đâu mỗi lần đi xa lại đẻ thêm được một đứa con tinh thần?
DTL: Trân trọng cảm ơn nhà văn Nguyễn Tường Thiết, đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn đặc biệt này!

____________

Tiếng pháo giao thừa

Có tiếng pháo nổ ran ở bên ngoài. Khi tôi bước ra thì ở bên bờ suối cha tôi đang cầm bản họa đồ và chỉ cho bác Phiếm căn nhà đang xây cất. Thanh Ngọc Đình chỉ mới có khung và mái rạ. Trông nó phảng phất như dẫy nhà ngang của trại Cẩm Giàng tức căn nhà Anh Sáng mà hình ảnh còn in lại mơ hồ trong trí nhớ tôi. Sau đó cha tôi dẫn bác Phiếm xuống suối. Tôi ngửi thấy vương trong không khí mùi khói pháo thơm của mùi Tết. Một đám đông cháu cụ Nghị, chắc vừa trở về sau khi hoàn tất công việc chất củi mà cha tôi giao phó, đứng tụ ở đó. Vài đứa nhóc trong đám này không biết kiếm đâu ra một số pháo đùng nổ rất to và cứ rình rình để vứt vào chân các cô gái lúc này đã rời suối và đang đứng quây quần quanh nồi bánh chưng.
Đang đi cha tôi chặn bác Phiếm đứng lại. Trên mặt đất ngay phía trước hai người có ai vừa thẩy một chiếc pháo lớn đang xì khói. Cha tôi nói với bác Phiếm:
- Tiếng pháo thì tôi không sợ. Ghét nhất là cứ phải nhìn cái pháo nó sắp nổ trước mặt mình. Cứ phải chờ đợi hồi hộp. Này, nó sắp nổ đấy. Gặp pháo nào tịt ngòi lại càng phải hồi hộp lâu hơn. Dạo này tôi bị cái bệnh hồi hộp không căn cớ, lúc nào cũng ở tâm trạng y như một người sắp sửa đi thi.
Bác Phiếm nói:
- Bệnh đó không gì lạ. Tại năm vừa rồi anh về Sài Gòn làm báo đấy. Anh mà cứ ở đây tu tiên thì bệnh gì cũng hết.
- Tôi cũng tính thế đấy, ít tháng nữa căn nhà này xây xong thì tôi cũng dẹp luôn tờ Văn Hoá Ngày Nay lên đây vui với hoa lan. Chuyện thế sự gác sang một bên. Tôi cũng mệt mỏi rồi.
Lúc ấy trời ngả sâu về chiều. Bác Phiếm đòi đi về Đà Lạt trước khi tối trời. Cha tôi muốn lưu bác ở lại đón giao thừa nhưng bác từ chối. Bác quay lại nhờ tôi đi kiếm hộ hai cô con gái mà tôi không biết chị Thoa tôi đã dẫn họ đi chơi đâu ở trong rừng. Lát sau cha tôi đưa tiễn ba cha con bác Phiếm ra tận nhà ngoài.
Chị Thoa từ trong căn nhà bếp ra đưa tôi một nắm xôi. Chị nói:
- Em ăn đỡ xôi. Đêm nay thằng Trợ sẽ bưng vào đây nồi cháo gà. Mình sẽ ăn cháo và canh bánh chưng đón giao thừa. Chị phải chạy ngay ra nhà ngoài trước khi trời tối để phụ mẹ làm cơm ở ngoài đó. Mắt chị dạo này kém lắm. Trời tối không nhìn rõ đường. Chắc tối chị phải đi theo cậu vào đây.
Chị Thoa đi rồi tôi trở ra suối. Không có ai ở đấy. Gần suối, chỗ miếng đất trống trước Thanh Ngọc Đình, trên một bệ gạch dùng làm bếp là một cái thùng phuy làm nồi bánh chưng đun từ buổi trưa, xung quanh nồi bánh tôi không thấy ai. Tất cả mọi người chắc đều vào cả trong nhà. Tôi ngồi trên một phiến đá rộng và phẳng bên bờ suối bốc xôi ăn. Suối Đa Mê nhỏ. Bề ngang nhiều chỗ eo lại chỉ rộng vài thước, như một con lạch. Nước suối thật trong. Có thể nhìn tận đáy. Dưới chân những hòn đá lớn rêu xanh bở ra từng mảng tua tua vẫy trong làn nước chẩy. Ở một chỗ nước lặng hình như có một con nhện vừa loáng qua để lại trên mặt một vệt nhăn. Có thật một con nhện nước vừa băng ngang? Hay vết nhăn trên nước chỉ là hình ảnh một kỷ niệm vừa thoáng trong trí tôi?
Lửa nồi bánh chưng bỗng sáng lên. Ở đâu đó trong rừng những đám củi đã được đốt cháy. Tôi rời phiến đá đến chiếc võng mắc giữa hai thân cây bên cạnh suối rồi nằm gọn lỏn trong lòng chiếc võng của cha tôi. Chiếc võng mà cha tôi vẫn ngồi viết cuốn trường thiên Xóm Cầu Mới.
Đêm xuống. Cùng với bóng tối phủ xuống thì tiếng động của thiên nhiên lại như được nâng cao. Không gian ri ri tiếng rạo rực của côn trùng. Rồi thỉnh thoảng trong vũng tối thâm u của suối rừng có tiếng động to lên bất chợt. Một tiếng quẫy? Rồi tõm một cái. Một con cá vừa ngoi lên? Một con nhái vừa quăng mình?
Tôi nhớ hai hôm trước đúng chỗ phiến đá nơi mà tôi vừa rời chỗ cha tôi ngồi rửa chân. Lúc ấy nắng ban trưa lọt qua lùm cây rọi trên mặt nước lóe những đốm sáng. Ở bên cạnh chị tôi đang rửa lá dong. Những tấm là dong xanh mượt ướt át. Chị nói với cha tôi:
- Nước trong mát quá! Con giúp bà Trẻ rửa lá dong để nấu nồi bánh chưng. Hôm nay đã hai mưới tám Tết rồi. Cậu mời khách có đông không để bà Trẻ liệu đường gói bánh?
- Mời thì cũng nhiều đấy nhưng từ Sài Gòn đến Fim Nôm đâu dễ. Phải có ô- tô con ạ. Ngày xưa ở Cẩm Giàng thế mà tiện hơn nhiều. Cứ nhẩy lên tàu hỏa xuống ga Cẩm Giàng là tới, mà trại thì lại ở gần ga.
- À, Tết này con nấu cho cậu nồi cá nục kho. Con biết cậu chỉ thích món kho. Hoặc cá kho hoặc đậu kho. Còn mợ thì chỉ thích món sào. Món hẩu sực của mợ là món thịt bò sào cải làn cũng như của cậu là cá nục kho.
Chị Thoa thương cha tôi lắm. Mấy năm trước ba cha con tôi sống ở Đà Lạt. Chị săn sóc cha tôi từ miếng ăn. Cha tôi chỉ thích món cá nục kho do chính chị tôi nấu. Ba cha con thường lặng lẽ ngồi ăn trên chiếc chiếu hoa trải trên sàn gỗ đánh bóng, trong căn nhà bằng đá ở đèo Prenn. Bữa cơm nào chị tôi nấu cũng có nồi cá kho và đậu phụ. Đậu thì hết kho lại rán, rồi lại nấu canh. Sau nhà, ở triền một đồi thông, có một dàn cây su su, quanh ăm lúc nào quả cũng chi chít. Chị tôi biểu diễn làm “su su bẩy món”. Không biết chị học nấu những món này ở đâu hay chị chế lấy. Căn nhà bằng đá ấy rộng và lạnh lẽo lắm. Hồi mới dọn đến chị nói căn nhà này có ma làm tôi cũng thấy rờn rợn. Chị Thoa bảo tôi:
- Nhà này có ma thật em ạ! Nhưng con ma này hiền lắm, nó chỉ trêu chị thôi chứ không hại ai cả. Đầu tiên chị không để ý nhưng sau chị thấy là lạ. Cứ mỗi lần lên giường đi ngủ chị để đôi guốc ở cạnh giường thì sáng ngày hôm sau, lạ quá em ơi, đôi guốc cứ tự động xoay 90 độ, đúng chiều chị sỏ chân.
Mấy tháng sau chị lại bảo tôi:
- Chị biết con ma ấy là ai rồi. Tối hôm qua chị tỉnh dậy ở giữa đêm rồi cứ nằm trằn trọc mãi không ngủ lại được. Chị nhìn ra ngoài màn thấy ở bàn trong góc phòng cái đèn chụp còn bật sáng. Dưới ánh đèn chị chỉ thấy lờ mờ cái lưng của cậu. Cậu đang ngồi viết văn. Lát sau cậu đứng dậy vươn vai. Rồi cậu qua lại nhìn về phía giường chị. Trước khi tắt đèn đi ngủ chị thấy cậu rón rén đến bên cạnh giường cúi xuống xếp lại đôi guốc của chị.
Rồi chị tôi bật lên khóc:
- Cậu vẫn thường nói trong năm giác quan thì thị giác là quan trọng nhất. Không nhìn thấy được những cái đẹp ở đời thì đời còn gì đáng sống? Chị đau mắt hột từ bé hồi còn ở Hà Nội. Vú em của chị lây bệnh đau mắt hột sang chị và sang cả anh Thạch nữa. Bây giờ cả anh Thạch và mắt chị kém lắm, phải mang kính cận rất nặng. Cậu rất khổ tâm về chuyện này và cứ nghĩ rằng vì mình đi làm cách mạng xa gia đình nên mới thế. Mà nào chị có nghĩ như thế đâu chứ! Chắc là cậu sợ đêm chị thức dậy đi tiểu mà mắt kém không mò ra được đôi guốc nên cứ xoay sẵn cho đúng với chiều sỏ chân.
Nằm trong võng trong đêm tối tôi cứ nghĩ mãi về câu chuyện chị tôi kể và tôi ngủ thiếp đi lúc nào tôi không biết.
Hình như tiếng kèn của cha tôi đánh thức tôi dậy. Trời còn tối đen. Nhưng tôi có cảm tưởng mình vừa ngủ được một giấc dài và câu chuyện chị tôi kể đã trôi trong giấc ngủ của tôi. Câu chuyện ấy chỉ là mơ? Hay nó có thực? Tôi không chắc. Tôi chỉ biết khi thức giấc thì bờ mắt tôi đã ướt nhẹp và một cảm giác vô cùng buồn bã thấm đọng vào không gian. Không gian ngập bóng tối nơi chỗ tôi nằm. Không gian đầy ánh lửa ở phía ngoài kia.
Từ trên võng tôi nhìn ra ngoài nơi ánh sáng của nồi bánh chưng mà lòng thổn thức. Cảnh tượng tôi nhìn thấy lúc đó thật ra rất vui. Và đẹp nữa. Nhưng sao tôi thấy buồn như là một cảnh đã ở sâu trong kỷ niệm? Nó hiển hiện trước mắt nhưng đã bị trí tưởng tôi đẩy xa, lùi sâu, vào thời quá vãng để trở thành hình bóng đã hoàn toàn mất. Gợn lên trong tôi một nỗi đau thương rờn rợn tỏa ra khắp người y như cảm giác khi tôi viết xong truyện ngắn đầu tay Huyết Nhung Lan tả về cái chết của cha tôi.
Trước mặt tôi quanh bếp lửa đỏ rực là một vòng sáng hồng trải rộng trên mặt đất. Quanh ánh hồng là mười mấy người ngồi quây quần canh nồi bách chưng. Bóng của mấy người đi qua lại in chập chờn trên mái rạ của Thanh Ngọc Đình.
Có tiếng vỗ tay khi tiếng kèn của cha tôi vừa dứt. Lát sau bác Bùi Khánh Đản đứng lên. Chắc bác ngâm bài thơ bác vừa sáng tác. Giọng ngâm nhỏ quá tôi không nghe rõ. Rồi một người khác quay lưng về phía tôi đứng lên, tôi không biết là ai, nhưng tôi đoán anh ta kể một chuyện vui, vì có nhiều tiếng cười rộ lên.
Sương đêm tơi xuống làm người tôi rùng lên vì lạnh. Ngay cả ở ngoài kia bên ánh lửa một số các cô gái ngồi ở vòng ngoài đã bắt đầu phải khoác lên vai tấm chăn dạ. Có hai người vừa đứng lên là cha tôi và chị Thoa. Chị bắt đầu cất tiếng hát. Tiếng hát của chị lan đi trong đêm. Bài Thiên Thai của Văn Cao. Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng………... Cha tôi đưa cây kèn clarinette lên phụ họa (tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng...). Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên... Tiếng kèn (nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên...). Rồi tiếng kèn hoà cùng tiếng hát: Kìa! Đường lên tiên! Kìa! Nguồn hương duyên! Theo gió tiếng đàn xao xuyến... Tiếng hát lại tách ra: Phím tơ lưu luyến...
Có ánh đèn pin loáng lên ở ngoài rừng. Rồi tiếng người nói trong đêm vẳng tới. Dưới ánh lửa của những đám củi cháy trên con đường dẫn từ ngoài nhà vào tôi thấy thấp thoáng bóng của một đám người. Người đi đầu tiên đến đám lửa, lại gần cha tôi lúc ấy đã chơi xong bản hòa tấu, nói to:
- Tôi cứ lần theo tiếng kèn của anh mà tìm đến được Thiên Thai.
Tôi không nhận ra người ấy là ai. Ông ta nói xong bắt tay cha tôi. Một số người khác đi theo ông ta hơ tay trên lửa sưởi ấm rồi nhập chung vào đám ngồi canh bánh chưng. Lát sau thằng Trợ và con Tình gánh nồi cháo gà tới. Rồi kẻ đứng người ngồi cầm bát cháo ăn. Tôi đoán tất cả cũng khoảng hai chục người đứng ngồi thành hai vòng tròn xung quanh nồi bánh.
Thốt nhiên tôi thấy tủi thân. Tôi vừa lạnh lại vừa đói. Tôi có cảm tưởng riêng mình tôi là một thế giới. Thế giới của bóng tối, cô độc và buồn bã. Ngoài kia là thế giới của tất cả mọi người, thế giới của ánh sáng và vui vẻ. Không ai nghĩ đến tôi cả. Cha tôi cũng không nghĩ đến tôi nữa. Ông đang cười nói. Mặt ông mang đầy ánh hồng trước ánh lửa. Hay cha tôi có nghĩ đến tôi nhưng ông lờ đi vì còn đang giận tôi về cái truyện ngắn tôi viết. Chuyện tôi mơ thấy ông chết? Không, cha tôi hoàn toàn không có vẻ giận sau khi đọc xong truyện ấy. Hình như ông chỉ buồn. Linh tính cho tôi biết cha tôi buồn vì ông nghĩ đã truyền cho tôi cái mầm của sự bất thường trong ông mà vì thương con ông không muốn tôi có.
Tôi lại thiếp đi một lát. Trong mơ màng có ánh lửa chập chờn và có tiếng ai gọi tên tôi như từ một nơi xa xăm lắm. Rồi nhiều tiếng gọi theo sau. Bỗng một bàn tay sờ vào trán tôi làm tôi sực thức giấc. Tiếng chị Thoa bên tai:
- Dậy ăn cháo đi em! Em ngủ say quá cả nhà gọi mãi cứ sợ em đi lạc ở đâu trong rừng. Mãi sau chị Mai nói có thấy em ở suối nên dẫn chị xuống đây!
Tôi dụi mắt nhìn lên. Chị Mai đứng ở cách xa tôi hai thước. Vì tối nên cả khuôn mặt chị chìm trong bóng đen nhưng viền mái tóc của chị thì hoe vàng trong ánh lửa chiếu từ phía sau chị. Sự hiện diện của chị đột nhiên làm tan hết nỗi buồn trong tôi. Tôi đứng dậy theo hai người về phía ánh lửa.
Cha tôi nhìn tôi rất lâu. Vẫn cái nhìn đằm thắm mà ông thường có. Nhưng lần này cái nhìn làm tôi ngượng vì tôi có cảm tưởng ông thấy hết đôi mắt ướt của tôi. Tôi giả vờ ngáp một cái thật dài, làm như tôi ngáp đến chẩy cả nước mắt, rồi ngồi xuống trên một khúc cây gần lửa bên cạnh chị tôi. Vừa ăn bát cháo tôi vừa nhìn những thanh củi cháy dưới nồi bánh chưng. Đó là những thanh củi to gộc cháy đỏ rực ở một đầu và ở đầu kia khói hun ra có sủi nhựa vàng rỉ trong thớ củi. Tôi lấy tay cời một khúc củi cháy rồi lấy ngón tay quệt vào chỗ nhựa cây còn sủi nóng bôi lên hai bờ mép. Tuần trước tôi mua cây kèn Harmonica mới, cả tuần nay thổi kèn khiến mép bị lở. Tôi nghe nói là nhựa cây trị bệnh lở mép hiệu nghiệm lắm. Trên bếp trong thùng phuy nước sôi sùng sục, bốc hơi ngùn ngụt. Khói và hơi nóng khiến tôi phải lùi người lại. Phía bên kia nồi bánh sau làn hơi nước không khí rung rung những khuôn mặt chập chờn ánh lửa. Lát sau có một người lách phía sau tôi thọc sâu vào lửa một cây củi lớn, lửa trong bếp bỗng phừng lên, tàn lửa tóe ra đỏ rực. Thoáng bên kia nồi bánh tôi bắt gặp đôi mắt chị Mai nhìn tôi, ánh mắt sáng lên trong ánh lửa và cả khuôn mặt chị, theo với lửa bùng, đột nhiên rạng lên. Hình như có một nụ cười của chị thoáng qua trong cặp mặt ấy. Không một ai để ý đến tôi. Trừ chị. Chị là người đã lôi tôi ra khỏi vùng tối của sự buồn bã. Hầu như tất cả đám thanh niên ở đây đều nhìn chị Mai bằng cặp mắt ngưỡng mộ vì chị đẹp. Thế mà chị không để ý đến ai mà chỉ nhìn tôi và để ý đến tôi. Ý nghĩ này làm tôi sung sướng. Tuy chị không nhìn tôi nữa nhưng kể từ lúc ấy lâu lâu tôi liếc sang nhìn trộm chị. Mỗi lần như thế dù chị có vẻ lắng nghe người ngồi bên cạnh nói chuyện, tôi lại thấy chị hơi nghếch mặt sang một bên đưa tay vén mái tóc khoác lên vành tai và một nụ cười nhẹ thoáng trong khóe mắt. Mặc dầu chị không nhìn tôi nhưng tôi luôn luôn có cảm tưởng chị biết tôi đang nhìn chị và cái dáng điệu có vẻ hơi kiêu sa ấy chỉ vì chị biết có người đang nhìn mình.
Chị Thoa quay sang bên tôi và nói to với tất cả mọi người:
- Em Thiết tôi có một cái tài là em thổi kèn Harmonica rất hay. Nhưng em tôi dấu tài không bao giờ thổi trước đám đông. Tôi đề nghị tất cả cho một tràng vỗ tay.
Tất cả con mắt đều quay nhìn về phía tôi. Mọi người vỗ tay. Tôi ngượng ngùng vì chưa bao giờ có nhiều con mắt nhìn tôi như thế. Tôi toan từ chối vì nghĩ rằng cái nhạc cụ này chỉ dành cho con nít chơi không đáng để biểu diễn, nhưng tôi đổi ý khi thấy đôi mắt sáng lên của chị Mai nhìn tôi khuyến khích. Tôi đứng dậy lấy kèn trong túi quần cầm tay. Tôi cảm thấy cha tôi đang nhìn tôi. Tuần trước tôi rụt rè xin cha tôi một trăm đồng bạc, một số tiền khá lớn hồi đó. Ông hơi ngạc nhiên nhưng rút ví đưa ngay tiền cho tôi, không hỏi tôi một câu dùng tiền để tiêu vào việc gì. Bây giờ thì chắc cha tôi biết tôi mua cái kèn hiệu Hohner mắc tiền này. Tôi nói:
- Chưa đến giao thừa nhưng xuân cũng sắp đến. Tôi xin thổi bài này để đón xuân. Bài Xuân và Tuổi Trẻ của La Hối.
Tôi để kèn giữa hai lòng bàn tay gập vào nhau rồi đưa ngang miệng. “Ngày thắm tươi bên đời xuân mới. Lòng đắm say bao nguồn vui sống. Xuân về với ngàn hoa tươi sáng. Ta muốn hái muôn ngàn đóa hồng...…”. Thổi đến giữa bài thì một người cháu của cụ Nghị đứng lên hô mọi người cùng hát theo tiếng kèn. “Vui sướng đi cho đời tươi sáng! Vui sướng đi cho lòng thêm tươi! Ta hát ca đón mừng xuân mới. Ta hát ca cho lòng thêm hăng hái...”.
Có tiếng pháo nổ trong rừng vọng lại. Lũ trẻ con hiện ra lăng xăng chen vào đứng gần lửa. Bóng chúng chạy chờn vờn trên vách. Cha tôi và gần hết những người lớn tuổi vào cả trong nhà. Rồi đám trẻ cũng tản mát đâu mất. Quanh nồi bánh bây giờ chỉ còn lại một đám mấy thanh niên. Trên một manh chiếu trải dưới đất tôi trùm chăn dạ ngồi dựa vào một khúc thân cây, lát sau đầu tôi gục xuống.
Vào một lúc nào đó trong đêm tôi nghe có tiếng ai nói mơ hồ: “Giao thừa! Giao Thừa!”. Rồi một tiếng nổ đùng xuyên vào giấc mơ. Tiếp theo là một tràng dài những tiếng pháo lẹt đẹt nối nhau, nối nhau mãi không ngừng.
Có ánh lửa bập bùng. Có tiếng người gọi nhau, chào nhau lao xao trong từng. Có tiếng nói của cha tôi như lời giã biệt đám đông. Rồi tiếng kèn lan xa. Suối mơ! Bên rừng thu vắng…... Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng... Chiều chưa đi sao...
Và cái buồn bã của tôi trở lại, thấm vào trong giấc ngủ.

_____________

Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Tường Thiết

Lê Quỳnh Mai

nguyen tuong thietLQM: Ông cho biết về tiểu sử và hoạt động về Văn học
NTT: Tôi sinh năm 1940 tại Hà Nội, là con út của nhà văn Nhất Linh. Trước năm 1975 ở Sài Gòn tôi dậy học rồi nhập ngũ khoá 2/68 quân trường sĩ quan Thủ Ðức, ra trường và phục vụ tại Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Năm 1973 tôi trông nom nhà xuất bản Phượng Giang. Năm 1975 định cư ở Mỹ, tôi làm việc tại nhà máy lọc nước thải của thành phố Seattle với tư cách một chuyên viên phòng thử nghiệm hoá chất cho đến ngày về hưu, tháng tư năm 2006. Cộng tác với các tạp chí Thế Kỷ 21, Văn Học, Hợp Lưu, Da Màu.org. Ðã có hai tác phẩm xuất bản, hồi ký Nhất Linh, cha tôi (Văn Mới-2006) và tập truyện Mùa Hạ năm ấy (Văn Mới-2008).
LQM: Những năm đầu sống tại Hoa Kỳ ông không viết đều đặn mà thời gian gần đây mới thật sự đến với văn chương? Trước thời gian này ông có bị thôi thúc dấn thân vào nghiệp viết không?
NTT: Chị nói thôi thúc? Không. Hoàn toàn không. Ðã có một số người hỏi tôi vì sao tôi không viết đều đặn, chẳng hạn như nhà phê bình và nghiên cứu văn học Nguyễn Hưng Quốc. Anh Quốc sau khi đọc tập hồi ký Nhất Linh Cha Tôi có ngay một nhận xét tiên khởi này: Bài thứ nhất Niềm Vui Chết Yểu tôi viết năm 1964, bài thứ hai Nhất Linh Cha Tôi viết năm 1985, bài thứ ba Cây Bàng Lá Ðỏ năm 2002. Anh hỏi tôi vì sao mà có những "lỗ hổng" lớn như thế, cách nhau những 20 năm? Tôi trả lời anh ấy là bởi vì tôi đã không chọn nghề văn ngay từ đầu. Cả ba bài viết ấy đều do sự thôi thúc của người khác muốn có bài của tôi để đăng trên báo của họ. Anh Phan Kim Thịnh với tờ Văn Học, anh Võ Phiến với tờ Văn Học Nghệ Thuật, anh Phạm Phú Minh với tờ Thế Kỷ 21. Chỉ sau này khi gần về hưu tôi mới viết do thôi thúc đến từ chính mình. Viết với tôi bây giờ giản dị là một thứ "hốp bi" của tuổi già. Từ ngày về hưu tôi có ba cái thú: chăm sóc đám cây cỏ xung quanh nhà, đi tập thể dục đều đặn, và bước vào trong quán café Starbucks với cái laptop trên tay để viết (như tôi đang "viết" những dòng này trong một quán Starbucks). Chúng tôi vẫn chưa có cháu nội ngoại nên tôi chưa có thêm cái thú thứ tư là thú "trông cháu" như tất cả các bè bạn ở lứa tuổi tôi đều đã có.
LQM: Một nhà văn trẻ Hoa Kỳ có tác phẩm thành công tại Âu Châu, đã từ chối không dùng tên thật mà lấy bút hiệu để viết vì không muốn bị che lấp bởi cái bóng quá lớn của thân sinh. Là dòng dõi nhà văn Nhất Linh, ông có mang ý nghĩ xử dụng một bút hiệu để viết không?
NTT: Như đã nói ở trên tôi đã không chọn nghề văn ngay từ đầu. Nếu không thì chắc chắn bây giờ đã có một bút hiệu rồi. Hồi nhỏ tuy không viết nhưng tôi luôn luôn mơ tưởng và tự tìm cho mình một cái bút hiệu thật hay, thật lý tưởng. Chả là hồi đó không hiểu sao tôi tin một cách chắc nịch rằng việc chọn bút hiệu nó quan trọng ghê gớm lắm, nó sẽ quyết định cả đời văn của mình, mình mà không khéo chọn một bút hiệu đọc lên nghe nó "quê quê" thì suốt đời văn chương mình cũng sẽ "quê quê" như thế. Khổ nỗi có bao nhiêu cái bút hiệu hay thì thiên hạ đã lấy hết sạch rồi. Tôi mê nhất bút hiệu Thạch Lam nhưng ông chú của tôi đã cuỗm mất từ mấy chục năm trước rồi. Tiếc ghê! May quá tôi không phải tìm bút hiệu cho mình nữa vì bài viết đầu tiên là hồi ký về ông cụ tôi, mà viết hồi ký thì dùng tên thật là chuyện rất hợp lý. Bây giờ tôi viết văn, viết truyện, cũng lấy tên thật, vì nghĩ mình già rồi, xây dựng tên tuổi trên một bút hiệu e rằng quá trễ, quá mệt mỏi.
LQM:Cụ thân sinh bút hiệu Nhất Linh, các chú lấy bút hiệu Hoàng Ðạo,Thạch Lam...Theo ông việc này là tốt hay không tốt vì đa số những nhà văn quốc tế đều lấy tên thật để viết hơn là dùng bút hiệu?
NTT: Chọn bút hiệu hay chọn tên thật là lựa chọn riêng của nhà văn. Hoàn toàn không có vấn đề tốt hay không tốt. Riêng trường hợp của ông cụ tôi chọn cho mình một bút hiệu là một điều hay. Ai cũng biết ông cụ tôi có hai con người. Một con người cách mạng chính trị Nguyễn Tường Tam và một con người nghệ sĩ Nhất Linh. Khi hoạt động chính trị ông cụ đứng dưới tên thật, khi hoạt động văn hoá thì ông dùng bút hiệu. Lần duy nhất (đầu tiên cũng là cuối cùng) ông cụ xử dụng cả tên thật lẫn bút hiệu để ký trên lá thư tuyệt mệnh "Ðời tôi để lịch sử xử...". Phải chăng khi ký gộp Nhất Linh Nguyễn Tường Tam ông cụ tôi đã hàm ý nói với hậu thế rằng tuy cái chết của ông có mục tiêu chính trị nhưng phong cách ông lựa chọn cái chết đến từ tâm hồn của một nghệ sĩ?
LQM: Trong thời gian ngắn vừa qua, đột nhiên một làn sóng dấy lên những bài viết, hội luận từ trong cho đến ngoài nước nhắc về cái chết Nhất Linh và nhóm Tự Lực Văn Ðoàn. Qua hiện tượng này ông có ý kiến gì?
NTT: Sự kiện "có một làn sóng dấy lên" như chị nói, tôi nghĩ bắt đầu từ trong nước với bài báo của tác giả Quang Thiện nhan đề Về "thị trấn văn chương" đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 26 tháng 7, 2006. Bài báo cho biết có một đề nghị của giáo sư sử học Văn Tạo: "Chúng ta nên đánh giá công minh giá trị lịch sử của Tự Lực Văn Ðoàn; ghi công họ bằng một nhà lưu niệm trên nền ‘nhà khách văn chương’; đặt tên phố Tự Lực Văn Ðoàn ở Hải Dương và quận Tây Hồ (Hà Nội); có thể xây dựng khách sạn mang tên này để đón du khách văn chương trong nước và thế giới". Sau đó thì vào ngày 8 tháng 2 năm 2007 Bộ Văn Hóa-Thông Tin có gửi một công văn cho Sở Văn Hóa-Thông Tin Hải Dương "đề nghị thu thập tài liệu về TLVÐ để có căn cứ đánh giá rõ hơn nữa những cống hiến của nhóm văn chương này kiểm tra tình hình thực tế ‘nhà khách văn chương’ để đề xuất phương án giải quyết các kiến nghị trên". Và gần đây nhất là cuộc Hội Thảo về Tự Lực Văn Ðoàn được tổ chức tại Cẩm Giàng, Việt Nam, vào ngày 9 tháng 5 năm 2008.
Là một đề tài cấm kỵ trong suốt hơn một nửa thế kỷ ở miền Bắc và hơn ba chục năm ở cả nước, Tự Lực Văn Ðoàn nay lại được nhắc đến, được đánh giá lại một cách trang trọng bởi nhà cầm quyền Việt Nam. Tôi nghĩ đây là một khởi đầu tốt cho một công việc mà đáng lý là nhà nước họ phải làm từ lâu.
Tôi thiết nghĩ việc đánh giá và ghi công TLVÐ nên đi về bề sâu chứ không nên làm hời hợt, phô trương. Quan trọng hơn hết là để thế hệ trẻ bây giờ và thế hệ mai hậu biết tới những đóng góp lớn lao của TLVÐ vào nền văn học của nước nhà. Việc này theo tôi chỉ thực hiện được nếu như trong tương lai nhà cầm quyền Việt Nam đưa Tự Lực Văn Ðoàn vào giáo trình giảng dậy Văn ở bậc trung học, như đã được làm tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975.
LQM: Trong "Chúc Thư Văn Học của Nhất Linh: Một cái chết định sẵn" (Nguyễn Văn Lục, Việt Weekly, 20/3/08) kết luận nguyên nhân dẫn đến cái chết của Nhất Linh là bệnh tâm thần. Ông có cảm giác thế nào khi tên tuổi cụ thân sinh bị bôi nhọ vô cớ?
NTT: Tôi đã trả lời với ông Nguyễn Văn Lục là tôi "KHÔNG đồng ý với nội dung bài viết" của ông ấy, nhưng ông ta vẫn đăng tải bài ấy, đó quyền tự do ngôn luận của ông ta. Là một người con dĩ nhiên là tôi buồn bực khi đọc bài này. Trong lúc những người cộng sản đang dấy lên phong trào dựng lại công nghiệp của Nhất Linh thì từ phía bên này chiến tuyến lại có một bài báo bôi nhọ tên tuổi Nhất Linh như thế, thật đáng tiếc.
Tôi đã định viết hẳn một bài phản đối ông Nguyễn Văn Lục nhưng tôi đổi ý không viết, vì một số những người trong họ khuyên tôi không nên dính vào cuộc tranh luận này và nhất là sau khi tôi được đọc một số bài phản bác của một số tác giả, những bài này đã nói lên hết những ý nghĩ của tôi về bài của ông Lục, đặc biệt là hai bài Âm mưu đưa nhà văn Nhất Linh vào nhà thương điên của tác giả Vũ Cầm và bài Niềm Tin và Tâm Thần của tác giả Lý Nguyên Diệu, cả hai bài đã được đăng trên Việt Weekly và báo mạng Talawas.
LQM: Khúc Hà Linh viết:... Nhất Linh đã ra đi ở tuổi 58 để lại di chúc: "Ðời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng... Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Ðức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do. 7/7/63 Nhất Linh Nguyễn Tường Tam" (trích từ Xung quanh cái chết của nhà văn Nhất Linh- 45 năm năm trước,( báo điện tử Tiền Phong Online ngày 4/6/08,Talawas giới thiệu trên mục Spectrum ngày 4/6/08). Ông có thể làm sáng tỏ vấn đề di chúc trên? Và có ý định công bố di chúc của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam không?
NTT: Trong mục Ý Kiến Ngắn của Talawas ngày 5-6-08 có đăng ý kiến của tôi về bài viết của ông Khúc Hà Linh như sau: "Ông Khúc Hà Linh đã bỏ sót một câu quan trọngtrong tờ di chúc này, tờ di chúc mà tôi hiện giữ trong tay, viết: "Sự bắt bớ và xử tội tất cả những phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất về tay cộng sản".
Tôi không biết là ông Khúc Hà Linh đã bỏ sót hay kiểm duyệt bôi bỏ câu đó. Cả câu ấy nếu được trích nguyên vẹn cho thấy là đối với Nhất Linh không có cái tội nào lớn hơn cái tội làm cho nước mất về tay cộng sản. Tôi nghĩ là ở trong nước họ "kỵ" câu này lắm!
Bản di chúc chính trị 71 chữ nói trên của nhà văn Nhất Linh đã được phổ biến rộng rãi và công khai trên khắp mọi báo chí của miền Nam sau khi chế độ của nền Ðệ Nhất Cộng Hòa miền Nam sụp đổ, vì thế câu hỏi của chị về việc công bố chính thức bản di chúc này trên báo giới tôi nghĩ không cần thiết.
LQM: Tác giả Nguyễn Huệ Chi tuyên bố tại Hội Thảo Tự Lực Văn Ðoàn, tổ chức tại Cẩm Giàng, Việt Nam, ngày 9 tháng 5 năm 2008 rằng: "... Chưa biết con đường nào đã hay hơn con đường nào, nhưng nếu nhà nước nuôi dưỡng trọn đời một lý tưởng trong sáng, không có mưu đồ đem giang sơn Tổ Quốc mà mình dành được ra chia chác, ‘xã hội hoá’, vô vàn đất đai béo bở thành của riêng của bè cánh mình, họ hàng mình, con cháu mình, thì trước sau hình bóng họ vẫn sẽ ghi đậm trong lòng dân chúng"... "và những cuộc tham luận sẽ được tổ chức ở nhiều nơi khác..." (Talawas, 19/05/08). Ông nghĩ thế nào về phát biểu này?
NTT: Tôi nghĩ ông Nguyễn Huệ Chi là người can đảm. Ông dám nói lên những sự thật mà nhiều nguời khác không dám nói, chẳng hạn như cái thực trạng xã hội đang diễn ra trên đất nước mình. Tôi đã đọc nguyên bài viết của ông trên Talawas và rất khâm phục những nhận định của ông ta về Tự Lực Văn Ðoàn. Bài viết không những phản ánh tính khách quan, sự trung thực mà còn chiếu rọi những cái nhìn mới về nhóm văn đoàn này, đặc biệt là đề cao tinh thần làm việc rất dân chủ của nhóm. Tôi cho rằng bài viết này là một trong những bài nghiên cứu về TLVÐ có giá trị nhất từ trước tới nay, kể cả những bài nghiên cứu về TLVÐ của những học giả miền Nam trước năm 1975.
LQM: Xóm Cầu Mới xuất bản lần đầu 10 năm sau khi Cụ thân sinh qua đời. Ðây là tiểu thuyết mang nhiều cao vọng nhất nhưng là đứa con tinh thần mà Nhất Linh không biết mặt. Ông cho biết quá trình xuất bản và chi tiết về tác phẩm này.
NTT: Quá trình hình thành và xuất bản cuốn tiểu thuyết Xóm Cầu Mới của ông cụ tôi là một quá trình lý thú, để tôi kể chị nghe. Ông cụ tôi cho ra đời trên 10 tác phẩm. Bà cụ tôi cũng đẻ hơn 10 đứa con. Cả ông lẫn bà đều "sáng tác" mạnh trong thập niên (19)30. Bà cụ tôi kể lại rằng trong mười năm ấy cứ mỗi lần cha tôi thai nghén và cho ra đời một cuốn sách thì y như rằng bà cũng mang bầu và đẻ được một đứa con. Anh Triệu tôi đi đôi với Anh Phải Sống-1932 (tác phẩm viết chung với Khái Hưng, thảo nào mà ông Khái Hưng chọn anh Triệu tôi làm con nuôi), anh Thạch tôi song hành Ðoạn Tuyệt (1935), chị Thoa tôi nhịp bước Bướm Trắng (1938). Qua năm 1940, mẹ tôi sinh đứa con út là tôi thì cha tôi cũng khởi viết Xóm Cầu Mới. Trong thập niên (19)40 cha tôi đi con đường chính trị bôn ba nước ngoài, ông ngưng viết, mẹ tôi ngưng đẻ. Chính trị đi đôi với chay tịnh! Cả ông lẫn bà đều ngừng sáng tác. Lý ra thì cuốn sách Xóm Cầu Mới này phải ra đời năm 1940, hoặc trễ là năm 1941. Nhưng vì đây là một tác phẩm mang hoài bão quá lớn lao của ông cụ, dự tính dầy gần 10 ngàn trang, cái thai to quá, nó cứ ngâm mãi trong bụng cha tôi không chịu chui ra. Phải mãi tận 33 năm sau, năm 1973, tức 10 năm sau ngày ông cụ mất, nó mới được xuất bản lần đầu. Chính tôi (lúc đó đã 33 tuổi) lại là người "đỡ đẻ" nó. Thế có lạ không?
Nhất Linh viết đi viết lại Xóm Cầu Mới cả thảy 5 lần. Lần đầu năm 1940 tại Hà Nội. Lần cuối bên dòng suối Ða Mê – Fim Nôm (Ðà Lạt) năm 1957. Năm 1960 vì biết là mình không thể hoàn tất bộ trường thiên tiểu thuyết Xóm Cầu Mới như đã dự định nên Nhất Linh bỏ ý định xuất bản cuốn truyện này. Ông cho ra đời tập truyện Thương chồng, gồm 6 truyện ngắn mà 5 truyện là 5 chương trong Xóm Cầu Mới đã được đổi nhan truyện và tên nhân vật.
Tập bản thảo dầy nhất là tập viết lần thứ ba năm 1949 tại Hương Cảng, gồm 4 quyển, bị thất lạc từ năm 1963. Mười năm sau tôi tìm lại được 4 quyển bản thảo này. Mặc dù biết đây là tác phẩm chưa hoàn thành tôi cũng quyết định cho xuất bản. Xóm Cầu Mới được in lần đầu năm 1973 tại Sài Gòn. Nó là tác phẩm đầu tiên đánh dấu ngày hoạt động lại của nhà xuất bản Phượng Giang do tôi phụ trách.
LQM: Tác phẩm dịch thuật Ðỉnh Gió Hú xuất bản trong thời gian qua nằm trong trường hợp trên, ông đã đóng góp chuyển dịch những chương cuối cùng với sự cố gắng theo đúng tinh thần dịch thuật của Nhất Linh. Ông cho biết thêm về tác phẩm này.
NTT: Ngay sau khi xuất bản cuốn truyện Xóm Cầu Mới, tôi nghĩ ngay tới việc xuất bản cuốn tiểu thuyết Ðỉnh Gió Hú của Emily Brontë mà ông cụ tôi dịch dang dở. Tôi nhờ nhà văn Bảo Sơn, một người bạn văn cũng là đồng chí của ông cụ dịch tiếp. Ðỉnh Gió Hú do Nhất Linh-Bảo Sơn dịch, nhà Phượng Giang xuất bản, được phát hành tại Sài Gòn vào ngày 5 tháng 1 năm 1975. Lúc ấy chiến sự đang diễn ra hết sức khốc liệt. Quyển Ðỉnh Gió Hú, như số phận của tác giả cuốn sách, vừa mới ra đời đã sớm yểu mệnh. Ba tháng sau nó tan tác chìm theo vận nước trong biến cố tháng Tư.
Ba mươi hai năm sau, năm 2007, vì chỉ có trong tay bản thảo dịch cuốn Ðỉnh Gió Hú của Nhất Linh, tôi tiếp tục tự dịch lấy một số chương cuối để hoàn tất và xuất bản cuốn truyện này.
Trước khi khởi dịch tôi so đi so lại nhiều lần bản dịch của Nhất Linh với nguyên tác Anh Ngữ và tôi khám phá ra rằng ông cụ tôi đã lược bỏ ở rải rác nhiều chỗ khác nhau một số những đoạn ngắn, ví dụ như những đoạn tác giả giảng giải về tôn giáo. Ông cụ tôi có lẽ đã nghĩ rằng không cần dịch những đoạn đó vì có bỏ sót cũng không ảnh hưởng gì đến nội dung truyện và những đoạn đó quá xa lạ đối với độc gỉa Việt Nam. Phải nhận rằng cách dịch như thế làm cho tác phẩm dịch trở nên thanh thoát hơn nguyên tác. Tiện đây tôi cũng xin nói là trong cuốn sách Ðỉnh Gió Hú do Văn Mới phát hành năm 2007 tôi đã phạm một lỗi lầm là ở ngay bìa cuốn sách thay vì đề Nhất Linh dịch tôi lại đề Nhất Linh chuyển ngữ. Tôi nghĩ dùng chữ chuyển ngữ là không đúng vì không thể nào chuyển ngữ một tác phẩm văn chương, đặc biệt là nó không phản ánh cách dịch của Nhất Linh trong tác phẩm này. Ngoài ra Nhất Linh còn có một biệt tài mà tôi không sao bắt chước được trong cố gắng theo sát tinh thần dịch thuật của ông, đó là ông cụ đã tạo trong tác phẩm dịch này một làn hơi văn có thoảng chút khôi hài nhẹ nhàng kín đáo. Vì thế người đọc tinh ý có thể nhận ra cái không khí thanh thoát của những chương dịch đầu chuyển dần sang không khí nặng nề hơn trong những chương dịch cuối.
LQM: Trở ngược thời gian, một trong những tác phẩm của Nhất Linh được nhắc đến nhiều và đưa vào chương trình giáo dục tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975 là Ðoạn Tuyệt. Là "đồng nghiệp thế hệ sau", ông cho ý kiến về tác phẩm này dưới mắt nhìn của một người cầm bút? Văn phong Nguyễn Tường Thiết lúc mới viết có ảnh hưởng Nhất Linh không? Ông có được Cụ khuyến khích theo con đường mà đa số nhà văn vẫn than là "cái nghiệp" ?
NTT: Khi đánh giá về cuốn sách Ðoạn Tuyệt một số phê bình gia thường hay trích dẫn câu sau này trong cuốn biên khảo Viết và đọc tiểu thuyết của Nhất Linh: "Sự hoan nghênh của những truyện (luận đề) đó, nhất là Ðoạn Tuyệt, những lời khen ngợi của các nhà phê bình, đã làm tôi sau này khó chịu một cách thành thực". Câu trích này dễ đưa đến ngộ nhận là tác gỉả không ưng tác phẩm này chỉ vì nó là tác phẩm luận đề. Sự thực không phải thế. Trong cuốn biên khảo đó Nhất Linh nhấn mạnh cái sai lầm lớn nhất trong đời văn sĩ của ông là đã để cái ý định dùng tiểu thuyết làm một việc gì (viết sách luận đề chẳng hạn) lên trên cái ý định viết một cuốn tiểu thuyết hay. Chính cái sai lầm này - tác gỉả thú nhận - là đã làm cho Nhất Linh viết cuốn Ðoạn Tuyệt kém hay. Cuốn Ðoạn Tuyệt không hay bằng cuốn Ðôi Bạn mặc dù cuốn sau không được nhiều người đọc và ca ngợi nhiều như cuốn trước. Từ nhận định đó của Nhất Linh tôi rút được bài học nó làm kim chỉ nam cho những bài viết của tôi: "viết cái gì cũng được miễn là viết cho hay" (hay theo ý tôi, cố nhiên, còn thế nào là hay thì lại là chuyện khác, nó tốn nhiều giấy mực lắm).
Chị hỏi tôi lúc bắt đầu viết có chịu ảnh hưởng bởi văn của ông cụ không? Ðiều này để chị nhận xét nhé. Bài viết đầu tiên của tôi năm tôi 24 tuổi đăng trên báo Văn Học ở Sài Gòn là bài Niềm Vui Chết Yểu, sau này đăng lại trong tập hồi ký Nhất Linh cha tôi. Chị thấy nó thế nào? Có hơi hướm Tự Lực Văn Ðoàn không? Riêng tôi, tôi nghĩ rằng không. Hồi đó tôi ít đọc sách truyện của TLVÐ lắm mà đọc nhiều truyện của nhóm Bách Khoa, Sáng Tạo. Tôi mê đọc Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nhiễm Mậu... Tôi nghĩ nếu văn tôi có chịu ảnh hưởng ai thì ắt hẳn phải đến từ các vị này.
Ai cũng biết ông cụ tôi là người có biệt tài phát hiện những tài năng văn chương mới. Là người cha ông cụ hẳn nhìn thấy rõ tiềm năng văn nơi người con trai út của ông. Hồi tôi mới 17 tuổi tôi đã đưa ông xem dăm ba mẩu truyện ngắn tôi viết. Ông thích lắm nhưng tuyệt đối ông không khuyến khích tôi đi vào nghiệp văn của ông, cái "nghiệp" mà có lẽ trong thâm tâm ông không muốn các con của ông đi vào. Ngày mồng 2 tháng 7 năm 1963, năm ngày trước khi chết, Nhất Linh lẳng lặng đến nhà in Trường Sơn cho đánh máy tờ ủy quyền cho người con trai út được toàn quyền thay thế ông trong việc xuất bản những tác phẩm của Nhất Linh trong mọi trường hợp ông "vắng mặt vì bất cứ một lý do "(nguyên văn). Bản di chúc này chính là động cơ mọi nỗ lực của tôi trong việc xuất bản và tái bản những tác phẩm của ông cụ, trong đó kể cả việc tìm kiếm bản thảo và in ấn những tác phẩm chưa xuất bản của Nhất Linh, như trường hợp hai cuốn Xóm Cầu Mới và Ðỉnh Gió Hú.
Bây giờ chúng tôi có hai đứa con đã trên 30 tuổi. Thực bụng chúng tôi chỉ mong ước một điều là thấy chúng nó có được một đời sống bình thường hạnh phúc, hoàn toàn không hề kỳ vọng ở chúng có được một sự nghiệp lớn lao nào. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao ông cụ tôi 50 năm truớc đã không khuyến khích tôi đi vào con đường của ông, con đường mà ông đã nhìn thấy trước là có rất nhiều hệ lụy. Hiểu được điều này tôi thấy thương cảm ông hơn và cũng biết ơn ông sâu xa hơn.
LQM: Nhà văn Trần Vũ dùng tài hoa thủ thuật hư cấu mang nhân vật Tuyết trong Ðời Mưa Gió của Nhất Linh làm thành tác phẩm Giáo Sĩ. Truyện được phê bình tốt về mặt sáng tạo nhưng bị công kích về mặt tôn giáo. Ông có ý kiến thế nào về Giáo Sĩ ?
NTT: Tôi là nhà văn lớp cũ thuộc loại ít đọc, ít theo dõi những sáng tác của các nhà văn lớp trẻ, vì vậy làm quen với Trần Vũ hơi muộn, chỉ mới vài năm đây thôi. Nhưng tác phẩm đầu tiên tôi đọc của Trần Vũ đăng trên tạp chí Văn số Xuân Quý Mùi 2003, truyện ngắn Hiệp hội tương tế bắc việt nghĩa trang, nhà văn trẻ này đã làm tôi chú ý ngay. Tôi vốn thích lối viết văn nhiều flaskback, nặng kỹ thuật điện ảnh, nhưng anh chàng Trần Vũ trong tác phẩm này xem ra có vẻ "cực đoan" hơn tôi nhiều: anh đem không gian thời gian Sài Gòn Hà Nội Bãi Cháy quá khứ tương lai hiện tại đổ chung vào một cái máy xay sinh tố rồi anh nhấn nút, khi mọi thứ đã nhuyễn anh đổ lên trên trang giấy mời độc giả thưởng lãm. Ðọc cứ rối cả lên nhưng thích thú!
Sau này đọc thêm những truyện khác của anh, nhất là những truyện lịch sử, tôi tuy công nhận anh là nhà văn có tài, phục anh có trí tưởng tượng phong phú, nhiều ý thức sáng tạo, nhưng tôi không còn cảm thấy thích thú đọc nữa. Tôi thuộc loại nhà văn lớp già, quan niệm thẩm mỹ đã vào khuôn cứng, lại thích lối viết văn nhiều cảm tính nên rất khó tiêu thụ được lối văn "hậu hiện đại", vô cảm và nhiều ẩn dụ của anh và của nhiều nhà văn trẻ bây giờ. Cách viết của họ không làm (con tim) tôi rung động mà làm (trí óc) tôi mệt mỏi, tim tôi không cảm nhưng óc tôi phục họ.
Riêng tác phẩm Giáo Sĩ của Trần Vũ tôi không có ý kiến vì chưa đọc. Tôi chỉ đọc một bài bình luận của tác giả Ban Mai về tác phẩm này đăng trên tạp chí Văn Học số tháng 1,2/2008. Tôi hy vọng trong tương lai tôi sẽ đọc tác phẩm gây nhiều tranh cãi này để coi xem nhận định sau đây của tác giả Ban Mai có căn cứ hay không: "Chỉ riêng Giáo Sĩ, Trần Vũ xứng đáng có vị trí trang trọng trong lịch sử phát triển tiểu thuyết hiện đại Việt Nam".
Là con của nhà văn Nhất Linh, tiện đây tôi cũng xin chị cho phép tôi nhân cơ hội này được chuyển đến nhà văn Trần Vũ lời cảm ơn. Trong quyển sách "Tác giả, với chúng ta" của Lê Quỳnh Mai, khi được tác giả hỏi thế nào là một nhà văn, nhà văn Trần Vũ đã trả lời: "Với tôi, một nhà văn, ngoài tác phẩm, trước nhất là một người trí thức có tư cách và cất tiếng nói trước bất công của xã hội, trước chính quyền không sợ hãi, với tất cả trách nhiệm. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là một nhà văn. Ông xứng đáng là văn hào của nước Việt Nam".
LQM: Có phải cuộc sống tinh thần của nhà văn Nguyễn Tường Thiết luôn bị ám ảnh bởi cái chết đau lòng của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam? Nếu đây không là câu hỏi đi vào đời sống cá nhân, ông cho biết cảm xúc về biến cố này và có bao giờ trong một phút thất vọng trước đời sống có ý định tự tử như Nhất Linh?
NTT: Vâng, tôi bị ám ảnh bởi cái chết của ông cụ tôi và ám ảnh này rất nặng. Tôi không bao giờ ám ảnh bởi câu hỏi vì sao ông cụ tôi tự vẫn. Với tôi lý do đã quá hiển nhiên, qua lá thư tuyệt mệnh ông để lại. Tôi ám ảnh bởi sự kiện là đã tôi mất đi một người cha một cách vô cùng đột ngột. Hồi ấy tôi 23 tuổi. Từ nhỏ cho đến hết thời niên thiếu tôi luôn luôn xem ông cụ tôi như một người cha bình thường như mọi người cha khác. Cho đến năm ấy khi tôi bước vào cái tuổi biết suy nghĩ, bắt đầu tìm hiểu về cha tôi, khám phá rằng cha tôi đã có một cuộc đời ngoại hạng, ý thức mình đã vô cùng may mắn được là con của ông, tôi bắt đầu kính nể ông thì đúng vào lúc ấy ông đột ngột ra đi vĩnh viễn. Cái chết của ông cụ như nhát chém cắt đôi cuộc đời tôi, để lại một sự ân hận nuối tiếc khôn nguôi.
Cố nhiên là cái chết của cha tôi đã gây rất nhiều xúc cảm trong tôi. Tôi đã ghi lại những cảm xúc ấy trong bài Niềm vui chết yểu mô tả những giờ phút cuối cùng của ông cụ, bài này tôi viết 6 tháng sau ngày ông cụ tôi qua đời.
Cha tôi đã có lần khuyên tôi là viết văn cần nhất ở sự chân thành. "Mình cần phải thành thực với chính mình". Ông đã nói với tôi như thế. Theo tinh thần đó tôi cũng xin trả lời thành thật câu hỏi của chị. Vâng, đã có rất nhiều lúc tôi có "ý nghĩ" tự tử. Còn "ý định" tự tử rất hiếm xẩy ra nhưng không phải không có. Tôi cho rằng ý nghĩ, ngay cả ý định tự tử, là chuyện bình thường, người ít người nhiều, ai chẳng có lúc thoáng qua trong đầu? Tôi tin rằng từ ý nghĩ sang ý định sang thực hiện là những khoảng cách vô cùng lớn. Ông cụ tôi là nhà văn, con người ông nhiều suy nghĩ trăn trở, cuộc đời ông ba chìm bẩy nổi, thành công cũng nhiều, thất vọng cũng lắm, đương nhiên ý nghĩ tự tử phải đến với ông nhiều gấp bội những người khác. Nhưng từ đó mà gán ghép ông cụ tôi có bệnh tâm thần, là nguyên nhân trực tiếp đưa đến cái chết của ông cụ tôi như trong bài viết của ông Nguyễn Văn Lục là một nhận định hết sức hàm hồ và hoàn toàn không đúng với sự thực.
LQM: Nói về văn nghiệp Nguyễn Tường Thiết, trong hồi ký Nhất Linh Cha Tôi (Văn Mới xb 2006), nhà văn Lê Minh Hà viết lời bạt "Anh đã dựng lại con người lịch sử, con người tiểu thuyết Nhất Linh như con người bình thường của đời thuờng chứ trong phải trong đời thường Cụ vẫn hiện diện như con người của lịch sử hay tiểu thuyết...". Dấu ấn kỷ niệm nào sâu đậm nhất giữa ông và Cụ thân sinh, trong khoảng thời gian cuối cùng –trong đời sống của một người bình thường- không phải nhà cách mạng cũng không phải nhà văn.
NTT: Kỷ niệm sâu đậm ghi nhiều dấu ấn trong tôi nhất là những kỷ niệm xẩy ra nhiều năm trước khi cha tôi mất. Hồi ấy ở trên Ðà Lạt cha tôi hay tổ chức cuối tuần những cuộc đi chơi picnic. Hôm ấy trên chiếc xe hơi của bác Lê Ðình Gioãn chúng tôi hai gia đình đi chơi suối vàng cách Ðà Lạt 17 cây số. Ðến suối bọn trẻ chúng tôi túa vào rừng thông, lội suối, thám hiểm những vùng đất lạ. Tôi xách súng cao su theo các anh lớn vào rừng bắn chim. Bác Gioãn, chú Trương Bảo Sơn và cha tôi vào rừng kiếm hoa phong lan. Mẹ tôi chị tôi và các cô con gái bác Gioãn thì không đi đâu xa, chỉ ngồi tụ nhau bên suối chỗ đỉnh của thác nước để hàn huyên. Mẹ tôi loay hoay sửa soạn bữa ăn ngoài trời cho cả bọn. Buổi trưa sau khi đã mệt và đói bụng chúng tôi lần theo tiếng kèn clarinet của cha tôi mà trở về suối. Anh Thạch và tôi khi về lại chỗ đầu thác nước thì thấy không có cách gì để qua bên kia suối được vì chỗ này là đỉnh thác, con suối dù rất hẹp chỉ rộng hai thước nhưng nước chẩy rất xiết. Anh Thạch và tôi bắt buộc phải qua bờ bên kia để nhập với tất cả mọi người ở bên ấy. Ở tít xa dưới kia nơi chân thác tôi thấy cha tôi đang cặm cụi ngồi vẽ, ông đang vẽ thác nước, thỉnh thoảng ông ngước mặt lên nhìn đỉnh thác nơi hai chỗ chúng tôi đứng. Sau cùng chúng tôi thấy ở gần miệng thác có một cái cây lớn đổ xuống, thân cây nằm vắt ngang suối. Thế là anh tôi bò trước tôi bò sau chúng tôi qua thân cây sang được bờ bên kia.
Một năm sau trong một lần đi chơi thác nước Datanla, cha tôi và tôi trong lúc đi dọc theo dòng suối chúng tôi khám phá ra một cái vực rất sâu và hẹp, vách đá dựng đứng, nhìn xuống trông rất ghê rợn. Trong lúc tôi nhỏm người gần bờ vực để nhìn cho rõ thì cha tôi đẩy tôi ngược về phía sau. Ông hét lên: "Ðừng dại thế. Nhỡ ngã xuống thì sao!". Rồi cha tôi mắng tôi một thôi một hồi. Tôi chưa bao giờ thấy ông giận dữ như thế. Người ông run lên. Sau đó ông kể tôi chuyện xẩy ra từ một năm trước trong lần chúng tôi đi picnic ở suối vàng. Lần ấy trong lúc ngồi vẽ cái thác nước cha tôi ngửng lên và kinh hoàng nhìn thấy ở trên tít cao tôi đang bò trên một khúc cây nằm vắt qua thác! Cha tôi bảo tôi: "Lúc ấy cậu chỉ sợ cái khúc cây ấy nó lăn!". Kể xong mặt ông buồn rầu thấy rõ và cuộc đi chơi thác Datanla sau đó mất hết cả hứng thú cho cả hai bố con.
Sau này nhớ lại kỷ niệm hai lần đi chơi ấy tôi thường tự hỏi vì sao ông đã không mắng tôi từ một năm trước ngay trong lần đi chơi thứ nhất ở suối vàng? Ông đã dấu kín câu chuyện ấy trong lòng suốt một năm. Và nếu không có chuyến đi chơi Dalanla thì mãi mãi tôi không biết được là cái hành động vô cùng dại dột đó của tôi ông đã chứng kiến và làm ông hoảng sợ.
LQM: Tùy bút Mùa Hạ Năm Ấy (Văn Mới xb 2008) tả hành động của nhân vật nữ... "Rồi chị lấy một đầu ngón tay rà xung quanh cái đầu nâu hồng của núm vú chị... hơi thở dồn của chị Dự phà lướt bên tai tôi..." (trg 26-27). Ðoạn văn erotic chứng minh Nguyễn Tường Thiết không là độc giả có cái nhìn quá khắt khe về chủ đề tình dục. Ông có ý kiến sao?
NTT: Tại sao lại phải khắt khe nhỉ? Tình dục là một đề tài thú vị nếu viết hay, lại càng thú vị hơn cho người đọc phái nam nếu được viết từ một nhà văn nữ. Quan niệm của tôi như đã nói ở phần trên là viết cái gì cũng được miễn là viết hay, đặc biệt là với đề tài rất khó viết này. Nhà văn Võ Phiến rất tài tình khi ông viết về tình dục. Tôi nhớ đọc ở đâu đó một truyện của ông ta, truyện có một đoạn ông chỉ mô tả mỗi một ngón chân cái của một người đàn bà trong lúc làm tình, chỉ thế thôi mà lòng tôi cứ rực cả lên. Cái tài tình là ông ấy chỉ tả có 1% thôi, một mẩu tí tị thôi, nhưng cái mẩu ấy nó ác liệt lắm, nó cho người đọc hình dung đầy đủ 99% phần còn lại. Nhà văn Nhất Linh nhẹ nhàng hơn nhưng cũng làm xao xuyến người đọc không kém trong Bác Hòa hàng cơm của Xóm Cầu Mới. Bạo tợn hơn nữa trong mô tả đề tài tình dục mà vẫn có cái hay của nó tôi thấy có Bảo Ninh trong Nỗi buồn chiến tranh, hay trong một số truyện ngắn của Kiệt Tấn, Nguyễn Huy Thiệp.
Những năm gần đây có một hiện tượng là các nhà văn nữ trẻ đã viết về đề tài tình dục khá nhiều, có lẽ nhiều hơn bên nam giới. Như đã nói, tôi là nhà văn thuộc loại ít đọc. Có nhiều nhà văn nữ tôi chưa hề đọc một tác phẩm nào của họ và ngay cả một số nhà văn tôi đã đọc thì cũng không phải là đọc hết những bài họ viết, vì thế tôi không thể có một nhận xét chung, theo lối "vơ đũa cả nắm".
Tuy thế, giới hạn qua một số truyện tôi được đọc của một số nhà văn nữ viết về đề tài tình dục tôi thấy nói chung họ có lối viết lạ, mạnh, thẳng, bạo, nhưng thiếu cái... hay. Chính cái thiếu này làm tôi khựng lại không muốn tìm đọc thêm những tác phẩm khác của họ. Nhưng đôi lúc nghĩ lại tôi tự nói với mình: "Ơ hay cái ông già này! Ông cứ chăm chăm soi mói nhất định tìm cái hay, trong khi những vị đó đâu "ke" cái hay, họ viết tình dục là để nhắm cái khác, mục đích khác: tình dục viết theo lối huỵch toẹt để chống đạo đức giả, tình dục ẩn dụ để nói lên thân phận phụ nữ v...v... A! té ra mình thưởng ngoạn tình dục như một trái táo trong khi nó là trái cam theo quan niệm của họ, sai bét rồi! Nghĩ thế thì biết thế thôi chứ trong lòng vẫn hậm hực. Hậm hực thấy họ viết không hay. Giá họ viết hay sẽ thú vị cho người đọc biết là chừng nào mà rất có thể cái dụng ý mà họ muốn truyền đạt lại có tác dụng tốt hơn. Ðến đây thì chúng ta lại quay lộn trở về cái sai lầm của ông Nhất Linh, cái sai lầm mà ông tự thú đã khiến ông viết cuốn tiểu thuyết luận đề Ðoạn Tuyệt kém hay.
LQM: Truyện Mùa Xuân Trên Phố rất dí dỏm... "Tôi cứ nhắm cái mông cô gái Mỹ mà đi. Tại sao vậy? Hình như có một động lực nào thôi thúc tôi đi theo cô ta. Cái mông béo tròn trước mắt chỉ làm cho tôi liên tưởng đến cái thú ăn uống mà cô ta đã tận hưởng qua bát phở kia...(trg 42, MHNA, Văn Mới xb 2008). Rất tình tự quê hương khi nhắc về phở. Ông có định chuyển dịch tác phẩm sang Anh ngữ để giới thiệu món ăn Việt Nam quốc hồn quốc túy?
NTT: Cũng lâu rồi một bữa kia vợ chồng tôi đi ăn phở tại một tiệm nằm khá xa khu đông cư dân Việt, thực khách đa số là người ngoại quốc. Chúng tôi gặp một thực khách người Mỹ trong tiệm phở ấy. Cái cách ăn phở của cô ta làm chúng tôi chú ý. Không những cô ta bỏ tất cả những thứ gia vị có ở trên bàn lên trên tô phở trước khi ăn mà cái cách ăn của cô ta cũng rất đặc biệt, cô thưởng thức tô phở một cách nồng nhiệt hiếm thấy, đến độ cô ta bất chấp phép lịch sự tối thiểu của người ngoại quốc bưng bát phở húp hết nước cặn như kiểu húp của các bà già quê ở Việt Nam. Hình ảnh cô gái Mỹ ăn phở ấy cứ lấn cấn mãi trong óc tôi, cho đến khi tôi trải được nó ra trên trang giấy, trong truyện ngắn Mùa Xuân Trên Phố. Truyện này lần đầu đăng trên tạp chí Thế Kỷ 21 dưới bút hiệu Thạch Long (cái bút hiệu nở muộn sớm tàn, chỉ xuất hiện đúng một lần).
Vâng, tôi có ý định nhờ chuyển dịch truyện ấy sang Anh ngữ để giới thiệu một món ăn quốc hồn quốc tuý của Việt Nam. Chị có thể giúp tôi việc này được không? Tôi dịch từ Anh sang Việt thì được mà dịch ngược lại thì tôi chịu thua.
LQM: Biến cố 1975 gấy chấn động thế giới để lại một vết thương quá lớn cho dân tộc Việt Nam nói chung. Trong Tuyến đường ga Ấm Thượng (trg 168-192), ông mượn lời chị dâu tả tâm tình cảm xúc của phụ nữ dắt con về thăm quê hương đúng nơi chồng mình đã bị tù cải tạo. Sau hơn 33 năm, thế hệ cũ dần dần không còn tồn tại, thế hệ mới không hiểu vết thương sâu đậm ấy dù được kể lại. Theo ông chúng ta nên vui hay buồn nên quên hay nhớ để giáo dục cho thế hệ sau những điều tốt đẹp về đất nước.
NTT: Cuộc đời của chúng ta rồi cũng sẽ đi qua. Thế hệ mới tiếp nối như dòng chẩy bất tận của cuộc sống. Tôi nghĩ xưa kia thế hệ ông cha mình chắc cũng có những âu lo như mình bây giờ, không hiểu thế hệ sau có hiểu được những đoạn trường mà họ đã đi qua, chính vì thế mà nẩy sinh những thiên hồi ký để lại cho đời sau. Thế hệ chúng ta là một thế hệ rất đặc biệt. Bước chân qua ngưỡng cửa phân chia hai thiên niên kỷ đã là sự kiện hy hữu, lại hy hữu hơn nữa cho những người sống nơi hải ngoại như chúng ta với hai mảnh đời hoàn toàn khác biệt, kết quả của một biến cố lớn đẩy làm hàng triệu người Việt phải sống tung toé trên hầu như mọi quốc gia của hành tinh này, một chuyện không tiền khoáng hậu xẩy ra trong lịch sử nước ta.
Những đứa con của chúng tôi được nuôi dưỡng từ bé trong môi trường khác hẳn môi trường chúng ta đã được nuôi dưỡng nay đã bước qua tuổi trưởng thành. Do khuynh hướng tự nhiên càng lớn tuổi chúng càng thích tìm hiểu hơn về nguồn cội. Tùy điều kiện riêng của mỗi người chúng ta có cách thế riêng để giáo dục chúng về quê hương đất nước. Chúng tôi đã thu xếp để chúng có dịp trở về thăm Việt Nam. Riêng tôi khi viết lại hồi ký của đời mình cũng có dụng ý để cho con cái, nếu sau này muốn tìm hiểu thì có sẵn tư liệu. Trong thế hệ sau những đứa sinh trưởng hoặc lớn lên ở hại ngoại, nếu chúng nói và nghe được tiếng Việt đã là đều may, chứ đừng trông chờ chúng đọc và viết được tiếng mẹ đẻ. Vì thế những bài viết của tôi đại loại như truyện Tuyến đường ga Ấm Thượng tôihy vọng sẽ được chuyển qua Anh ngữ để thế hệ sau có thể đọc được.
LQM: Sau lưng người đàn ông thành công là người đàn bà tuyệt vời. Phụ nữ trong gia đình Nhất Linh nói riêng và dòng tộc của Nguyễn Tường nói chung, là những người có định mệnh đi liền với lịch sử chính trị và văn học Việt Nam. Họ chia xẻ buồn vui bất trắc của Nhất Linh. Ông có thể cho độc giả biết thêm về hình ảnh của thân mẫu, Thái Vân người bạn đời của Nguyễn Tường Thiết.
NTT: Mẹ tôi là hình ảnh của một người đàn bà Việt Nam điển hình: nhẫn nại, tảo tần, hết đời một lòng hy sinh cho chồng con. Xuất thân từ một gia đình họ Phạm quê ở làng Phương Vũ, mẹ tôi lập gia đình với cha tôi năm 1925 khi bà và cha tôi còn rất trẻ, mẹ tôi 18 và cha tôi 19 tuổi. Lập gia đình mẹ tôi theo đuổi nghề cau của bà ngoại tôi. Chính nhờ nghề cau này mà mẹ tôi đã nuôi dưỡng hơn mười người con của bà và giúp chồng rảnh tay theo đuổi lý tưởng và sự nghiệp của ông. Mẹ tôi thường nói cha tôi tuổi con ngựa nên suốt đời đi xa, không mấy khi ở gần gia đình. Bà cũng nói khi lấy chồng, cha tôi đã cam kết ngay từ đầu rằng mỗi người có một bổn phận, ông có bổn phận đối với xã hội, còn bà có bổn phận đối với gia đình. Cha mẹ tôi sống xa nhau thường xuyên mà không ai phiền hà, tôi cho rằng phần lớn vì cả hai có một điểm rất giống nhau, đó là sự say mê làm việc. Nếu cha tôi đam mê viết sách, làm báo và những hoạt động xã hội thì mẹ tôi cũng say mê trong việc làm ăn buôn bán không thua gì cha tôi.
Sau lưng người đàn ông thành công là người đàn bà tuyệt vời. Câu nói mà chị trích dẫn rất đúng trong trường hợp của song thân tôi. Chẳng thế mà cụ Nguyễn Hải Thần, một nhà cách mệnh lão thành, đã từng có câu khen ngợi mẹ tôi: "Anh Tam nếu không có chị ấy thì không thể làm nên sự nghiệp này". Chẳng thế mà nhà phê bình và nghiên cứu văn học Thụy Khuê trong bài Thế hệ bắc cầu đã từng viết câu này: "Mẹ anh (Nguyễn Tường Thiết) là bà Tú Xương của Văn Ðoàn, nếu không có bà thì Văn Ðoàn không thể ‘Tự Lực’ được".
Sự hy sinh của mẹ tôi cho sự nghiệp của cha tôi là một sự hy sinh tự nguyện đến tự một tấm lòng hết mực "Thương chồng" như nhan đề một cuốn sách cha tôi xuất bản năm 1960. Ngoài sự yêu thương, cha mẹ tôi còn có sự tương kính. Không bao giờ tôi nghe thấy bố mẹ tôi to tiếng với nhau.
Ðể nói lên lòng yêu thương và sự tương kính đó thiết tưởng không gì bằng trích dẫn một đoạn hồi ký sau đây của thi sĩ Huy Cận trong tập Hồi Ký Song Ðôi của ông -tập 2- trang 258 do nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành, Hà Nội, năm 2002: "... có lần Nhất Linh tâm sự với tôi: ‘Chắc anh sẽ hỏi tôi tại sao tôi có nhiều con. Có gì đâu? Bà vợ tôi thích đẻ con, vì bà ta cho biết mỗi lần mang thai thì sức khỏe của bà tốt lên, thấy yên ổn trong người. Thụ thai và mang thai đối với vợ tôi là một hạnh phúc. Ðó là một hạnh phúc cụ thể, vừa cơ thể vừa tâm hồn, đó là kinh nghiệm của tôi, hay đúng hơn là kinh nghiệm của vợ tôi’. Nhất Linh nói mấy câu đó với một nụ cười không phải là hóm hỉnh, mà như là một nụ cười tình cảm, tỏ lòng biết ơn người vợ đoan trang và đảm đang của mình. Có lần Nhất Linh cũng nói với tôi: ‘Làm vợ một nhà văn nhiều khi cũng phiền, và cũng thiệt, phải hy sinh nhiều. Cứ xem vợ ông Tú Xương thì rõ: Quanh năm buôn bán ở mom sông - Nuôi đủ năm con với một chồng - Lặn lội thân cò khi quãng vắng - Eo sèo mặt nước lúc đò đông’ (thơ Tú Xương mà Nhất Linh đọc thuộc lòng, với một giọng như là mượn lời thơ trên để tỏ lòng biết ơn vợ, mặc dù bà Nhất Linh không đến nỗi vất vả, tần tảo như bà Tú Xương).
Chỉ vài giờ trước khi lìa đời cha tôi đã để lại những dòng chữ sau đây cho mẹ tôi, người đàn bà "rất thân yêu" như cha tôi đã viết trên trang đầu bản thảo cuốn Xóm Cầu Mới: "Mình, mối tình của đôi ta trong bao năm đẹp đẽ lắm rồi, không mong mong ước gì hơn nữa. Anh, 7-7-1963".
Chị hỏi tôi về trường hợp Thái Vân và tôi thì tôi cũng xin trả lời như thế này. Chúng tôi thuộc hẳn một thế hệ khác, lại sinh sống ở hải ngoại hầu như gần trọn cuộc đời chung sống, tôi không đi vào nghiệp văn trọn cuộc đời như ông cụ tôi nên nhà tôi không phải đối phó với những "điều phiền", "điều thiệt" của mẹ tôi, như cha tôi đã từng tâm sự như thế với ông Huy Cận.
Tuy nhiên trong cuộc sống lứa đôi, chúng tôi may mắn là có những quan điểm căn bản về đời sống giống nhau, lại học được thêm cái cách cư xử của song thân tôi những bài học quý giá cần thiết cho việc duy trì hạnh phúc gia đình. Ðó là ngoài tình yêu thương, vợ chồng cần đối xử với nhau với sự quý trọng.
LQM: Trong lời tựa của Mùa Hạ Năm Ấy, Phạm Phú Minh viết: "... Bây giờ chúng tôi bắt đầu bước vào tuổi già, anh Thiết lại bắt đầu viết hăng, tôi chỉ biết gửi gấm đôi nét của lòng mình vào tác phẩm anh, gọi là đánh dấu một chút tri kỷ muộn màng" (trg 10, MHNA). Tình bạn của Nguyễn Tường Thiết và Phạm Phú Minh bắt đầu từ đâu?
NTT: Chúng tôi quen biết nhau do một cái duyên. Năm 2002, cả anh ấy và tôi, hai người không quen biết nhau, ở hai nơi cách xa nhau, cùng âm thầm làm một công việc về tác giả Nhất Linh, mà người nọ không biết việc làm của người kia. Ở Cali anh Phạm Phú Minh, hồi đó là chủ bút của tạp chí Thế Kỷ 21, sửa soạn ra số báo chủ đề Tưởng Niệm Nhất Linh, dự tính ấn hành vào tháng 7 năm đó nhân ngày giỗ thứ 39 của ông cụ tôi. Ở Seattle, tôi đánh máy bản thảo cuốn trường thiên thiểu thuyết Xóm Cầu Mới của ông cụ, và dự tính tái bản cuốn truyện này cũng vào tháng 7. Trước khi khởi công đánh máy tôi đã liên lạc với anh Võ Phiến xin anh ấy viết cho một bài Bạt để in trong cuốn Xóm Cầu Mới tái bản, và anh ấy đã gửi tôi bài Ðọc bản thảo của Nhất Linh. Một bữa anh Võ Phiến gọi điện cho tôi xin được chuyển bài viết ấy cho Thế Kỷ 21 đã đăng thêm trong số Tưởng Niệm Nhất Linh. Thế là qua anh Võ Phiến tôi mới biết là ở Cali họ đang thực hiện số báo này. Tôi liên lạc với anh Phạm Phú Minh từ đó.
Sau này được gặp anh Minh tôi có cảm tình rất đặc biệt với anh. "Phạm Xuân Ðài là một con người trầm lặng, khiêm cung, ăn nói nhỏ nhẹ. Hình như toàn sức sống của ông đều dồn vào nội tâm..".. Ðúng như nhận định của giáo sư Trần Hồng Châu viết về anh ấy trong lời Tựa cho cuốn sách Hà Nội trong mắt tôi của Phạm Xuân Ðài (Phạm Xuân Ðài là bút hiệu của anh Minh). Ðiều khiến tôi cảm động nhất là trong bài viết của anh đăng trên Thế Kỷ 21 số Tưởng Niệm Nhất Linh anh Minh có nhắc đến mối giao tình giữa ông cố của chúng tôi là Nguyễn Tường Tiếp với ông cố của anh là Phạm Phú Thứ từ thời hai Cụ cùng làm quan dưới thời vua Tự Ðức. Anh viết: "... sự giao du của các vị trên khiến tôi cảm thấy như có một sự liên hệ tinh thần với họ Nguyễn Tường, mặc dù cho đến gần đây tôi chẳng mấy khi được có dịp giao du mật thiết giống như người xưa".
"Cũng chẳng muộn, anh Minh à!". Chuyện anh kể cứ phảng phất như câu truyện cổ tích; phảng phất như đâu đây vẫn còn hồn xưa của các Cụ chứng giám cho mối tri kỷ muộn màng này.
LQM: Trong Hội Luận Văn Học và buổi ra mắt sách Võ Phiến tại Cali vào tháng 1 năm 2007, với sự góp mặt rất đông của văn thi hữu hải ngoại. Ông đã nói "Ðây là một cơ hội cho những người đã quen nhau( qua sáng tác, tạp chí, Net) nhận mặt.", và đã họp mặt với văn hữu trong nước như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Ðỗ Hoàng Diệu... Ông có nhận xét thế nào về những người cầm bút ở trong và ngoài nước.
NTT: Tôi đi vào nghiệp văn khá muộn nên chỉ mới làm quen với các văn thi hữu thời gian gần đây thôi, trong vòng mười năm trở lại. Trong số các nhà văn đã thành danh trước năm 1975 và hiện còn tại thế, không kể những nhà văn tôi có liên hệ họ hàng như Duy Lam, Thế Uyên, có lẽ chỉ có một mình nhà văn Võ Phiến là tôi được hân hạnh quen biết ngay từ hồi còn ở trong nước. Mặc dầu vậy hầu hết những nhà văn đã có tiếng tăm ấy tôi đã đọc tác phẩm của họ ngay từ thập niên 19(60). Vì thế đầu năm ngoái dù ở xa tôi cũng bay xuống Cali trước là để dự buổi ra mắt cuốn sách của anh Võ Phiến, một nhà văn lớn tôi rất ngưỡng mộ và quý trọng, sau là để tham dự Hội Luận Văn Học, và có cơ hội gặp mặt những người mà trước đó tôi chỉ biết qua chữ nghĩa. Cảm tưởng tiên khởi khi gặp họ là họ còn... trẻ quá, không "lụ khụ" tí nào như tôi hình dung. Hôm ấy sau cuộc Hội Luận có buổi tiếp tân. Lúc tôi tiến lại quầy rượu tự rót thêm rượu vang vào cốc của mình thì đụng độ nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng. Tôi thốt lên: "Trông anh trẻ quá nhỉ? Tôi đọc văn anh từ hơn 40 năm trước, từ cái thời báo Văn 38 Phạm Ngũ Lão lận, cứ ngỡ bây giờ anh phải... Anh trẻ thật!".
Trường hợp gặp gỡ các nhà văn trong nước thì khác. Khoảng cuối thập niên 19(80) khi ở trong nước bắt đầu có hơi hướm "cởi trói" về văn học, tôi theo dõi và tìm đọc những tác phẩm của các nhà văn ở Việt Nam. Trong số đó có hai nhà văn tôi thích đọc nhất là Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh. Tôi định bụng nếu có dịp về Việt Nam sẽ tìm gặp họ. Hai năm trước nhân dịp ghé Hà Nội tôi ngỏ ý với một người tôi quen biết và nhờ anh ta thu xếp một buổi gặp gỡ tại một nhà hàng với hai nhà văn nói trên. Lúc tôi đến quán thì có thêm một số người khác nữa, trong số có cả nhà văn nữ trẻ Ðỗ Hoàng Diệu. Tôi có tường thuật cuộc gặp gỡ này trong hồi ký Một trăm ngọn nến nói về chuyến đi Hà Nội, trùng vào ngày sinh thứ 100 của ông cụ tôi (25 tháng 7 năm 2006). Hai nhà văn Bảo Ninh và Ðỗ Hoàng Diệu tôi chỉ gặp một lần ấy tại quán ăn. Riêng Nguyễn Huy Thiệp thì tôi được anh mời đến nhà anh dùng cơm, và chúng tôi sau này vẫn tiếp tục liên lạc qua email và điện thoại.
Từ khi viết tôi có thêm bạn văn ở cả trong lẫn ngoài nước. Nói chung tôi có cảm tưởng thoải mái khi tiếp xúc với họ. Vì có chung nghiệp cầm bút chúng tôi dễ đồng cảm, dễ nói chuyện. Tôi tin rằng đã là nhà văn, tôi nói nhà văn đích thực, thì tâm hồn họ cũng phóng khoáng và cởi mở. Tôi nhớ câu nói của anh Nguyễn Huy Thiệp trước khi chia tay: "Văn chương nó bạc lắm anh ạ. Phần thưởng quý nhất có lẽ là qua nó chúng ta có được những người bạn mới ở khắp bốn phương".
LQM: Ðã từng có tranh luận, ý kiến về sự sống còn của tạp chí văn học in trên giấy và tạp chí in... trên mạng! Hiện nay tạp chí trên mạng cũng phát triển mạnh hơn và tạp chí in trên giấy vẫn không bị... ngỏm củ tỏi... như tiên đoán! Cảm giác ông thế nào khi đọc sáng tác của mình trên hai loại tạp chí trên.
NTT: Viết xong một tác phẩm, nhìn ngắm nó mãi không chán mắt như nhìn một đứa con cưng, nhưng khi quyết định gửi đứa con đi, tôi luôn luôn ngập ngừng, phân vân. Gửi tạp chí nào nhỉ? Tạp chí...IN hay tạp chí... MẠNG. Trí óc tôi làm việc nhanh lắm. Nhưng trái tim tôi thì rề rà! Nếu gửi tạp chí... mạng thì số người đọc có thể tăng hơn gấp trăm lần, đứa con được bay bổng đi xa đến khắp mọi nơi có người Việt sinh sống trên hành tinh này, lợi thế biết bao nhiêu! Nghĩ thế nhưng sao con tim tôi nó trù trừ. Nó bảo tôi rằng tôi gửi báo mạng e là sẽ mất... mạng đứa con! Ðứa con sẽ đi vào "hố đen", mất tăm trong hư vô! Cảm giác này thật lạ, thật vô lý, nhưng nó có, có thật! Tôi không có cảm giác đó khi gửi bài cho tạp chí in. Gửi báo in tôi yên tâm. Trước sau đứa con tinh thần của tôi cũng sẽ xuất hiện trên trang sách, và tôi lại có thể sờ mó được nó. Ðành rằng nếu gửi tạp chí mạng thì trước sau gì tôi cũng sẽ thấy lại đứa con của tôi trên màn ảnh máy vi tính. Nhưng tôi vẫn thấy đứa con tôi xa cách quá, tôi không thể ôm nó âu yếm như ôm cuốn sách theo tôi vào trong giấc ngủ. Chẳng lẽ tôi đi ôm cái máy to tổ bố vào lòng!
Ấy là nói cho vui vậy thôi chứ "trước lạ sau quen", cái gì mà chẳng thành thói quen. Trước kia tôi cứng đầu lắm cứ tin một cách chắc nịch rằng gõ gõ trên máy vi tính thì văn nó không tuôn ra, phải viết tay cơ! Bây giờ mới biết mình sai bét!
Tạp chí in ở hải ngoại tôi nghĩ nó sẽ không ngỏm củ tỏi đâu, nó sẽ đi song hành với tạp chí mạng dài dài. Chị nhớ không, khoảng 20 năm trước khi có DVD, VCR người ta rầm rầm mướn phim về nhà xem, ai cũng lo âu rằng kỹ nghệ phim rạp sẽ tiêu tùng, thế mà bây giờ rạp hát vẫn đông đảo người đi xem, còn phát triển mạnh hơn bao giờ hết, vì thiên hạ (trong số có vợ chồng tôi) vẫn còn rất nhiều người thích coi xinê trong rạp hát hơn.
Tuy nhiên những tạp chí IN ở hải ngoại, đặc biệt những tạp chí văn học giá trị không sống nhờ quảng cáo như các tạp chí Hợp Lưu, Văn Học, Văn... đang phải đối phó với những khó khăn chồng chất để tồn tại, mà khó khăn lớn nhất là tiền cước phí gửi báo quá nặng. Trong hoàn cảnh đặc biệt này tôi thiết nghĩ là những người cộng tác cần tiếp tay để giúp các tạp chí này đứng vững và sống còn, bằng cách ngoài đóng góp bài vở nên có những trợ giúp khác tùy theo khả năng của mỗi người.
LQM: Ý kiến ông về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm.
NTT: Ở tuổi đôi mươi tôi đã đọc hai câu thơ sau đây:
Tôi bước đi, không thấy phố, không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ...
Lần đầu đọc nó tôi xúc động ngay. Lúc đó tôi không biết tác giả câu thơ là Trần Dần, không biết gì về nhóm Nhân Dân Giai Phẩm, chỉ biết tác giả là một nhà thơ miền Bắc, thế thôi. Tôi xúc động không vì ý hướng chính trị. Tôi xúc động vì nó tác động trong tôi một hình ảnh sâu đậm. Một kỷ niệm về thời tuổi thơ đã mất. Về một dẫy phố của Hà Nội in trong tâm tưởng tôi hồi bé. Dẫy phố một ngày mùa đông mưa phùn xám xịt, dẫy phố buồn bã, đìu hiu, hoang lạnh, xưa cũ trong tâm tưởng tôi nay đã có điểm thêm màu cờ đỏ ủ rũ.
Hồi đó khoảng cuối thập niên 19(50) tôi có nghe nói đến nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Tôi không thể đoan chắc tôi nghe được từ đâu. Rất có thể là tôi nghe lóm được trong câu chuyện văn nghệ giữa cha tôi và các bạn của ông. Hồi đó văn thơ của nhóm NVGP được phổ biến, truyền đọc ở miền Nam, Trăm Hoa Ðua Nở trên đất Bắc được Hoàng Văn Chí xuất bản năm 1959. Cha tôi chắc hẳn là phải theo dõi nhóm NVGP rất kỹ và nắm vững tình hình văn nghệ miền Bắc. Ðoạn viết sau đây trong cuốn biên khảo của Nhất Linh Viết và Ðọc Tiểu Thuyết xuất bản năm 1960 chứng tỏ điều này tuy rằng ông không đề cập đến nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. "...để kết thúc, tôi dẫn ra một thí dụ có rất nhiều ý nghĩa: Cuốn Ðồi thông hai mộ là cuốn truyện hết sức tầm thường; cuốn ấy nếu xuất bản trong Nam có lẽ không ai đọc. Thế mà ở miền Bắc, người ta đã giấu giếm truyền cho nhau xem; không những thế có người thức luôn mấy đêm chép tay để đọc và để đưa các chỗ bạn bè tin cẩn đọc, rồi cứ thế một ngày một lan rộng bởi vì họ đã chán ngấy những tiểu thuyết hết ca tụng cái nọ đến ca tụng cái kia, đều đều một giọng".(VVÐTT- Ðời Nay xuất bản, 1960, trang 100).
Sau này tôi được biết nhiều hơn về nhóm Nhân Văn Giai Phẩm qua những tài liệu tôi đọc rải rác trên các tạp chí. Tuy nhiên chỉ mới gần đây tôi mới hiểu rõ hơn về "vụ án" NDGP qua tiết lộ của những nhân chứng sống như Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Ðang trong các buổi phỏng vấn dành cho đài phát thanh RFI Thụy Khuê phụ trách. Tôi cũng được biết là vào tháng 2 năm ngoái có bốn tác giả của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm là Hoàng Cầm, Lê Ðạt, Phùng Quán và Trần Dần được nhận Giải Thưởng Nhà Nước. Trong số 4 người này thì hai vị đã nằm xuống là Trần Dần và Phùng Quán.
Cá nhân tôi không có một ngày sống dưới chế độ cộng sản. Ngay từ nhỏ cho đến nay tôi quen sống và hít thở môi trường tự do, trong đó có tự do ngôn luận. Khi viết những bài đăng trên báo chí ở Sài Gòn trước đây hơn 40 năm tôi không hề bao giờ có ý nghĩ là mình phải uốn nắn ngòi bút. Chữ "viết" đối với tôi không bao giờ đi kèm với chữ "lách", như tất cả các nhà văn sống dưới chế độ cộng sản buộc phải làm, để có thể tồn tại và sống còn.
Vì quen hít thở bầu khí tự do, xem tự do ngôn luận như một quyền đương nhiên, tôi rất ngạc nhiên khi biết trong vụ Nhân Dân Giai Phẩm, những thành viên của nhóm phải chịu những hậu quả hết sức nặng nề chỉ vì những người ấy đã hành xử cái quyền mà tôi xem là "đương nhiên" ấy. Mấy chục năm trước tôi nghe nói là truyện Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh đăng trong báo Nhân Văn số 4, tháng 10 năm 1956, đã đưa tác giả Phùng Cung vào cuộc sống tù đầy hơn 12 năm, phần lớn là biệt giam hoặc lao động khổ sai trong các trại tù khét tiếng độc ác của Việt Nam. Vì chưa bao giờ tôi được đọc nguyên tác truyện ấy, nên trong bao năm tôi cứ đinh ninh Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh phải là truyện tố cáo nhà nước ghê gớm lắm. Mãi gần đây tình cờ đọc truyện ấy đăng trong quyển sách Phùng Cung, truyện và thơ, Văn nghệ xuất bản 2003, tôi ngạc nhiên thực sự: truyện ấy "hiền" chết đi được, đâu có gì đáng phải tù tội những 12 năm? Truyện này nếu đăng ở miền Nam vào lúc chế độ kiểm duyệt gắt gao nhất thì chắc đã không bị đục bỏ lấy một dòng chứ đừng nói gì đến chuyện tác giả bị làm khó dễ, tù tội.
LQM: Trước khi chấm dứt mạn đàm, ông có điều gì gởi đến quí độc giả?
NTT: Trước hết tôi xin cảm ơn chị Lê Quỳnh Mai đã cho tôi cơ hội trả lời cuộc phỏng vấn này, để tôi có dịp giãi bầy một số ý kiến cũng như tâm tình về những vấn đề có liên quan đến ông cụ cũng như cá nhân tôi. Vâng, tôi xin được nói thêm đôi lời với quý độc giả, đôi lời chân tình, về ông cụ tôi, nhà văn Nhất Linh, người mà với tôi không phải chỉ đơn thuần là một người cha.
Ông cụ tôi có lần than thở với một người bạn của ông: "Thân này ví xẻ làm BA được..." – "Ấy, người ta nói xẻ làm đôi, chứ ai nói xẻ làm ba bao giờ?". Người bạn hỏi thế. Cha tôi trả lời: "Ước gì NHẤT biến thành TAM!".
Câu nói đùa đó của cha tôi khiến tôi suy nghĩ. Có thật chăng cha tôi mong ước thế, "Nhất biến thành Tam", hay đó chỉ là một cách nói chơi chữ? Ðành rằng nếu con người cách mạng Nguyễn Tường Tam rũ bỏ được con người nghệ sĩ Nhất Linh trong ông, thì hẳn là sự nghiệp chính trị của cha tôi có nhiều cơ may thành công hơn. Nhưng tôi không tin cha tôi thực tâm mong thế. Tôi tin rằng con người ông nặng Nhất hơn Tam. Những gì ông hãnh diện nhất là thành quả mà con người Nhất Linh trong ông đạt được. "Những lúc ngoảnh về quá khứ, kiểm điểm công việc mình đã làm tôi thấy rõ ràng công việc tốt đẹp, lâu bền và có ích nhất của đời tôi là sự thành lập được Tự Lực Văn Ðoàn và công việc sáng tác" (Chúc thư văn học, mồng 1 Tết năm Quý Tỵ 14-2-53).
Vậy thì đối với tôi câu than "Thân này ví xẻ làm ba được" có ý nghĩa hơn. Nhưng con người thứ ba mà ông mong ước, ngoài "người nghệ sĩ, người chiến sĩ", là con người như thế nào? Câu hỏi này tôi thắc mắc trong nhiều năm.
Tôi đã nói ở phần trước cái chết của ông cụ tôi ám ảnh tôi nhiều, để lại trong tôi một sự ân hận nuối tiếc khôn nguôi. Cho mãi đến gần đây, năm 2001, khi chúng tôi đưa tro của song thân về chôn cất trong nghĩa trang riêng của dòng họ Nguyễn Tường ở Hội An, tôi mới thực sự tìm được an bình khi tôi tìm được câu trả lời cho thắc mắc của tôi.
Buổi trưa hôm đó sau khi chôn cất xong, vì trời nóng chói chang mọi người tản ra tìm bóng cây rợp, riêng tôi còn nán lại gần ngôi mộ mới đắp. Tôi suy nghĩ về toàn thể cuộc đời ông. Từ hồi ông có bài thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn năm ông mới 16 tuổi, cho đến ngày ông mất năm ông 57 tuổi. Ông đã sống một đời lỗi lạc, làm được quá nhiều việc trong một đời ngắn ngủi. Một người bận rộn như thế, nổi tiếng như thế, thì làm gì có được một cuộc sống thanh thản, bình dị, như cuộc đời nơi mỗi chúng ta? Rồi tôi ngộ ra rằng chính cái đời bình dị tầm thường đó là đời thứ ba ông mơ ước mà không có được. Và tôi, phải, chính tôi, đã thay ông cụ tôi, sống cuộc đời đó. Ông cụ, ở dưới sâu kia, qua tôi, chắc phải toại nguyện. Ý nghĩ này đã đem an bình cho tôi rất nhiều.
Tôi xin được thay mặt gia đình chuyển lời cảm ơn hết sức chân thành đến tất cả những người cầm bút đã viết về cha tôi cũng như tất cả những độc giả đã yêu mến văn chương ông. Tôi tin rằng sự nghiệp của cha tôi sẽ trường tồn không phải đơn thuần nhờ vào văn tài của ông mà còn nhờ vào sự ngưỡng mộ và quý trọng về cả con người, cuộc đời và cái chết của ông nữa.

____________

Hình bóng

Trên lối đi trải đá người đàn ông dắt chiếc xe đạp cũ. Bên cạnh là một người đàn bà trẻ, da mặt căng và ửng hồng như quả mận trại Hầm. Hai người chậm chạp đi trên con đường dốc về phía căn biệt thự bỏ hoang. Chót cao một cây thông lớn, ngang tầm với mái nhà là Ngoạn Mục Đài, thế giới tuổi thơ tôi. Tôi cầm súng cao su ngồi vắt vẻo giữa hai thanh ván đóng vào trạc ba của nhánh thông. Từ tầm cao tôi nhìn qua mái nhà về phía tít xa trên lưng chừng một ngọn đồi đối diện là đường Trần Hưng Đạo có dinh cơ Bảo Đại mái ngói đỏ trên nền xanh của rừng thông. Tiếng kèn của cha tôi từ trong nhà vẳng ra lẫn vào tiếng bước lạo xạo của hai người phía dưới gốc thông trên con đường đá sỏi.
Đêm trăng vằng vặc. Từ cửa kính bể nát của căn nhà hoang chúng tôi nhìn xuống triền đồi thông. Ánh trăng lẫn trong sương như một dải sữa loãng. Cha tôi chĩa kèn ra ngoài cửa kính, phóng tiếng kèn sâu vào không gian tĩnh lặng của núi rừng Đà Lạt.
Tôi bước rón rén trên mặt sàn gỗ. Ở nhà dưới tiếng dấp nước bỗng ngưng bặt. Tôi linh cảm từ dưới nhà có đôi mắt nhìn lên. Khe khẽ tôi nằm bò xuống sàn, dán mắt vào khe ván. Qua một kẽ hở rất nhỏ tôi bắt gặp đôi mắt chị Dự ngước nhìn lên trần nhà. Đôi mắt to của chị. Đôi mắt ánh lên tia sợ hãi. Măc dù chỉ nhìn thấy gương mặt chị tôi biết ngay là chị Dự đang tắm. Quả tim tôi đập dữ dội trong lồng ngực. Tôi trườn qua một khe ván khác. Nhìn xuống...
... và tỉnh dậy. Tôi chui ra khỏi giấc mơ. Đúng vào cái lúc tôi cần đến giấc mơ nhất.
Giấc mơ đưa tôi về thuở năm tôi mười sáu. Về Đà Lạt. Về mùa hạ của năm 1957.
Mỉm cười trong bóng tối tôi nghĩ đến “hôm ấy”.
Sau “hôm ấy” tôi nhìn chị Dự bằng con mắt khác. Gần gũi hơn. Rạo rực hơn. Tôi không còn chú ý đến khuôn mặt và nước da rám căng như quả mận của chị nữa. Mỗi lần chị theo anh Dự đi qua nhà tôi tầm mắt của tôi đã hạ xuống một chút xíu. Chị Dự mặc chiếc áo len màu rất đậm nhìn từ xa tôi không biết đó là màu xanh hay đen. Hai cánh áo len không bao giờ khép kín hẳn phía trước ngực nơi bầu vú của chị chỉ hơi phồng căng. Và bao giờ cũng vậy ở trong mắt tôi nơi chỗ phồng đó là một hình ảnh sống động khác của chị. Sau cái “hôm ấy” tôi có cảm tưởng chị đã biết hết mọi chuyện, chị thấu suốt ngay cả cái cách nhìn của tôi với chị và cả cái lòng rạo rực ở trong tôi nữa.
Cha tôi dọn đến ở đó trước cái “hôm ấy” cỡ chừng một tháng. Tôi có cả một mùa nghỉ hè rộng trước mặt để đi khám pha vùng đất mới mới đầy hấp dẫn. Đầu mùa hè năm ấy tôi vừa học xong lớp Đệ Lục của một trường trung học công lập Đà Lạt. Căn nhà mới của chúng tôi nằm trên một đồi thông của đèo Prenn trên quốc lộ nối liền Sài Gòn - Đà Lạt. Ở đỉnh đèo ngay đầu đường Nguyễn Tri Phương dẫn vào trung tâm thị xã xe đò phải dừng lại trước một trạm kiểm soát. Sau cái trạm chừng vài trăm mét nơi một khúc đường cong lên dốc, cạnh căn nhà mang số 17 là một con đường nhỏ, cụt, trải sỏi có tên Đặng Thái Thân dẫn vào căn nhà mới của chúng tôi. Đó là một biệt thự khang trang duy nhất còn đứng vững trong một khu vực toàn những căn nhà bỏ hoang xây cất từ thời Pháp thuộc. Chủ nhân là những người Tây đã bỏ về nước từ nhiều năm trước đó, để lại những căn biệt thự hoang tàn ẩn hiện trong rừng thông. Trong ký ức thời niên thiếu của tôi toàn vùng này in dấu một vẻ đẹp vừa hoang dã lại vừa sang cả. Nhà chúng tôi ở là một căn nằm một mình trước một ngã ba. Tiếp tục đường sỏi lên dốc chừng vài trăm mét là một căn nhà bỏ hoang mà tôi đặt tên là Đỉnh Gió Hú. Đứng trên đỉnh đồi Gió-Hú nhìn xuống tứ phía là thung lũng thông xanh ngút ngàn. Ở ngã ba có một con đường đất đi sâu xuống thung lũng. Một bữa xách súng cao su mạo hiểm vào con đường mòn này tôi khám phá một thế giới nằm chìm khuất trong rừng thông là khoảng gần chục căn biệt thự bỏ hoang. Phía bên kia con đường sỏi đối diện căn nhà đá đơn độc của chúng tôi là một dẫy khoảng hai chục căn nhà tôn. Chính từ những căn nhà tôn lụp xụp ấy mà sự sống đã toát ra cho cả một vùng. Mỗi buổi chiều, trước màn đêm buông, khi làn sương tỏa lan núi đồi thì ở đó và từ đó xôn xao tiếng người gọi nhau, cả tiếng cãi vã. Trong mùi khói bếp thoảng qua không gian có lẫn cả mùi xào nấu. Cái sinh hoạt đời thường ấy từ những căn nhà tôn dóng sức sống vào căn nhà đá chúng tôi, trong đó thường là vắng lặng. Suốt mùa hè căn nhà rộng chỉ có ba cha con. Bố tôi, chị tôi và tôi. Ba cái bóng. Mẹ tôi và các anh tôi trong thời gian này sống ở Sài Gòn, thảng hoặc mới đùn đùn kéo lên mang theo cái bầu không khí sinh động náo nhiệt của đô thành.
Một tuần lễ sau ngày chúng tôi dọn đến đó ở thì tôi “dọn nhà” thêm một lần nữa, lần này chỉ độc mình tôi. Nói dọn nhà cho to chuyện chứ đồ đạc mang theo chỉ có độc một cuốn vở học trò. Tôi dọn đến ở Đỉnh Gió Hú, nơi có mối tình đầu của tôi. Tôi mê căn nhà hoang này ngay trong phút đầu gặp gỡ. Căn nhà hoang trên đỉnh đồi lúc đó chưa có tên gọi. Mãi sau một hôm tôi tình cờ đọc bản thảo của cha tôi dịch cuốn truyện của Emily Bronte thì căn nhà mới có tên Đỉnh Gió Hú. Đó là một cái nhà gỗ to lớn hai từng. Cả trên dưới dễ có đến trên 10 phòng. Phòng khách rất rộng, ba mặt kính, ở trên lầu chìa hẳn ra ngoài vực sâu. Từ ba mặt kính đã vỡ gần hết của căn nhà hoang nhìn ra là toàn cảnh núi đồi thông xanh trùng điệp của cao nguyên Langbian. Tôi chọn một căn bé nhất ở trên gác đã có sẵn một cái bàn gỗ cũ kỹ nhưng còn đứng vững làm giang sơn mới của mình. Tôi bê một khúc thân cây thông về làm ghế. Thế là tôi có một chỗ lý tưởng để “viết”. Ý tôi muốn nói viết văn. Chính ở trên cái bàn đó đã đẻ ra dòng văn đầu tiên của một “văn hào” là tôi. Nhưng giấc mộng văn chương tiêu tan rất nhanh khi tôi thấy tác phẩm đầu tay của mình không thể kéo dài hơn đúng một hàng chữ. Con đường nuốt tôi vào ruột một thế giới bí mật và kỳ quái... Tôi rất hài lòng với cái động từ “nuốt” nhưng hai tĩnh từ “bí mật” và “kỳ quái” thì tôi cứ sửa tới sửa lui đến cả trăm lần mà vẫn không vừa ý... Chả là hồi ấy tôi quan niệm đã là văn hào thì câu văn đầu tiên phải tuyệt hảo ngay. Rốt cuộc sau một tuần lễ thấy mình có cố lắm thì dòng văn cũng không thể kéo dài hơn một khúc kẹo kéo, tôi quyết định gác bút. Lễ giải nghệ nghề văn của tôi có con mèo mun chứng kiến. Con mèo hoang đen sì không biết từ đâu lâu lâu xuất hiện lặng lẽ bên tôi như một bóng ma. Vào những lúc bất ngờ nhất cái tiếng “meo” của nó thường làm tôi giật nẩy mình. Nói đến ma tôi lại phải nói thêm là tôi chỉ dọn đến ở Đỉnh Gió Hú ban ngày thôi. Ban đêm có các tiền tôi cũng không dám ở lại. Ngay cả ban ngày ban mặt mà mỗi lần một mình bước đi trên sàn gỗ ọp ẹp tôi còn rờn rợn như ở đằng sau gáy có cả trăm con mắt của hồn ma từ các ngóc ngách theo dõi tôi. Những con mắt xanh lè của những ông tây bà đầm... Tôi đếm kỹ Đỉnh Gió Hú có tất cả 11 buồng to nhỏ khác nhau và có đến bốn cái phòng tắm. Những bồn tắm men, những rô-bi-nê đồng, những vòi hoa sen, tất cả đã cũ nát han rỉ, nhưng cũng đủ gợi trong trí tôi ở cái tuổi mới lớn những con ma thân hình lồ lộ và đẫm ướt của các bà đầm đã một thời nằm nhễ nhại trong cái bồn đài các ấy. Một sự tưởng tượng gợi dục và rất kinh hãi.
Thế mà... mùa hạ năm ấy có hai người lại dám ngủ nhiều đêm trong Đỉnh Gió Hú. Hai kẻ không nhà không cửa đã tìm đến căn nhà hoang làm nơi trú ngụ. Nhưng họ có nề hà gì ở nơi thiếu tiện nghi và đầy bóng ma như Gió Hú. Bởi vì họ là hai kẻ yêu nhau. Trong trí tưởng của tôi họ là hai kẻ yêu nhau trong truyện Gió Hú đúng hai thế kỷ sau đầu thai vào anh chị Dự. Tông tích của hai người này thật là mù mờ. Hai người đến ở Đỉnh Gió Hú và lặng lẽ ra khỏi đó ba tuần lễ sau như hai hình bóng. Mãi mãi sau này tôi nghe đồn trong thành phố Đà Lạt vào thủa ấy có một cô nữ sinh đã bỏ nhà ra đi theo một vị thầy giáo lớn hơn cô gần hai mươi tuổi. Người ta còn đồn (chuyện này thì tôi cho là thất thiệt) là cô gái sau này tự tử ở thác Pongour. Hỏi ra thì vị thầy đó mang một tên khác, nhất định không phải tên Dự. Điều này càng khiến tôi hoang mang.
Trước khi Đỉnh Gió Hú của tôi bị xâm phạm bởi hai tay vô gia cư thì một đêm trăng rằm tôi thuyết phục được bố tôi mạo hiểm đi thăm căn nhà mới của tôi. Phải có hai người tôi mới dám đặt chân tới đó ban đêm. Hồi đó tôi đang thụ huấn bố tôi học thổi kèn clarinet. Cha tôi nói chơi kèn để thổi đúng nốt nhạc thì dễ. Luyện cho tiếng kèn hay mới khó. Theo ông tiếng kèn điêu luyện thì phải “tròn” và “đanh”. Người mới tập, tiếng kèn nó bè bè, nghe biết ngay (ý ông cụ muốn phê bình tôi một cách kín đáo). Thú thật là tôi học mau chán. Thổi kèn được một chặp thì cái môi dưới của tôi nó rất mỏi. Khi đã mỏi rồi thì cái hơi tôi thổi nhất định không chịu chui vào trong kèn, nó cứ theo đường mép mà phì ra ngoài, phì lẫn cả nước bọt, trông thật tởm. Đúng là số kiếp tôi cũng cố tập tành theo con đường nghệ sĩ của ông cụ chứ không phải là không thử. Tôi xách kèn clarinet dẫn cha tôi đến Đỉnh Gió Hú. Con đường trải đá dài vài trăm mét dẫn đến căn nhà hoang dưới ánh trăng bóng lá thông loáng thoáng dưới đường trông rất huyền ảo. Hai người yên lặng đi trên đường. Cha tôi không biết lúc ấy óc tôi đang làm việc lung lắm. Chả là vào thời điểm đó tôi vẫn còn là văn hào. Con đường (con đường đang đi này) nuốt tôi vào ruột một thế giới bí mật và kỳ quái...Trí tôi đang chộn rộn lựa chọn giữa những tĩnh từ... Đêm đó cha tôi rất có ấn tượng với căn nhà mới của tôi, cả cái tên gọi của nó nữa (mà tôi cứ lờ đi như thể chính tôi nghĩ ra). Lúc hai bố con đứng ở trong nhà kính của Đỉnh Gió Hú ông giựt lấy cây kèn clarinet trong tay tôi. Ánh trăng vằng vặc chiếu qua cửa kính tỏa sáng gian phòng rộng nơi sàn gỗ quay cuồng những hình bóng ma. Hình bóng những ông tây bà đầm từng cặp từng cặp nhún người theo điệu nhạc luân vũ và tiếng clarinet vui tươi của bố tôi trong bản Dòng Sông Xanh cất lên. Những cô em tươi môi... Ngồi giặt yếm ven sông... Đời là khúc nhạc... Đời là tiếng thơ... Căn phòng sáng rực lên. Từ những chùm đèn pha lê trên trần cao ánh sáng lộng lẫy soi những chiếc váy lướt đi sột soạt. Ôi ! Tóc em hoe như mây chiều... Rơi... Rơi...Vào lòng người... Ôi ! Mắt em xanh như đêm dài... Để... Người... Quên kiếp mai... Vẫn điệu valse quay cuồng Les beaux Jours nối tiếp theo Le Beau Danube Bleu. Tiếng kèn vẫn tươi thắm. Les beaux jours sont si courts... Amoureusement... Gardemoi... Près de toi... Tendrement... Dans tes yeux si profonds... Si pleins de douceur... Je lirai... Tout aufond... Mon bonheur... Rồi tiếng kèn trầm xuống, lặng đi. Ông thổi cho một đám cưới vô hình. Ánh đèn pha lê tắt lịm. Ánh trăng tràn vào. I went to your wedding... Although I was dreading... The thought of losing you... The organ was playing... My poor heart kept saying: your dreams you dream are true... Rồi qua mảnh kính vỡ của căn nhà hoang bố tôi thò cây clarinet ra phía ngoài phóng sâu vào không gian tĩnh lặng của Đà Lạt những tiếng kèn đanh thép và tha thiết. You came down the aisle... wearing a smile... a vision of loveliness... The tears drop were falling... Because we were losing you... Từ rất xa đưa về. Nghe như tiếng đáp lại của núi rừng... Because we were losing you...
Ở Đỉnh Gió Hú được một tuần thì một buổi chiều từ trên Ngoạn Mục Đài tôi thấy hai người đi ngang qua nhà tôi. Người đàn ông đứng tuổi đạp xe đạp đèo một người đàn bà trẻ. Đến gần nhà tôi, chỗ đường bắt đầu lên dốc và có trải nhiều đá sỏi, cả hai xuống xe. Người đàn ông dắt chiếc xe đạp. Hai người đi bộ lên con đường dốc. Chờ đến tối mịt tôi cũng không thấy họ trở ra. Như vậy là hai người phải ngủ qua đêm ở Đỉnh Gió Hú. Không thể khác. Đặng Thái Thân là con đường cụt và căn nhà hoang đó ở cuối đường. Sáng sau đến Đỉnh Gió Hú tôi điều tra xem có dấu tích của hai người ngủ ở đó không. Lần này tôi xông vào hết tất cả các phòng, mở toang hết ngăn tủ. Tôi tìm được một bọc vải rất lớn trong một closet thuộc một căn buồng tươm tất nhất nhưng trước đây tôi không chọn chỉ vì nó rộng quá. Khi xuống nhà, ngay dưới nhà kính lại có một cái thùng nước dấu sau cầu thang. Bên cạnh có hai khăn mặt và một cục xà-phòng. Như vậy là quá rõ ràng. Ban ngày Đỉnh Gió Hú thuộc về tôi. Ban đêm nó thuộc về hai người lạ.
Cho đến “hôm ấy”.
Trời ấm áp và có nắng to. Tôi đến Đỉnh Gió Hú vào lúc giữa trưa. Bình thường tôi đi thẳng cửa trước lên cầu thang gỗ để vào nhà kính. Nhưng tôi khựng lại vì thấy một cái xe đạp gác ở cầu thang. Tôi đã tính quay về nhưng nghĩ sao tôi lại đi vòng phía sau. Tim tôi đập mạnh vì tôi vừa có ý nghĩ là sẽ lén lút quan sát hai người lạ xem họ làm cái trò trống gì trong Đỉnh Gió Hú “của tôi”. Vì căn nhà xây trên sườn gần đỉnh đồi nên dù là hai từng một số phòng trên ở phía sau có thể vào thẳng không cần cầu thang. Tôi trèo cửa kính vỡ vào trong cái phòng nhỏ của tôi. Tôi đi rất chậm rãi và rón rén trên sàn gỗ. Nhà bỏ hoang đã lâu lớp vec-ni bong hết, trơ những thanh ván mục, nhiều chỗ lộ những khe hở, ở những chỗ hở lớn tôi có thể nhìn xuyên qua sàn xuống từng dưới. Bước một bước tôi lại dừng lại nghe ngóng. Căn nhà tuyệt nhiên không một tiếng động. Cho đến lúc tôi bước đến gần nhà kính thì có tiếng va chạm khẽ vào cái thùng nước ở từng dưới chân. Rồi có tiếng dấp nước nhè nhẹ. Tôi dón rén bước. Tiếng dấp nước ngừng. Đứng y một vị trí rất lâu tôi nghe tiếng dấp nước trở lại. Nhưng hễ tôi cất bước thì tiếng nước lại im. Và lần này im lâu lắm. Bỗng nhiên tôi có linh cảm từ dưới nhà có đôi mắt nhìn lên. Tôi khẽ nằm bò xuống dán mắt vào khe ván. Qua một kẽ hở rất nhỏ là một vẹt sáng mỏng chữ nhật cắt xéo cặp mắt của người đàn bà trẻ mở to ngước nhìn trần nhà. Đôi mắt ánh lên một tia sợ hãi. Tôi biết ngay là người đàn bà đang tắm! Quả tim tôi đập dữ dội trong lồng ngực. Tôi trườn qua một khe ván khác nhìn xuống. Qua khe này vẹt sáng chữ nhật nở rộng thêm chiều ngang cắt xéo một bầu vú trắng nọt nà ướt nước. Dướn thêm một khe ván vẹt sáng lại đi quá đà, cắt ngang cặp đùi người đàn bà với chiếc quần lĩnh đen ướt nhẹp dính chặt vào làn da. Đúng lúc ấy ở phía sau tôi có tiếng một con mèo nhẩy xuống sàn và kêu rên một tiếng khẽ. Tôi trở lùi lại khe ván trước và bắt gặp đôi mắt của người đàn bà dịu hẳn xuống.
Mấy bữa sau một buổi sáng tôi chạm trán với chị Dự lần đầu. Câu nói đầu tiên của chị là một lời trách: “Sao em ác thế?”. Chị đặt con chim vào lòng bàn tay của chị. Bàn tay kia chị vuốt khẽ lưng con chim và ru nó vào cõi chết. Con chim nằm nghẹo đầu. Một giọt máu từ trong mỏ vấy vào lòng bàn tay. Năm ấy tôi đã bắn hạ không biết bao nhiêu con chim ở xung quanh nhà. Nhưng đây là lần đầu tôi chứng kiến một con chim dẫy chết. Bình thường hạ xong một con là trò chơi của tôi chấm dứt. Tôi không hề quan tâm đến số phận của nó. Con chim này bị trúng đạn mà không chết ngay. Bị thương nó đâm vào cửa kính của Đỉnh Gió Hú và rớt xuống chân chị Dự. Hôm đó lần đầu tiên tôi ý thức về sự độc ác và hơi hối hận. Nhưng tôi không thú nhận điều này với chị Dự. Kể từ hôm đó tôi được làm bạn với chị nhưng với một điều kiện là tôi không được bắn chim nữa. Chị hỏi tên tôi rồi chị nói: “Em kêu chị là Dự. Dự là tên của ảnh”. Rồi chị Dự nói tiếp: “Bữa nào em lại chơi buổi tối gặp ảnh”. Tôi gật. Sau bữa gặp chị tôi lén trở lại Đỉnh Gió Hú. Tôi đi ngã sau trèo vào căn phòng nhỏ qua cửa sổ kính vỡ. Tôi mở ngăn kéo lấy hết tập bản thảo của tôi mang về nhà. Nói là bản thảo cho oai chứ thật ra chỉ là cuốn vở học trò chứa toàn giấy trắng, có đúng một hàng chữ thì lại sửa chữa lung tung. Tôi dấu không cho anh chị Dự biết tôi là nhà văn. Lúc trèo qua cửa sổ tôi nhớ tới cái “hôm ấy”. Lạ nhỉ? Trong lần gặp mới đây tuyệt nhiên chị không tỏ một vẻ gì khác lạ, nhưng sao tôi vẫn có cảm tưởng như là chị đã biết tỏng tôi nhìn trộm chị tắm.
Mấy hôm sau cơm chiều xong thì trời choạng tối. Tôi đến Đỉnh Gió Hú. Anh chị Dự đang ăn cơm ở trong bếp. Bếp ở từng dưới, cạnh cái cầu thang lên nhà kính và cũng là cái chỗ tắm của chị Dự. Dưới hai ngọn đèn dầu tù mù tôi nhìn bữa ăn thanh đạm của dân vô gia cư. Bàn ăn là ba cái khúc thân cây. Ở trên để ba cái nồi nhỏ, nồi cơm, nồi canh và nồi... chắc là cá kho. Anh chị Dự ngồi trên hai thành cửa sổ cầm bát lùa cơm vào miệng, lâu lâu lại rời cửa sổ đến chỗ khúc cây gắp một miếng cá bỏ bát. Anh Dự hình như lớn tuổi hơn chị Dự nhiều. Dưới ánh đèn dầu gương mặt anh trông khắc khổ nhưng ngay lập tức được cái miệng cười thật tươi của anh xóa đi. Cái cười thật dễ mến khi anh nói chuyện. Anh hỏi chuyện học hành của tôi. Anh có vẻ biết rất nhiều. Ví dụ như anh nói tới những vị thầy giáo của tôi một cách thân ái như thể anh đã quen biết rõ họ, đến độ, nếu không vì chị Dự còn quá trẻ, tôi đã gọi anh Dự bằng thầy. Anh lại còn như có vẻ biết cả cha tôi nữa. Anh cứ hỏi tôi cái ông thổi kèn trong căn nhà đá có phải là cha tôi không. Còn tôi, tôi chỉ trả lời anh ậm ừ. Tôi bận nhìn chị Dự. Tối hôm đó chị không nói một lời nhưng qua ánh mắt chị tôi biết chị theo dõi câu chuyện. Tôi mê đôi mắt của chị từ đó. Ở trong con mắt của chị, từ trong lòng con ngươi, phản chiếu ánh ngọn đèn dầu, thỉnh thoảng lóe lên một tia vui có ngầm một vẻ gì rất trẻ thơ và nghịch ngợm. Tôi nhìn xuống đôi má ửng hồng của chị như hai quả mận chín căng, nhìn cái cổ trắng ngần, nhìn hai cánh áo len khép trước ngực chị, nhìn cái ngực phẳng lì ấy và tôi không thể nào hình dung tại sao ở ngay chỗ đó lại có bầu vú căng cứng nó lồ lộ ra trước mắt tôi mấy hôm trước.
Ăn xong, trong lúc chị Dự dọn dẹp ở dưới nhà, anh Dự cầm một ngọn đèn dầu, rủ tôi lên gác. Vào nhà kính, anh đặt ngọn đèn dầu trên một bệ gỗ, móc túi lấy ra bao thuốc lá, dí điếu thuốc vào thông đèn châm hút rồi đứng cạnh cửa kính vỡ, thở khói ra ngoài. Đêm đó trời nhiều sao. Không nhớ bắt đầu bằng chuyện gì, tôi chỉ biết là qua những vì sao trên trời anh giải thích tôi nghe về thiên văn học, một đề tài hoàn toàn mới mẻ với tôi. Anh giải thích về sự vô tận của vũ trụ, về thuyết tương đối, tôi không thể nào nhớ hết được. Nhưng có một chuyện tôi nhớ. Trong lúc nói về ý niệm của thời gian, anh bảo là ngay trong lúc này, trong lúc anh và tôi đang nói chuyện đây, rất có thể là hàng triệu năm đã trôi qua mà cả hai người đều không hay biết. Anh giải thích tôi nghe lý thuyết “vũ trụ ngưng đọng” của anh. “Đây này!” – Anh nói – “Khi anh đưa cánh tay thế này này... thì đột nhiên vũ trụ ngưng đọng... anh đứng im, bất động, em cũng bất động, vạn vật đều bất động, gió ngừng bay...mây ngừng trôi... cho đến một triệu năm sau hay hơn nữa, vụ trụ hết ngưng đọng, lúc ấy cánh tay anh lại tiếp tục vươn ra, thế gian không một ai biết là một triệu năm đã qua mà cứ tưởng như là một chớp mắt...”. Câu chuyện của anh Dự đã đi vào giấc ngủ của tôi đêm hôm đó. Tôi mơ thấy một vũ trụ ngưng đọng. Chỉ khác là trong lúc tất cả nhân loại đều ngủ hết, chỉ có một mình tôi thức. Đi lang thang trong cái thế giới bất động ấy tôi đã làm nhiều điều bất chính. Chẳng hạn như tôi đã cởi áo quần của chị Dự... Tôi còn làm nhiều chuyện xằng bậy hơn nữa. Vào trường học tôi tụt quần những ông giáo tôi cho là hắc ám giữa lúc ông đang giảng bài và khoái chí tưởng tượng một triệu năm sau, nghĩa là chỉ một chớp mắt sau... vũ trụ thức dậy... Tỉnh dậy. Tôi vụt thấy đôi mắt của chị Dự tối hôm trước, tia mắt chứa đầy một niềm vui tinh nghịch như thể chị đã đọc suốt được giấc mơ của tôi. Từ đó trở đi tôi mê say thiên văn học. Nó quả có kích thích trí tưởng tượng của tôi.
Những ngày diễm ảo ngắn ngủi của tôi là những ngày cuối cùng của mùa hạ năm đó. Liên tiếp trong mấy hôm chúng tôi dắt tay nhau vượt qua nhiều ngọn đồi của Đà Lạt đi thám hiểm một vùng rộng lớn của đèo Prenn. Chị Dự nói với tôi anh Dự đi dậy học tư, chiều tối anh mới về. Còn chị nghỉ hè, giống như tôi. Chị thuộc thế giới Đệ Nhị Cấp. Tôi nhìn những người lớn học Đệ Nhị Cấp như một thế giới xa cách. Có lần hai đứa tôi đi bộ dọc theo đèo Prenn đến cây số bốn thăm thác nước Datala. Đi xuôi dòng suối thác tôi chỉ cho chị Dự một cái vực sâu trông rất ghê hồn. Cái vực này nằm giữa hai vách đá dựng đứng và sâu thăm thẳm.
Ngày đi chơi sau cùng với chị Dự mới thật là một ngày đáng nhớ nhất. Sáng hôm đó tôi rủ chị Dự đi thám hiểm con đường mòn ở cạnh nhà tôi, con đường mà hồi mới dọn tới tôi đã đi bắn chim và khám phá nhiều căn nhà hoang. Thấy chị có vẻ không phấn khởi, tôi bịa: “Mấy căn nhà đó có nhiều ma lắm! Chính mắt em trông thấy...”. Tôi thấy mắt chị sáng lên: “Thế hả? Thế thì phải đi xem...”. Đến trước nhà tôi, tôi bảo chị Dự chờ tôi một phút. Tôi chạy vội vào nhà tìm khẩu súng cao su đút túi. Tôi thấy mình cần có vũ khí để bảo vệ chị Dự chống lại những con ma vô hình trong trí tưởng tôi. Nhưng tôi không nói cho chị biết vì tôi đã hứa với chị không bắn chim. Lúc hai người đi vào đường mòn, chị Dự hỏi tôi: “Cái ông già trồng hoa ở trước nhà em có phải là ba của em không?”. Tôi nói ừ. Chị bảo:
“Anh Dự nói ba của em là ông Nhất Linh”
“Nhất Linh nào?”
“Nhất Linh Tự Lực Văn Đoàn đó! Em không biết à?”
“Em biết sơ sơ thôi...”
“Khi nào em lên lớp Đệ Nhị học Tự Lực Văn Đoàn em sẽ biết...”.
Chúng tôi theo một con đường mòn xuống một triền dốc sâu đi khoảng chừng gần cây số tới một khúc suối thì đến khu vực có khoảng mười căn biệt thự. Lần này, chắc là vì có chị Dự bên cạnh, khung cảnh hiện trước mắt tôi đột nhiên khoác một vẻ khác hẳn. Những căn nhà trước đây trông ma quái và hoang dã nay như tươi mới, lại nhiễm một vẻ đẹp thật là diễm ảo. Chị Dự nắm lấy tay tôi và hình như chị cũng đang ngây người ngắm cái thế giới mới: những căn biệt thự tráng lệ nằm chìm khuất trong rừng sâu. Trí tôi lúc ấy lóe lên một khung cảnh êm đềm. Hai cha con tôi dắt tay nhau đi lên con đường dốc Yagut. Chúng tôi rẽ trái vào đường Trần Bình Trọng qua sân của một trường tiểu học đến một khu vực gồm toàn những căn nhà diễm lệ và sang trọng nhất của thành phố Đà Lạt, khu Bellevue. Con đường chúng tôi đi vòng vo nhiều từng trên đó là hàng chục những ngôi biệt thự kiến trúc không căn nào giống căn nào nằm cao thấp trên một triền đồi thông. Cha tôi bảo tôi mỗi lần đi vào khu vực này ông như sống lại những ngày xưa cũ ở một cái làng nhỏ bên Pháp. Ông còn bảo tôi thử lựa một căn mà tôi thích nhất. Tôi chỉ một căn biệt thự sơn màu trắng, ba từng, phía trước có vườn hoa rất đẹp. Ông nhìn một căn nhà nằm ẩn dưới hàng cây và nói với tôi ông chỉ thích những căn nhà một từng.
“Chạy! Chạy!”.
Chị Dự bỗng nắm chặt lấy tay tôi kêu to. Rồi vùng một cái chị kéo mạnh tay tôi chạy ngược lại con đường mòn. Ở xa có tiếng “Gâu! Gâu!”. Từ một căn nhà hoang tôi thoáng thấy màu vàng của một con chó berger lớn vụt chạy ra. Tôi vùng lên chạy trước và đến lượt tôi kéo chị Dự. Chúng tôi chạy băng băng bất kể những bụi gai, những nhánh cây chĩa ra đường mòn. Ở đằng sau chúng tôi lẫn với tiếng chó sủa còn có tiếng quát tháo. Tiếng quát giọng ồm ồm nghe như từ miệng một ông Tây. Hai người chạy bạt mạng. Hồi lâu tiếng chó sủa nhỏ lần rồi mất hẳn. Chúng tôi chạy chậm dần rồi đến một thân cây thông đổ chắn ngang đường mòn chị Dự quỵ xuống lả người đi. Tôi cũng thở dốc ngồi tựa thân cây cạnh chị. Thật ra quãng đường chạy không dài lắm nhưng vì lên dốc nên hai đứa đều mệt nhoài. Chị Dự nhắm mắt lại đưa tay lên chặn ngực, chị thở hắt mấy cái, rồi bỗng chị mở to cả hai mắt ra, ngước mặt lên nhìn tôi, ánh mắt chị lại lóe lên một tia vui tinh quái. Chị nghe ngóng lồng ngực mình một lát rồi nói:
“Nghe nè... Tim nó đập dữ nè... Dữ nè...”.
Bất thần chị quay hẳn sang tôi chụp lấy bàn tay tôi đặt úp vào ngực chị:
“ Em thấy không... Nó đập nè...”.
Tôi rùng mình. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi tiếp xúc với phần thân thể thân mật nhất của một người đàn bà (thật ra thì chỉ đứng hàng thứ nhì thôi nhưng lúc đó trí óc tôi chỉ ngắn đến cái mức ấy). Qua làn vải chiếc áo cánh của chị tôi sờ thấy và cảm giác cái phồng lên mềm mại của bầu vú chị. Tôi không nghe thấy tiếng tim đập của chị như chị muốn tôi nghe thấy. Bên tai tôi tiếng dấp nước. Ánh nắng lọt qua khung cửa sổ chiếu sáng cái vai trần của chị. Đôi mắt chị dịu xuống theo với tiếng kêu của con mèo. Chị cúi xuống dấp khăn mặt vào thau nước chậm rãi lau hai bầu vú của chị, hai bầu vú trắng nõn và tròn cứng dưới ánh nắng. Rồi chị lấy một đầu ngón tay của mình rà xung quanh cái đầu nâu hồng của núm vú chị.
“Sao, em có nghe tim chị đập không?”.
Tôi nghe tiếng tôi lạc đi:
“Không nghe gì cả...”
“Đây nè...”.
Chị nói cùng lúc chị đè mạnh bàn tay chị trên lưng bàn tay tôi. Tự nhiên tay tôi bóp thêm và cảm nhận bầu vú chị Dự như cưỡng lại, nở ra. Chính giữa lòng bàn tay tôi cái đầu núm vú cứng của chị Dự đâm vào. Chị nhắm mắt lại và dướn người lên cao. Đôi môi tôi lướt qua má chị, mắt tôi sát gần trông rõ cả mấy đường gân đỏ trên má như vết nứt của một quả mận đã chín căng và hơi thở dồn của chị Dự phà lướt bên tai tôi.
Bỗng tôi buông tay khỏi ngực chị Dự. Tôi đứng lên nói:
“Em không sợ chó berger. Em đã có cách trị nó”.
Chị Dự mở mắt ra. Lặng yên một lát rồi chị nhướng mắt lên hỏi:
“Cách nào?”
“Cách này hay lắm. Chó to thế nào cũng trị được. Để em biểu diễn chị xem!”
Tôi rút giây lưng. Hai tay tôi cầm hai đầu thắt lưng căng ra. Tôi quỳ xuống chống chân trước chân sau:
“Đây này, mình phải căng cái thắt lưng trước mặt như thế này này. Con chó nào cao như con lúc nãy thì giây cũng phải đưa cao. Muốn cắn mình con chó phải ngoạm cái thắt lưng trước. Đúng lúc đó là mình phải hết sức bình sinh đá vào dưới cầm nó cho nó bật ngửa ra. Một cú là đủ chết nó rồi. Nhưng dùng cách này chị phải đi giầy. Đi chân đất hay đi guốc mà đá thì hỏng kiểu”.
Thấy chị Dự có vẻ khâm phục, tôi bèn rút súng cao su ra:
“Con nào một cú đá chưa tởn thì mình bồi thêm một phát súng nữa!”
“Ghê nhỉ! Nhưng chị không có thắt lưng. Chị lại đi guốc... Ờ nhưng mà... em có cả hai thứ vũ khí đó sao hồi nãy em không dùng?”.
Tôi không biết là chị Dự nói sỏ tôi nên tôi vẫn cứ nói cứng:
“Em cũng định thế đấy. Nhưng tại chị nhát quá. Chưa chi chị đã kéo em chạy trước...”.
Les beaux jours sont si courts...
Những ngày vui qua mau. Mấy ngày sau đó tôi bị một tai nạn phải nằm nhà thương. Tôi bị té xe đạp khi xe đổ dốc Lê Đại Hành gần đập Ông Đạo. Tỉnh dậy tôi thấy mình ở nhà thương có bố tôi bên cạnh. Cảnh binh đã đến nhà báo tin cho cha tôi hay. Ông vội vã đến nhà thương trên xe jeep của cảnh sát không kịp thay quần áo. Ông chỉ khoác vội cái áo choàng ra ngoài bộ pyjama. Tôi bị gẫy xương ở cổ tay trái phải nằm bệnh viện hai tuần. Cha tôi ra phố mua cho tôi bộ truyện Thủy Hử để tôi đọc trong thời gian nằm nhà thương. Khi tôi trở về nhà với cánh tay còn băng bột, tôi đến Gió Hú, ôm theo bộ truyện Thủy Hử cốt để khoe với chị Dự. Nhưng anh chị Dự đã dọn đi không để lại một dấu vết.
Không hiểu tại sao lúc ấy tôi có ý nghĩ và ý nghĩ đó không sao xóa đi được trong suốt mùa hạ năm ấy là chị Dự phải để lại một cái gì đó cho tôi trước khi chị rời khỏi Đỉnh Gió Hú. Chẳng hạn một dòng chữ nguệch ngoạc nào đó chị để ở đâu đây trong căn nhà rộng mênh mông. Tôi để cả một tuần lễ moi hết cả mọi ngóc ngách của căn nhà hoang và sau cùng buồn rầu nhận thấy là chị đã rời Đỉnh Gió Hú không mang theo hình bóng tôi. Tôi mang tập bản thảo về lại căn phòng cũ trong Đỉnh Gió Hú và tiếp tục viết...lần này tôi viết cho chị. Con đường nuốt tôi vào ruột một thế giới... kéo dài thêm được một trang vở học trò. Rồi tôi bỏ ngang... cho đến tận bây giờ... non một nửa thế kỷ trôi qua...
Buổi đi chơi đáng ghi nhớ của tôi với chị Dự ngày hôm đó không ngờ lại là kỷ niệm sau cùng của tôi với chị. Tôi không bao giờ gặp lại chị Dự nữa. Tôi tin rằng những lời đồn đãi về anh chị Dự chỉ đúng một phần. Không bao giờ tôi tin rằng cái người đàn bà đầy sức sống ấy, cái sức sống vui trẻ của chị vẫn lóe lên trong ánh mắt kia lại là người đàn bà đã tự tử ở thác Pongour.

_____________

Da Màu phỏng vấn nhà văn Nguyễn Tường Thiết
(Quanh những sự kiện liên quan đến bài viết về Tự Lực Văn Đoàn trên báo Tuổi Trẻ trong nước)

Da Màu: Xin chào nhà văn Nguyễn Tường Thiết. Thưa ông, gần đây qua mạng lưới internet, cụ thể là Tuổi trẻ On-line, chúng tôi được biết có một bài báo nhan đề Về “Thị Trấn Văn Chương” của Quang Thiện viết về Tự Lực Văn Đoàn (TLVĐ). Mong ông cho biết đã đọc qua bài này chưa và những sự kiện về TLVĐ trong bài có chính xác hay không?
Nguyễn Tường Thiết: Cám ơn Da Màu đã cho tôi cơ hội để đính chính về một số sai lệch trong bài báo. Trước hết, trong tiểu đề Tự Lực Văn Đoàn, có những chỗ không đúng như sau:
1. Chi tiết “Ông Nhu ban đầu làm sếp ga Cẩm Giàng, sau thăng làm sếp ga Hải Dương” cần được kiểm nghiệm lại. Theo lời ông Nguyễn Tường Bách, là người con út của ông Nhu, thì ông chưa hề nghe nói tới thân phụ của ông làm nghề này.
2. Câu kế: “Ông mất năm 38 tuổi ở xứ người để lại người vợ trẻ 38 tuổi là bà Nguyễn thị Sâm và đàn con thơ.” Xin đính chính: bà Lê thị Sâm, chứ không phải bà Nguyễn thị Sâm, là vợ ông Nguyễn Tường Nhu.
3. Hồi ký của bà Thế Uyên (con gái ông Nhu) viết:"Tuổi thơ của chúng tôi rất nghèo khổ, khốn quẫn". Câu này cũng sai: bà Nguyễn Thị Thế, chứ không phải bà Thế Uyên, là con gái ông Nhu. Bà Nguyễn Thị Thế là người đã viết cuốn Hồi ký về Gia đình Nguyễn Tường. Xin được nói thêm, bà Nguyễn Thị Thế có hai người con trai viết văn là Duy Lam và Thế Uyên.
Ngoài ra, trong tiểu đề "Tình văn chương và nghĩa con người", cũng có những điểm không chính xác:
1. Ông Xuân Ba trước là người yêu của em gái Nhất Linh. Đã là rể hụt của nhà Nguyễn Tường”. Điều này không đúng sự thực. Ông Xuân Ba là bạn hồi nhỏ của Nguyễn Tường Việt, trưởng nam của Nhất Linh.
2.“Ba nhân vật trụ cột này của TLVĐ sau khi giải tán nhóm đã tham gia các tổ chức chính trị”. Điều này hoàn toàn sai vì không có chuyện TLVĐ giải tán nhóm sau khi một số các thành viên của nhóm tham gia các hoạt động chính trị.
Da Màu: Trong bài, có nhiều đoạn nói về việc Bộ Văn Hóa Thông Tin gửi công văn đến Sở Văn Hóa Thông Tin Hải Dương đề nghị thu thập tài liệu về TLVĐ, đồng thời nghiên cứu việc ghi nhận công lao của TLVĐ bằng nhiều hình thức như: xây nhà lưu niệm trên nền đất của trại Cẩm Giàng cũ, đặt tên phố TLVĐ ở Hải Dương và quận Tây Hồ ở Hà Nội, xây cất khách sạn mang tên TLVĐ để đón nhận du khách văn chương trong nước và thế giới. Ý kiến của ông về các “dự án” này của nhà nước?
Nguyễn Tường Thiết: Trước hết tôi rất hoan nghênh công việc này. Việc đánh giá và ghi công TLVĐ đối với nền văn học Việt Nam đáng lý phải được nhà nước Việt Nam thực hiện từ lâu. Nhưng muộn thì vẫn còn hơn không. Đây là một khởi đầu tốt nếu quả là trên thực tế họ đứng đắn làm công việc này. Chúng ta bây giờ hãy cứ chờ xem họ có làm như họ nói không?
Ngoài ra, cá nhân tôi có thêm một số ý kiến về vấn đề nói trên:
Thứ nhất, công việc đầu tiên nhà nước nói sẽ làm là thu thập tài liệu về TLVĐ để căn cứ vào đó đánh giá TLVĐ. Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Đó là những tài liệu nào? Liệu những tài liệu ấy có trung thực không? Hay là chúng được viết ra bởi những người xem xét TLVĐ dưới nhãn quan cộng sản thiên kiến và một chiều, như họ đã làm từ hơn nửa thế kỷ qua? Trong giai đoạn hai mươi năm văn học miền Nam 1954-1975 và sau này ở ngoài nước sau 1975 đã có rất nhiều bài viết, nhận định, nghiên cứu khá trung thực về TLVĐ, nhưng nhà nước Cộng Sản đã bỏ qua, không nhìn nhận.
Thứ hai, mấy năm gần đây ở trong nước người ta nói tới việc “đánh giá lại”, tới việc “phục hồi” giá trị của TLVĐ. Tôi nghĩ dùng từ “phục hồi” là dùng sai chữ vì giá trị cũng như công lớn của nhóm văn chương này đối với lịch sử văn học Việt Nam là một giá trị tự tại bất chấp mọi thể chế chính trị; vì vậy giá trị TLVĐ không bao giờ cần phải phục hồi. Nhà nước Việt Nam đã sai lầm khi phủ nhận giá trị của TLVĐ khiến việc nói tới TLVĐ trở nên húy kỵ trong một thời gian rất lâu. Sự phủ nhận đó chỉ vì những thành viện trụ cột của TLVĐ như Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng đã đi theo con đường khác với họ, chống lại họ, con đường quốc gia dân tộc không chấp nhận chế độ cộng sản. Nhưng đó là về mặt chính trị. Còn về mặt văn hóa thì TLVĐ đã đóng góp vào văn học sử cận đại của nước nhà một công trình to lớn đến nỗi chính nhà nước dù muốn dù không cũng không không thể nào phủ nhận mãi được.
Thứ ba, trả lại danh xưng TLVĐ trên bìa những sách in ở Việt Nam của các tác giả thành viên TLVĐ như truyền thống vẫn có của nhóm này. Truyền thống đó là ngay trên bìa sách dưới tên tác giả (Nhất Linh, Khái Hưng...) bao giờ cũng kèm theo hàng chữ “trong TỰ LỰC VĂN ĐOÀN”. Hiện nay tất cả các sách này khi in lại ở Việt Nam năm chữ “trong TLVĐ” trên bìa sách đã bị kiểm duyệt bỏ. Ngoài ra hai tác phẩm quan trọng của tác giả Nhất Linh, hai tác phẩm sau cùng viết sau năm 1945 là Xóm Cầu Mới Giòng Sông Thanh Thủy hiện vẫn bị cấm in ở Việt Nam.
Thứ tư, việc đánh giá và ghi công TLVĐ phải được thực hiện với tất cả thành tâm của nhà cầm quyền Việt Nam. Công việc này không thể làm một cách hời hợt chỉ cốt để tỏ ra rằng trong nước đã có cởi trói mọi mặt về văn hóa; cũng không thể làm với mục đích thương mại, thành lập căn nhà văn chương trên nền đất của Trại Cẩm Giàng hay xây khách sạn mang tên TLVĐ để thu hút du khách nhằm thu lợi tài chính cho một số người.
Việc đánh giá và ghi công TLVĐ cần phải đi về bề sâu, mà điều quan trọng nhất là để cho thế hệ trẻ bây giờ và thế hệ mai hậu biết tới những đóng góp củaTLVĐ vào nền văn học nước nhà. Hiện nay cả một thế hệ trẻ trong nước không được biết đến, nghe nói đến TLVĐ, họa hoằn nếu có biết thì cũng chỉ biết một cách phiến diện hoặc sai lạc.
Da Màu: Xin hỏi bên lề một câu rất nhanh, ông có theo dõi chương trình Ai Là Triệu Phú trên đài truyền hình VTV3 Hà Nội không?
Nguyễn Tường Thiết: Tôi cũng đang định dẫn chứng chuyện ấy, chắc Da Màu muốn nhắc đến cô nữ giảng viên trường Đại học Sư phạm Thái Bình và chương trình truyền hình ngày 9-1-2007 phải không? Tôi còn nhớ, hôm ấy người điều khiển chương trình Lại văn Sâm, một tay MC kỳ cựu của đài đã đặt câu hỏi sau đây với cô Nguyễn Thị Tâm, 27 tuổi, một ứng viên tham dự chương trình, nguyên văn câu hỏi như sau:
“Trong tứ trụ của Tự Lực Văn Đoàn: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, ai là người không phải là anh em ruột với ba người kia?”
Cô Tâm suy nghĩ một lát rồi đáp:
“Tự Lưc Văn Đoàn... Hừ, Tự Lực Văn Đoàn, tôi chưa hề nghe nói đến bao giờ cả. Hình như đó là một gánh cải lương. Nhất Linh “chắc chắn” là một nghệ sĩ cải lương. Còn ba ông kia tôi không biết có phải là nghệ sĩ cải lương như Nhất Linh không.”
Câu chuyện có thật 100% này là dẫn chứng hùng hồn nhất về việc thế hệ trẻ trong nước có kiến thức rất nghèo nàn về văn học sử. Mà theo lời giới thiệu thì cô Tâm không phải là một thiếu nữ không có trình độ. Cô được giới thiệu trên đài là một nữ giảng viên của trường Đại học Sư phạm thành phố Thái Bình.
Nhân tiện đây, tôi cũng hy vọng qua Da Màu, có thể bắn tiếng về Việt Nam để nói với cô Nguyễn Thị Tâm ấy rằng: Tôi, con của nhà văn Nhất Linh, xin xác nhận “chắc chắn” rằng cha tôi không hề là một nghệ sĩ cải lương.
Da Màu: Ông nghĩ rằng cô Nguyễn Thị Tâm có đọc Da Màu hay sao?
Nguyễn Tường Thiết (cười): Tôi hy vọng thế. Nếu không, ai biết Da Màu sẽ trở thành cái gì nữa đây?
Da Màu (cũng cười): Theo ông, điều gì dẫn đến tình trạng trống vắng văn hóa như ông vừa kể, về một nữ giảng viên đại học tưởng TLVĐ là một gánh cải lương? Theo ông, những điều gì cụ thể và thiết thực có thể làm và nên làm về phía nhà cầm quyền cho văn học nói chung và bộ môn giảng dạy văn học nói riêng? Chúng ta có lãng mạn quá không trước viễn cảnh các tác phẩm thuộc TLVĐ được đưa vào giáo trình giảng dậy ở cấp trung học và đại học?
Nguyễn Tường Thiết: Ở Việt Nam, trong tình trạng mà từ hơn 30 năm nay chỉ nội việc nói đến TLVĐ đã là một điều cấm kỵ thì tình trạng trống vắng văn hóa như trường hợp cô thí sinh Nguyễn thị Tâm không biết gì về TLVĐ là một điều bình thường, dễ hiểu. Điều đáng trách ở cô Tâm là cô đã không chịu suy nghĩ trước khi trả lời: Trong bốn tiếng Tự Lực Văn Đoàn có hai tiếng VĂN ĐOÀN thì rõ ràng đó không thể là một gánh cải lương được và Nhất Linh không thể là một kép hát cải lương được.
Vấn đề đặt ra là nhà cầm quyền hiện nay có sẵn sàng lấp đầy - một cách thực tâm và toàn diện - khoảng “trống vắng văn hóa” đó không?
Tôi tin rằng họ đã làm và sẽ làm – từng bước một - công việc này. Bắt đầu khoảng năm bẩy năm trước nhà cầm quyền Việt Nam đã cho phép ấn hành sách của TLVĐ. Và gần đây sự kiện Bộ Văn Hóa Thông Tin gửi công văn đến Sở Văn Hóa Thông Tin tỉnh Hải Dương đề đề nghị thu thập tài liệu nghiên cứu việc ghi công TLVĐ và thành lập nhà khách văn chương tại Cẩm Giàng cũng là một bước tiến mới rất khích lệ.
Tuy nhiên quan trọng nhất vẫn là vấn đề đưa TLVĐ vào giáo trình giảng dậy Văn ở bực trung học, như đã thực hiện tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Chỉ khi nào điều này được thực hiện tại Việt Nam, cùng với việc phổ biến toàn bộ các tác phẩm thuộc dòng văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975 được thực hiện nghiêm túc và công bằng, thì khoảng trống vắng văn hóa mới thực sự được lấp đầy một cách toàn diện. Với tôi nó không phải là một mơ ước quá lãng mạn đâu, mà là niềm kỳ vọng tôi tin sẽ là được thực hiện trong một tương lai không xa lắm.
Da Màu: Cám ơn nhà văn Nguyễn Tường Thiết.

_____________

Nhất Linh cha tôi

Mãi đến năm 10 tuổi tôi mới được thấy rõ khuôn mặt bố tôi. Đó là khoảng cuối năm 1950 khi ông từ Hương Cảng trở về Hà Nội. Trong thập niên 1940 cha tôi rất bận rộn với những hoạt động chính trị, ông sống bôn ba nhiều năm bên Trung Hoa. Thời gian này ông chỉ ghé về thăm mẹ con tôi trong những dịp đặc biệt ngắn ngủi, không đủ cho tôi kịp nhận diện khuôn mặt người bố. Bởi thế ngày mẹ con tôi đón tiếp ông trở về với gia đình, tôi đã đứng ngây người nhìn ông như nhìn một người khách lạ.
Người khách ấy - Nhất Linh - mặc bộ ka-ki bốn túi, dáng dong dỏng quắc thước, khuôn mặt phong sương, có cặp mắt sâu, đôi mày rậm, vầng trán cao, nụ cười cởi mở dưới hàng râu mép và cái nhìn đặc biệt, nhìn thẳng và sâu vào đôi mắt người đối diện nhưng lúc nào cũng nhiễm một vẻ mơ màng, xa vời.
Đêm hôm đầu tiên đoàn tụ, chúng tôi không ngủ, tất cả thức gần suốt sáng để trò chuyện với ông. Trong căn nhà số 15 Hàng Bè Hà Nội nơi mẹ tôi mở tiệm bán cau khô, vào một đêm mùa đông, bố mẹ con chúng tôi chen chúc nằm trên một chiếc giường tây lớn. Tôi còn nhớ rõ bố tôi nói với chúng tôi ngày hôm sau báo chí sẽ đến gặp ông và ông sẽ tuyên bố quyết định từ bỏ cuộc đời làm chính trị để trở về với đời viết văn.
Riêng tôi, nằm sát cạnh người bố xa lạ, tôi vẫn không nói với ông một lời từ lúc ông trở về nhà. Rõ ràng là tôi đã giận dỗi và phản đối cái cách tiếp đón mà mọi người đã dành cho ông, bằng cách giả vờ ngủ say và không tham dự. Nhất Linh thì tinh lắm, ông đoán biết ngay có cái gì không ổn trong thái độ của thằng con út. Trong lúc vẫn nói chuyện với mẹ và các anh chị tôi, chốc chốc ông lại thò tay dưới chăn véo mạnh vào đùi tôi để thăm dò thằng con còn thức hay đã ngủ, nhưng tôi chịu đau, lờ đi. Mãi về sau, đau quá, chịu không thấu, tôi phải la lên, tiếng kêu có vẻ tỉnh táo lắm, khiến ông tung chăn ngồi dậy, nói to: "À thằng này giỏi chịu đau từ lúc nãy đến giờ, nó chỉ vờ ngủ!". Cả nhà ngơ ngác không hiểu chuyện gì xẩy ra giữa hai bố con. Thế là sau mười năm xa cách, ông đã tìm cách "đàm thoại" với tôi trong chăn và qua cách ấy hai bố con tôi đã nghĩ về nhau một cách lặng lẽ.
Mẹ tôi thường nói bố tôi tuổi con ngựa nên suốt đời hay đi, không mấy khi ở gần với gia đình. Bà cũng thường nói khi lấy cha tôi, ông đã cam kết ngay từ đầu rằng mỗi người có một bổn phận, ông có bổn phận đối với xã hội, còn bà có bổn phận đối với gia đình. Tôi ít thấy một cặp vợ chồng nào mà sự cam kết ban đầu lại được cả đôi bên tôn trọng lâu dài hơn thế. Thực ra, chẳng phải vì ông hoạt động cách mạng nên hoàn cảnh bó buộc ông phải sống xa gia đình. Ngay sau này khi sống một cuộc đời bình thường, ông cũng không mấy khi ở gần mẹ con chúng tôi. Bản chất và lối sống của bố mẹ tôi hoàn toàn khác biệt, khó có thể dung hợp. Tính ông tuyệt đối ưa chuộng sự giản dị, chân thật, sự mơ mộng, yên tĩnh và sạch sẽ. Còn mẹ tôi, suốt đời buôn bán nghề cau để lấy tiền nuôi lũ chúng tôi, nên phải sống trong điều kiện ngược hẳn lại: bà buộc phải thực tế, màu mè, khách sáo, sống nơi chợ búa ồn ào, bừa bãi, luộm thuộm. Lũ chúng tôi phần lớn sống gần với mẹ, nhưng đôi khi cũng được gửi đi sống bên cạnh bố. Sự dàn xếp trong lối sống của bố mẹ tôi thực là tuyệt diệu vì chính nó đã giữ được hoà khí trong gia đình. Không bao giờ chúng tôi nghe thấy bố mẹ tôi to tiếng với nhau. Trái lại chính vì thời gian sống chung bên nhau hiếm hoi nên cả hai đã tạo cho nhau những ngày sống chung trở thành một chuỗi "những ngày diễm ảo". Mẹ tôi kể lại là trong thời gian trước khi tôi sinh ra cứ mỗi lần Nhất Linh viết xong và xuất bản được một cuốn truyện mới thì dù mẹ tôi có bận rộn buôn bán đến mấy đi nữa ông cũng buộc mẹ tôi bỏ hết để cùng sống với ông riêng biệt một thời gian bên bãi biển Sầm Sơn. Ông còn tập cho mẹ tôi hút thuốc lá, uống rượu, thưởng thức thú pha và uống trà tàu buổi sáng, để rồi sau bà cũng nghiện không thua gì ông. Sau này trong những ngày ở Đà Lạt lạnh lẽo, những buổi sớm mai khi chúng tôi còn nằm vùi trong chăn, thì bố mẹ tôi đã rù rì tâm sự với nhau bên tách trà nóng, rất là tương đắc. Sở dĩ bố mẹ tôi có thể sống xa nhau thường xuyên mà không phiền hà vì cả hai đều có một điểm giống nhau, đó là sự say mê làm việc. Nếu Nhất Linh đam mê viết sách, làm báo và những hoạt động xã hội, thì mẹ tôi cũng mê say trong việc làm ăn buôn bán không kém, có khi lại còn hơn cả ông. Lũ chúng tôi không hề cảm thấy buồn phiền vì thiếu sự chăm sóc thường xuyên của cả bố lẫn mẹ, trái lại còn thấy sung sướng vì cảm thấy mình được tự do.
Sau khi ở Trung Hoa về nước và sống với mẹ con tôi ít ngày, Nhất Linh thu xếp mấy thứ hành trang giản dị dọn qua ở nhà bác Nguyễn Tường Thụy tôi, số 2 đường Lý Thường Kiệt, trong một khu phố tây yên tĩnh, đối diện với Viện Đại học Hà Nội. Ông ở đó ít tháng để hoàn thành bức vẽ truyền thần chân dung bà nội tôi. Đó là một bức họa lớn bằng bút chì, nét vẽ đơn sơ sắc sảo. Nhất Linh đã ghi lại hình ảnh sống động bà mẹ của ông trong bộ áo nâu tu hành đang ngồi chắp tay tụng niệm.
Đầu tháng 4 năm 1951, Nhất Linh và toàn gia đình bác Thụy tôi dọn vào Nam. Cha tôi chọn người chị cả tôi và người con út là tôi đi theo ông vào Sài Gòn, trong khi mẹ tôi vẫn tiếp tục buôn bán ở Hà Nội với các anh chị tôi cho đến ngày di cư. Ba bố con tôi ở chung với gia đình bác Thụy trong một căn nhà do chính phủ cấp cho công chức Sở Bưu điện, số 12P đường Hồng Thập Tự. Căn nhà tuy rộng, có nhiều phòng, nhưng vì gia đình bác tôi đông con nên cũng thành chật. Cha tôi chỉ xin một phòng nhỏ và xấu xí nhất trong một xó bếp để ở, vì chỗ đó yên tĩnh và biệt lập. Thế rồi chỉ trong vòng tuần lễ, với khiếu thẩm mỹ và sự bầy biện ngăn nắp, ông đã trang trí căn phòng tồi tàn thành một chỗ ở xinh xắn và ấm cúng nhất.
Trong mấy năm ở nhà bác tôi, Nhất Linh chú tâm vào việc xuất bản và tìm tòi những cây viết mới. Ông mở nhà xuất bản Phượng Giang - ghép tên Phượng Vũ và Cẩm Giàng là quê quán và sinh quán của mẹ và cha tôi - ngoài việc in lại những sách truyện của Tự Lực Văn Đoàn, ông còn xuất bản truyện của những cây viết trẻ. Chúng tôi, các con bác cả và tôi, lăng xăng khuân từng chồng sách mỏng, loại Sách Hồng dành cho thiếu nhi và thay phiên nhau đóng dấu bông hoa hồng lên trên bìa sách. Người con trai cả bác Thụy tôi, nhà văn Tường Hùng, lúc đó đang học về kiến trúc, đã vẽ dấu hiệu con Phượng Hoàng tiêu biểu cho nhà xuất bản Phượng Giang. Thời gian này họa sĩ Nguyễn Gia Trí cũng thường lui tới. Ông đã giúp cha tôi trình bầy mẫu bìa các cuốn tiểu thuyết qua nghệ thuật cắt và dán giấy màu của ông. Bức họa chân dung Nhất Linh bằng sơn dầu được nhiều người biết tới, nhất là sau khi Nhất Linh qua đời và bức tranh được trưng trong những dịp tưởng niệm ông, là do họa sĩ vẽ trong thời gian này. Bức vẽ thực ra còn dang dở vì trước khi vẽ xong, ông Trí đã bị bắt đi an trí ở Thủ Dầu Một một thời gian. Khi ông trở về, định vẽ tiếp thì cha tôi không cho. Thành thử bức chân dung chỉ có khuôn mặt là đầy đủ, còn bàn tay cầm gói thuốc lá thì mới chỉ là mấy nét phác. Sau này cha tôi nói đùa là ông thích để nguyên như vậy vì chính cuộc đời ông cũng là một tác phẩm chưa hoàn tất. Trong những lúc giúp Nhất Linh những công việc lặt vặt của nhà xuất bản, chúng tôi có dịp đọc tiểu thuyết và lần đầu tiên làm quen với các tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và của các nhà văn mới khác. Tôi còn nhớ đã đọc ngay từ khi sách đang in còn thơm mùi mực mới cuốn truyện đầu tay Những đêm mưa của Linh Bảo và cuốn Gió mát của Tường Hùng. Có một cuốn tiểu thuyết mà Nhất Linh cấm không cho chúng tôi đọc là quyển Bướm trắng, ông nói là chúng tôi chưa đủ lớn để hiểu được cuốn truyện này.
Thời gian ở nhà bác Thụy chúng tôi cũng được biết cha tôi mắc bệnh bao tử. Ông không thể nào ăn cơm ta một thời gian lâu mà không cảm thấy óc ách khó chịu. Ông bèn đổi cách ăn bằng cách đặt mua cơm tháng ở hiệu cơm tây La Cigale đường Đinh Tiên Hoàng và chị người làm cứ ngày hai lần xách cà-mèn đi lấy đồ ăn về. Bữa ăn chỉ có hai bố con. Nhất Linh và tôi. Ông ăn nhanh và không nói năng. Lúc đầu tôi còn khoái ăn cơm tây vì lạ miệng, nhưng ăn mãi cũng đâm chán. Hơn nữa ăn một mình với ông thì buồn vì không được đùa nghịch. Tôi bèn thương lượng với các anh họ tôi đánh đổi để được ăn cơm ta chung với gia đình bác tôi. Các anh họ tôi thì đông lắm, mà ai cũng thích ăn cơm tây, nên cứ trước mỗi bữa ăn là xẩy ra cuộc tranh giành rút thăm inh ỏi để chọn người đại diện vào ăn chung với "chú Tam".
Chú Tam thường thì rất cởi mở vui tính với lũ trẻ nên ai cũng thích ông. Khi vui ông thường trực tiếp tham dự vào những trò chơi của chúng tôi, hoặc giả ông đặt những giải thưởng hậu hĩnh cho ai thắng những cuộc tranh đua. Nhưng cũng có nhiều lúc ông xa lánh tất cả rút vào căn phòng sào huyệt của ông để tìm sự yên tĩnh. Hình ảnh quen thuộc mà chúng tôi thường thấy khi vào phòng ông là thấy ông đang ngồi viết lách trên một chiếc ghế vải, với cặp kính trễ trên sống mũi, bên cạnh ông, trên một chiếc bàn thấp là một ly bia ông uống nhấm nháp, một gói thuốc Bastos xanh, một cái tẩu thuốc, một cuốn sổ tay chi chít những ghi chú và con số.
Nhất Linh thường viết trong đêm khuya khoắt. Những khi giật mình thức giấc nửa đêm tôi thường thấy, qua khe cửa, đèn trong phòng ông còn bật sáng. Có đêm lũ chúng tôi lòm còm bò dậy vì có tiếng khóc trong phòng cha tôi. Tiếng khóc lúc đầu còn nhỏ sau lớn dần không kìm hãm được. Lũ chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau. Một người anh họ lớn tuổi hơn, ra dáng hiểu biết, giải thích: "Chú Tam khóc vì chú nhớ chú Long đấy!". Sau này tôi biết ông đã khóc âm thầm nhiều đêm vào những dịp khác. Không ai có thể đoán biết ông khóc cái gì, ngay cả mẹ tôi cũng không thể nào biết được. Nhưng sự khám phá này đã gieo vào tuổi thơ của tôi một ấn tượng mạnh mẽ, rằng cha tôi là một người cô đơn và đau khổ. Ngoài ra những giấc mơ kỳ lạ và kinh hãi cũng được tôi hình dung thấy qua giấc ngủ của ông, qua cách ông trằn trọc ú ớ trong đêm. Có buổi sáng thức dậy ông đã hỏi người chị họ tôi có dạo chơi piano bản nhạc nào đó không, vì ông hoang mang không biết chính ông đã nghe chị tôi thực sự dạo bản nhạc đó hay tất cả chỉ do ông tưởng tượng ra trong giấc mơ của ông.
Năm 1954, khoảng ký kết hiệp định Genève, cha tôi sang Pháp để chữa bệnh và cũng để thăm người anh cả của tôi đã sang Pháp du học từ năm 1949. Đây là chuyến Đi Tây thứ hai và cuối cùng của ông. Thời gian này mẹ và các anh tôi cũng đã di cư vào Nam. Mẹ tôi mua một căn lầu trong chung cư chợ An Đông để lấy chỗ ở và buôn bán. Khi Nhất Linh về nước, ông xách theo một cây kèn clarinette, một loại nhạc khí mà ông đã rành sử dụng từ những năm 1939-40. Cứ mỗi buổi chiều chúng tôi lại nghe thấy tiếng hắc tiêu của ông qua bản Tennessee Waltz mà ông ưa thích văng vẳng từ lầu hai chung cư, nghe lạc lõng xa lạ trong cái không khí chợ búa ồn ào của khu phố chợ An Đông. Chúng tôi thấy rõ nơi này chẳng phải là chỗ nương náu lâu dài cho ông được. Quả nhiên, qua năm 1955, ông xách kèn lên Đà Lạt và quyết định ở luôn trên ấy mấy năm. Thu xếp xong chỗ ở, ông nộp đơn để xin cho tôi thi nhập học vào một trường trung học công lập trên ấy, thế là một lần nữa tôi lại theo ông lên sống trên miền cao nguyên.
Nhất Linh, sau thời gian chữa bệnh bên Pháp, lại rất thích hợp với khung cảnh nên thơ và khí hậu mát mẻ của Đà Lạt, dạo này rất khỏe mạnh. Ông thường đi bộ một ngày đến hơn cả chục cây số. Mỗi buổi sáng sớm, từ căn phòng thuê trên lầu hai nhà hàng Poinsard & Veyret, số 12 đường Yersin, ông thả bộ xuống khu chợ Hòa Bình, ăn điểm tâm tô phở Bình Dân đường Hàm Nghi, rồi đi vòng bên kia bờ hồ Xuân Hương, vượt mấy ngọn đồi phía cuối hồ, đến tận khu Chi Lăng gần hồ Than Thở. Lâu lâu ông rủ tôi đi thả bộ cùng với ông. Hai bố con lặng lẽ đi bên nhau, vì ông thường đắm mình trong những kỷ niệm và suy tưởng riêng tư, cho đến lúc tôi mệt nhoài, đòi về. Có lần, đi ngang qua sân cù, ông chỉ về cái tháp cao của khu trường trung học Yersin và khách sạn Palace thấp thoáng trong sương phía bên kia bờ hồ Xuân Hương nói với tôi là chính tại ngôi trường đó, gần mười năm trước, ông đã cầm đầu phái đoàn Việt Nam dự hội nghị sơ bộ Pháp Việt và cũng thời gian đó, trước nhà hàng Palace kia, nơi thềm xi-măng mặt tiền khách sạn, ông vẫn thường ngồi uống rượu để thưởng ngoạn khung cảnh Đà Lạt với bác Thụy tôi, hai người vẫn nhìn sang rặng đồi thông bên này, nơi chỗ chúng tôi tản bộ ngày nay. Cái khung cảnh thơ mộng đó, mười năm sau, đã trở về trong ký ức của ông; nhưng lần này khung cảnh đó ông đã thưởng ngoạn với sự bình thản hơn nhiều của tâm hồn. Nhất Linh hầu như không bao giờ tâm sự với con cái về chính cuộc đời của ông, nhất là cuộc đời chính trị, nhưng có một lần hiếm hoi ông đã tiết lộ với chúng tôi là thời gian khổ sở nhất trong cuộc đời của ông là lúc ông đảm nhận chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp.
Cha tôi có biệt tài nhận xét và quan sát rất bén nhậy khiến tôi phải cảm phục. Năm đó tôi đã trúng tuyển kỳ thi nhập học vào lớp đệ Lục trường trung học Quang Trung. Vì số học trò dự thi vào trường công năm đó rất đông mà nhà trường thì chỉ còn chỗ để thu nhận thêm vài ba học sinh thôi, nên hôm đi thi về tôi đã nói trước với cha tôi là không có một tí hy vọng nào cả. Ngày đi xem bảng, không ngờ lại thấy tên mình trong danh sách những người trúng tuyển, tôi mừng quýnh, vội bỏ về nhà ngay. Lúc bước chân vào nhà, vì muốn dành cho cha tôi một sự ngạc nhiên, tôi đóng vai thiểu não, báo cho ông biết là mình đã thi trượt. Nhất Linh chỉ cười và nói chắc là tôi đã đậu rồi. Sau đó ông giải thích với tôi sở dĩ ông biết chắc tôi thi đậu vì lúc trước đó từ trên lầu hai ông đã quan sát dáng đi của tôi từ xa trước hai dẫy phố, cái cách đi cắm cúi của tôi như chỉ muốn đi nhanh cho chóng về nhà đã khiến ông tin chắc tôi có gì vui ở trong lòng, như vậy thì làm sao mà tôi có thể trượt được.
Một bữa kia trong buổi đi tản bộ thường lệ buổi sáng, cha tôi bất ngờ trông thấy và chỉ cho tôi coi một đoá phong lan mọc lưng chừng cao trên một cây thông già khẳng khiu bên bờ hồ Xuân Hương. Vẻ đẹp thiên nhiên của đoá hoa khiến Nhất Linh ngây người ngắm nghía, nhất là dáng mảnh mai thướt tha của chùm hoa buông thả xuống tương phản hẳn với nét mạnh mẽ cứng cáp của bẹ lá và cánh hoa có màu vàng tươi nổi bật lên trên nền nâu đậm của gốc thông. Ông bèn sai tôi trèo lên gỡ nhánh lan xuống. Nhất Linh hẳn là phải xúc động lắm khi ông bất ngờ tìm được thứ hoa quý này vì tôi thấy ông không để ý đến việc thằng con ông trèo lên thân cây cheo leo dám có thể sẩy tay ngã lắm mà chỉ luôn miệng nhắc chừng tôi cầm kheo khéo để khỏi làm gẫy nhánh hoa. Mang được cây lan quý về nhà, ông liền trồng lên một khúc cây mục, lại sai tôi đi tìm rêu để đắp vào rễ cho giữ độ ẩm, rồi treo ngay trên tường trong phòng ngủ, cả ngày hôm đó ông say sưa ngắm nghía mãi không chán. Thế rồi từ đó Nhất Linh mê chơi lan. Mê đến độ quên ăn quên ngủ và quên luôn cả việc viết lách, vì dạo này tôi ít thấy ông thức khuya ngồi viết như trước.
Cái thú tản bộ của ông không còn mang mục đích tập thể dục buổi sáng hoặc để giúp ông thả hồn trong dòng suy tưởng nữa mà lúc này đã mang một mục đích mới: ông đi tầm lan, có khi đi suốt ngày, băng rừng lội suối, ông đi một mình hay đi cùng với những người bạn cùng mê lan như ông, để rồi chiều chiều về đến nhà mệt nhoài nhưng hí hửng với một hay hai đoá hoa lạ trên tay. Hôm nào không đi tìm lan thì ông đi tìm những những khúc rễ cây lớn có hình thù lạ mắt về nhà gọt dũa để gắn hoa phong lan lên trên hoặc ông lui cui xếp và đóng những thanh gỗ với nhau để làm rổ treo lan, mỗi rổ có một kiểu cọ khác nhau, rồi ông treo lan lên tường, treo cùng khắp gần như kín cả phòng. Mẹ tôi rất bận rộn buôn bán ở Sài Gòn ông cũng gọi lên Đà Lạt sống với ông ít ngày để cùng thưởng lan với ông. Cái nhiệt tình của Nhất Linh đã lây sang rất nhiều người khác làm sống dậy phong trào chơi lan và tầm lan của dân Đà Lạt những năm 1956-57. Riêng anh em chúng tôi thấy ông vui thì cũng tham dự với ông nhưng trong bụng không thấy hứng thú gì cho lắm, trái lại lắm lúc còn bực mình vì ông cứ hay sai chúng tôi đi gỡ từng mảnh rêu để mang về cho ông, một công việc mà chúng tôi rất ghét làm. Rêu đúng loại tiêu chuẩn mà ông mong muốn thì chỉ có thể tìm thấy dễ dàng ở vệ đường gần cách ống cống; giữa phố xá đông đúc người qua lại mà lại ngồi bệt xuống vỉa hè tẩn mẩn bóc gỡ từng mảng rêu xanh bỏ vào trong một cái rổ thì nom có vẻ kỳ quặc, khó coi quá.
Nhất Linh chơi lan công phu hơn những người khác vì ngoài việc tầm lan ông còn ra thư viện tra cứu hoặc đặt mua từ bên Pháp các sách ngoại quốc viết về hoa phong lan trên thế giới, rồi ông tỉ mỉ phân loại, so sánh với hoa ở địa phương; ông lại vẽ từng đóa hoa một, đặt tên hoa, ghi chú từng đặc tính, với dụng ý sau này làm tài liệu viết một cuốn sách về việc sưu tập hoa phong lan. Và chiều nào ông cũng thổi hắc tiêu, nói là thổi cho lan nghe. Ông thổi bản: "J’ai rêvé de vous", vous đây chính là đám hoa quấn quýt xúm lấy ông, nào là Nhất Điểm Hồng, Huyết Nhung Lan, Bạch Hạc, Tím Đồi Mồi, Hoa Cô Dâu, Bạch Ngọc, Thanh Ngọc, Văn Bao... thứ treo trên vách, thứ cắm trong chậu, thứ bầy trên bàn. Mỗi chiều thứ bẩy, ông lại tổ chức hòa nhạc tại gia, ngoài tiếng hắc tiêu của ông, lại có sự phụ họa lục huyền cầm của giáo sư Vĩnh Tường, khiến khách đi đường phải dừng chân trước trước khách sạn Du Paque, kẻ ngừng xe hơi, người ghếch xe đạp, để lắng nghe tiếng nhạc hòa tấu vẳng ra từ căn lầu nơi góc đường Yersin trong bầu không khí êm ả yên tĩnh của buổi chiều Đà Lạt.
Qua năm sau vì số lượng hoa sưu tập được mỗi ngày một nhiều, nhất là từ lúc Nhất Linh chuyển hướng đi tìm loại hoa đất là loại hoa do cụ Nghị Biên (em ruột bà nội tôi) khởi xướng thì căn lầu trên đường Yersin trở nên chật chội quá. Mấy bố con tôi dọn qua một căn nhà mới, số 19 đường Đặng Thái Thân, do ông chủ garage Lê Đình Gioãn, một người bạn lan của cha tôi, để lại. Từ đầu dốc đèo Prenn phải đi vào một con đường trải đá ngoằn ngoèo mới tới được căn biệt thự nằm biệt lập trên một triền đồi nhìn xuống một thung lũng thông trùng điệp. Tại đây Nhất Linh đã biến căn biệt thự thành một trại lan nhỏ với đủ các loại hoa trồng khắp từ trong ra đến tận ngoài nhà. Lúc này cha tôi đã lôi kéo được những người bạn của ông từ Sài Gòn lên tận Đà Lạt để cùng đi tầm lan với ông. Nhà văn Đỗ Tốn với chiếc xe hai ngựa và thi sĩ Tô Kiều Ngân với chiếc sáo trên tay vẫn thường đi tìm lan với chúng tôi; và vì có phương tiện xe hơi của Đỗ Tốn và của ông Gioãn nên vùng tầm lan cũng rộng hơn nhiều, trong phạm vi đến cả trăm cây số, từ đèo Ngoạn Mục xuống tới Phan Rang hay đèo Bảo Lộc xuống đến Định Quán. Một vài chính khách như ông Phan Huy Quát thỉnh thoảng cũng có mặt trong các chuyến đi của chúng tôi.
Một bữa nọ, trong lúc đi thơ thẩn trong khu rừng thông gần nhà, tôi ngạc nhiên thấy có dăm ba người lính đứng gác ở bìa rừng xung quanh nhà tôi. Lúc tôi về nhà thì được biết tướng Dương Văn Minh cũng vừa lên xe ra về. Tướng Minh có mang đến biếu cha tôi một chậu hoa phong lan và nói chuyện với cha tôi khoảng tiếng đồng hồ trong phòng khách. Anh tôi kể lại với tôi tướng Minh là người cũng mê chơi lan, nhưng ông đến thăm cha tôi hẳn là còn có mục đích khác ngoài việc xem lan không thôi. Nhưng cha tôi cứ vờ coi như người khách đến thăm chỉ để thưởng lan; trong một giờ đồng hồ ông cứ mải miết nói với tướng Minh về cách thức trồng hoa lan để hai người khỏi phải đả động đến các vấn đề khác. Một hôm khác chúng tôi đi săn lan ở đèo Bảo Lộc. Chúng tôi đi rất đông trên hai chiếc xe hơi. Trong đám người săn lan, ngoài các văn nghệ sĩ còn có một cựu bộ trưởng, một chính khách, một nhà cách mạng từng bôn ba hải ngoại, nhưng tất cả không ai nói chuyện thời sự, chính trị. Khi đoàn xe trở về Đà Lạt ngang Liên Khương thì bị chặn lại. Quốc lộ 20 bị kẹt xe đến cả cây số và chúng tôi phải đậu xe bên vệ đường chờ đợi đến cả hai tiếng đồng hồ. Không ai biết chuyện gì xẩy ra và đều rất bực mình vì phải chờ đợi quá lâu. Sau đó dò hỏi, chúng tôi được biết lý do kẹt xe vì tổng thống Ngô Đình Diệm đi kinh lý trên Đà Lạt, chuyến bay chở tổng thống bị trễ và vì không biết lúc nào phi cơ đáp xuống phi trường Liên Khương nên tốt nhất là chặn tất cả xe cộ lại, bắt chúng tôi phải chờ đợi không biết đến lúc nào. Khi biết chuyện này Nhất Linh nói đùa với đám chúng tôi: "Nếu trong số đây mai sau có ai lên làm tổng thống thì nhớ đến cái ngày hôm nay phải chờ đợi bực mình như thế này nhé!".
Nhất Linh sống thanh bạch và giản dị. Ông giản dị mọi chuyện đến mức tối đa. Quần áo ông mặc hay quần áo của chúng tôi ông không cho ủi thẳng nếp, ông nói ủi quần áo mà làm gì, cốt nhất là giặt rũ luôn cho thật sạch sẽ là đủ. Ông lại càng không hiểu nổi khi thấy chúng tôi ủi cả quần áo lót là thứ mặc bên trong không ai nhìn thấy. Có lần tôi nhờ ông khai một lá đơn cho ông hiệu trưởng trường tôi để xin được nghỉ học một hai ngày vì hôm đó không biết tôi ăn phải cái gì mà cứ phải đi cầu hoài. Trong tờ đơn ông khai huỵch tẹt tôi xin nghỉ vì lý do "đau bụng ỉa chẩy". Tôi tức quá phản đối ông vì thấy trong một lá đơn trịnh trọng thế mà khai như vậy không văn vẻ tý nào mà lại có vẻ thô tục quá. Ông nói mình bị bệnh thế nào thì cứ đúng thế mà khai chứ có gì mà phải ngượng; nhưng sau đó ông cũng chiều tôi sửa lại với lý do "đau bụng tháo dạ" nghe có vẻ "văn chương" hơn. Nhất Linh không bao giờ in một tấm danh thiếp cho chính mình, ngay cả những khi ông đảm nhận các chức vụ lớn và ông rất ghét phải xưng hô chức tước. Trong các đơn từ, giấy tờ, hoặc có ai hỏi về nghề nghiệp, ông chỉ khai giản dị "nhà văn" thế thôi. Suốt đời ông sống thanh bạch không hề sở hữu một miếng đất hay một căn nhà của riêng mình mà chỉ đi ở đọ hay ở thuê. Vì thế năm 1957 khi ông quyết định mua một lô đất và dự tính xây một căn nhà cho chính ông thì chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa mừng vì cho rằng đã đến lúc ông ổn định để bắt đầu nghĩ đến chuyện "an cư lạc nghiệp" rồi.
Lô đất Nhất Linh mua nằm ven quốc lộ 20 Sài Gòn – Đà Lạt, ngay cây số 27, khoảng hai cây số phía nam của làng Fim-Nôm. Rộng chừng vài mẫu, miếng đất của ông nằm giữa lô đất của cụ Nghị Biên và của bác sĩ Nguyễn Sĩ Dinh. Từ quốc lộ đi sâu vào khoảng nửa cây số thì giáp ranh với dòng suối Đa- Mê, nơi Nhất Linh bắt đầu cho xây móng dựng một căn nhà gỗ tranh đầu tiên của đời mình. Đó là căn nhà do chính ông tự tay vẽ họa đồ, xây cất bằng toàn vật liệu nhẹ, một kiểu nhà trông thoáng khoát, đơn giản và rẻ tiền, đúng tiêu chuẩn kiểu nhà của Hội Ánh Sáng mà chính Nhất Linh đã từng tích cực cổ xúy để xây dựng cho đồng bào ông vào năm 1937, tính đến nay đúng 20 năm về trước.
Trong thời gian xây nhà, Nhất Linh ở luôn dưới Fim-Nôm trong một căn nhà gỗ sơ sài trên lô đất của cụ Nghị Biên. Chúng tôi thì vẫn sống ở Đà Lạt, chỉ thỉnh thoảng dịp cuối tuần mới đón chuyến xe đò xuống đó thăm ông. Nhất Linh lúc này sống như trong thời trung cổ, đoạn tuyệt hẳn với đời sống văn minh, ông nói không đoạn tuyệt cũng chẳng được vì ở đây thiếu tất cả điện nước và các tiện nghi tối thiểu, cách tốt nhất là phải thích nghi với đời sống mới. Da ông rạm nắng trông ông càng phong sương hơn, ông mặc bộ đồ rừng bốn túi, đi ủng cao, hút thuốc lào, suốt ngày đôn đốc đám thợ khai quang rừng để làm một con lộ nhỏ đi từ quốc lộ vào đến suối Đa-Mê. Ông nói với chúng tôi là bây giờ ông không cần đến cả đồng hồ để xem giờ giấc nữa vì ông đã tìm ra được một cách riêng để biết được đại khái thời gian trong ngày. Trong lúc chúng tôi ngồi ăn trong rừng, Nhất Linh nghếch tai nghe ngóng một tiếng chim lạ kêu rồi nói: "Thế mà đã bốn giờ trưa rồi!". Chúng tôi so với đồng hồ thì thấy ông chỉ đoán sai có nửa tiếng. Sai xích nửa giờ là đủ chính xác rồi vì ở đây không cần chính xác hơn. Ông giải thích là từ ngày sống ở đây cứ mỗi sáng thức dậy cho đến lúc chiều tối là ông đều lắng nghe và quan sát tất cả các tiếng kêu của muông thú trong rừng rồi ghi vào một cuốn sổ tay. Sau một tuần lễ ông khám phá ra là mỗi tiếng kêu của muông thú thường ứng với một thời gian nhất định trong ngày, thế là ông tìm ra được một loại đồng hồ riêng cho mình mà không tốn kém gì cả.
Trước đây trong những giờ rảnh rỗi cha tôi thường dậy tôi thổi hắc tiêu và lúc này tôi cũng đã chơi được kha khá. Trong số các bản nhạc Việt thịnh hành hồi đó, Nhất Linh thích nhất là thổi bản Hẹn một ngày về của giáo sư Lê Hữu Mục. Một buổi sáng cuối tuần trong lúc tôi thổi hắc tiêu bản nhạc này thì có một người khách ghé Đà Lạt muốn đến gặp cha tôi, nhưng lúc ấy cha tôi lại ở dưới Fim-Nôm. Ông khách có vẻ ngạc nhiên thích thú nghe tôi thổi bản nhạc; sau này tôi mới biết ông ta chính là giáo sư Lê Hữu Mục, muốn gặp cha tôi để phỏng vấn và viết một cuốn sách "Thân thế và Sự nghiệp Nhất Linh". Ông Mục và tôi đáp xe xuống Fim-Nôm và khi chúng tôi đến trại lan thì cha tôi đang nằm trên võng bên bờ suối Đa-Mê say sưa viết lại toàn bộ cuốn trường thiên tiểu thuyết Xóm Cầu Mới.
Thời gian này cha tôi bắt đầu viết lại và viết rất hăng say. Ông sai tôi ra tiệm trên Đà Lạt đóng mấy cuốn sách bìa dầy trong toàn là giấy trắng không kẻ hàng. Mỗi lần ghé Fim-Nôm thăm ông tôi thấy những trang giấy trắng đã chứa đầy những dòng chữ nhỏ li ti, viết bằng cây bút parker 51; những dòng chữ bị dập xóa, viết chồng lên nhau chằng chịt như cuốn hút trong dòng tư tưởng dồn dập. Để theo kịp được những cảm xúc, hình ảnh, ý nghĩ xô dạt trong đầu, tay ông phải viết nhanh lắm; do đấy mà chữ viết cứ nhỏ dần đi như chân kiến. Đi xa hơn nữa, để cho viết được nhanh hơn hoặc để khỏi phải bận tâm đến cái mà ông cho là không cần thiết, ông đã bỏ hết những quy luật văn phạm, chính tả thông thường. Công việc sửa lỗi chính tả nhỏ nhặt đó thường là công việc của người khác khi bản thảo được đánh máy trước khi in thành sách.
Nhưng rồi một biến cố xẩy đến khiến bộ trường thiên Xóm Cầu Mới trở thành dang dở. Khoảng cuối thập niên 50, căn nhà bên dòng Đa-Mê của cha tôi còn đang được xây cất nửa chừng. Một đêm kia trời mưa dông bão lớn, sáng ra căn nhà bỗng nhiên bị sụp đổ tan hoang chỉ còn trơ lại nền móng. Nhất Linh buồn rầu đứng nhìn cái nền nhà trơ trọi, hẳn là ông nghĩ đế căn nhà trong mộng của mình, căn nhà mà ông đã nâng niu đặt tên Thanh Ngọc Đình để thưởng cho một loài hoa tiên cách nhất đối với ông, mới một sáng một chiều, đã tan hoang như mây khói. Ông nói với chúng tôi giấc mộng con của ông đã không thành, ông không nghĩ đến việc xây cất lại vì cho rằng sự sụp đổ này như một điềm lạ.
Thế rồi ông quyết định giã từ tất cả. Đà Lạt, Fim-Nôm, dòng Đa-Mê và cả trăm giỏ lan mà ông đã chăm sóc từ hai năm qua, để về ở luôn Sài Gòn, chấm dứt cái thời kỳ mà ông Lê Hữu Mục đã viết trong đoạn kết cuốn sách của ông là "một Nhất Linh nằm trùm chăn ở trên Đà Lạt". Đối với tôi, thật bụng tôi chỉ mong ông được nằm trùm chăn lâu hơn vì đây chính là thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời ông mà tôi được biết. Nhất Linh "xuống núi" lăn vào cuộc đời làm báo, tham gia đảo chính, thất bại, đi trốn, bị đưa ra tòa, đưa đến cái tự vẫn của ông mấy năm sau, mở đầu một thời kỳ cuối cùng của đời ông với nhiều não nề, nhiều chán chường hơn.
Như đoạn văn kết trong cuốn truyện Đôi bạn của ông, hai câu thơ sau đây của Nhất Linh, đâu đó, vẫn còn vẳng về Đà Lạt như "một nỗi nhớ xa xôi đương mờ dần":
Người đi lâu chửa thấy về,
Nhớ người lòng suối Đa Mê gợn buồn...

Tacoma, tháng 6 năm 1985

______________

Phụ đính:

Tờ truyền đơn

nguyen tuong thietTình cờ trên một số báo Văn cũ, số Xuân Quý Mùi 2003, tôi được đọc một truyện ngắn của nhà văn Mai Ninh. Đoạn văn sau đây trong truyện “Mưa mùa xa” khơi dậy trong tôi nhiều kỷ niệm xưa, về một thời tuổi trẻ sôi động năm 1963: “Rồi tôi, cô bé mười ba bấy giờ biết những chấn động đầu tiên trong đời qua màn sương phả suốt đêm giới nghiêm, ngập ngụa những tờ truyền đơn ướt nát, những mảng biểu ngữ rách bươm và gậy gộc lẫn nhang đèn vung vãi trên vỉa hè sau cuộc biểu tình tuyệt thực rầm rộ trước nhà, loa phóng thanh rền rĩ niệm kinh suốt buổi chiều. Lẫn trong tiếng nước dập rồn rã vào cửa liếp và những chậu kiểng mẹ trồng thay hàng dâm bụt với gốc tầm ruột xanh từng chùm đã đốn đi, thỉnh thoảng rú lên hụ còi xe quân cảnh tuần tiễu chạy rút giữa lòng đường…”
Những tờ truyền đơn ướt nát hồi đó mà cô bé Mai Ninh trông thấy không thể nào tồn tại trên đường phố lâu quá 24 tiếng đồng hồ. Số phận của chúng là được rải đi để rồi tan biến trong lòng các ống cống vỉa hè Sài Gòn. Thế nhưng…
Do một sự hết sức tình cờ một tờ truyền đơn của thời ấy được tìm thấy trên đất Mỹ 40 năm sau. Tờ giấy tầm thường ấy bây giờ nằm trong tay tôi không còn mang bất cứ một ý nghĩa nào cả ngoại trừ nó là chứng tích của một thời tuổi trẻ. Tuổi trẻ tôi, tuổi trẻ thế hệ chúng tôi, những người mà giờ đây nếu còn sống hẳn đã hai màu tóc hoặc một màu tóc bạc trên đầu.

*
Tháng 8 năm 2003 tôi nhận được điện thư của một người quen cũ, anh Nguyễn Trọng Nho. Năm ấy anh Nho dự định tổ chức một buổi họp mặt tại Nam Cali gồm những người đã một thời từng là sinh viên và quen nhau tại khuôn viên các trường đại học Sài Gòn trong bàu khí sôi sục của năm 1963. Anh Nho đặt tên cho cuộc họp mặt ấy là “bốn mươi năm nhìn lại”.
Gặp nhau để làm gì? Tôi tự hỏi. Như thể đọc đươc ý nghĩ của tôi, anh viết tiếp: “Gặp nhau không để làm gì cả, ngoài nhìn lại tuổi trẻ của mình”.
Tôi viết thư tính từ chối lấy lý do ở xa. Nhưng nghĩ thế nào tôi lại lấy vé bay xuống Cali. Chính dòng chữ sau đây của anh Nho đã khiến tôi đổi ý: “Gặp nhau là quý. Gặp nhau khi còn có thể. Cuộc đời của chúng ta rồi cũng sẽ qua đi…” Anh Nho không phải là nhà văn nhưng những dòng chữ ấy khiến lòng tôi se lại.
Trước khi đi, tôi gấp làm tám một tờ giấy đã nhầu nát bỏ trong ví. Đó là một tờ truyền đơn quay ronéo có tiêu đề: “Lời kêu gọi của Ủy-ban chỉ-đạo sinh-viên liên khoa gởi toàn thể anh chị em sinh-viên học-sinh thủ-đô và toàn quốc” ký tên 5 sinh viên: Nguyễn Hữu Đống, Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Trọng Cảnh, Nguyễn Tường Thiết, Dương Kiền. Ủy ban được thành lập trong Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa vào đêm ngày 1-11-1963, cái đêm chấm dứt nền Đệ Nhất Cộng hòa của miền Nam Việt Nam.
Tôi hy vọng, trong cuộc họp mặt tại nhà anh Nho tôi sẽ được gặp lại mấy anh đã cùng tôi ký tên trên tờ truyền đơn. Tôi hình dung trước nét mặt ngạc nhiên của các anh ấy, khi tôi đưa ra tờ giấy. Chính tôi, tôi cũng ngạc nhiên gần như sửng sốt khi tình cờ tìm thấy nó. Điều trớ trêu là trong suốt 40 năm, tờ truyền đơn nằm ở ngay sát cạnh tôi mà tôi không hay biết.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi rời khỏi Việt Nam tôi đã may mắn mang theo được hai tập bản thảo hai tác phẩm sau cùng của thân phụ tôi, nhà văn Nhất Linh. Hai tập bản thảo đó tôi cất giữ bên mình suốt 40 năm trời ở Mỹ ,nhưng không một lần nào tôi mở ra xem kỹ từng trang. Cho mãi đến năm 2003 khi tôi cho tái bản cuốn Giòng Sông Thanh Thủy, tôi giở từng trang một để đánh máy và lặng người tìm thấy một tờ truyền đơn nằm kẹp giữa tập bản thảo.
Đúng như tôi đoán trước ,tờ truyền đơn trở nên trọng tâm sự chú ý của mọi người. Tất cả truyền tay nhau. Không phải để đọc tờ truyền đơn quay ronéo ấy, vì nội dung của nó nay đã trở thành vô nghĩa, mà chỉ cốt sờ vào cái tờ giấy nhầu cũ vàng úa để có cảm tưởng mình sờ vào chính tuổi trẻ thời sinh viên của mình. Ở nhà anh Nho hôm đó chỉ có hai người ký tên trên tờ truyền đơn có mặt là anh Nguyễn Trọng Cảnh và tôi. Chúng tôi kéo nhau ra phố làm photocopy tờ tuyền đơn. Trở về nhà anh Nho, anh Cảnh và tôi trao đổi nhau hai tờ phóng ảnh để lưu niệm. Trên tờ anh Cảnh giao tôi, cạnh chữ ký của chính anh 40 năm trước, anh Cảnh ký tên anh với lời chú thích trong dấu ngoặc (40 năm sau). Anh Cảnh là người thứ ba ký trên tờ truyền đơn. Lúc ấy anh là sinh viên năm thứ tư kỹ sư Điện. Chữ ký của anh 40 năm sau vẫn y như vậy. Tôi cũng ký tên như thế trên một tờ phóng ảnh khác ,và tặng lại anh. Năm đó, tôi 23 tuổi và là sinh viên năm thứ ba của đại học khoa học Sài Gòn.
Buổi chiều hôm đó ,trời Cali có nắng nhưng không nóng. Bên chiếc bàn dài đặt ở sau vườn nhà anh Nho chúng tôi, khoảng hơn 10 người, ngồi ôn chuyện cũ. Câu chuyện đến một lúc trở về với biến cố ngày 1 tháng 11 năm 1963, tôi nhắc lại về trường hợp hình thành của tờ truyền đơn và những gì năm sinh viên chúng tôi chứng kiến vào cái đêm không ngủ, cái đêm “lạc đường” vào trong Bộ Tổng tham mưu QLVNCH. Không muốn làm mất thì giờ của các anh, vả lại chuyện xẩy ra đã quá lâu tôi hầu như đã quên hết, nên hôm đó tôi không kể chi tiết. Tôi chỉ hứa là trong tương lai nếu có dịp tôi sẽ viết lại. Hôm đó tôi không nói ra nhưng trong bụng tôi nghĩ lý do tôi muốn viết lại bởi vì trong số năm sinh viên ấy tôi tin rằng mình là người duy nhất lại “lạc đường” vào trong Bộ Tổng tham mưu QLVNCH một lần thứ hai, đúng vào cái đêm cáo chung nền Đệ Nhị Cộng hòa của miền Nam Việt Nam, đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Hai đêm lịch sử ấy, hai đêm cáo chung của hai nền cộng hòa miền Nam, cách nhau 12 năm. Trong hai “đêm trắng” ấy mặc dù tôi tình cờ có mặt trong cơ quan đầu não của quân lực miền Nam vào những giờ phút nghiêm trọng nhất của đất nước, nhưng vì ở một cương vị rất khiêm tốn (là một sinh viên trong đêm thứ nhất và là sĩ quan cấp nhỏ trong đêm thứ hai) tôi hoàn toàn không được chứng kiến, không được biết đến, những gì đã thực sự xẩy ra trong Bộ Tổng tham mưu ở trên cấp bực cao. Chính vì vậy tôi chỉ nói là hai đêm đó tôi đã “lạc đường” vào trong Bộ Tổng tham mưu mà không dám bảo là mình đã “lạc đường vào lịch sử”, như lối nói của tác gỉa Nguyễn Mạnh Côn.

*
Chị Nho là người đàn bà duy nhất trong buổi họp mặt hôm ấy. Trong cương vị chủ nhà, chị tiếp những người bạn của chồng mình rất niềm nở. Chị tươi cười nhanh nhẹn mang thức ăn từ trong bếp ra bầy trên chiếc bàn dài sau vườn nhà. Thấy chị một mình vất va,û chúng tôi cũng đứng lên phụ chị mỗi người một tay. Người xách ghế, kẻ bầy bàn…Biệt thự của anh chị Nho nằm trên một quả đồi trong một khu sang trọng và biệt lập. Xe chúng tôi lên dốc, dừng trước cổng sắt. Tài xế bấm vào intercom liên lạc với chủ nhà để mở cánh cổng vào trong khu vực.
Ăn cơm xong, trời ngả chiều. Sau mấy tiếng đồng hồ tranh luận sôi nổi chuyện cũ chuyện mới, mọi người bây giờ lắng xuống. Tay cầm cốc cà-phê, tay kia điếu thuốc lá, hai ba người ngả lưng sau ghế, trầm ngâm. Riêng tôi, tôi cố gắng nhớ lại hai đêm ấy. Tôi tưởng tượng sau này nếu tôi viết, tôi sẽ viết như thế nào.
Điều tôi chắc chắn là tôi không thể viết theo trình tự thời gian, bởi vì khi tôi tập trung để nhớ lại thì hai đêm đó hòa chập vào nhau làm một, xuất hiện hầu như cùng một lúc. Ở một thời điểm này, những hình ảnh của một mảnh đời vụt lóe. Rồi nhòe đi chồng lên mảnh khác, thời điểm khác. Rồi lại vụt tắt. Cứ thế chúng giao thoa chồng chéo đè giẫm lên nhau. Tôi ước ao có một thứ dụng cụ nào tựa như máy chụp hình hay máy quay phim có thể ghi nhận, chụp bắt những mảnh thoáng hiện đó trong trí nhớ tôi. Nhưng cố nhiên không thể được. Tôi đành phải viết ra vậy.

*
Đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tổng Cục quân huấn, Bộ Tổng tham mưu QLVNCH.
Tôi ngồi im trong bóng tối một gian phòng rộng. Tôi ngồi im như thế lâu lắm. Lúc ấy tôi không có ý niệm về thời gian nhưng chắc là vào khoảng nửa khuya. Các ngọn đèn trong phòng đều tắt. Áønh sáng từ một ngọn đèn ở hành lang chiếu qua những khung cửa sổ chiếu mờ mờ gian phòng với dẫy bàn ghế trống vắng. Vài chiếc mũ sĩ quan đặt trên mặt bàn. Mỏi mệt, tôi chuyển thế ngồi. Lúc đó tôi mới để ý chiếc giầy trận và bộ quân phục tôi mặc vội chiều nay rộng quá khổ. Tôi là sĩ quan, cấp bực trung úy, thuộc Tổng cục Chiến Tranh Chính Trị. Nhưng vì trước đó không lâu tôi đã được biệt phái giáo chức nên rất ít khi tôi mặc đồ nhà binh. Chiều nay tôi vội sỏ bộ đồ này của người khác, vì nhu cầu khẩn cấp theo chân đại tá Nguyễn Tiến Lộc vào trong bộ Tổng tham mưu.
Tôi lắng nghe. Từ xa rất xa cứ cách vài phút lại “ục” một cái, vọng về một tiếng nổ trầm. Qua cửa sổ trong màn đen ở chân trời lâu lâu lóe lên một ánh hỏa châu. Ánh vàng tỏa ra rồi lặng lẽ lụi trong bóng đêm.
Trong yên tĩnh tôi nghe có tiếng lầm rầm rất nhỏ ở góc phòng. Đúng hơn là một tiếng gì nghe như tiếng rên rỉ. Tôi nhìn về phía đó. Chỗ ấy tối quá tôi không trông rõ người, chỉ thấy được lờ mờ cái lưng của một vị sĩ quan. Ngồi cúi đầu trong bóng tối, ông ta đang rên rỉ hay đang khóc thầm? Tôi không rõ. Lát sau tôi nhận ra không phải là tiếng rên rỉ mà chính là tiếng nói của ông ta, nói gằn nhưng cố ghìm giọng xuống cho thật nhỏ. Đột nhiên tiếng nói cất cao hơn khiến tôi nhận ra là từ nẫy ông ta đang nói trên điện thoại. Giọng ông ta có tiếng gắt: “Anh đã bảo rồi mà! Anh không thể nào về được! Cắm trại một trăm phần trăm! Anh không về được!”. Rồi tiếng ông ta lại nhỏ xuống, rền rĩ: “Em đi ngay đi! Ra ngay bến tàu. Còn kịp mà! Mang con đi ngay! Đừng đợi anh... Nghe anh đi! Anh van em... Anh lạy em…”.
Một tiếng “kịch”sau đó. Ông ta gác máy, đầu gục xuống bàn. Cái lưng ông ta bắt đầu rung rung. Rồi tiếng khóc bật lên, không kìm hãm, nức nở trong gian phòng vắng. Hồi lâu sau, ông ta đứng dậy, chụp chiếc mũ lên đầu, mở cửa đứng tần ngần nhìn trời một lát rồi bước hẳn ra ngoài. Đèn ở hành lang chiếu rõ nét mặt. Những thớ thịt trên mặt ông căng lại. Nhưng hai làn môi mím chặt thì lại run lên bần bật. Tôi thoáng thấy hai bông mai bạc lóe trên chiếc mũ ông ta trước khi ông biến mất vào bóng đêm.
*
Mười hai năm trước. Đêm 1 rạng ngày 2 tháng 11 năm 1963. Bộ chỉ huy, Bộ Tổng tham mưu QLVNCH.
Tôi bước lên những bực thang cao dẫn lên Bộ Chỉ Huy. Lúc ấy trời tối đen. Trong đại sảnh to lớn, những sĩ quan trong bộ quân phục vàng đi lại vội vã. Không khí nghiêm trọng. Tôi đứng trân ở đó, ngỡ ngàng. Tại sao tôi lại có mặt ở đây? Trong bộ đồ dân sự lạc lõng ở nơi này?
Lát sau một quân nhân cấp bậc đại úy lại gần. Một người mặc thường phục đi cạnh viên sĩ quan. Anh ta dáng người khá cao, to ngang, mặt tròn, đầu hói, giơ bắt tay tôi, rồi tự giới thiệu bằng giọng Huế: “Nguyễn Hữu Đống, sinh viên kiến trúc”. Sau khi viên sĩ quan đi khỏi, anh Đống dẫn tôi đến góc phòng, nơi đã có ba người mặc thường phục, ba sinh viên như chúng tôi, chờ ở đấy. Chúng tôi bắt tay nhau và tự giới thiệu. Trong số bốn sinh viên có mặt đêm hôm đó tôi chỉ biết mỗi Dương Kiền, vì anh Kiền năm ấy là luật sư tập sự, phụ tá cho luật sư Đinh Trịnh Chính, người mà bốn tháng trước đã thụ lý hồ sơ biện hộ cho cha tôi trong phiên tòa xử ngày 8 tháng 7 (nhưng cha tôi đã tự vẫn vào ngày hôm trước).
Vào khoảng nửa đêm, cửa mở. Trung tướng Dương Văn Minh từ trong phòng họp bên cạnh bước ra đại sảnh. Oai vệ, cao lớn trong bộ quân phục vàng thẳng nếp, ba ngôi sao bạc lấp lánh trên cầu vai, tướng Minh tiến lại phía chúng tôi. Ông bắt tay từng người một và ngỏ ý cảm ơn các anh em sinh viên đã có mặt ở đây trong đêm lịch sử này để làm hậu thuẫn cho cuộc cách mạng.
Tôi là người cuối cùng được tướng Minh bắt tay. Khi ông cúi xuống, tôi trông thấy nét mỏi mệt trĩu nặng trên gương mặt đăm chiêu. Ngay khi ấy, anh Đống đứng cạnh tôi giới thiệu tôi với tướng Minh:“Thưa trung tướng, anh Thiết đây là con của nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam”.
Nghe thế, tướng Minh nhìn sâu vào mắt tôi, môi ông mím lại. Ông đưa cao cánh tay trái đặt lên vai tôi trong khi tay kia vẫn cầm tay tôi, nắm chặt. Tôi cảm thấy trên bả vai mình bàn tay to lớn của ông vừa ấn xuống vừa bóp khẽ nhè nhẹ. Tôi nói vài câu vắn tắt với tướng Minh, trong đó tôi nhắc một kỷ niệm năm năm về trước, năm 1958, tướng Minh đã có lần ghé thăm vườn lan của cha tôi ở Đà Lạt (Tướng Minh và cha tôi có chung một cái thú đam mê: hoa phong lan), nhưng tôi không biết những lời tôi nói lúc ấy có lọt vào tai ông không, vì hình như tâm trí tướng Minh còn đang rối bời về cuộc đảo chánh mà ông cầm đầu đang diễn tiến chưa ngã ngũ; tôi chỉ biết là môi ông ta mím chặt lại như muốn ngăn một sự xúc động. Ông cứ đặt tay lên vai tôi như thế, khá lâu, không nói với tôi một lời.
Lát sau như chợt tỉnh, tướng Minh đứng thẳng người lại. Ông bóp mạnh một cái vào bả vai tôi, rồi buông tay. Day qua bên cạnh, tướng Minh trả lời anh Đống câu nói lúc nẫy của anh khuyên tướng Minh nên đi nghỉ vì trông vị tướng này đã quá mỏi mệt: “Qua phải chờ một cú điện thoại nữa mới yên tâm mà đi nghỉ được. Một cú điện thoại nữa…”
Nói xong tướng Minh quay người trở lại phòng họp. Lúc ấy khoảng nửa đêm rạng sáng ngày mồng 2 tháng 11 năm 1963. Nội dung của cú điện thoại đó đến nay với tôi vẫn còn mãi là một dấu hỏi bí ẩn.

*
“Cắm trại một trăm phần trăm. Anh không thể nào về được”. Câu nói của vị trung tá trên điện thoại với vợ khiến tôi nghĩ ngay đến hoàn cảnh mình. Tôi cũng đang bị kẹt trong Bộ Tổng tham mưu QLVNCH, cũng trong tình trạng cắm trại 100%, giống hệt như ông ta. Chỉ khác một điều là trong khi vợ con của vị trung tá kia còn đang ở Sài Gòn thì vợ con tôi đã rời Sài Gòn chiều hôm trước trên chiếc máy bay C-130 của không lực Mỹ và giờ này chắc đang có mặt tại đảo Guam.
Chúng tôi bốn người. Bốn sĩ quan của quân lực VNCH. Hai trung úy là Nguyễn Đình Hùng và tôi. Hai người kia là hai anh em ruột, đều là anh rể của Hùng: đại tá Nguyễn Tiến Lộc và trung tá Nguyễn Văn Lạc. Đại tá Lộc là thành viên của Uûy ban Liên hợp Quân sự Bốn Bên. Vào những ngày chót của cuộc chiến, một chương trình di tản bằng phương tiện máy bay của không lực Mỹ được thiết lập dành cho vợ con và thân nhân của những thành viên Uûy ban Quân sự.
Một ngày sau khi vợ con của bốn chúng tôi đã rời khỏi Việt Nam, tình hình chiến sự hết sức nguy ngập. Cộng quân đã tiến sát vào thủ đô. Bốn chúng tôi dính chùm nhau ngồi đợi tại tư gia của đại tá Lộc, số 27 đường Trương Quốc Dung, Phú Nhuận. Tất cả các radio, transistor trong nhà được bật lên nghe ngóng tin tức chiến sự. Đại tá Lộc theo dõi đài phát thanh Hoa Kỳ trên làn sóng FM. Ba chúng tôi hoàn toàn phó thác số mệnh cho con chim đầu đàn là đại tá Lộc, lúc này đang nghĩ rất lung tìm cách vượt thoát khỏi Việt Nam, vì tình hình đã tuyệt vọng và vì vợ con của bốn người đã rời khỏi nước.
Giữa nhà có một cái bàn mạt chược vuông vức trải vải nhung màu xanh lá cây đậm, bốn chiếc ghế ở bốn cạnh bàn. Chúng tôi bốn người. Ngồi nghe ngóng tin tức trong mấy tiếng đồng hồ tinh thần căng thẳng quá, đại tá Lộc đề nghị chúng tôi chơi mạt chược để giải trí. Tất cả đều là dân mê mạt chược, trừ tôi. Tôi không biết đánh. Đại tá thất vọng, nhìn tôi nói: “Tao chán mày quá!”. Bây giờ nghĩ lại cũng may mà tôi không biết đánh mạt chược. Nếu tôi biết đánh và nếu bốn chúng tôi mê mải trong bàn mạt chược không theo dõi sát tình hình, thì cuộc diện có thể thay đổi hẳn, chúng tôi có thể bị kẹt lại ở Việt Nam và cuộc đời của chúng tôi rẽ hẳn sang một hướng khác.
Đêm hôm đó, đêm 29 tháng Tư, không hiểu nghĩ thế nào - có thể là ông nghĩ Mỹ sẽ bốc những sỹ quan cao cấp trong đó vào giờ phút chót - đại tá Lộc bất thần ra lệnh Hùng và tôi mặc quân phục, lên xe jeep, lái vào trong Bộ Tổng tham mưu QLVNCH. Đây là một tính toán sai lầm. Ông không hay biết rằng vào đó tức là đâm đầu “vào rọ”. Những quân nhân trong đó đêm hôm ấy bị cắm trại 100%. Trong khi nhiều quân nhân khác đang ở đó có thể đang tìm mọi cách để ra khỏi rọ mà không được thì bốn chúng tôi lại đâm đầu vào. Trong Bộ Tổng tham mưu, đại tá Lộc lái đến Tổng Cục quân huấn, nơi trung tá Lạc làm việc, bỏ ba chúng tôi tại đó, một mình ông lái xe đến Bộ Chỉ huy, trình diện vị Tổng tham mưu trưởng sau cùng của quân lực miền Nam, trung tướng Vĩnh Lộc. Vị tướng này hẳn là rất ngạc nhiên trước sự hiện diện bất ngờ của đại tá Lộc vào cái thời điểm này.
Suốt tối hôm đó cho đến nửa đêm, ngồi trong căn phòng tối của Tổng Cục quân huấn, chúng tôi nghe thấy lẫn trong tiếng pháo kích, tiếng đại bác ỳ ầm vọng tới từ miền ngoại ô, có lẫn tiếng máy bay rầm rộ từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất sát bên Bộ Tổng tham mưu lướt qua đầu chúng tôi. Đó là hàng đoàn những chiếc C-130 của không lực Hoa Kỳ cất cánh trong nỗ lực tuyệt vọng mang những đợt người di tản sau cùng rời khỏi Việt Nam.

*
Khoảng ba bốn giờ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963 đèn bật sáng choang trong đại sảnh Bộ Chỉ huy Bộ tổng tham mưu. Tướng Dương Văn Minh tái xuất hiện. Ông chỉ thị cho viên sĩ quan tùy tùng làm sự vụ lệnh cấp năm chiếc xe Dodge 4 đưa năm chúng tôi sang bên Nha Chiến tranh Tâm lý. Tôi ngồi một mình một xe, cạnh tài xế. Chiếc xe lướt đi trong bóng đêm trên những con đường vắng tiến về phía trung tâm của thành phố Sài Gòn. Qua sở thú, đến đường Hồng Thập Tự gần cầu Thị Nghè, xe rẽ vào trong Nha Chiến tranh Tâm lý.
Tại Nha, chúng tôi thảo truyền đơn. Sau đó bản thảo được đưa cho một hạ sĩ quan đánh máy trên giấy stencil để quay ronéo. Ở cuối tờ truyền đơn đề tên năm sinh viên. Khi được hỏi về phân khoa nào và học năm thứ mấy, tôi phân vân: Các ngành luật, kiến trúc, kỹ sư...có chia rõ sinh viên năm thứ mấy, còn các ngành khác như đại học khoa học, văn khoa... người ta chỉ nói sinh viên chứng chỉ này, chứng chỉ nọ. Cuối cùng tôi cũng cứ đề đại sinh viên năm thứ ba, tính từ năm tôi đậu Tú Tài II.
Khi mấy ngàn tờ truyền đơn được in xong thì trời đã sáng hẳn. Chúng tôi ngồi trên năm chiếc Dodge 4 rời Nha Chiến tranh Tâm lý đi về năm hướng khác nhau của thành phố Sài Gòn. Mỗi người được trang bị một thùng truyền đơn và một cái haut parleur cầm tay.
Chiếc Dodge 4 chạy về hướng trung tâm thành phố.

*
Từ nửa khuya cho đến rạng sáng, cứ cách một tiếng đồng hồ lại có tiếng xe jeep đậu trước Tổng Cục quân huấn. Đại tá Lộc bước vào phòng. Trong bóng tối tôi thấy ông rầm rì nói chuyện với người em trai. Ông nói vắn tắt rồi vội vã đi ngay. Lúc này không còn tiếng C130 rầm rộ bay qua đầu. Tôi nghe rõ hơn tiếng súng. Xen lẫn những tiếng đại bác nổ còn lẫn tiếng súng nhỏ từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất.
Khoảng tờ mờ sáng đại tá Lộc bảo ba chúng tôi lên xe, lái thẳng ra cổng Trại.
Đêm trước sau khi trình diện vị Tổng tham mưu trưởng, đại tá Lộc được tướng Vĩnh Lộc giao phó trách nhiệm kiểm soát hệ thống phòng thủ toàn thể khu vực Bộ Tổng tham mưu. Với chức vụ mới này đại tá Lộc suốt đêm hôm đó đã lái xe đi kiểm soát tất cả các trạm gác, các cửa ngõ ra vô trại, và mỗi lần đi thanh tra một vòng như thế đại tá lại ghé qua Tổng Cục quân huấn trao đổi vài câu ngắn ngủi với trung tá Lạc. Gần sáng đại tá xin tướng Vĩnh Lộc về nhà để lấy một số vật dụng tùy thân. Tuy được phép ra khỏi trại nhưng chúng tôi cũng rất lo, bởi vì vòng đai phòng thủ bên ngoài của trại thuộc lực lượng Dù, và lính dù Dù có thể bắn vào tất cả những quân nhân nào toan tính vượt thoát ra khỏi doanh trại Bộ Tổng tham mưu.
Chiếc jeep ngừng lại trước cổng. Đại tá Lộc xuống xe, tiến về phía trạm gác. Thiếu tá trưởng trạm nhấc điện thoại gọi vào trong Bộ chỉ huy xin xác nhận. Rồi cổng mở. Chiếc xe mang bốn chúng tôi vọt ra.
Như một khúc phim câm đen trắng được quay lại rất chậm chiếc xe jeep lặng êm chạy qua cổng trại của Bộ Tổng tham mưu. Lúc đó khoảng năm giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Lúc xe vượt qua cổng ấy tôi có cảm giác như có nhiều mũi súng đang hướng từ phía sau. Bên ngoài vắng hoe. Lực lượng dù đông đảo trấn giữ ở đây đêm trước đã bất ngờ rút. Chiếc jeep lăn trên đường Công Lý. Trời còn mờ tối. Phố xá vắng. Chốc chốc vọng tiếng nổ ỳ ầm ở xa. Có xen lẫn những tiếng súng nhỏ. Chân trời lóe sáng từng chập.
Chiếc jeep chạy về hướng trung tâm thành phố.

*
Trung tâm thành phố Sài Gòn bừng bừng khí thế cách mạng buổi sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963. Đại lộ Thống Nhất dẫn đến Dinh Độc Lập đông nghẹt người xuống đường. Chiếc Dodge 4 khó khăn lách qua đoàn người biểu tình đi nghênh ngang giữa lộ.
Phía trước Dinh Độc Lập đối diện Vương Cung Thánh Đường rừng người và biểu ngữ tràn ngập đường phố; đám đông trèo lên những chiếc xe thiết giáp đậu dọc con đường Công Lý. Trong công viên dưới hàng cây sao những người lính dù trong bộ quân phục rằn ri ngồi dựa gốc cây nghỉ, nón sắt bỏ bên cạnh, yên lặng hút thuốc. Chung quanh họ dân chúng bu quanh hỏi chuyện. Nhiều người đem bánh mì và nước uống cung cấp cho binh sĩ.
Tiếng hoan hô, đả đảo vang động trong đám đông. Khích động bởi không khí cuồng nhiệt tôi như người sôi máu. Tôi mở cửa hông xe, đứng hẳn dậy, thò đầu ra ngoài xe, tay tôi vung lên cao tung từng xấp truyền đơn bay lả tả trên đầu trên vai đám người dưới đường tranh nhau bắt lấy. Đưa chiếc máy phóng thanh cầm tay lên miệng tôi đọc lớn lời kêu gọi của Uûy-ban chỉ-đạo sinh-viên liên khoa gửi toàn thể anh chị em sinh-viên học-sinh thủ đô và toàn quốc: “Quân đội đã đứùng lên lật đổ chế độ độc tài thối nát vào 2 giờ chiều ngày hôm nay 1-11-1963 để làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc… bổn phận của chúng ta là phải làm hậu thuẫn cho cuộc cách mạng…” Ngay khi tờ truyền đơn vừa được đọc xong một thanh niên trong đám đông đu người lên xe đứng nghiêng người cạnh tôi. Anh ta dằng lấy máy phóng thanh trong tay tôi, hô lớn: “ Đả đảo độc tài gia đình trị!”. Lập tức cả trăm tiếng hô vang dậy: “Đả đảo! Đả đảo!”. “Hoan hô cách mạng thành công!”…“Hoan hô!”…

*
Trời đã tỏ rạng hơn sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Đường phố im vắng. Không một bóng xe. Sài Gòn như ngưng tiếng thở. Hai bên đường đám đông người đi bộ gương mặt thất thần. Họ đi…thất thểu đi xuôi đi ngược đi vất vưởng đi không định hướng như những thân xác không hồn. Ngồi sau chiếc xe jeep cảm giác của tôi lúc đó thật lạ. Không lo âu. Không sợ hãi. Không kinh hoảng. Chỉ thuần một sự mê lịm.
Xe đi qua đường Trần Quốc Toản rẽ vào trong sân rất rộng của trụ sở Ủûy ban Liên hợp Quân sự. Trong sân một đám đông người đã tụ ở đó. Ai nấy đứng ngửa cổ ngóng lên trời cao nhìn vài chiếc phi cơ cuối cùng rời khỏi thành phố bay về hướng biển. Trong đám đông có vài ánh lóe nhấp nháy tuyệt vọng của những chiếc gương làm hiệu lên bàu trời. Sau khoảng 15 phút đứng chờ ở đó tôi nghe tiếng đại tá Lộc nói: “Không xong rồi!”. Đại tá ra lệnh chúng tôi thay lại đồ dân sự. Chúng tôi vứt bỏ đồ trận và súng ống ở trong sân của trụ sở rồi nhẩy lên jeep. Phía trước tôi nghe mẩu đối thoại khẽ, ngắn. Trung tá Lạc: “Mình đi đâu?”. Đại tá Lộc: “Tôi tìm đường xuống Gò Công”. Trung tá Lạc: “Không nên. Không kịp. Tụi nó đã vào sát Sài Gòn. Đi Nhà Bè. Gần nhất”.
Xe chạy qua đường Thống Nhất. Tôi nhìn lại lần cuối Tổng Cục CTCT, đơn vị cuối cùng tôi phục vụ. Bên cạnh Tổng Cục tôi chứng kiến cảnh dân chúng trèo tường vào trong Tòa Đại Sứ Mỹ. Trên hè rộng trước Tòa Đại Sứ la liệt đồ đạc do dân chúng tràn vào hôi của bỏ lại. Xe qua Khánh Hội. Một cảnh tương tự xẩy ra ở Kho 5. Dân chúng tràn vào kho hôi của hoặc tìm đường ra tàu thoát thân. Đu trên hàng rào mắt cáo của Kho 5 bầy người đông nghẹt chen nhau hỗn loạn. Trên đường Trịnh Minh Thế dẫn đến Nhà Bè có rất nhiều vòng kẽm gai chắn ngang đường. Trung Tá Lạc chốc chốc lại xuống xe kéo vòng gai để chiếc jeep lách qua chạy tiếp. Gần đến Nhà Bè một cảnh tượng tôi không bao giờ quên được. Một toán lính Địa Phương Quân khoảng vài chục người đi nghêng ngang giữa lộ. Đám lính không súng ống, không giầy trận tơi tả đi về hướng Sài Gòn. Vừa đi vừa lột vứt áo trận xuống đường.
Đến Nhà Bè ngang một bến tàu là kịch đường. Tuyệt lộ. Chiếc jeep đỗ khựng. Chúng tôi nhìn quanh. Bến tàu vắng hoe. Giữa lòng sông Sài Gòn những chiếc tàu đủ loại lướt qua mang theo những đợt người di tản sau cùng của thành phố.
Bốn chúng tôi nhìn đoàn tàu hối hả đi ngang trên lòng sông rộng, nghĩ tới vợ con tất cả đã rời khỏi nước bằng máy bay của cơ quan DAO từ hôm trước mà lòng não nùng tuyệt vọng. Đúng vào lúc ấy một người đàn ông không biết từ đâu chạy tới nói nhỏ: “Các ông di tản?”. Chúng tôi gật đầu. Ông ta bèn “mách nước”: “Ở mé kia có một cái xuồng máy vừa cập bến. Họ đang lấy xăng. Các ông có thể xin quá giang qua tàu lớn đậu ở ngoài sông”. Mách xong ông ta ngửa tay xin Đại tá Lộc cái chìa khóa xe jeep. Cầm chìa khóa trong tay ông ta lại xin thêm thẻ chủ quyền xe rồi ông ta biến mất. Trong cơn mê hoảng và nỗi tuyệt vọng chúng tôi lúc ấy không ai nghĩ đến việc ông ta có thể lừa chúng tôi để lấy xe. Chúng tôi chạy vội đến chỗ ông ta chỉ thì quả nhiên có chiếc xuồng máy đậu. Trên xuồng có dăm ba người lính. May mắn tột cùng làm sao một người lính trên xuồng vừa mới vượt thoát từ Đà Nẵng về nhận ra ngay đại tá Lộc khi ông còn phục vụ ngoài Quân đoàn I mấy năm trước và cho chúng tôi xuống xuồng. Bốn chúng tôi sau đó được chuyển qua một con tàu lớn đi ra cửa biển. Con tàu này mang tên Tourane 3.
Cùng thời gian ấy cách 10 cây số về hướng tây nơi trung tâm thành phố bây giờ mang tên Hồ Chí Minh chiếc xe tăng đầu tiên của phía bên kia từ hướng Thị Nghè đang tiến trên đường Thống Nhất hướng về Dinh Độc Lập.
Tàu Tourane 3 đi ngang khúc sông Lòng Tảo. Có tiếng súng lớn nổ từ hai bên bờ sông nhắm vào đoàn tàu chạy ở giữa dòng. Trong số người di tản có một người chết: nhà văn Chu Tử.
Trong lúc tàu tiến về phía cửa biển tôi nghe từ một chiếc radio của đám người tị nạn giọng nói của Tổng thống Dương Văn Minh, vị Tổng thống sau cùng của VNCH, tuyên bố đầu hàng.
Trí tôi thoáng hiện hình ảnh mười hai năm trước trong đêm cáo chung của nền Đệ nhất Cộng hòa. Đó là hình ảnh của tướng Dương Văn Minh ngay sau khi ông được giới thiệu tôi là con của cha tôi, đôi môi ông mím chặt lại như muốn ngăn chặn một sựï xúc động, bàn tay to lớn của ông đặt lên bả vai tôi vừa ấn xuống vừa bóp khẽ nhè nhẹ.
Rồi tôi nghe bài Nối Vòng Tay Lớn trôi đi trên cùng làn sóng của chiếc radio ấy, giọng hát thiếu tiếng đàn đệm của người nhạc sĩ họ Trịnh …

*
Phía trước tôi con sông mở rộng. Đoàn tàu di tản mấy chục chiếc nối nhau tiến về cửa biển Cần Giờ. Cách sáu dặm về hướng đông những chiếc chiến hạm Hoa Kỳ thuộc Đệ thất hạm đội nằm chờ sẵn ở ngoài khơi.
Đoàn người di tản trên chiếc Tourane 3 được chuyển qua một chiến hạm của hải quân Việt Nam, chiếc HQ16, trực chỉ hướng đông đến Phi Luật Tân. Nơi đây, trước khi trao trả chiếc chiến hạm này cho hải quân Mỹ, một buổi lễ hạ kỳ được tổ chức đơn giản trên boong chiếc HQ16.
Mấy trăm người di tản gồm cả quân nhân lẫn dân chúng, cả nam lẫn nữ thuộc đủ mọi lứa tuổi nhìn chiếc cờ ba sọc đỏ như ba dòng máu từ từ hạ xuống trong buổi chiều vàng của vịnh Subic Bay. Buổi hạ cờ chấm dứt chóng vánh và trong sự lặng lẽ. Không tiếng kèn. Không quốc ca. Chỉ có những tiếng nức nở.
Tôi nhìn mặt biển phẳng lỳ trải mênh mông trước mặt nghĩ đến tương lai vô định của mình và có cảm tưởng như tất cả tuổi trẻ của tôi vừa mới khép lại phía sau lưng mình. Tuổi trẻ ấy đã mở ra cùng với tờ truyền đơn của một đêm nào. Một tuổi trẻ quá ngắn. Mới mười hai năm.

___________

Buổi sáng của một ngày hưu

Phía sau lưng chiếc ghế dài có tiếng nói chuyện. Tiếng Việt, giọng người miền Nam, của hai bà già. Không quay lại nhưng tôi biết tiếng nói phát từ miệng hai bà già người Á Đông tôi thấy lúc nãy đi bộ trong Northgate Mall.
–Sao Tết năm nay bà không về?
–Tết năm ngoái cũng không. Ổng yếu quá rồi. Về phải mất cả tháng. Ai là người coi ổng. Tôi cũng chẳng còn khỏe gì. Nội nghĩ tới chuyện ngồi trên máy bay mười mấy tiếng đã thấy hết muốn đi. Tôi nghe nói năm nay có bịnh dịch tả ớn lắm...
Ngừng một lát. Có tiếng người đàn ông ho lụ xụ. Tiếng ho của người vừa được nhắc tới với cái tên “Ổng”. Đó là một ông già chống gậy người Mỹ gầy gò cao lểnh khểng lúc nãy tôi thấy đi vịn vai một trong hai bà già người Việt.
–Không về thì cũng phải làm cái gì chứ? Hôm nay đã ba mươi Tết rồi...
–Tết nhất gì cái xứ này. Bà không nhắc thì tôi cũng chẳng nhớ. Thế ra ngày mai đã Tết rồi đấy?
–Chứ sao nữa. Mai năm con chuột rồi. Bà qua tôi ăn chút bánh chưng. Con gái lớn của tôi vừa cho cành mai nở đẹp lắm. Tôi bảo nó mai lái xe sang đón bà. Tết nhất ở nhà một mình buồn chết. Kéo ổng qua nữa...
Lát sau có tiếng động sột soạt sau lưng. Tôi đoán ba người đứng dậy... Tiếng gậy chống của ông già Mỹ xa dần. Tôi cũng đứng lên, đi ngược hướng ba người kia. Còn hai tua nữa trước khi tôi có thể tự cho phép chấm dứt màn đi bộ thể dục buổi sáng thường lệ của mình trong Mall. Màn đi bộ mỗi tua mười lăm phút từ tiệm bách hóa J.C. Penneys ở một đầu hành lang cho đến nhà sách Barnes & Noble ở cuối hành lang rồi trở lại.
Hành lang dài hun hút. Vắng người. Giờ này mới hơn chín giờ sáng. Các cửa hàng hai bên hành lang còn đóng cho tới 10 giờ sáng. Nhưng cửa chính của Mall thì mở lúc 9 giờ. Vì vậy mà từ 9 giờ cho đến 10 giờ sáng cái hành lang trong thương xá này là chỗ đi bộ tập thể dục lý tưởng cho những người già ở thành phố Seattle trong suốt mùa đông lạnh giá và mưa gió mà việc đi bộ ngoài trời trở nên rất khó khăn cho người có tuổi. Tôi nhập vào cái thế giới “người già đi bộ”này kể từ ngày về hưu gần hai năm về trước. Tôi đi qua Nordstrom. Tiệm còn đóng nhưng trên hành lang phía xế cửa có mở một quầy bán cà phê. Dăm ba cặp già ngồi lặng lẽ bên những chiếc bàn tròn. Người uống cà phê, người đọc báo. Khi tôi đi hết vòng trở ngược lại tôi đụng đầu với hai bà già Việt. Hai người vừa đi chầm chậm vừa chúi đầu vào nhau trò chuyện. Tôi nhìn mặt ông chồng người Mỹ. Đôi mắt gần như vô cảm của ông ta nhìn trân trân phía trước trong khi cặp môi run run mấp máy như thể đang nói chuyện một mình. Tôi tự hỏi không biết “ổng” có nghe thủng được một tiếng nào không trong câu chuyện không dứt của hai bà người Việt bên cạnh.
Nửa giờ sau tôi ra xe mở cửa lấy chiếc cặp da đeo lên vai rồi đi trở ngược vào Mall. Trời mưa. Tôi cúi đầu rảo bước. Đẩy cửa kính tôi bước vào Barnes & Noble. Tiệm sách này mới mở gần đây tại địa điểm này sau khi Northgate Mall hoàn tất việc chỉnh trang và nới rộng khu thương xá cách đây vài tháng. Vào tiệm tôi rẽ tay phải tiến đến quầy Starsbuck gọi ly cà phê Americano. Rồi tôi chọn một cái bàn gần chỗ vách tường có lỗ cắm điện, mở cặp lấy chiếc laptop cúi xuống gắn giây điện. Từ ngày về hưu tôi có thói quen buổi sáng sau khi đi bộ xong thì mang laptop vào quán Starsbuck để viết. Tôi viết gì đây? Nhìn màn ảnh trống hổng tôi suy nghĩ. Tôi định bụng sáng nay mình sẽ bắt đầu một truyện ngắn mới tuy cốt truyện chưa thành hình trong trí. Tôi chỉ biết là mình phải bắt đầu vì truyện cuối của tôi “Gặp Hemingway nơi quán rượu” đã viết xong từ lâu.
Trí óc tôi lang thang suy nghĩ một lát rồi bỗng tôi liên tưởng tới lời nói của bà già người Việt hồi nẫy trong Mall: “Bà không nhắc thì tôi cũng chắng nhớ... Thế ra ngày mai...”
Tôi cúi xuống máy vi tính. Tay tôi xê dịch con chuột để “click” vào Lịch Ông Đồ 2000 trên màn ảnh. Tấm lịch hiện ra: Phần trên đề Tháng Hai-2008. Con số 6 thật to. Ở dưới: Thứ Tư. Phần giữa đề: Năm Đinh Hợi. Tháng 12 (Đ). Con số 30. Tháng Quý Sửu. Ngày Bính Tý. Dưới cùng tấm lịch có hai câu thơ:
Kim Liên phong cảnh hữu tình,
Dương cơ cũng lịch, địa hình cũng vui.

Té ra hôm nay đúng là ngày 30 Tết thật! Tôi xoay con chuột di chuyển mũi tên giở tấm lịch. Tờ lịch mới màu vàng: Năm Mậu Tý. Tháng 1 (Đ). Con số 1. Tháng Giáp Dần. Ngày Đinh Sửu. Phía dưới cùng thay cho hai câu thơ là hàng chữ lớn “Tết Âm Lịch”. Những cái Tết năm xưa ở quê nhà lần lượt trở về trong tâm trí. Tôi ngửng lên ôm chiếc cốc giấy cà phê nóng trong lòng hai bàn tay, nhìn qua làn khói. Trước mắt tôi những hình nhân đang đi qua lại lặng lẽ giữa những giá sách của Barnes & Noble. Thỉnh thoảng có một tiếng ho nhẹ trong căn phòng rộng. Bên ngoài khung cửa kính trời xẩm tối. Không gian đẫm ướt mịt mờ. Một cô gái đứng trước hiên gấp chiếc dù vẩy vẩy mấy cái rũ nước mưa xuống hè rồi mở cửa bước vào tiệm sách. Nếu tôi không tình cờ nghe lóm được lời bà già nói sáng nay trong Mall liệu tôi có nhớ ra hôm nay ngày ba mươi Tết, hôm nay là ngày Mồng Một ở Việt Nam và ở nơi xa xôi đó Tết đang diễn ra? Hay hôm nay chỉ là một ngày như mọi ngày trong chuỗi những ngày về hưu của tôi...Hay là mình viết về một mẩu Tết vừa thoáng hiện? Nhưng là mẩu kỷ niệm nào trong số hỗn độn những hồi ức ấy?

***
Có phải cái đêm giao thừa ngày nào hai mẹ con tôi dắt tay nhau đi bộ qua những con đường tối vắng giữa tiếng pháo nổ ran từ căn nhà của mẹ tôi ở chung cư chợ An Đông đến chùa Ấn Quang đường Minh Mạng để hái lộc đầu năm? Hay là buổi đánh bất ngày mồng một Tết năm nào với bác Thụy tôi tại căn nhà số 12 đường Yersin Đà Lạt, cái Tết đánh bài tôi nhớ mãi vì bác Thụy tôi hôm đó làm chương và tôi đã thu được của bác một món tiền khá lớn nhờ vào cách chơi gian của tôi giấu mấy quân bài nhỏ dưới chiếu để đánh tráo... Hay là chuyện cái Tết thơ mộng năm xưa với bố tôi bên bờ suối Đa Mê... À, không được, truyện này tôi đã viết rồi lấy tên Thanh Ngọc Đình... Hay là truyện đánh tam cúc với gia đình một cô em họ, một cái Tết xa xưa thuở nào tôi không thể quên chỉ vì hồi ấy tôi cảm thấy mình hơi yêu yêu cô em gái nọ... Hay là những truyện Tết xẩy ra gần đây? Như đêm giao thừa năm Bính Tuất tôi co ro trùm kín khăn quàng cổ đi bộ dưới cơn hàn lạnh cắt da của thành phố Paris để đến nhà chị Thụy Khuê nói chuyện văn chương cuối năm... Hay là cái giao thừa Đinh Hợi năm ngoái vợ chồng tôi đến thăm nhà văn Thế Uyên uống chén rượu tiễn đưa năm cũ... Toàn những mẩu chuyện có thể viết thành một truyện ngắn hay, nếu mình biết cách thêm thắt và khai triển. Đó là ý nghĩ trong đầu tôi.
Nhưng khi những dòng chữ được tôi trải ra trên màn máy vi tính chưa được một trang tôi đã phải vội vàng xóa đi ngay vì đọc lại tôi thấy chúng quá nhạt nhẽo. Những dòng chữ hiện lên vô hồn và trần trụi như xương của những chiếc lá chết. Chúng không phản ánh hình ảnh lẫn cảm xúc trong tôi. Tôi đổi sang một truyện khác nhưng rồi lại xóa bỏ. Cứ như thế dăm ba lần. Sau hai tiếng đồng hồ miệt mài đánh vật với con chữ rồi lại xóa đi tôi mệt nhọc bỏ cuộc. Màn ảnh chiếc laptop lại hiện lên nguyên hình như lúc tôi chưa bắt đầu. Trống trơn.
Khi tôi rời mắt khỏi màn máy vi tính ngửng lên cầm cốc cà phê đưa lên miệng uống thì cà phê đã nguội ngắt. Bên ngoài mưa tạnh, nắng lên, trời sáng hẳn ra. Thế là đã vừa chẵn một năm tròn. Kể từ đêm giao thừa năm ngoái với Thế Uyên, người em họ hơn tôi năm tuổi và là người duy nhất trong họ ở gần chúng tôi tại miền Tây Bắc nước Mỹ từ gần hai chục năm qua. Tôi nhìn toàn thể khung cảnh trong Barnes & Noble và nhớ ra rằng tôi đến tiệm sách này cũng là do Thế Uyên nói. Chính anh là người đã đến đây trước tiên, ngay trong ngày tiệm sách khai trương.
–Ông nên đến đó xem thử. Thoải mái lắm. Hơn cả thư viện. Trong đó có Starsbuck. Uống cốc cà phê tha hồ mà đọc sách chùa...
Tôi đáp:
–Starsbuck? Thế thì tôi phải đến, mang theo laptop để viết. Không phải tôi ghiền cà phê Starsbuck mà ghiền cái không khí của quán cà phê này. Thiếu cái không khí đó tôi viết văn không ra, ông ạ!
–Thôi chết... Ông bị “điều kiện hóa” rồi! Cũng như bao năm tôi cứ đinh ninh không có điếu thuốc lá thì văn tịt ngòi. Bây giờ mới biết mình nhầm. Bác sĩ bắt mình bỏ thuốc, vẫn viết được như thường.
Tôi ngước nhìn tầng trên của Barnes & Noble, trên đó những kệ sách cao đặt song song và cách đều nhau chật kín cả lầu hai. Giữa những hàng kệ ấy tôi hình dung Thế Uyên, con người nửa thế kỷ nay sống với chữ nghĩa, đang tự mình điều khiển chiếc xe lăn len lỏi trong sách. Lâu lâu bằng một cánh tay còn khiển dụng được anh với một quyển sách mở ra, không phải để đọc, mà để hồi tưởng một thời xa xưa nào anh đã từng đọc nó. Trong số những cuốn sách ấy chắc hẳn phải có cuốn Exodus của Leon Uris mà anh đã dịch dưới tên Về miền đất hứa. Cuốn này được in ở Sài Gòn vào những năm cuối của thập niên 60 khi anh thành lập nhóm văn hóa Thái Độ và tôi đã trực tiếp chia sẻ với anh trong giấc mơ đẹp rất lãng mạn của tuổi trẻ.
Tôi cúi xuống trên màn vi tính, tay tôi chạm vào những nốt chữ. Tôi “viết” và kết thúc truyện ngắn này trong không đầy một tiếng. Đọc lại tôi không ngờ mình lại đi xa ý định ban đầu đến như thế. Từ một truyện tôi định kể về kỷ niệm một cái Tết năm xưa tôi kết thúc bằng hình ảnh nhà văn Thế Uyên trên chiếc xe lăn trong tiệm sách này. Nhưng nghĩ lại có lẽ tôi đã không đi quá xa. Bởi vì có cái Tết nào trong đời tôi mà không thoảng qua bóng dáng anh?
Từ những cái Tết xa xưa ở Hà Nội, ở Đà Lạt, ở Fim Nôm, ở Sài Gòn và đến nay trên đất Mỹ. Chỉ trừ khoảng thời gian mười mấy năm anh ở lại Việt Nam sau 1975, anh với tôi có cái cơ duyên sống gần nhau lâu năm nhất, còn hơn tất cả những người ruột thịt của tôi.
Đêm nay, giao thừa Mậu Tý, tôi và nhà tôi sẽ đến thăm anh chị Thế Uyên, để lại giống như đêm giao thừa năm trước cùng nhau cụng ly rượu chát tiễn chân năm cũ và chúc sức khỏe cho nhau trong năm mới. Đó là ý nghĩ của tôi trên đường lái xe trở về nhà.

_____________

Gặp Hemingway nơi quán rượu

Lời Tòa Soạn: Nhà văn Nguyễn Tường Thiết, qua "cuộc gặp gỡ" đầy không khí huyền ảo hiện thực với pho tượng của Ernest Hemingway trong Café Iruna ở Pamplona, đã khai phá một đề tài có liên hệ trực tiếp đến đời sống cá nhân của ông: cách người sống tiếp nhận cái chết đột ngột của một văn hào. Ở đây, tác giả đề cập đến sự tự vẫn của Hemingway (năm 1961) và đồng thời của thân phụ ông, nhà văn Nhất Linh (năm 1963). Hemingway và Nhất Linh đều chết vào tháng Bảy. Hemingway tự tử bằng súng, không để lại một lời chào tạm biệt. Nhất Linh để lại một câu, "đời tôi hãy để lịch sử xử." Vậy trong hai văn hào này, ai là người có khả năng "định nghĩa" toàn vẹn cái chết cũng như sự bất diệt của mình? Tiểu thuyết gia Milan Kundera cũng đã đề cập đến đề tài này trong tác phẩm Bất Diệt (Immortality). Trong Bất Diệt, Kundera viết về một cuộc đối thoại giữa Goethe và Hemingway. Hemingway nói với Goethe, "Khi sự bất diệt đã bắt chúng ta "lên thuyền" (aboard), chúng ta không thể xuống thuyền, và ngay cả khi chúng ta đã tự giết mình, chúng ta mãi mãi phải ở trên boong tầu với sự bất diệt của mình, và đó là một điều rất khủng khiếp, nó làm tôi thấy như bị xử án vĩnh viễn." Có phải Nhất Linh lãng mạn hơn Kundera ở điểm "muốn được lịch sử xử'," vì Nhất Linh đã tin vào sự công bằng hoặc khách quan của dư luận người đời về sự tự vẫn của văn hào?

Tối hôm đó tôi gặp Hemingway trong một quán rượu. Tôi thấy ông ta còn rất trẻ. Chỉ khoảng hai mươi mấy. Hemingway chưa để bộ râu quai nón xồm xoàm như hồi lúc cuối đời nhưng khuôn mặt vuông vức đầy cương nghị của ông ta khiến tôi nhận ra ông ngay lập tức. Tôi nhận ra ông (và cả những người bạn của ông ta nữa) một phần cũng vì trước khi đến quán rượu tôi đã chuẩn bị tinh thần để gặp ông bằng cách đọc đi đọc lại rất kỹ cuốn tiểu thuyết đã khiến ông ta nổi tiếng, cuốn Mặt Trời vẫn Mọc (The Sun Also Rises). Trong cuốn truyện đó ông có nhắc đến quán rượu Iruna. Quán Iruna với dấu ngã nằm ngay bên trên chữ “n.” Xin quí vị hình dung hộ như thế vì tôi không biết cách nào để bỏ được dấu ngã vào đúng vị trí ấy với bộ dấu tiếng Việt. Tôi nhắc đến chi tiết nhỏ nhặt này chỉ cốt để nói lên cái nét đặc thù rất Tây Ban Nha mà quán ấy mang tên. Vâng, đúng thế, quán ấy ở tận thành phố Pamplona bên Tây Ban Nha. Nói rõ hơn nó nằm trong quảng trường Del Castillo, cách khách sạn La Perla nơi Hemingway trú ngụ chỉ khoảng vài trăm thước. Về đêm sau khi tôi đã nốc cạn hai ba cốc rượu vang đỏ sangría, lại thấy ông ngồi cô độc một mình bên quầy rượu tôi loạng choạng tiến lại gần ông, hỏi ông một câu, một câu hỏi đã ám ảnh tôi từ mấy chục năm nay. Tôi gọi ông bằng tục danh Papa vì tôi nhớ ra là ông ta rất thích được người khác gọi mình bằng cái tên thân mật ấy:
–Chào Papa...
Hemingway ngước mắt nhìn tôi.
Tôi tiếp theo, ngập ngừng:
–Tại sao Papa lại tự tử?
Đôi mắt đẫm rượu của ông nhìn tôi rất lạ, xa vợi, buồn bã. Rồi ông trả lời tôi cũng bằng một câu hỏi. Câu hỏi bất ngờ làm tôi sững sờ:
–Tại sao Papa của ông lại tự tử?
Tôi hiểu ngay Hemingway muốn ám chỉ cha tôi.

*
Quảng trường (Plaza) Del Castillo của thành phố Pamplona có kiến trúc giống hệt những quảng trường khác trên đất Tây Ban Nha. Du khách thường đối diện với chúng vào những lúc không ngờ nhất. Đang đi len lỏi trên những con đường nhỏ chằng chịt trong khu phố cổ, những con đường lát đá, lề hẹp, nhà cửa sát sát, năm sáu từng cao, nơi mà ánh nắng không lọt xuống nổi tới lòng đường ngoại trừ lúc giữa trưa, đang lúc du khách có cảm giác ngột ngạt như thiếu khí trời, thì bất ngờ, ở một khúc quặt, đột nhiên mở ra một khoảng trời xanh bao la, ánh sáng tràn ngập: một plaza mênh mông thình lình hiện trước mắt. Đó là một cái sân vuông lát đá lộ thiên rộng thênh thang chính giữa cao lên một trụ xi-măng, đỉnh cột có gắn tượng đồng, chân cột có một vòng tròn rào cọc sắt. Xung quanh quảng trường vuông vức là bốn dẫy nhà nhiều từng, mặt tiền trên cao sát nóc chạm trổ công phu, tầng dưới cùng chạy một hành lang dài với những vòm cửa đá nối nhau bao quanh tứ phía, trong hành lang những cửa hàng san sát hầu như lúc nào cũng đông nghẹt khách mua sắm. Hàng ăn, quán café với dẫy bàn ghế bầy ngay ngoài trời dưới những chiếc dù xanh đỏ, những người hầu bàn thắt nơ đen trong bộ đồng phục trắng toát đứng khoanh tay dọc theo hành lang chờ phục vụ khách.
Tại một trong những quán café ấy tôi ngồi uống bia với một người bạn.
Lúc đó xế trưa đoàn du lịch chúng tôi khoảng 20 người có vài tiếng đồng hồ tự do tiêu thì giờ theo ý riêng. Anh Đạt bạn tôi, một nhiếp ảnh gia, nói với tôi: “Để mấy bả đi shopping. Mình vào ngồi nghỉ ở mấy cái quán ngoài trời trong plaza này nhâm nhi ly bia có phải thú vị hơn không?” Tôi đồng ý ngay với anh Đạt, một phần vì tôi đã mỏi chân sau chuyến đi bộ thăm thành phố, phần nữa cái việc đi sắm đồ chẳng bao giờ là niềm vui thích của bọn đàn ông chúng tôi.
Bấy giờ giữa mùa thu. Pamplona tuy nắng nhưng trời se lạnh. Mùa đấu bò đã hết trên xứ sở này. Quảng trường vì vậy thưa người. Thử tưởng tượng nếu chúng tôi đến đây sớm hơn vài tháng vào tháng Bẩy khi mùa lễ hội San Fermin kéo dài một tuần lễ được tổ chức hàng năm với những trận đấu bò và những cuộc chạy đua rùng rợn với bò mộng trên các con ngõ hẹp của Pamplona lôi kéo hàng vạn du khách từ khắp nơi trên thế giới, thì quảng trường này sẽ đông và vui nhộn biết là nhường nào. Hiện tại để qua một buổi chiều thư nhàn, cầm cuốn truyện của Hemingway trên tay tôi ngồi nhấm nháp ly rượu bia Mahou trên chiếc ghế nhựa ngoài trời dưới chiếc dù vải thả mắt nhìn xung quanh ngắm du khách qua lại trên sân lát đá của khu quảng trường rộng lớn, nhìn những con bồ câu rỉa cánh trên vai những ngôi tượng đồng và tưởng tượng Hemingway, qua con mắt nhân vật chính của ông ta trong truyện là Jake Barnes, đã nhìn thấy những gì ở đây, trên cái plaza này, hơn tám chục năm trước. Tôi không cần phải tưởng tượng nhiều bởi vì những gì ông đã thấy được mô tả một cách đầy đủ và sống động trong cuốn truyện tôi cầm trên tay, chỉ cần giở qua giở lại tìm ra cho đúng trang sách. Đây rồi, trên trang đầu tiên của chương XV cuốn Mặt Trời vẫn Mọc, ông ta viết:
Chủ nhật, ngày thứ sáu của tháng Bẩy, fiesta bùng nổ. Vâng, bùng nổ. Tôi không biết diễn tả cách nào khác. Từ ngôi nhà thờ trên đồi cao tôi rảo bộ xuống phố vào quảng trường đến quán café. Lúc đó gần giữa trưa. Robert Cohn và Bill đã ngồi tại bàn. Những chiếc bàn bằng đá cẩm thạch và những chiếc ghế mây trắng thường ngày đã được cất đi thay thế bằng những chiếc bàn sắt và những chiếc ghế xếp. Quán café như thể một con tàu chiến đang chuẩn bị để xung kích. Người bồi bàn hôm nay không để cho khách có thì giờ nhẩn nha đọc thực đơn như thường lệ mà tiến lại ngay khi khách vừa mới đặt đít ngồi xuống.
Tôi hỏi Bill và Robert:
-Tụi bay uống gì?
Cohn đáp:
Sherry.
Tôi nói với người hầu bàn:
Cho tôi Jerez.
Trước khi rượu được mang tới một phát súng đại bác nổ phía quảng trường báo hiệu giờ mở màn lễ hội San Fermin. Sau tiếng nổ chát chúa là một cụm khói đen bốc lên cao khỏi rạp hát Gayarre bay tỏa phía bên kia quảng trường. Rồi lóe sáng một tiếng nổ thứ hai tiếp theo một cụm khói nữa bốc lên trong ánh nắng chói lòa. Cùng với tiếng nổ thứ hai một biển người ào ào tràn vào lấp đầy hành lang cửa vòm của quảng trường chỉ trong phút chốc, khiến người hầu bàn, tay giơ cao chai rượu quá khỏi đầu, phải vất vả lắm mới lách qua khỏi đám đông tiến lại bàn chúng tôi. Dân chúng tràn vào quảng trường bằng đủ mọi hướng. Từ một con phố đoàn người tiến vào cùng với tiếng sáo, tiếng kèn, tiếng trống rầm rầm. Dẫn đầu là ban nhạc chơi nhạc riau-riau, tiếng sáo lanh lảnh, tiếng trống thình thình, theo sau là đoàn vũ công nhẩy múa. Từ xa bạn chỉ có thể thấy được cái đầu và vai của những vũ công nhấp nhô khỏi rừng người trong quảng trường.

Tôi buông mắt khỏi cuốn sách ngửng lên. Anh bạn tôi đã biến đâu mất, chiếc máy ảnh đồ sộ của anh không còn đặt trên bàn, nhưng cốc rượu bia đầy phân nửa của anh ta còn đó. Có tiếng giầy gõ trên nền đá. Tiếng gõ nghe lạnh và đanh. Từ quảng trường một người đàn bà bước nhanh về quán café chúng tôi ngồi. Bà ta bận bộ đồ da màu đen tuyền, mũ beret đen, giầy ống cao đen, cặp kính đen, đáng người thon cao, vừa đi vừa nghiêng nghiêng đầu, một tay áp sát tai chiếc cell phone. Người hầu bàn cầm tấm thực đơn tiến tới khi bà ta vừa ngồi xuống ghế. Miệng vẫn không rời chiếc điện thoại bà ta chỉ khẽ ngước lên giơ tay ra dấu một thức uống.
Tôi nhìn về phía dẫy cửa vòm. Tôi không nghĩ rằng nhà tôi cùng mấy bà bạn đang mua sắm tại những cửa tiệm sang trọng trong hành lang ấy của quảng trường. Chắc các bà đã rủ nhau ra hẳn phía ngoài đi ngược lại những con đường mà sáng nay Rosa, cô hướng dẫn viên người địa phương đã dẫn đoàn du lịch chúng tôi đến đây, những con đường thuộc khu phố cổ có rất nhiều cửa tiệm bán đồ nội hóa với giá bình dân. Trong số những đường đó có vài đường nhỏ nằm trên lộ trình mà dân chúng mỗi năm vào dịp lễ San Fermin đã chạy thi với bò mộng.

Chạy với bò mộng!
Cái tục lệ chạy với bò này đã có một quá khứ rất lâu đời, tận thế kỷ thứ 14. Cô Rosa sáng nay đã cho chúng tôi biết như vậy khi cô ta đưa chúng tôi qua khu phố cổ. Trải qua nhiều thế kỷ những ngày hội lớn như San Fermin được tổ chức khắp nơi trên “xứ bò mộng” này như một nét văn hóa đặc thù của dân tộc Tây Ban Nha. Những năm gần đây mặc dù có sự chống đối của hội bảo vệ súc vật, vì vô số những con bò mộng đã bị giết một cách tàn bạo trong các trường đấu bò, những ngày lễ hội như thế vẫn tiếp tục diễn ra hàng năm trong các thành phố lớn lôi kéo du khách từ khắp nơi trên thế giới đến Tây Ban Nha, đặc biệt là đến Pamplona, thành phố nổi tiếng nhờ vào cuốn tiểu thuyết Mặt Trời vẫn Mọc của văn hào Ernest Hemingway xuất bản vào năm 1926 với ấn bản tiếng Tây Ban Nha mang tên Lễ Hội (Fiesta).
Trên những con đường nhỏ lát đá này dân chúng và du khách đi thong dong ở giữa đường. Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi chầm chậm chạy qua, mọi người tránh xe bước lên trên lề đường hẹp. Hai bên đường những cửa hàng, quán ăn san sát, phô những thứ bầy bán ra tận vỉa hè. Tới một cửa tiệm bán hình chụp thắng cảnh và di tích lịch sử Pamplona, cô Rosa ngừng lại chỉ vào một tấm ảnh đen trắng phóng lớn treo phía ngoài, nói với chúng tôi:
“Bức hình này chụp ở ngay chỗ này năm sáu chục năm về trước. Ảnh chụp con bò húc chết một người phía trước cửa tiệm này. Trông ảnh qúi vị thấy cảnh phố bây giờ thay đổi khá nhiều, nhưng quí vị cũng có thể nhận ra ngay cái bảng tên tiệm này vẫn y nguyên như xưa.”
Lát sau đến trước vòng thành của trường đấu bò Plaza de Toros mùa này đã đóng cửa cô Rosa đứng lại chờ du khách tụ họp xung quanh mình rồi nói:
“Đây là chặng cuối của lộ trình chạy. Những con bò sau khi chạy vào trường đấu này sẽ bị giết bởi những tay đấu bò chuyên nghiệp.”
“Hãy tin tôi đi!” – Rosa tiếp theo – “Chạy với bò là một trò chơi cực kỳ nguy hiểm. Chính tôi hồi tôi 18 tuổi đã từng một lần tham dự. Bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao tôi làm thế. Tôi đã chứng kiến nhiều cảnh tượng rất điên rồ: có những tay mơ đang chạy phía trước đột nhiên ngừng giữa đường quay đầu lại giơ tay vẫy vẫy nói “Hi” chào đàn bò đang hung hãn xông tới.”
Một du khách hỏi:
“Tại sao người ta chạy?”
“Good question!”
Rosa đáp xong, lắc đầu:
“Vì truyền thống, vì tuổi trẻ, vì say rượu, vì muốn tìm cảm giác mạnh, vì muốn chứng tỏ hay vì lý do nào khác, tôi không biết....
Một người khác lên tiếng:
“Cuộc đua này kéo dài bao lâu và bắt đầu như thế nào?”
Rosa trả lời:
“Trung bình 4 phút. Đúng 8 giờ sáng mỗi ngày liên tiếp trong một tuần lễ, bắt đầu từ ngày 7 tháng Bẩy hàng năm, tức ngày thứ hai của lễ hội San Fermin, một phát súng nổ báo hiệu đàn bò bắt đầu được thả lỏng từ chỗ tập trung. Một tiếng nổ thứ hai cảnh giác dân chúng đàn bò đã chạy vào phố. Dân chúng trong bộ y phục trắng truyền thống, khăn quàng cổ và dây lưng vải đỏ, tập trung đông nghẹt trên đường bắt đầu chạy trên một lộ trình dài nửa dậm tiến về phía trường đấu bò Toros, phía sau đàn bò mộng 6 con mỗi con nặng sáu, bẩy trăm kí-lô hươi cặp sừng nhọn hoắt hung hãn đuổi theo, chúng dần đà bắt kịp và đâm bừa vào đám đông ở vào khoảng giữa của lộ trình. Những người chạy tìm cách thoát thân bằng cách nhẩy qua hàng rào hay nép mình nấp sau những chỗ khuất hai bên đường.”
Tôi hỏi Rosa:
“Đã có bao nhiêu người chết?”
“Kể từ năm 1924 khi người ta bắt đầu thống kê đến nay có 15 người chết và trên 200 người bị thương nặng.”
Plaza de Toros là địa điểm cuối chấm dứt chuyến đi bộ thăm thành phố Pamplona của chúng tôi sáng nay. Rosa dẫn chúng tôi trở lại đường cũ để đến quảng trường Del Castillo ở gần đó nơi cô ta và chúng tôi tạm thời chia tay. Từ trường đấu Toros chúng tôi phải đi bộ băng qua một công trường lớn hình tròn có nhiều đường lớn đâm vào xe cộ chạy như mắc cửi. Tại các đầu đường nơi có đèn giao thông khách bộ hành chỉ có một khoảng thời gian rất ngắn để băng qua. Tiếng chim hót vang lên từ các máy phóng thanh báo hiệu 15 giây được phép qua đường bắt đầu. Tiếng chim hót lanh lảnh, rồi nhanh dần, rồi dồn dập như thúc dục khách bộ hành nhanh bước. Tám mươi năm trước nơi đây tại cái công trường bây giờ mang tên Hemingway Plaza này tất cả chỉ là một bãi đất hoang. Hemingway đã tả cảnh đàn bò đuổi theo đám đông ở ngay chỗ này trong cuốn truyện của ông ta như sau:
Khoảng đất từ ngoại vi thành phố đến trường đấu bò Toros là một bãi trống ngập bùn. Bên ngoài hai hàng rào gỗ nối từ phố vào trường đấu dân chúng đứng đông nghẹt. Một tiếng súng hiệu nổ. Tôi biết là mình không đủ thì giờ chạy đến trường đấu bèn chen bừa vào đám đông cố tiến đến sát hàng rào. Phía sau lưng tôi đám đông đẩy tôi ép sát người vào những thanh ván gỗ. Giữa hai hàng rào là lộ trình chạy của bò, cảnh sát đang vất vả dẹp đám người qua hai bên để chừa chỗ giữa trống cho bò chạy. Bên trong hàng rào đoàn người tiến dần về phía trường đấu. Mới đầu họ còn chạy chầm chậm. Rồi họ bắt đầu chạy nhanh. Một gã say rượu trượt chân té xuống đất. Hai cảnh sát viên chạy tới lôi gã quẳng ra khỏi hàng rào. Bỗng đám người vùng lên chạy chối chết. Liền đó trong đám đông rộ lên nhiều tiếng la lớn. Tôi thò đầu qua khoảng trống giữa hai thanh ván vừa kịp nhìn thấy đàn bò bắt đầu xuất hiện ở cuối đường. Chúng chạy rất nhanh, nhanh hơn đám người chạy. Ngay lúc ấy một gã say khác nhẩy ra giữa đường, tay vung một chiếc áo choàng. Gã say này muốn đóng vai một hiệp sĩ đấu bò chính hiệu! Hai cảnh sát vội lao tới quặp cổ gã, đập gã túi bụi bằng dùi cui, lôi gã và giữ riệt gã áp sát hàng rào cho tới khi con bò sau chót vượt qua. Đàn bò nặng nề, thân lấm đầy bùn, rần rần chạy qua, hươi cặp sừng lúc lắc đâm vào đám người chạy đông nghẹt phía trước. Một con húc phía sau một người đang chạy, hất tung gã lên cao. Tôi thấy hai cánh tay gã bị bẻ quặt sang một bên, đầu gã bật ngửa khi cặp sừng xuyên vào. Con bò nhấc bổng gã lên cao rồi hất gã xuống đất. Người đàn ông bị bò húc nằm xấp mặt xuống bùn. Rồi tôi không thấy gã nữa. Đám đông đã nhẩy qua hàng rào bu nghẹt xung quanh gã.
Tối đó tôi nghe tin gã chết. Tên gã là Vincente Girones, ở làng Tafalla kế cận. Hôm sau báo chí cho biết thêm chi tiết: gã hai mươi tám tuổi, chủ một nông trại, có vợ hai con. Hai hôm sau quan tài được khiêng lên xe lửa bởi một số thành viên của hội ca múa thành phố. Xe lửa chuyển bánh rời Pamplona đưa quan tài và ba mẹ con gã về làng.” (Mặt Trời vẫn Mọc).
Xế trưachúng tôi đến quảng trường Del Castillo. Rosa chỉ cho chúng tôi thấy khách sạn La Perla và nói là xưa kia Hemingway vào vài dịp lễ San Fermin đã thuê một phòng phía trên lầu. Ông ta đã từng đứng trên bao lơn nhìn xuống đàn bò chạy trên đường Estafeta là quãng dài nhất của lộ trình. Cô ta nói thêm:

“Vào những ngày lễ hội qúi vị không thể nào thuê được đúng căn phòng mà Hemingway đã ở. Một ông giám đốc nhà xuất bản bên Thụy Sĩ đã đặt thuê trước căn phòng đó vào tất cả những ngày lễ San Fermin trong tương lai, cho đến tận năm 2040, là năm mà ông ta dự trù sẽ xem lần chót màn chạy với bò mộng từ cái bao lơn ấy khi ông ta được một trăm tuổi.”
Rồi Rosa chỉ tay về phía bên kia quảng trường:
“Hemingway khi ở khách sạn La Perla ông ta thường đi ngang qua sân quảng trường này để uống rượu với các bạn bè của ông ta tại quán Café Iruna mà tối hôm nay tôi sẽ dẫn quí vị tới đó. Ở cái quán này đêm nay qúi vị sẽ được hầu rượu thả dàn với Hemingway.”
Tôi cúi xuống trên những trang sách tìm đọc lại thật kỹ những đoạn Hemingway viết về quán rượu Iruna, về những người bạn ông gặp trong quán đó, chẳng hạn như cô bạn gái rất xinh đẹp và quyến rũ tên là Brett Ashley, như Pedro Romeo tay đấu bò khét tiếng tuổi trẻ tài cao.
Trời ngả chiều khi tôi đọc xong, gấp cuốn sách của Hemingway lại, ngửng lên. Bóng chiều phủ một phía trên sân quảng trường lúc này đã khá đông người qua lại. Ở giữa sân tôi thấy anh bạn của tôi khuỵu chân hướng máy ảnh về một cô bé mặc áo len đỏ đang vung tay vẩy thức ăn cho bầy bồ câu. Từ những ngôi tượng trên cao một bầy chim đen bay xả xuống tìm mồi rồi lại bay túa lên khi có người đi qua. Phía sau lưng anh Đạt, ngồi trên một bệ tròn xi-măng, một người đàn bà đang đan áo, chốc lát bà ta lại ngừng tay đan ngửng lên nhìn cô bé áo đỏ rồi cúi xuống chiếc nôi nựng nịu với đứa con bà ta trong một chiếc xe đẩy nhỏ màu đen ở dưới chân.
Khoảng bẩy giờ chiều mọi người tề tựu đông đủ tại một điểm hẹn trong quảng trường. Cô Rosa sau khi đếm đủ số người trong đoàn du lịch dẫn chúng tôi đi bộ lại quán rượu gần đó.
Mặc dù mang tên quán café nhưng Iruna đúng hơn là một quán rượu và nhà hàng ăn. Bước qua một bức tượng đồng trông như người thật đặt cạnh một quầy rượu chúng tôi vào một căn phòng rất rộng, trông như đại sảnh của một tòa nhà cổ, với rất nhiều những cây cột chống ở giữa phòng. Từ những chùm đèn pha lê rủ từ trên trần xuống ánh đèn phản chiếu trên những đồ trang trí mạ vàng trên những tấm cột, những tấm gương sau quầy rượu, tạo một thứ ánh sáng đặc biệt khiến quán Iruna trông vừa sang trọng rực rỡ lại vừa huyền ảo ấm cúng. Chúng tôi tiến đến giữa phòng chia nhau ngồi quanh những chiếc bàn ăn phủ khăn vải trắng tinh. Giờ này vẫn còn sớm cho bữa ăn chiều, vì bên Tây Ban Nha bữa chiều thường được dọn rất muộn, khoảng 9 hay 10 giờ tối. Đa số thực khách lúc này ngồi trên những chiếc ghế cao ở sát một quầy rượu dài. Phía sau quầy một người hầu rượu trong đồng phục trắng thắt nơ đen đang lau khô chiếc cốc thủy tinh. Ông ta sau đó giơ cao cốc lên ngang tầm mắt ngắm nghía dưới ánh đèn sáng. Chúng tôi uống rượu vang sangría. Rượu có trộn những lát cam táo ngọt rất dễ uống. Nốc cạn cốc thứ hai tôi thấy trong người đổi khác. Tôi không phải là người uống rượu giỏi, lại uống trong lúc bụng trống, nên rất dễ say. Nhưng hôm đó tôi tự cho phép mình uống quá một tí để mừng buổi gặp gỡ với ông ta, Hemingway. Lúc này hình ảnh ông ngồi uống rượu ở đâu đây trong gian phòng này đang lấp đầy trí tưởng tôi.
Phía sau lưng tôi nổi lên tiếng nói ồn ào. Tôi quay lại nhìn và thấy ông ta cùng với nhóm bạn của ông đang nói chuyện hơi to tiếng ở bàn rượu kế bên. Cũng như tôi tất cả đều say khướt. Tôi nhận ra Hemingway ngay. Trông ông ta còn rất trẻ bất chấp bộ râu mép gắn trên gương mặt rắn rỏi vuông vức của ông ta. Trời tháng bẩy nóng, ông ta bận chiếc quần đùi áo ngắn tay phanh ngực, lộ trên làn da những sợi lông đen, quăn và dầy. Trông ông ta đầy nam tính. Thế mà trong truyện ông ta lại đóng vai Jake một người bị bất lực, do kết quả của một vết thương vào chỗ kín trong chiến tranh. Tôi nhìn sang cô gái duy nhất trong nhóm và biết ngay cô ta là Brett. Tóc vàng, dáng cao, sang cả, quyến rũ, nét mặt ấy làm thoáng hiện trong tôi hình ảnh nữ minh tinh Ava Gardner. Brett là tình nhân trong tinh thần của Jake, vì trong thể xác Jake không thể làm thỏa mãn được ước muốn của người yêu. Người thứ ba tôi cũng nhận ra là gã đấu bò Romeo, do gương mặt rất Tây Ban Nha và bộ quần áo đặc biệt trên người gã. Những người bạn khác của ông ta như Bill, Mike, Cohn tôi không nhận ra ngay ai là ai, nhưng tôi có thể đoán biết qua mẩu đối thoại giữa họ với nhau sau đó. Trong ba người tôi biết Bill là bạn cũ của Jake, Mike là hôn phu của Brett và Cohn đã một thời là tình nhân của nàng.
Mike say nhất đám. Từ đầu bàn hắn loạng choạng đứng lên chỉ tay vào gã đấu bò lè nhè nói với Hemingway:
“Này Jake! Bảo hắn ta là những con bò của hắn không có hai hòn dái!”
Romeo quay nhìn Jake:
“Hắn nói gì thế?”
“Kệ, hắn say ấy mà!”
Mike lại gào lên:
“Bảo hắn ta là bò hắn không có dái!”
Jake hỏi gã Tây Ban Nha:
“Cậu có hiểu hắn nói gì không?”
“Hiểu!”
Jake nhìn tận mặt Romeo, tỏ vẻ yên tâm. Rõ ràng là gã không hiểu gì cả.
Lát sau Mike đứng dậy giơ cao cốc rượu nói:
“Nào tất cả cùng uống để...”
Hắn líu lưỡi. Jake gọi:
“Pedro Romeo!”
Cả bàn đứng dậy. Romeo cũng đứng lên. Gã nghiêm chỉnh cụng ly với tất cả rồi uống cạn cốc rượu. Xong gã bắt tay từng người một rời chỗ bỏ đi ra ngoài.
Brett nhìn theo gã đấu bò, nói vói Jake:
“Quỉ thần ơi! Trông hắn đáng yêu quá!”
Mọi người ngồi xuống. Mike lại bắt đầu giở trò say, xưng xỉa. Hắn tấn công Jake:
“Sao mày cứ ngắt lời tao, không để tao nói? Mày tưởng tiếng Tây Ban Nha của mày giỏi hơn tao hử?”
“Bỏ đi tám, Mike! Không ai ngắt lời mày...”
“Không, không bỏ ngang xương được. Tao cần phải làm ngã ngũ việc này.”
Hắn quay sang Cohn:
“Thằng này! Mày là thằng lạc xòng vào đây. Mày không thuộc nhóm tụi tao...”
Cohn ngửng đầu lên:
“Lại nữa. Im đi cho tao nhờ.”
“Mày tưởng Brett muốn thấy mặt mày ở đây hả?... Hả?”
Hắn đứng dậy, tỳ người vào bàn, run lẩy bẩy:
“Cohn, mày cút đi, cút ngay cho, for God’s sake! Mang theo cái bản mặt Do Thái hãm tài của mày đi!”
Brett đứng lên. Nàng cầm chiếc ví xách tay trên bàn nói nhỏ vào tai Jake:
“Em phải đi.”
Tôi nhìn theo nàng bước. Những bước nhẹ hẫng. Nàng lướt đi qua dẫy bàn. Khi tôi quay lại thì Hemingway và những người bạn của ông ta không còn ở đấy nữa.
Trên chiếc bàn đó Rosa đang uống rượu với Julien, anh hướng dẫn viên chính của đoàn du lịch chúng tôi.
Ngồi đối diện tôi Đạt nói:
“Nhìn gì mà như mất hồn vậy? Ông uống hơi nhiều đấy! Chờ chốc nữa ăn rồi hẵng uống....”
Tôi hỏi Đạt:
“Toa lét ở chỗ nào?”
“Đi qua bức tượng đẩy hai cánh cửa gỗ. Toa lét trong đó.”
Cầm ly rượu vang tôi đứng lên. Tôi thử nhắm mắt lại vài giây rồi mở mắt ra, nghĩ trong bụng: “Mình chưa đến độ say như ông Hemingway tả trong truyện. Khi say hễ cứ nhắm mắt là ông ta lại thấy bốn bức tường chạy xoay xoay vòng tròn xung quanh mình”. Nhưng tôi biết là tôi đổi khác. Tôi nhủ thầm là mình đang say, vì thế mình phải rất cẩn thận trong mọi hành động. Tôi cũng nhận ra ánh mắt Đạt nhìn tôi ngạc nhiên. Nhưng ngay lúc đó tôi không tự hỏi vì sao, cũng không biết là mình vô lý: đi vô cầu tiêu thì mang theo cốc rượu làm gì?
Qua quầy rượu tới hai cánh cửa gỗ – hai cánh gỗ nhỏ chỉ che một phần của cái khung, kiểu cửa lùa tôi thường thấy ở các quán rượu trong phim cao bồi – tôi toan vào thì phía trong có người đẩy cửa đi ra, một anh bồi nhà hàng. Anh ta nhìn chăm chẳm cốc rượu tôi cầm tay nhưng không nói gì. Tôi vào một phòng khác, phòng này có hai cửa, một cửa đề Caballero, cửa kia đề Dama. Không có vẽ hình cái đầu người, tôi không biết bên nào dành cho đàn ông, bên nào cho đàn bà. Bỗng cửa có đề Dama mở. Một người đàn bà bước ra. Tôi nhận ngay ra người ấy. Chính là Brett. Nàng nhìn thẳng vào tôi nhưng dường như không thấy tôi, nàng đi xuyên qua tôi trong lúc tôi loay hoay dùng tay trái mở cửa bên Caballero vì tay phải tôi vẫn cầm cốc rượu.
Lúc tôi đi ra qua quầy rượu tôi thấy ông ta, Hemingway, ngồi một mình ở đó. Tôi kéo ghế ngồi cạnh ông ta. Thốt nhiên tôi thấy ông ta khác hẳn người mà tôi vừa thấy lúc nẫy ngồi nơi bàn rượu cùng với nhóm bạn của ông ta. Trước mặt tôi là một Hemingway khác, già nua, cô độc, ngồi gục đầu buồn bã. Tôi chợt nhớ đến cái chết của ông. Hình ảnh ông ta đút đầu nòng khẩu súng săn vào miệng mình rồi tự tay bóp cò, hình ảnh ấy thảm khốc quá, nó ám ảnh tôi đã từ lâu lắm.
Hemingway khẽ nghiêng đầu sang phía tôi. Tôi thấy thương cảm ông quá, muốn nói chuyện với ông ta nhưng tôi không biết mở đầu thế nào và xưng hô ra sao để khỏi quá xa cách.
–Chào Papa...
Cuối cùng tôi nói, vừa giơ cao cốc rượu mời ông.
Rồi tôi quyết định hỏi thẳng ông ta vấn đề làm tôi thắc mắc. Tôi không sợ câu hỏi làm ông mích lòng bởi vì đọc văn ông tôi tin ông là người thích sự thẳng thắn:
–Tại sao Papa lại tự tử?
Câu trả lời của ông làm tôi kinh ngạc:
–Tại sao Papa của ông lại tự tử?
Trí tôi lúc ấy thoáng hiện hình ảnh một buổi sáng tháng bẩy năm một nghìn chín trăm sáu mươi mốt cha tôi sững sờ buông tờ nhật báo Tự Do, tờ báo vừa loan tin nhà văn đoạt giải Nobel về văn chương đã tự tử bằng súng tại một trang trại của ông ta ở bên Mỹ. Hầu như cùng một lúc trí tôi cũng hiện lên hình ảnh cha tôi, nhà văn Nhất Linh, uống độc dược tự vẫn vào tháng bẩy đúng hai năm sau ngay trên chiếc ghế vải tại căn nhà ở Sài Gòn nơi cha tôi hay tin cái chết của Hemingway.
–Chắc ông ngạc nhiên tại sao tôi lại biết cha của ông....
Hemingway nói, miệng ông ta khẽ nhếch một nụ cười buồn, trong khi đôi mắt lại nhướng lên một tia nhìn hóm hỉnh.
–Thế giới của chúng tôi nhỏ lắm, ông ạ. Ở dưới này chúng tôi chỉ cần nghĩ đến nhau là tức khắc gặp nhau. Vâng, Papa ông tìm gặp tôi trước, lần đầu cũng khá lâu rồi, tự giới thiệu mình là nhà văn của một nước nhỏ, muốn gặp tôi vì một lý do đơn giản: ông ta đang buồn, cần có bạn nhậu. Tôi rủ ông ta đến quán này. Tôi không ngờ Papa ông tửu lượng khá thế... Nhưng ông ta là một người kín tiếng, ít tâm sự. Chính vì thế mà có câu hỏi của tôi.
–Nhưng Papa chưa trả lời tôi mà?
–Vâng, tôi biết. Tôi biết ông không thích cái cách trả lời của tôi. Nhưng tôi cũng xin được hỏi ông một câu nữa trước khi tôi trả lời câu hỏi của ông.
–Vâng, Papa cứ nói.
–Ở trên ấy người ta nói gì về cái chết của tôi?
–Thiên hạ chỉ suy đoán thôi. Toàn những tin đồn. Cũng lỗi tại ông đã không để lại một dòng chữ nào giải thích lý do ông tự vẫn. Khi ông chết người ta chỉ tìm thấy trong túi áo ông vỏn vẹn có hai tấm vé đi Pamplona để dự lễ hội đấu bò cho năm tới.
Hemingway cười lớn:
–Đúng thế! Tôi muốn người ta nhớ đến tôi như một người say mê đời sống...
–Khốn nỗi thiên hạ lại không nghĩ như thế, ông ạ. Họ đồn ông tự tử vì ông chán đời không thiết sống. Họ nêu những lý do như là bệnh tật, nào là ông bị bệnh tiểu đường, nào là ông bị bệnh thần kinh, và bệnh tật nó hành hạ ông. Họ cũng dẫn chứng ông tự tử vì ông có ông bố tự tử, thậm chí họ còn đồn ông chán sống vì lấy phải bà vợ thứ tư quá hung dữ....
Ông ta bỗng ngồi ngay lại, tay nắm chặt, giận dữ:
–Tào lao! Nhầm hết! Tôi không bao giờ chán sống! Trái lại tôi là người rất yêu sống. Tôi tin Papa của ông cũng là người rất yêu sống. Chúng tôi đã sống trọn vẹn, không lãng phí một giây phút nào của đời mình. Là nhà văn, là những người sống nồng nhiệt đam mê, chúng tôi hiểu nhau: nếu chúng tôi phải tự chọn cái chết cho mình, cũng chính bởi vì chúng tôi đã yêu đời một cách thái quá, khác thường. Cho đến một lúc nào cảm thấy bất lực vì không thể nào sống thỏa được cái đời đáng sống đáng yêu ấy, thì tự giải quyết bằng một phát súng, một liều thuốc ngủ... Giản dị thế thôi! Chẳng lẽ cái chết của Papa ông cũng bị thiên hạ đàm tiếu như thế sao?
–Không. Cha tôi có cho biết lý do tại sao ông tự ý hủy mình. Ông chết cho lý tưởng riêng của ông....
Một ánh lóe sáng.
Hemingway hướng mắt nhìn về phía sau lưng tôi.
Quay lại tôi thấy anh Đạt đang khum người chĩa máy ảnh về phía tôi, nói:
–Để tôi chụp thêm bức nữa. Cho chắc ăn... Nhưng... ông đừng nhìn vào ống kính, hãy nhìn vào bức tượng, tay giơ cốc rượu lên cao, ừ như thế đó... tưởng tượng như hai người đang nói chuyện.
Hemingway nghiêng người chống một khuỷu tay trên mặt quầy rượu, đầu hơi cúi xuống nhìn tôi và cả người ông ta bỗng cứng lại trong tư thế đó. Tôi nhìn lên gương mặt khoan hòa của ông ta và ngạc nhiên không còn thấy một nét sầu khổ nào như tôi vừa thấy ban nẫy. Với bộ râu quai nón kéo cao lên tận mang tai, Hemingway bây giờ trông tựa như một bậc hiền triết thời cổ xưa Hy Lạp.

_____________

Con thạch sùng

Con thạch sùng bò ngược trên trần nhà. Màu da nó ngà ngà tiệp màu vôi. Nó đuổi theo một con thạch sùng khác đang chạy dọc theo một bóng đèn nê-ông dài ở góc tường. Quang nhìn thấy nó lúc anh ở vị trí nằm ngửa tay ôm ghì đầu Vi nhìn lên trần. Con thạch sùng bò xuống đến mép tường thì dừng lại. Hai con mắt nó, hai chấm đen, nhìn xuống chiếc giường có hai thân thể trần truồng. Con thạch sùng không lạ gì cảnh này. Ở cái khách sạn phố Hàng Buồm chuyện đó xẩy ra như cơm bữa. Nhưng hôm nay nó thấy có cái gì khác khác nơi người đàn ông. Không phải ở cái cách làm tình của hắn mà là ở sự chú ý vô lý của hắn. Cứ mỗi lần ôm người đàn bà lăn trên giường ở vị trí ngửa là hắn lại nhìn lên tường, dán hai con mắt vào hai chấm đen. Con thạch sùng nghĩ bụng:
“Lạ lắm sao mà nhìn?”
Nghĩ thế rồi nó bò ngược lên trần, đuổi theo con thạch sùng cái.
“Lạ nhỉ? Không biết mình đã thấy con vật này chưa nhỉ?” Quang nghĩ
Ở Mỹ hơn ba mươi năm anh không hề thấy con thạch sùng. Trước đó ở Sài Gòn thì có thể, nhưng anh còn bé, không nhớ. Con thạch sùng cái (Quang đoán nó là cái vì là con bị săn đuổi) bò thật nhanh đến giữa trần nhà thì dừng lại, đúng ngay vị trí trên chiếc giường hai người nằm. Nó quay đầu đối diện với con đực vừa bò sát theo sau. Hai con nằm im phắc, cong người chờn vờn. Hai cái đuôi ngọ nguậy, cong cớn, uốn éo.
“Chúng đang động cỡn” Anh nghĩ
Rồi anh ôm chặt lấy Vi xoay đè hẳn lên người nàng. Quang vừa thoáng nghĩ nếu chúng làm tình thì một trong hai con có thể rớt xuống đúng ngay giữa mặt mình.
Quang quên phắt con vật. Anh chồm tới đè ngực mình trên hai bầu vú căng cứng của Vi. Đúng lúc cả hai nguời sắp sửa đến “phút cao điểm” thì ở ngay đầu giường, trên chiếc bàn thấp, trong chiếc ví xách tay của Vi, có tiếng nhạc rồn rã, bản nhạc quen thuộc mà hồi bé anh vẫn hát: Tò te! Con ma đánh đu…
“Cái cell phone!” Quang rủa thầm
“Có im đi ngay không!”
Tiếng nhạc không im. Trái lại càng to hơn. Réo rắt. Giục giã. Tò te!... Con ma đánh đu… thằng Tây nhẩy dù… zô- rô bắn súng….

***
Quang cảm thấy cái bầu vú ép vào ngực mình xẹp dần xuống. Vi nhỏm dậy, với tay lấy cái ví mở ra, cầm điện thoại di động áp tai:
– A-lô!
– Con khỉ? Mày đi đâu tao kiếm mãi không ra! Lùng hết cả vườn Chí Linh cũng không thấy…
Vi đưa tay vuốt lại mái tóc.
– À…ờ … Tao đi chợ… Có chuyện gì không mày…
– Chuyện con Thảo. Mày biết không.
– Gì?
– Nó có bầu rồi mày ơi!
– Thật hả?
Vi nhỏm dậy, ngồi trên mép giường, xỏ hai chân vào hai ống quần jeans, đứng hẳn dậy, một tay cầm điện thoại, tay kia kéo “zip” cài quần. Rồi Vi ngồi xuống mép giường, rù rì nói chuyện. Nửa giờ sau câu chuyện vẫn chưa dứt.
Ngán ngẩm Quang kéo chiếc gối đặt sau lưng ngồi dựa tường châm thuốc hút. Anh biết có bảng cấm hút thuốc trong phòng ngủ nhưng anh không “ke”. Anh đang bực mình cái cell-phone.
Theo làn khói thuốc Quang nhìn lên trần nhà. Hai con thạch sùng đi đâu mất tiêu. Chúng đã làm tình xong. Thoải mái. Anh ước kiếp sau mình làm con thạch sùng.

____________

Món quà sinh nhật

Trên chiếc SUV có bốn người. Ông Luận lái xe. Bà Luận ngồi cạnh ở băng trước. Đằng sau là hai đứa con. Bé Ly 13 tuổi và thằng Tom 6 tuổi. Gia đình ông Luận vừa đi nghỉ hè tại công viên Yellowstone tiểu bang Wyoming và đang trên đường trở về nhà. Xe chạy trên đường liên tỉnh 287 thuộc tiểu bang Montana.
Giữa lúc trên xe hai vợ chồng ông Luận đang to tiếng với nhau và hai người con cũng dành nhau một món đồ chơi thì tai nạn xẩy ra. Tất cả diễn ra chỉ trong một thoáng mắt. Chiếc xe chao nghiêng. Cùng với tiếng thắng rít của bánh xe nghiến trên mặt nhựa cả bốn người trên xe đều cùng nhìn thấy ở phía trước một con nai băng ngang đường. Trong trí nhớ của ông Luận và của Ly, hai người sống sót, thì hình ảnh sau cùng trước khi bất tỉnh là hình ảnh đôi mắt con nai tơ. Con mắt ngây thơ thản nhiên mở to. Mở to mãi. Đôi mắt phình lên choán hết tầm nhìn rồi đâm sầm vào màn đen.
Ly là người đầu tiên tỉnh dậy. Nó hé mở mắt. Một con nai cúi xuống nhìn nó rồi tan vào mảnh trời chói nắng. Nắng lóa trên đỉnh những ngọn thông cao vút. Hồi lâu sau nó mơ màng không hiểu sao mình lại nằm đây, trên bụi cỏ này. Trong cái yên vắng của khu rừng nó nghe như có tiếng chẩy róc rách. Rồi nó ngửi thấy một mùi khét tựa như mùi xăng. Cổ nó cứng ngắc không cựa quậy được nhưng nó cũng cố liếc nhìn sang một bên về phía ấy. Chiếc xe hơi SUV của bố nó đâm vào một gốc cây, bốn bánh chổng ngược. Nó nhớ ra con nai. Thì ra trong lúc bẻ quặt tay lái tránh con nai bố nó đã cho xe lao xuống sườn đồi. Daddy, mommy và Tom đang ngồi lộn đầu trong xe – nó nghĩ – nhưng nó không thể làm gì được vì toàn thân nó cứng đờ. Bất cứ một cử động nào cũng khiến nó đau đớn tê buốt. Trong cơn mê tỉnh nó nhìn bốn chiếc bánh xe SUV. Cứ thế. Thật lâu. Rồi nó lịm đi trong tiếng còi hụ mơ hồ của xe cấp cứu vẳng tới từ đằng xa.
Tiếng còi hụ trôi đi trong một cảm giác bềnh bồng. Trong tĩnh lặng bầy nai nhẩy lên nhẹ hẫng. Một con từ từ rơi xuống. Đôi mắt nai ngây thơ thản nhiên mở to, mở to, rồi ánh sáng lóe lên, một khuôn mặt cúi gần sát, ông Luận nhìn thấy một đôi mắt xanh lơ và ông mơ màng tỉnh dậy. Trên chiếc xe cứu thương hai nhân viên medic bận đồng phục quần đen áo sơ-mi trắng quỳ xuống sàn cầm đèn pin vạch mí chiếu đèn vào mắt hai người đang nằm thiêm thiếp trên băng-ca. Rồi ông Luận lại lụi dần vào cõi mê có tiếng còi hụ xa vắng đuổi theo bầy nai…
Tiếng còi rền rĩ hú lên từng chập trong khu rừng đèo. Chiếc xe cứu thương thả hết tốc lực nhưng nhìn từ mảnh trời cao của tiểu bang big sky Montana chiếc xe trông nhỏ bé như một con bọ bò ngoằn nghoèo chậm chạp giữa khu rừng núi bao la để trực chỉ thành phố Great Fall gần 100 dặm về phía bắc. Các chuyên viên phân tích tai nạn sau này cho rằng ông Luận thoát chết vì ông là người duy nhất trên xe dùng giây nịt an toàn lại có gối phồng cản. Còn Ly do một sự may mắn hi hữu bị văng khỏi xe trước khi xe đâm vào gốc cây, sự va chạm ấy khiến bà Luận và bé Tom chết ngay tức khắc.

***
– Happy birth day to you… Happy birth day to you… Happy birth day to Mai Loan… Happy…
Mười ba năm sau. Vào một đêm mùa đông. Năm người ngồi quây quần chung quanh một chiếc bàn thấp. Trên bàn có chiếc bánh sinh nhật to do bà Thùy, vợ của ông Luận, đặt tại một tiệm bánh Pháp nổi tiếng, trên bánh cắm 6 cây nến và có đề tên Mai Loan.
Bé Mai Loan cúi xuống phùng miệng thổi nến trên chiếc bánh sinh nhật. Năm ngọn tắt, chừa một. Nó lấy hơi tính thổi lần thứ hai thì chị nó ngăn lại.
Ly cúi xuống:
– Khoan đã. Mai Loan có wishes gì không nào?
Bé Mai Loan không nói gì. Nó chỉ vào cái hộp to nhất trong đống quà tặng rồi thổi tắt ngọn nến. Mọi người vỗ tay. Cái hộp to nhất ấy là món quà của ông Luận mua cho con.
Không ai biết trong hộp to tướng ấy là cái gì ngoại trừ ông Luận và Brian, người con rể của ông. Nhưng ngay cả Brian cũng không biết là trong thâm tâm ông Luận mua món quà này không phải cho con gái ông mà là cho Tom, đứa con trai duy nhất của ông đã chết một tuần lễ trước ngày sinh nhật thứ sáu của nó.
Hôm trước khi thùng đồ chơi được gửi tới nhà, ông Luận phải đóng cửa garage gói thật kỹ trong giấy hoa không để vợ con biết. Từ hơn một tháng trước ngày sinh nhật của bé Mai Loan ông Luận để ý đi tìm món đồ chơi mà mười ba năm trước ông đã hứa mua cho đứa con trai. Ông Luận nghĩ rằng ở vào tuổi lên sáu thì món đồ chơi đó trẻ con dù là trai hay gái đều thích. Ông vào một tiệm chuyên môn bán đồ chơi cho trẻ con và ngạc nhiên không thấy ở đó bày bán. Đã lâu lắm rồi ông Luận không đi mua sắm đồ chơi con nít nên ông không biết rằng nhiều món đồ chơi thông dụng thời xưa ngày nay không dễ dàng tìm thấy. Sau ông Luận phải nhờ Brian tìm và đặt mua từ một chỗ bán đặc biệt.
– Nào, bây giờ mở gifts. Mai Loan thích mở món quà nào trước?
Ly nói xong cúi xuống đống quà. Nàng tính mở cái hộp to nhất nhưng ông Luận khoác tay bảo khoan cứ để đó, mở ba hộp nhỏ kia trước. Nàng lấy một món đưa cho Mai Loan và giúp nó cởi giây buộc. Bên trong là một bộ quần áo đầm. Bộ đồ màu xanh, xinh xắn. Nhưng con bé có vẻ không thích. Nó liếc nhìn qua cái áo rồi đưa tay chỉ ngay vào một cái hộp khác. Bà Thùy rời ghế lại gần con gái. Bà căng bộ quần áo ướm lên người con bé, nói:
– Hơi rộng một chút. Năm tới vẫn còn mặc được.
Brian cúi xuống cầm lấy cái hộp Mai Loan vừa chỉ. Đó là quà anh ta mua: một bộ Lego có thể xếp thành hình một chiếc du thuyền nhỏ. Ly nhấc xem cái hộp có đề chữ “Cho trẻ em 6-10 tuổi” rồi bảo chồng:
– Không biết Mai Loan có xếp được không. Nó mới sáu tuổi. Anh phải giúp nó đấy.
Hộp quà thứ ba Ly biết rõ bên trong có gì vì chính nàng lựa mua. Đó cũng là món quà mười ba năm trước bà Hằng mẹ nàng đã mua cho nàng trong một tiệm gifts shop ở Yellowstone. Khi cái hộp vừa được mở ra đôi mắt của Mai Loan sáng lên. Con bé ôm ngay món quà vào lòng: một con gấu nhung khá to màu nâu lông mượt mà.

***
Tom ôm chặt con gấu vào lòng. Nó nói to:
– It’s mine!
Ly chồm tới:
– No, it’s mine!
Thằng bé né người, ngồi lùi phía cửa xe. Quay lên băng trước Ly kêu lên:
– Mommy! Nó lấy con “be” của con. Mommy “bai” cho con, phải hôn?
Bà Hằng quay phía sau:
– Ừ, nhưng em nó thích thì để cho em nó chơi.
Tom ôm con gấu, khóc mếu máo:
– Mẹ. Con muốn nó. Why you did not buy anything for me?
Bà Hằng dỗ:
– Đừng khóc con. Next week, your birthday, Dad will buy for you a big one …
Ly không còn đòi con gấu nữa. Nó hậm hực thừ người nhìn ta ngoài. Rừng thông loáng loáng vụt qua. Bên đường cứ cách một quãng lại có một tấm bảng màu vàng, hình tam giác, chính giữa vẽ hình con nai nhẩy chồm, dưới đề chữ Deer X-ing.
Cả hai người ngồi phía trước đều trông thấy nhưng không ai lưu tâm đến ý nghĩa của những tấm bảng đó. Chúng cảnh giác người lái xe phải coi chừng những con hươu con nai bất ngờ chạy băng ngang khúc đường rừng này. Họ đang bận tâm chuyện khác.
Bà Hằng quay qua phía chồng, tiếp tục câu chuyện bỏ giở:
– Chuyến vacation này không làm thay đổi quyết định của em. Ngày mai về anh chỉ việc ký vào giấy tờ em đã làm sẵn. Mọi chuyện đã có luật sư của em lo…
Ông Luân ngắt lời vợ:
– Nhưng ít ra em cũng phải nói cho anh biết lý do tại sao.
Im một lát. Rồi bất thần ông đập mạnh tay trên bánh lái, nói như quát:
– Tại sao? Why?
– Chẳng tại sao cả. Lý do rất giản dị. Em không thể sống vớùi anh được. Em đã chịu đựng cả hai năm nay rồi. That is it!
Ông Luận gằn giọng:
– Đó không phải lý do. Tôi biết lý do là gì rồi. Thằng Terry! Thằng xếp của cô! Có phải không? Cô ngoại tình với nó từ 6 tháng nay. Tưởng tôi không biết hả?. Cô đi ăn lunch với nó. Cô bảo đó là business! Business gì mà đi ăn chỉ có hai người. Mà đi ăn mỗi ngày! Cuối tuần lại ngủ với nó, nói dối tôi là work overtime. Tôi có ghi số xe của nó, chiếc xe đỏ décapotable, tôi biết hết! Có phải lý do không?
– Không! Không! Tôi… Tôi…
Bà Hằng hét một tiếng thật lớn rồi bỗng im bặt. Bà đưa tay lên bụm miệng. Mắt bà mở to. Chiếc xe SUV vừa qua khỏi một khúc đường cong. Một con nai vừa băng qua, đứng chình ình ở giữa đường. Ông Luân đạp mạnh thắng. Tiếng nghiến két của bánh xe trên mặt đường khiến cả bốn người đều nhỏm lên sửng sốt nhìn phía trước.
***
Ly nhớ lại tai nạn xẩy ra trong lúc thằng Tom đang chơi với con gấu. Phía trước xe cha nàng đang nói chuyện với mẹ. Giọng nói mỗi lúc một gay gắt khiến nàng chú ý. Nàng cảm thấy có một chuyện gì nghiêm trọng xẩy ra giữa bố mẹ. Suốt chuyến đi chơi Yellowstone bố mẹ nàng rất ít khi nói chuyện với nhau, không như trong những chuyến vacation trước. Nàng không biết chuyện gì thực sự xẩy ra.
Mười ba năm sau, mỗi năm một ít, như những mảnh puzzles được lắp dần vào nhau, bây giờ nàng mới trông thấy được một bức tranh gần toàn vẹn.
Ly bốn tuổi theo bố mẹ di tản qua Mỹ vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Ông Luận là một cựu sĩ quan và bà Hằng là một nữ tiếp viên hàng không của miền Nam. Bà Hằng trẻ hơn ông Luận hơn mười tuổi. Sang Mỹ ông Luận theo học một trường huấn nghệ. Sau 18 tháng ông tốt nghiệp với bằng chuyên viên sửa xe hơi. Ông làm việc trong hãng xe Toyota và có lợi tức khá cao, đủ để bà Hằng ở nhà nuôi con và ghi danh theo học tại một trường đại học lớn ở thành phố Seattle. Ba năm sau khi lập nghiệp tại Mỹ bà Hằng sinh hạ đứa con trai. Ông Luận định đặt tên nó là Huy nhưng bà Hằng phản đối. Bà không muốn đặt tên Việt Nam cho con. Bà lý luận là nó đẻ ra ở đất Mỹ đương nhiên mang quốc tịch Mỹ, chọn một tên Mỹ sẽ có lợi hơn cho tương lai của nó. Ông Luận tuy không đồng ý nhưng cũng chiều ý vợ đặt tên con là Tom. Bà Luận còn muốn đi xa hơn. Mấy năm sau khi gia đình được vào quốc tịch Mỹ bà Hằng còn muốn đổi tên đứa con gái thành Tracy, nhưng lần này ông nhất quyết giữ tên Ly cho cô gái lớn của mình.
Năm Tom được hai tuổi thì bà Hằng tốt nghiệp với mảnh bằng kỹ sư cơ khí và làm việc tại một cơ xưởng đóng tàu của hải quân. Lợi tức của gia đình ông Luận tăng vọt sau khi bà Hằng đi làm. Ông bà dư khả năng mua một căn biệt thự tại Edmonds có cả một cái view vịnh Puget Sound trước mặt. Nhưng không may là chẳng bao lâu sau khi mua căn nhà một tai nạn xẩy đến khiến ông Luận bị gẫy xương sống buộc ông phải bỏ việc. Ông nằm nhà gần một năm trời và tinh thần ông xuống dốc rõ rệt. Ông biết là mình không thể nào theo nghề sửa xe nặng nhọc ấy được nữa, nhưng kiếm một việc khác nhẹ nhàng hơn thì không có chỗ nào mướn. Bà Hằng rất nhiều lần khuyến khích chồng nên ghi danh học đại học để lấy mảnh bằng về computer là một ngành có đòi hỏi rất cao hồi đó nhưng ông Luận, một phần vì nhiều tuổi, một phần vì mệt mỏi, phần khác cũng vì tự ái, ông nhất định không nghe và từ đó luôn luôn có chuyện cãi vã trong gia đình. Ông Luận còn quá trẻ để về hưu nên cuối cùng thì ông cũng phải đi làm. Ông chấp nhận một nghề mà mới chỉ cách đấy có mấy năm chính ông đã khinh rẻ nó: nghề janitor quét dọn tại một trường trung học, ca đêm. Từ đó cái hố sâu ngăn cách giữa ông bà Luận ngày càng lớn.
Những ngày đó Ly được mười một tuổi. Con bé đủ khôn lớn để biết được rằng cuộc sống của gia đình nó không còn giống như trước. Trong gần hai năm trước khi mẹ nó mất nó hầu như không bao giờ được ăn một bữa cơm chung có cả gia đình. Buổi sáng lúc bố nó còn ngủ, mẹ nó dậy trang điểm, ăn sáng, rồi lái chiếc xe Sport đi làm. Buổi chiều với bộ quần áo công nhân xập xệ mặc từ thời sửa xe, bố nó leo lên lái chiếc truck đi làm, trước khi mẹ nó về nhà. Dưới con mắt của nó bà Hằng trông trẻ đẹp sang trọng, còn ông Luận thì già nua bê xệ.
Trước vụ đi chơi Yellowstone thỉnh thoảng nó cũng chứng kiến bố mẹ nó cãi nhau, và dù không hiểu chuyện gì, trong lòng nó luôn luôn đứng về phía mẹ.

***
Ông Luận nhìn vào hộp đồ chơi ông mua cho con. Trí ông thoáng hiện hình ảnh con đường sắt chạy dọc theo bãi biển Edmonds vào một buổi chiều mười ba năm trước, khoảng một tuần lễ trước chuyến đi nghỉ mát ở Yellowstone. Chuyến vacation là nỗ lực của cả hai người để cứu một mái ấm đang trên bờ đổ nát.
Hai người đang đi dạo dọc bờ biển khi bà Hằng dừng bước. Bà nói với chồng:
– Em đã nghĩ kỹ rồi. Chúng mình ly dị. Ý định này em đã có sẵn trong đầu từ lâu. Hôm nay khi em nói ra với anh thì nó sẽ là quyết định. Em chỉ mong một điều duy nhất là chúng mình chia tay trong sự hiểu biết và bình tĩnh…
Ông Luận không nghe được hết những lời nói của vợ vì lúc ấy một chuyến tàu hàng vừa rầm rộ đi qua, chở những thùng hình hộp khổng lồ đủ màu sắc, những chữ lớn in trên thùng hàng Pacific N.W, Evergreen, Sealand, Santa Fe… vùn vụt lướt qua… Con tàu đi khuất ở một khúc quanh vương lại trong không gian ẩm đục của miền Tây Bắc tiếng còi hơi đục đục, trầm buồn.
Hình như bà Hằng vẫn tiếp tục nói không ngừng trong suối chiều dài của con tàu, mặc dầu giọng bà bị át đi vì tiếng nghiến rung chuyển đường sắt. Hồi lâu sau không gian trả lại tiếng sóng biển nhịp nhàng vỗ vào ghềnh đá. Ông Luận chỉ nắm được cái ý chính của câu chuyện. Đại khái bà Hằng nói về việc phân chia tài sản và trách nhiệm của hai người với con cái sau khi hai người chia tay. Lúc ấy trí óc ông Luận đang xoáy về một chuyện khác hẳn, ông tự nhủ: “Mình nên nói hay không nên nói?”. Cuối cùng ông chọn sự im lặng. Ông biết là nếu mình nói ra những điều ông nghi ngờ từ sáu tháng nay, và nhất là trưng ra những bằng cớ thì sẽ không còn một phương thuốc nào cứu vãn nữa. Ông Luận chỉ ôn tồn bảo vợ:
– Chuyện đâu còn đó. Mình nên nghĩ đến tương lai của con cái và tính xem đuờng nào có lợi nhất cho chúng. Anh đề nghị thế này. Từ ba năm nay chúng mình chưa đi nghỉ hè. Mình đưa hai con đi Yellowstone một chuyến. Nếu sau chuyến vacation mà em vẫn giữ ý định muốn ly dị thì anh sẽ chấp nhận ngay tất cả những quyết định của em.
Hộp quà sinh nhật do ông Luận mua được mở ra. Đó là một bộ xe lửa được gói trong những bao nylon với đầy đủ toa tàu, đường rầy, trạm ga và nhiều đồ phụ tùng khác. Bà Thùy thấy ngay vẻ thất vọng trên gương mặt con bé Mai Loan, bảo chồng:
– Sao anh lại chọn món đồ chơi này? Nó là con gái nó có biết chơi mấy thứ này đâu...
Bà Thùy dọn các món đồ chơi khác bỏ vào hộp rồi nói:
– Thôi để ngày mai anh xếp cho nó. Bây giờ muộn rồi...
Bà quay qua con gái:
– Mai Loan, sửa soạn đi ngủ đi con.
Con bé theo mẹ bước lên lầu, tay ôm con gấu.
Ly xếp những tờ giấy bọc màu đã bị xé rách trong khi Brian xem xét bộ tàu hỏa và nghiên cứu cách thức xếp bộ đồ chơi trong tờ giấy chỉ dẫn. Chàng nghĩ ít nhất cũng phải mất cả tiếng để xếp lại toàn bộ.
Nửa giờ sau Ly và chồng nàng bước lên lầu. Trước khi đi khuất hai người quay nhìn xuống dưới phòng khách giơ tay nói “Good night” với ông Luận lúc ấy đang ngồi một mình trong phòng trên chiếc ghế bành ngước mặt nhìn lên.
– Trời! Sao nó giống mẹ nó thế!
Thoáng nghĩ như thế và ông Luận bỗng lặng người. Hình ảnh Ly con gái ông bên cạnh chồng tươi tắn bước lên cầu thang lóe lên hình ảnh người vợ cũ của ông đi sánh đôi với người đàn ông Mỹ bước vào Anthony’s Restaurant mười ba năm về trước.
Ông Luận nhớ rõ trưa ngày hôm đó ông đến quán Anthony rất sớm. Ông ngồi trước quầy rượu trên một chiếc ghế đẩu cao và là người duy nhất ngồi ở quầy vào giờ này. Khi người hầu rượu tiến lại ông Luận gọi screw-driver là một thứ rượu Vodka trắng hòa trong nước cam. Ông đến quán vì ông nghe có người mách là vợ ông tư tình với người sếp của bà ở trong sở làm và hai người vẫn thường đến nhà hàng này ăn trưa.
Nửa giờ sau ông Luận nhìn qua cửa kính thấy Terry đi vòng trước mũi chiếc xe màu đỏ đến phía hông bên kia mở cửa xe cho vợ ông bước xuống rồi hai người sóng đôi đi vào trong quán. Chỗ quầy rượu tối, ông Luận ngồi thu mình, hơi cúi đầu ngước nhìn phía tủ rượu trong đó qua tấm gương sau những chiếc cốc thủy tinh ông thoáng nhìn thấy hai người đi qua phía sau lưng. Ông Luận gọi một cốc rượu thứ hai và nốc một hơi cạn. Lâu lâu ông khẽ quay đầu lại liếc mắt về phía dẫy bàn đặt sát một cửa kính rộng nơi đó thực khách có thể nhìn bao quát vùng vịnh với những chiếc du thuyền đậu trong bến. Nơi một chiếc bàn nhỏ phủ khăn trắng ông thấy bà Hằng một tay chống cằm ngước mặt nhìn Terry đang khoa tay nói chuyện. Ông Luận lại nhìn bóng mình trong gương tủ rượu với chiếc mũ lưỡi trai che cái đầu hói, mặt mày râu ria không cạo, bộ áo quần công nhân nhàu nhì. Sự tương phản giữa hai hình ảnh làm đậm thêm cảm giác ông đang có vào lúc ấy, cái cảm giác không chút mảy may ghen tức mà chỉ lặng đi vì buồn và chua xót. Trong thâm tâm ông Luận cho rằng hai người ngồi ở chiếc bàn kia trông sang trọng và đẹp đôi quá, rằng vợ ông xứng đáng được hưởng niềm hạnh phúc ấy và ý nghĩ này khiến cho sự chua xót trong lòng ông thêm đậm đà, như một quả chua có thấm vị ngọt.
Ông Luận nhìn món đồ chơi Brian xếp dở dang trên sàn nhà. Trí ông lại thoáng hiện câu nói của bà Hằng ngay trước khi xẩy ra tai nạn: “Không! Không! Tôi... Tôi...” . Mình có nghi oan cho vợ không? Câu hỏi này ám ảnh ông suốt mười ba năm qua.
Rời chiếc ghế bành, ông Luận tiến lại phía bộ đồ chơi. Ông quỳ xuống sàn nhà tiếp tục công việc mà con rể ông đã làm nửa chừng, đó là lắp những thanh đường rầy, những toa tàu hỏa vào với nhau.
Khoảng tuần lễ trước chuyến đi chơi Yellowstone vào một buổi sáng trong lúc bà Hằng đi làm và đứa con gái lớn đi học ông Luận một mình dẫn bé Tom đi xem hội chợ Puylallup là một hội chợ lớn nhất vùng Tây Bắc. Ông nghĩ tội nghiệp bé Tom, từ khi bố mẹ nó có chuyện bất hòa nó ít có dịp được bố mẹ dẫn đi đâu. Buổi đi chơi ấy quả là một ngày vui trọn vẹn đối với bé Tom. Còn ông Luận sau này cứ mỗi lần ông nhớ đến thằng bé là ông lại liên tưởng ngay tới cái buổi đi chơi Puylallup Fair ấy và cái kỷ niệm rất đẹp này giữa hai bố con đã an ủi ông phần nào trước cái chết bất ngờ của đứa con trai yểu mệnh.
Hôm đó hai bố con đã cưỡi ngựa Merry-Go-Round, đi Roller Coaster và tham dự hàng chục những trò chơi khác. Buổi trưa thằng bé kêu mệt ông Luận kông kênh nó trên vai. Tay cầm thanh que đầu có gắn bông kẹo to tướng màu hồng hồng nó ngồi quặp cổ bố và hai bố con len lỏi giữa rừng người trong hội chợ. Đến khi ông Luận bước vào một gian hàng trưng bày đồ chơi của Hội Hỏa Xa thì thằng bé đòi ở luôn đấy nhất định không chịu đi xem nơi nào khác. Đôi mắt nó dán chặt vào những đoàn tàu hỏa tí hon chạy băng băng trên những thanh đường rầy uốn khúc. Lượn vòng sau những quả đồi tàu chạy xuống thung lũng vượt qua hai câu cầu bắc ngang hai con sông rồi lại đâm lên núi chui vào đường hầm. Ló ra ở đầu kia con tàu xuống dốc rúc còi phun khói giảm bớt tốc lực chạy vào thành phố vào nhà ga nơi ngã tư có những tấm cản hạ xuống khi đoàn tàu đi tới rồi tự động nhấc lên khi đoàn tàu đi qua. Ông Luận định bụng sẽ mua cho con một bộ xe hỏa giống như thế sau chuyến đi vacation về trong dịp sinh nhật thứ sáu của nó. Ở Yellowstone khi bà Hằng loay hoay đi tìm mua quà cho con trai thì ông Luận gạt đi bảo bà đừng mua gì cho nó vì ông đã có sẵn ý định sẽ mua một món quà sinh nhật thật to và thật đặc biệt cho nó khi trở về Seattle.

***
Ly giật mình thức giấc. Trời còn tối đen. Trong giấc ngủ của nàng hình như nàng nghe thấy có một thứ tiếng tiếng động gì đều đều liên tục, tiếng động thấm vào trong cơn mơ và cuối cùng đã khiến nàng tỉnh giấc. Thoạt đầu nàng nghĩ chắc là tiếng ngáy của chồng. Nhưng khi Brian quay người sang một bên và bắt đầu ngủ yên Ly nghe thấy một tiếng kêu rè rè lúc to lúc nhỏ phát ra từ phía sau cánh cửa phòng ngủ. Không chợp mắt lại được lát sau Ly nhỏm dậy nhìn chiếc đồng hồ dạ quang ở đầu giường. Kim đồng hồ chỉ ba giờ rưỡi sáng. Không muốn làm mất giấc của chồng, Ly khẽ tung chăn ngồi dậy quơ đôi dép xỏ chân trong bóng tối. Nàng rón rén đi về phía cửa ra vào, nơi phía dưới cửa có hé một vạch sáng chứng tỏ đèn ở phòng ngoài vẫn còn thắp.
Ly hé mở cửa lách mình ra ngoài rồi khẽ khép ngay cửa lại. Nàng bước về phía đầu cầu thang nhìn xuống phòng khách ở từng dưới. Từ trên cao nàng nhìn thấy chiếc đầu hói của ông Luận cúi sát trên con tàu hỏa đang rè rè chạy trên đường sắt. Bộ đồ chơi đã xếp xong. Ông Luận nằm sấp trên sàn, hai chân ông co lại, hai bàn tay chống cằm, chăm chú nhìn đoàn tàu tí hon chạy vòng vòng lên núi xuống đồi qua cầu qua ga. Thỉnh thoảng ông Luận với tay xếp lại vị trí ông xếp ga cầm cờ hay điều chỉnh con tàu đi theo một lộ trình khác.
Nhìn cảnh tượng cha mình nay đã già chơi món đồ chơi con nít ở dưới nhà Ly bùi ngùi trong lòng. Bất giác nàng nhớ lại lời nói của mẹ nàng với Tom chỉ dăm phút trước khi tai nạn xẩy ra: “Đừng khóc con. Next week, your birthday, Dad will buy for you a real big one...” và nàng chợt hiểu là món quà sinh nhật này cha nàng đã mua cho Tom chứ không phải cho Mai Loan.
Ly khẽ thở dài lặng lẽ quay trở về phòng mình. Trên giường bên cạnh chồng đang say ngủ ngáy đều đều nàng nằm ngửa mắt mở to nhìn sâu mãi vào bóng tối.

____________

Rãi tro theo gió

Tặng Nhung, “đứa con đầu lòng” của nhà văn Thạch Lam.

Tôi gặp anh tất cả bốn lần. Bốn lần đó trải dài hơn ba thập niên. Không nhiều. Đã thế dường như trong cả bốn lần đó ngoài cái gật đầu chào chúng tôi không hề trao đổi với nhau lấy một tiếng. Anh vốn ít lời. Còn tôi thì e dè. Tôi vốn có tính rất ngại bắt chuyện với một người nổi tiếng, đặc biệt nếu người ấy lại là người có quyền thế. Trong thâm tâm tôi biết nếu tôi mở chuyện thì anh cũng sẽ vui vẻ bắt chuyện ngay. Đằng sau gương mặt lầm lì ít nói ấy anh là người rất bình dị. Nhưng lần nào cũng thế sau cái gật đầu chào, tôi không bao giờ cất tiếng. Để đến bây giờ ngồi trước bàn máy vi tính một buổi sáng mùa thu miền Tây Bắc nước Mỹ, tôi viết đôi dòng về anh mà lòng không khỏi gợn chút nuối tiếc: bài viết của tôi vì thế sẽ không ghi lại một mẩu đối thoại nào, dù ngắn, để làm kỷ niệm giữa anh và tôi. Mà nào giữa chúng tôi đâu có phải người xa lạ gì cho cam? Anh là nguời rất thân cận trong đại gia đình Nguyễn Tường chúng tôi, là chồng của người em họ tôi, trưởng nữ của nhà văn Thạch Lam.
Tôi nhớ lại hình ảnh anh trong bốn lần gặp ấy. Bốn lần thì có đến ba anh hiện lên trước ly rượu. Đó cũng là hình ảnh cha tôi thường thoáng hiện mỗi lần tôi nhớ về ông. Trước ly rượu anh trầm ngâm yên lặng. Cha tôi cũng thế. Và bao giờ cũng vậy mỗi lần nghĩ về anh lòng tôi không khỏi có ngầm một sự hãnh diện thầm kín rằng dòng họ tôi có được một người rể như anh nổi tiếng là người thanh liêm. Cách đây sáu năm khi tái bản cuốn truyện của cha tôi, cuốn Giòng Sông Thanh Thủy, tôi đã viết lời đề tặng anh trên trang đầu cuốn sách những lời thật lòng: “Tặng anh Ngô Quang Trưởng, với cả tấm lòng quí mến và ngưỡng mộ”.

     ngo quang truong 

Tướng Ngô Quang Trưởng

Cơ duyên nào mà một vị tướng lừng danh của quân lực miền Nam Việt Nam lại kết duyên với cô con gái lớn của nhà văn tài hoa nhất Tự Lực Văn Đoàn? Tôi không biết nhiều để trả lời thật đúng cho câu hỏi này. Người có thẩm quyền trả lời là bà Trưởng. Mang dòng máu của nhà văn Thạch Lam tôi nghĩ Nhung nếu muốn viết cũng sẽ dễ thôi. Tôi cũng không có ý định viết hồi ký về anh vì thật tình tôi không biết nhiều. Chỉ xin ghi lại đây đôi chút kỷ niệm với anh trong dăm lần gặp gỡ hiếm hoi.
Trước khi gặp anh lần đầu tiên vào năm 1962 tôi đã nghe lan truyền câu chuyện về một mối tình tay ba của hai sĩ quan trẻ thuộc hai binh chủng khác nhau của QLVNCH, một không quân và một nhẩy dù, với cô con gái lớn của một nhà văn nổi tiếng. Hai quân nhân cùng yêu một cô gái. Đó là chuyện thường tình trong cuộc chiến. Điểm đặc biệt họ lại là đôi bạn rất thân nhau. Trước cái chết có thể đến bất cứ khi nào, họ giao ước với nhau trong tình bạn là nếu người nào nằm xuống trước thì người kia nguyện sẽ suốt đời chăm lo cho cô gái kia. Người phi công sau đó tử nạn máy bay và định mệnh đã đẩy cô em họ tôi gắn liền cuộc đời với anh Trưởng. Sau này nhiều lần gặp Nhung tôi toan hỏi Nhung về câu chuyện tình này có đúng sự thực hay không, nhưng tôi lại thôi không hỏi. Với tôi đó là một huyền thoại đẹp, hãy cứ để nguyên vẹn như thế trong trí tưởng tượng của tôi.
Năm 1962 tôi ở Sài Gòn và dậy học tại trường trung học Minh Tân ở Biên Hòa. Một bữa anh Triệu tôi, hiệu trưởng trường Minh Tân, chở tôi từ Biên Hòa về Sài Gòn trên chiếc xe lambretta của anh. Đến Thủ Đức anh tôi đề nghị ghé thăm Nhung lúc này đang ở đó. Trong lúc nói chuyện với Nhung thì có tiếng xe đỗ ở ngoài cửa. Tôi nhìn ra. Từ trên xe jeep một sĩ quan bận đồ dù nhẩy xuống. Hai bông mai trên ve áo trận. Anh Trưởng lúc ấy cấp bậc Trung úy giữ chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù. Anh người tầm thước, nước da ngâm đen, khuôn mặt sần sùi khắc khổ. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là anh không những không đẹp trai, lại không có cái “tướng” hùng của một quân nhân. Trí tôi lúc ấy thoáng hiện câu chuyện tình tay ba và tôi hình dung khuôn mặt anh chàng phi công tử trận chắc là phải hào hoa và đẹp trai hơn anh Trưởng.
Năm 1967 tôi gặp anh Trưởng lần thứ nhì ở Huế thì trên ve áo trận của anh hai bông mai đã thay thế bằng một ngôi sao. Anh đã lên tướng! Người sĩ quan tôi trông không có “tướng” ấy, năm năm sau đã được thăng tướng trong một thời gian ngắn kỷ lục. Trong họ tôi bắt đầu có lời đồn đãi là từ khi anh Trưởng lấy Nhung thì như diều gặp gió đường binh nghiệp của anh lên vùn vụt. Từ một Trung úy Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù anh bây giờ là Chuẩn tướng Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1 Bộ Binh. Năm ấy từ Sài Gòn tôi bay ra Huế hai tuần lễ và tá túc tại đại học xá Nam Giao, nơi mà hai năm trước tôi đã từng là sinh viên nội trú để theo học ở Đại Học Khoa Học Huế. Từ Nam Giao tôi đi bộ đến thăm cô em họ, lúc này đã khó gặp vì ở một nơi rất “kín cổng cao tường”. Tư dinh của tướng Trưởng là một biệt thự trên đường Lê Thánh Tôn gần nhà bưu điện Huế. Chung quanh tòa nhà giây thép gai giăng đầy, ở bốn góc là bốn lô cốt thiết lập bằng những bao cát với những họng súng chĩa ra từ lỗ châu mai. Người lính gác cổng vào trong nhà báo và Nhung đã ra tận cổng để tiếp tôi. Chúng tôi đang nói chuyện ở sa lông thì anh Trưởng về. Trông anh mệt nhọc nhưng oai phong hơn hẳn lần tôi gặp anh 5 năm trước. Thuở ấy tôi chưa nhập ngũ, vẫn còn là sinh viên, dù vậy trông anh tôi cũng có cảm giác hơi khớp. Không biết có phải vì ngôi sao trên ve áo anh khiến tôi thấy anh oai vệ hơn không. Tôi đứng dậy chào anh trong lúc Nhung nói với anh Trưởng: “Anh Thiết, con bác Tam đấy!”. Anh không nói gì, chỉ khẽ gật đầu, rồi lẳng lặng ra chỗ quầy rượu nơi có đặt mấy chai Martell có ngâm những củ sâm bên trong, anh rót rượu vào ly rồi cầm ly rượu trên tay không uống, anh chậm rãi bước tới bước lui trong phòng khách, đầu cúi nhìn sàn nhà vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ.

nguyen tuong thiet

Đèo Hải Vân

Năm 1970 khi tôi gặp lại anh lần thứ ba thì tôi đã là một quân nhân. Sau biến cố Tết Mậu Thân tôi nhập ngũ khóa 2/68 Thủ Đức. Ra trường tôi phục vụ ngành Chiến Tranh Chính Trị tại Tổng Cục CTCT ở Sài Gòn. Năm ấy khoảng gần tết thím Sáu tôi tức là bà Thạch Lam mất tôi đi viếng thím trong bộ quân phục. Quan tài thím đặt tại tư dinh tướng Trưởng trong cư xá sĩ quan Chí Hòa. Họ hàng chúng tôi đứng chật hai bên quan tài đặt chính giữa phòng khách. Xe jeep đậu trước cửa. Anh Trưởng bước vào. Bỏ chiếc mũ lưỡi trai cặp tay – chiếc mũ gắn hai ngôi sao đen – anh đứng yên lặng trước quan tài mẹ vợ cúi đầu. Đứng ở bên này quan tài, đối mặt anh lần đầu trong tư thế một quân nhân, một Thiếu úy trước một Thiếu tướng, tôi cảm nhận tất cả cái trọng trách lớn lao của vị tướng Tư Lệnh Quân Đoàn IV, quân khu IV, hằn trên gương mặt khắc khổ của anh. Hai phút sau anh đội mũ lên đầu rồi vội vã bước ra xe đi mất.
Năm 1972 sau “mùa hè đỏ lửa” tôi là một trong ba sĩ quan của Khối Kế Hoạch/ Tổng Cục CTCT đi thanh tra vùng giới tuyến. Ba người ấy là Trung tá Vĩnh Huyền, Thiếu tá Nguyễn Công Luận và tôi với cập bậc Trung úy. Phái đoàn bay ra Huế trú đóng hai tuần lễ ở Mang Cá trong cổ thành Đại Nội. Không khí nơi đây đượm mùi chiến tranh. Lần đầu tiên kể từ ngày ra trường tôi trực diện với cuộc chiến. Cộng quân lúc này thỉnh thoảng vẫn tiếp tục nã pháo vào cổ thành Huế. Mỗi lần nghe tiếng đạn rít trên không trung tôi quơ nón sắt chụp lên đầu nhào xuống giao thông hào nơi hàng trăm binh sĩ thuộc đủ loại binh chủng và cấp bực cùng nhào xuống trú pháo. Theo bản năng tự nhiên mỗi lần nghe tiếng đạn pháo rít trên cao là tôi lại chúi đầu xuống đất mặc dù tôi biết rằng nghe được tiếng đạn rít tức là mình đã thoát chết vì đạn đã bay qua khỏi đầu. Chính trong lúc trú pháo này mà tôi hiểu được nỗi kinh hoàng mà anh vợ tôi Trung úy Nguyễn Thái Hòa và những chiến sĩ sư đoàn 5 Bộ Binh tử thủ An Lộc đã phải hứng chịu trước những trận mưa pháo dữ dội hơn gấp cả ngàn lần. Trước khi ra Huế lần này tôi đã đi chôn anh Hòa tại nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa. Anh tử trận ngày 7-7-1972 đúng ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay xuống An Lộc gắn lon Đại úy cho anh và ngay đêm đó anh bị pháo chết. Nội trong 24 tiếng đồng hồ ông anh vợ tôi đã lên chức hai lần, từ Trung úy lên cố Thiếu tá. Và cũng chính trong lần ra Huế này mà tôi được nghe được rất nhiều giai thoại về anh Trưởng, “người hùng tái chiếm Quảng Trị” lúc này đã được vinh thăng Trung tướng với ba sao trên ve áo và giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân khu I. Tất cả những giai thoại đó nếu được ghi lại đầy đủ tôi nghĩ có thể viết thành một quyển sách. Giai thoại về sự thanh liêm trong sạch của anh cũng có. Giai thoại về tác phong chỉ huy của anh cũng có. Giai thoại về lòng thương lính dưới quyền của anh cũng có.
Tôi nhớ là trong giao thông hào giữa hai đợt pháo kích một vị sĩ quan cạnh tôi sau khi biết sự liên hệ rất gần giữa tôi với anh Trưởng hỏi tôi có đi thăm tướng Trưởng trong lần ra Huế này không. Tôi trả lời không. Rồi tôi nói thêm: “Mình chả dại. Đang ngon lành trong ngành CTCT lại ở hậu cứ, gặp ổng nhỡ ổng lại ký giấy tống mình ra tiền tuyến thì mệt lắm. Mà không phải tôi nói giỡn đâu. Một người anh họ tôi cùng khoá với tôi 2/68 đã bị lãnh búa rồi. Ông tướng hãnh diện đi khoe với cố vấn Mỹ là có người anh họ đang chiến đấu ở ngay tuyến đầu!”
Lần thứ tư tôi gặp anh Trưởng là vào tháng 7 năm 1993 tại Virginia, tiểu bang êm đềm của nước Mỹ. Như một khúc phim được quay nhanh, hai mươi ba năm sau ngày tôi gặp anh lần chót ở Việt Nam tôi lại thăm anh Trưởng tại tư gia, một căn nhà khiêm nhường tại vùng thủ đô Hoa Kỳ. Cuộc chiến Việt Nam như một giấc mơ hãi hùng nhưng không thực lúc này đã trở thành dĩ vãng. Năm đó vào tháng 7 chúng tôi bay qua miền Đông nhân ngày giỗ thứ 30 của cha tôi được tổ chức tại nhà anh cả tôi, anh Việt, ở Virginia. Lần đầu tiên gặp anh Trưởng trong bộ thường phục, trông anh là lạ. Anh bận chiếc áo mông-ta-gu màu đỏ trông anh mập ra, trẻ trung và khỏe mạnh. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ở anh vẻ an bình hiện trên gương mặt. Nhưng đó chắc chỉ là bề ngoài. Bên trong chắc hẳn anh mang nặng nỗi đau và niềm cay đắng của một vị tướng bại trận sẽ mang theo anh cho đến tận cuối đời. Anh đích thân rót rượu và ân cần mời tất cả mọi người. Tôi toan tiến lại gần anh, nói với anh vài lời, đặc biệt là bầy tỏ tấm lòng của tôi đối với anh, nhưng tôi lại thôi. Tôi nghĩ trong bụng anh có thể đã nghe những lời bầy tỏ tương tự như thế rất nhiều lần rồi, nói ra lại thành khách sáo, vả lại chúng tôi là người nhà, còn thiếu gì những dịp khác để gặp anh tâm tình. Nhưng tôi đã lầm. Dịp khác để gặp anh đã không bao giờ đến, cho đến khi anh ra đi vĩnh viễn vào ngày 22 tháng 1 năm 2007. Tôi không thể ngờ lần thứ tư tôi gặp anh ở Virginia đó cũng là lần chót. Và chúng tôi vẫn chưa bao giờ trao đổi với nhau được lấy một lời. Tôi chỉ còn cách tự an ủi là ba năm trước khi anh mất anh đã đọc những lời chân tình của tôi viết về anh trên trang đầu cuốn sách Giòng Sông Thanh Thủy tôi gửi tặng.

***
Trưa hôm nay tôi lái xe đến thăm anh Phạm Hậu. Nhà anh Hậu ở Bothell, cách Shoreline chỗ chúng tôi ở khoảng 20 phút lái xe. Từ mấy năm nay chúng tôi có một giao ước. Cứ cách khoảng hai tháng là hai đứa phải ới cho nhau một tiếng, hẹn nhau tại một quán ăn, ăn trưa rồi ngồi hàn huyên. Luân phiên chúng tôi trả tiền. Nhưng dạo này anh hơi lẫn, ngại lái xe, nên tôi thường đến nhà anh chở anh đi.
Từ trong nhà bước ra anh nói ngay:
– Tôi quên mất rồi. Không biết lần này ai trả tiền, ông hay tôi?
– Tôi cũng không nhớ. Nhưng nhầm nhò gì. Để tôi trả cho. Anh cứ “vô tư” đi cho tôi nhờ!
– Này này! Ông đừng có lợi dụng cái bệnh Alzheimer của tôi nhé! Cái gì cũng phải cho nó sòng phẳng...
Trong lúc lái xe tôi nghĩ đến sự tình cờ hi hữu đã khiến chúng tôi gặp lại nhau và ở gần nhau trên nước Mỹ. Bốn mươi năm trước chúng tôi có một thời gian cùng phục vụ tại Khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT. Anh Hậu lúc ấy là Thiếu tá nhưng anh chỉ tạm trú ở Tổng Cục vài tháng trước khi chờ biệt phái sang Phủ Tổng Thống. Hồi đó tôi nghe đồn anh có “gốc” lớn lắm. Sau này kể anh chuyện ấy anh cười nói: “Gốc mẹ gì! Toàn là đồn nhảm không à!”. Tôi cũng nhớ là sau khi biết tôi là con của ông cụ, anh Hậu, tác giả tập thơ Chuyện Chúng Mình, có đọc cho tôi ngay câu thơ mà anh đã làm trước đó mười năm: “Yêu Nhất Linh tôi chọn tên Nhất Tuấn”. Cùng sang Mỹ năm 1975 và cùng chọn tiểu bang miền Tây Bắc nước Mỹ để định cư, chúng tôi đã có dịp gặp nhau thường xuyên từ hơn ba mươi năm nay.
Ăn trưa xong, bên tách trà nóng, chúng tôi ngồi ôn chuyện cũ. Lẫn trong câu chuyện hình ảnh của những người mà chúng tôi đã từng quen biết năm xưa, người mất kẻ còn, lần lượt hiện ra. Tội nghiệp Trung tá Ngô Văn Hùng, Trưởng khối Kế Hoạch/Tổng Cục CTCT, xếp của chúng tôi, đã chết vì ngộp thở trên chuyến tàu hỏa chở những tù nhân cải tạo ra Bắc. Trung tá Nguyễn Đình Bảo, Trưởng phòng Nghiên Cứu Kế Hoạch, xếp trực tiếp của tôi, cũng đã ra đi tại tiểu bang New Jersey miền Đông nước Mỹ. Trung tá Vĩnh Huyền, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 50 CTCT, người mà anh Hậu vẫn khen là có gương mặt và tác phong rất bảnh, đã từ lâu tôi mất liên lạc, không biết còn ở Calgary bên Canada hay không. Và Thiếu tá Nguyễn Công Luận nữa, không biết anh còn ở San José hay không, sức khoẻ anh hiện ra sao...
Bên ngoài lướt qua khung kính của nhà hàng mưa nhẹ bay bay. Bãi đậu xe lá vàng phủ ướt nhẹp. Bây giờ là cuối thu, những chiếc lá của hàng cây phong trồng trên bãi đậu xe đã bắt đầu chuyển từ màu vàng óng sang màu đỏ tía. Mỗi lần cơn gió mạnh thổi lá rụng lả tả bay đậu trên mui trên kính những chiếc xe hơi nằm trên bãi.
Tôi nhìn anh Phạm Hậu ngắm hàng râu mép của anh và bỗng thấy anh cũng bảnh y như Trung tá Vĩnh Huyền trong hình ảnh ký ức tôi năm xưa. Chỉ khác là bây giờ râu tóc của nhà thơ này đã chuyển sang màu muối tiêu. Nhớ đến Trung tá Vĩnh Huyền tôi lại liên tưởng đến lần chúng tôi ra Huế năm 1972 và tôi nói với anh Hậu:
– Tôi đang viết giở một bài về tướng Ngô Quang Trưởng, nghe nói anh có làm bài thơ về ông Trưởng hay lắm, anh có thể đọc cho tôi được không?
Năm ngoái cũng trong một lần đi ăn trưa như hôm nay tôi đã kể cho anh Hậu nghe về ước muốn sau cùng của anh Trưởng là sau khi anh chết tro của anh được thả trên đèo Hải Vân. Vào mùa hạ năm 2008, một năm sau khi anh chết, ý nguyện đó đã được gia đình thực hiện. Theo lời Nhung kể cho tôi trong một lần điện đàm thì anh Trưởng có một người tài xế sống ở Việt Nam mà Nhung vẫn thường xuyên liên lạc và giúp đỡ từ nhiều năm nay. Chính chú tài xế ấy đã đón Nhung và các con Nhung tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Nhung mang bình tro anh Trưởng về Việt Nam. Từ phi trường chú tài xế chở mọi người về nhà chú tại ngoại ô thành phố Sài Gòn. Thật là một điều lạ lùng là nhà chú tài xế đó lại ở trên đường Thạch Lam, một con đường mới mở sau này khá lớn và dài ở sâu trong Chợ Lớn. Tôi có hỏi Nhung là chú ấy có biết Nhung là con của Thạch Lam hay không Nhung trả lời là chú ấy không biết và Nhung cũng không nói. Rồi sau đó tất cả bay ra Huế thuê xe lên đèo Hải Vân. Đến gần đỉnh đèo nơi một khúc ngoặt nguy hiểm có một cái miếu nhỏ thờ những người bị tai nạn chết ở đó Nhung quyết định chọn chỗ này để rải tro. Suốt ngày hôm đó trời âm u giông gió. Mấy mẹ con và chú tài xế khấn nguyện trước miếu. Một lát lâu sau khấn xong ngửng lên thì trời đất bỗng dưng quang đãng hẳn lên mây tan và trời trong xanh. Vợ con anh Trưởng từng người một kể cả người tài xế trung thành lần lượt rải tro theo gió, tro của vị tướng lừng danh của quân sử VNCH bay trên ngọn đèo hùng vĩ Hải Vân nơi mà chú tài xế kia đã nhiều lần chở vị tướng ba sao qua lại trên trục lộ Huế-Đà Nẵng, ngọn đèo đã đưa vị tướng chấn lĩnh vùng địa đầu lên đỉnh vinh quang và cũng là ngọn đèo đã kéo vị tướng ấy xuống chốn cùng thảm bại.
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
Ngậm ngùi tôi lắng nghe anh Phạm Hậu đọc bốn câu thơ sau đây của anh:
Lệnh sáng giữ, lệnh chiều bỏ Huế!
Bao chiến công... cũng thế mà thôi
Hải Vân... tro rắc bốn trời
Hạt tro nào... lạc vào nơi cổ thành?
(Nhất Tuấn)
Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù VN (3/1954-9/1954).

____________

Bãi Ô Quắn

Đại lộ Trần Phú chạy dọc bờ biển Nha Trang ngăn đôi bãi cát với một dẫy những khách sạn cao tầng. Chiều xuống. Nắng còn gắt lóa trên mặt biển phía xa sau dẫy cây bàng rậm lá. Từ khách sạn Hải Yến đi ra có hai người bận đồ tắm, một đứa bé con giắt tay một ông già đi về hướng biển. Đến chỗ giữa đường nơi có lề đất ngăn đôi thằng bé đưa tay cản ông già đứng lại chờ đoàn xe máy chạy qua. Xe vãn. Ông già lụm khụm ôm bọc khăn tắm theo thằng bé bước qua đường.
Dưới tàn lá dừa trên hai chiếc ghế gỗ xếp thoải trên cát hai người đàn bà ngả lưng tay vòng sau gáy nhìn biển. Thằng bé con tiến lại chiếc bàn nhỏ đặt trước ghế hai người đàn bà quơ tay bốc một nắm kẹo vừng bỏ miệng rồi vùng chạy ra bãi cát mịn. Một trong hai người đàn bà nói:
– Cẩn thận sóng to đó con.
Rồi nàng nhỏm hẳn dậy ngoái nhìn phía sau lưng ghế. Ông già dáng người mập mạp lệnh khệnh bước những bước nặng nề trên cát. Khi ông già lại gần nàng chỉ vào cái ghế trống dưới một gốc dừa cách đó mươi thước nói:
– Ba ngồi ghế đó. Chiều nay sóng to ba đừng xuống nước. Ba đưa con cái bọc...
Lát sau ba người nằm ngả trên ghế nhìn biển. Người đàn bà thứ hai quay lại hỏi:
– Ông già của Nga trông còn khỏe nhỉ? Năm nay ổng bao nhiêu rồi.
– Chưa được tám mươi. Khỏe thì có khỏe thật nhưng ổng lẫn lắm rồi. Ở bên Mỹ người ta gọi đó là bệnh Alzheimer.
– Giây mơ? Bệnh gì vậy?
– Bệnh mất trí nhớ. Ổng còn khỏe lắm. Bữa nào cũng ba bát cơm đầy. Hôm nào tao xới cơm vơi một chút là ổng cự liền. Ba tao còn khỏe thế tao mới dám đưa về Việt Nam chơi. À, mà đám bạn cũ của bọn mình ở Nha Trang có con nào còn ở đây không?
– Còn độc mình mình thôi. Dạo đó... cũng đã mấy chục năm rồi còn gì... bây giờ tứ tán hết mỗi đứa mỗi phương. Từ ngày có “nét” mình mới lại liên lạc được với nhau. Nga còn nhớ con Tảo không? Nó ngồi cùng bàn với Nga đó. Nghe nói nó chết rồi, trong chuyến vượt biển...
– Thật hả?
Hai người thủ thỉ nói chuyện. Người đàn bà tên Nga lát lát lại ngừng nói đứng thẳng người lên giơ bàn tay ngang trán nhìn lung về phía biển. Ngoài xa đám người tắm biển nhấp nhô trên sóng. Gần mé nước trên vùng cát ướt từng cơn sóng soải xuống chân đám người tản bộ dọc bờ. Mấy bà già bận đồ lụa bà ba, gió thổi mạnh ép dính những cánh áo sát vào người. Một người đàn bà bận quần jeans, ống quần vén cao, ngồi khuỵu chân dang tay đón đứa bé con bước chập chững chạy trốn những đợt sóng tàn ào lên liếm cát. Mé trái trên vùng cát khô một lũ trẻ con chạy lăng xăng dành nhau một quả bóng đá.
Dưới tàn dừa ông già nằm thiu thiu ngủ. Ông lơ mơ tỉnh thức. Mắt ông nhìn ra ngoài khơi trong lúc trí ông trôi đi trong tiếng sóng vỗ bềnh bồng. Chân trời xa in mờ màu lam của hòn Pyramid. Ông già không nhìn thấy hòn đảo. Ở đó ông chỉ thấy một cái lô-cốt in trên nền trời. Lô-cốt của mỏm Ô Quắn một thuở nào thật xa. Rồi Cap St Jacques hiện ra cùng với hình ảnh Gabrielle ngồi đó trên bờ thành của lô-cốt đầu dựa vào vách đá nhìn ra khơi. Lẫn với tiếng sóng dạt dào của biển ông nghe thoảng trong gió tiếng hát thầm thì của Gabrielle trong bản nhạc Etoiles des neiges: Dans un coin per-du de mon-ta-gne... Un tout pe-tit sa-vo-yard... Chan-tait son a-mour dans le cal-me du soir... Près de sa ber-gère au doux re-gard...

***
Năm Bôn mười sáu tuổi cha Bôn được bổ làm chánh án tòa thượng thẩm Sài Gòn. Chính phủ cấp cho cha Bôn một căn nhà nằm trong một dẫy biệt thự khang trang hai tầng dành cho viên chức cao cấp tại đầu đường Chasseloup Laubat gần Sở Thú Sài Gòn. Thời gian đó vào khoảng năm cuối của thập niên 1940, những con đường của thành phố Sài Gòn vẫn còn mang tên tây. Cạnh dẫy biệt thự là hai cao ốc sáu từng dành cho gia đình những viên chức người Pháp ở. Phía sau hai cao ốc là sân banh Citadelle khá rộng bao bọc bởi ba con đường Chasseloup, Albert 1er và Richaud. Hàng ngày cắp sách đi học tại trường trung học Chasseloup Laubat Bôn vẫn thường đi tắt băng qua sân banh ấy. Khu vực Bôn ở có khá nhiều cây xoài thân cao, lá rậm, quanh năm lúc nào cũng trĩu nặng những quả; những quả xoài tượng xanh, lớn, treo từng chùm lủng lẳng trên cao, trông rất bắt mắt. Vì cây xoài thân lớn và cao không thể trèo lên hái được nên cách duy nhất là dùng ná bắn cho xoài rớt xuống. Trong số những thằng tây sống trong cao ốc Bôn thân với Robert, vì nó cũng như anh có cái thú dùng ná bắn xoài. Thỉnh thoảng Bôn cũng theo cha con thằng Robert đi vòng vòng khu vực gần nhà để xem ba nó bắn chim. Thấy một con chim lớn đậu trên ngọn cây, ba thằng Robert bẻ gập khẩu súng hơi rồi nhắm bắn. Sau tiếng nổ đánh phẹt một cái con chim lạng đi, đâm chúi vào bụi keo, Robert và Bôn chạy đi lùng chim. Có bữa ba thằng tây bắn một con chim cu nhưng chim chỉ bị thương, nó bay là là xuống nằm yên trên mái nhà Bôn. Không có cách chi lên mái nhà cao để lấy chim, ba thằng Robert giải quyết bằng cách nhắm bắn con chim trên mái nhà một lần nữa. Ông ta nhắm rất lâu trước khi bóp cò, chắc vì ông sợ nếu bắn hụt thì đạn có thể làm vỡ mái ngói nhà Bôn. Súng nổ, con chim cu trúng đạn dẫy lên quay quay mấy vòng trên mái nhà trước khi rớt xuống.
Bắn được xoài thì Bôn thường chùi vỏ vào quần rồi cắn ăn. Thằng Robert thì không thế, nó rút trong túi ra một con dao díp, gọt vỏ cẩn thận rồi mới ăn. Bôn nhìn cách thằng tây gọt vỏ xoài thấy ngồ ngộ. Hắn đặt lưỡi dao trên quả xoài rồi hớt ngược từ ngoài vào trong chứ không xỉa xỉa lưỡi dao ra ngoài như cách Bôn vẫn làm.
Một bữa thằng Robert rủ Bôn lên trên sân thượng của cao ốc. Nó bảo là ở sát nhà nó có một cây xoài rất cao, từ sân thượng có thể dùng ná bắn xuống những chùm xoài tượng ở trên ngọn. Có thằng Robert Bôn mới được phép đi vào cao ốc. Hai tòa nhà sáu tầng này được được bảo vệ kỹ bởi một nhân viên an ninh cao lớn và đen thui người chà-và. Hắn mặc đồng phục xanh, có dùi cui trên thắt lưng, sẵn sàng tống cổ những thằng Mít như Bôn muốn tò mò phiêu lưu vào trong hai tòa nhà. Lần đầu Bôn biết thế nào là thang máy. Vào trong cao ốc thằng Robert kéo một cánh cửa sắt đẩy Bôn chui vào một cái lồng đen ngòm. Nó bấm nút thì cái lồng đi lên vùn vụt. Nhìn ra ngoài song sắt thấy các từng nhà lướt qua mà Bôn chóng cả mặt. Thang máy ngừng Bôn theo thằng Robert bước lên một cái cầu thang hẹp, mở một cái cửa nhỏ thông ra một cái sân thượng rất rộng. Đứng gần bờ sân Bôn nhìn bao quát xung quanh. Một dải xanh lá cây nhấp nhô phía trước là đỉnh của rừng cây trong sở thú và vườn bách thảo. Thấp thoáng sau đó là con sông Thị Nghè uốn khúc. Khu Hàng Xanh hồi đó không có lấy một căn nhà gạch chỉ là cánh đồng ruộng bát ngát, rải rác một vài căn nhà tranh. Về phía sân banh Citadelle khu Đa Kao hiện ra với những tòa nhà thấp, mái ngói san sát. Chỉ ở xa lắm về phía trung tâm thành phố Bôn mới thấy một vài cao ốc nhô lên ở chân trời.
Một bữa kia Bôn mạo hiểm lên trên sân thượng một mình vì lúc đó thằng Robert đi theo ba nó lên Đà Lạt nghỉ mát từ mấy tuần lễ. Bôn chờ cho đến lúc thằng chà-và đi tuần ở cao ốc bên kia thì lẻn vào cao ốc bên này. Vào thang máy anh bấm nút lung tung. Loay hoay một hồi rồi Bôn cũng lên được sân thượng. May quá hôm đó Bôn không đụng phải môt ông tây bà đầm nào xử dụng thang máy, nếu không chắc chắn anh sẽ bị đuổi xuống. Sau nửa giờ dùng ná bắn xoài Bôn trở xuống. Vừa đến cửa sân thượng Bôn giật mình nghe tiếng chân người bước lên cầu thang. Lập tức anh thối lui tìm chỗ trốn. Tim anh đập loạn xạ vì anh cứ đinh ninh đó là bước chân của thằng chà-và. Cả cái sân rộng có khoảng mười cái ống – không biết ống khói hay ống thông hơi – khá rộng có mái xi-măng thấp che, trông tựa như những cái nấm khổng lồ nhô lên khỏi sân. Chọn một cái thông hơi ở gần Bôn bò xuống chui vào trong đó ngồi thu lu. Vì vướng cái mái che nên tầm nhìn ra ngoài sân thượng của anh chỉ giới hạn khoảng một hai thước xung quanh chỗ ngồi. Có tiếng bước chân nhẹ lại gần. Rồi hai ống chân trần của một bà đầm hiện ra. Bà ta trải xuống sân một cái khăn tắm thật rộng rồi nằm xuống đó phơi nắng. Từ chỗ nấp nhìn xuống Bôn thấy nửa phần dưới thân thể của bà đầm trong bộ đồ tắm bikini hai mảnh hiện ra rất gần chỉ cách khoảng vài gang tay. Mặc dù Bôn ở ngay sát cạnh có thể nghe được cả tiếng thở của bà, bà ta không biết có Bôn núp ở đó, nếu anh chịu khó ngồi yên không để phát ra một tiếng động nào. Nhưng sau gần nửa tiếng đồng hồ ngồi yên trong một tư thế nhất định người Bôn mỏi rừ, mồ hôi vã ra như tắm vì nắng buổi trưa hấp trên sàn xi-măng sân thượng nóng không chịu nổi, anh xoay người và đụng lưng vào một tấm thiếc. Tiếng động khiến bà đầm đứng hẳn dậy cúi gập người nhìn vào trong ống thông hơi. Trước mặt Bôn hiện ra khuôn mặt lộn ngược đầy kinh ngạc của bà Simône.
Bà Simône ngoắc ngoắc ngón tay và kêu suỵt suỵt ra hiệu cho Bôn chui ra như kiểu bà ta gọi một con chó. Lúc Bôn ra ngoài đứng thẳng dậy, bà ta nhìn vào mặt anh rồi bỗng rũ ra cười. Không hiểu bà đầm cười cái gì anh lí nhí nói mấy câu tiếng tây giải thích lý do lên sân thượng, nhưng bà ta tỏ vẻ không quan tâm tới lời giải thích của Bôn, bà nhặt khăn tắm vắt lên vai rồi nói anh đi theo bà ta xuống cầu thang. Hai người đi trong một hành lang. Bà Simône mở cửa vào nhà bà ta, một căn trên lầu năm của cao ốc. Vào nhà bà đẩy Bôn đi qua phòng khách, nhà bếp rồi vào phòng tắm. Khi đèn phòng tắm bật lên Bôn thấy trên một tấm gương lớn hình anh và bà Simône và đến lúc ấy anh mới hiểu thái độ lúc nãy của bà Simône: tóc tai mặt mũi Bôn dính đầy nhọ nồi, trông còn đen hơn cả thằng chà-và gác cửa. Bôn bật lên cười. Bà Simône cũng cười theo anh trong gương. Bà cao hơn Bôn một cái đầu, tóc bà màu vàng hung hung, hai mắt bà xanh biêng biếc, chiếc mũi của bà cao và hơi vểnh lên, da mặt rám hồng vì phơi nắng, nom bà còn trẻ vì nước da còn căng tuy nhiên khi cười, cái cười của bà có kèm vài nếp nhăn nơi đuôi con mắt, cho thấy cái tuổi toan về già của bà Simône. Bà dúi vào tay Bôn một cái khăn, mở vòi nước hoa sen và bảo anh tắm rồi bà đi ra đóng cửa phòng tắm lại.
Tắm xong Bôn đi ra. Bà Simône ngồi hút thuốc lá trên ghế xa-lông ở phòng khách. Bà vẫn bận đồ tắm hai mảnh nhưng khoác ngoài một chiếc áo choàng bằng lụa. Bôn xin kiếu để về, nhưng bà Simône khoác tay bảo anh ngồi chơi một lát. Ngồi xuống ghế anh đưa mắt nhìn quanh. Căn nhà của bà Simône tuy nhỏ nhưng mọi thứ bầy biện gọn ghẽ và lịch sự. Phòng khách mở ra một cái ban-công hướng về phía sân banh Citadelle. Tường treo các bức tranh của Renoir và Cézanne. Trên một giá sách có đặt hai bức ảnh, một bức ảnh gia đình ba người, bà Simône ngồi giữa chồng và con gái, bức ảnh thứ hai chụp chồng bà, ông Henry bận quân phục. Bà Simône hỏi tên tuổi Bôn và khi biết anh theo học ở trường Chasseloup Laubat, bà nói:
“Gabrielle học kém Paul một lớp. Nó học ở Marie Curie.”
Nói chuyện với bà Simône anh được biết là hai mẹ con ở cao ốc này từ năm ngoái, ông Henry thỉnh thoảng lắm mới về. Ông ta là sĩ quan của quân đội viễn chinh Pháp và đơn vị của ông ta trú đóng ở xa tận miền bắc. Lúc Bôn về bà Simône nói là lần sau muốn lên sân thượng thì cứ lên nhà bà. Bôn gật đầu nhưng từ đó anh không lên sân thượng bắn xoài nữa. Vài tháng sau, một bữa đi trên đường Catinat Bôn gặp mẹ con bà Simône trước một cửa tiệm bán đồ thêu. Bà giới thiệu anh với Gabrielle. Anh thấy con bé đầm dễ thương nên khi bà Simône mời anh hôm sau lại nhà bà ta để xem trận đấu bóng bầu dục Rugby giữa hội tuyển quân đội Pháp và hội tuyển Algérie trên sân Citadelle anh nhận lời ngay.
Hôm sau đến nơi anh mới biết là hai mẹ con xem đấu bóng từ trên ban-công của tòa cao ốc nơi bà Simône đặt một cái bàn nhỏ và mấy cái ghế mây. Trên bàn để chai bia Larue, bao thuốc lá Cotab và cái gạt tàn thuốc. Bà Simône thỉnh thoảng đưa ly bia lên miệng uống, mắt bà không rời theo dõi trận đấu đang diễn ra sôi nổi ở dưới kia. Cô con gái bà ta thì thờ ơ cúi đọc một quyển truyện hình Tin Tin cầm trên tay, lâu lắm nó mới giật mình rời mắt nhìn xuống sân banh mỗi khi mẹ nó đứng hẳn người lên vì kích động, tay vỗ liên hồi miệng hô lớn: Bravo!
Lần đầu tiên xem môn bóng bầu dục Bôn không hiểu luật chơi ra sao nhưng xem một hồi anh cũng bị lôi cuốn trong không khí căng thẳng của trận đấu và tiếng reo hò của khán giả. Ở hai đầu sân banh thay vì hai khung lưới như bóng tròn, họ thế bằng hai cây cọc thật cao. Dưới sân hai đội đấu thủ Pháp, một đội quần xanh áo vàng, một đội quần trắng áo đỏ, cúi xuống khoác vai nhau làm thành một vòng tròn ủi vào nhau, quả banh bầu dục được thẩy vào chân giữa hai đội, rồi một người trong đội áo vàng bắt được ôm banh chạy vụt phía trước, tức thời đội áo vàng dàn hàng ngang chạy theo, banh được chuyền tay thẩy từ người nọ sang người kia, trong khi đội áo đỏ cũng dàn hàng ngang chạy lên truy cản. Trong lúc theo dõi trận đấu bà Simône giải thích cho Bôn về luật lệ và cách tính điểm của môn bóng Rugby, nhưng anh chỉ nhớ được hai điều là mỗi đội banh bàu dục có 15 cầu thủ chứ không phải 11 như trong môn bóng tròn và khi chuyển banh cho đồng đội không được thẩy cho người phía trước mà phải thẩy cho người ở ngang hoặc ở phía sau mình. Lúc ấy anh mới hiểu vì sao mà khi dàn hàng ngang để tiến lên bao giờ người ôm banh cũng dẫn đầu.
Mùa hè năm ấy vào ngày lễ 14 Juillet bà Simône rủ Bôn đi ra Cap St Jacques tắm biển với mẹ con bà vào mấy ngày cuối tuần. Đến Cap ba người ở khách sạn nơi bãi trước. Hôm sau bà Simône thuê xe ngựa chở ba người đi bãi sau tắm. Chiếc xe ngựa lộp cộp trên con đường ven biển quanh co. Nửa giờ sau đó trước khi đến bãi sau bà Simône bảo xe ngừng lại trước một bãi biển hoang vắng. Người xà ích giật mạnh giây cương. Con ngựa nghẹo đầu sang một bên thở phì phò, chân trước quẹt lộp cộp trên mặt nhựa. Từ trên lộ cao ba người nhìn xuống dưới bãi.
Lõm sâu phía dưới thành một hình vòng cung bãi tắm bao bọc bởi nhửng khối đá tảng xanh đen. Ba người xuống xe. Bà Simône chỉ vào chỗ có bóng mát một tàn cây phía bên kia đường nói tiếng Việt với người phu xe: “Đợi, Đợi!”. Rồi bà xách một cái giỏ lớn đựng thức ăn và đồ tắm tiến về phía những bực đá dẫn xuống bãi. Gabrielle quay lại hỏi mẹ bằng tiếng Pháp:
“Bãi biển gì thế?”
“Bãi Point Au Vent”. Bà Simône trả lời.
Bôn nói:
“Bãi Ô Quắn. Người ta nói thế”.
Gabrielle nói tiếng Việt với Bôn:
“Ô Văng chứ sao lại Ô Quắn?”
Không đợi anh trả lời con bé kéo tay Bôn chạy xuống bực đá nằm giữa hai bờ dứa dại.
“Đi, đi mau, Paul!”
Bà Simône lững thững bước xuống bực đá. Trước mặt bà ở dưới sâu kia là bãi cát trắng và cong của Ô Quắn như một mảnh trăng lưỡi liềm ăn sâu vào đá. Bên phải của bãi là một bờ đá dài nhô ra biển, một con đường đất nhỏ ngoằn ngoèo dẫn tới một lô-cốt nằm chênh vênh trên một mỏm đá. Gió thổi mạnh khiến bà Simône phải chụp mạnh tay giữ chặt chiếc mũ trên đầu. Lát sau khi bà xuống đến lưng chừng giốc thì ở dưới kia Bôn nắm tay Gabrielle chạy ùa xuống biển rỡn sóng.
Một đợt sóng cao đánh bật hai đứa trẻ dang xa nhau. Mồm mũi Bôn sặc sụa trong nước biển mặn tanh. Nhoài người nhìn Gabrielle Bôn thấy nó cũng như anh đang ngụp lặn trong những đợt sóng to chồm tới. Lát sau con bé đứng thẳng người dậy day lưng phía biển đi vào bờ. Trong vũng chỉ còn mình Bôn. Anh hơi sợ. Gió to quá, sóng lớn, bãi vắng không ai tắm. Gió to thế thảo nào mà chỗ này người ta gọi là bãi Nghinh Phong. Bôn nhào lộn với sóng thêm vài chập rồi bỏ cuộc. Lên bãi anh men bờ biển theo hướng Gabrielle đi về phía xa nơi có bờ đá.
Gabrielle đứng đợi dưới chân bờ đá cao. Nó chỉ về phía biển bảo Bôn:
“Chúng mình ra chỗ lô-cốt kia đi, nếu leo lên đây được thì khỏi phải đi lên đường cái xa lắm”.
Bôn nhìn những hòn đá tảng lớn chồng lên nhau cao ngất rồi anh tiến lên trước, mỗi lần leo lên một tảng đá anh lại thò tay xuống nắm tay Gabrielle kéo lên. Hai người leo tới đỉnh thì mệt nhoài. Gabrielle quay nhìn bãi Ô Quắn giơ tay vẫy gọi mẹ lúc đó đang nằm dài trên bãi cát phía dưới tít xa. Không thấy bà Simône vẫy tay lại, Bôn đoán là bà ta đang mải đọc sách hay bà ta đang ngủ cũng không chừng.
Theo con đường mòn nhỏ ngoằn nghoèo, hai người đi vào vùng đất nhô sâu ra biển mà lô-cốt nằm ở trên mũi nhọn. Đến gần thì lô-cốt là một cái nhà vòm làm bằng đá dầy cộm, phía sau trống hổng, phía trước chắn bởi một bờ tường đá dầy chỉ cao ngang bụng, mở ra một khoảng xanh ngắt của biển khơi Thái Bình Dương dưới tít sâu. Trước kia ở nơi này lính Pháp đặt một cỗ đại bác lớn chĩa ra biển để bảo vệ vùng duyên hải nhưng nay khẩu súng bị gỡ đi chỉ còn lại cái chân giá bằng sắt nằm chính giữa nhà vòm.
Hai người nhẩy lên ngồi trên bờ tường đá phía trước. Gabrielle ngồi đong đưa hai chân, ngửa mặt hứng gió thổi lồng lộng, hai bàn tay nó vòng ra sau buộc lại lọn tóc màu hung vàng. Bôn nói:
“Hôm nay sóng to quá, không có ai tắm hết.”
“Moa không sợ sóng to”. Gabrielle trả lời. “Moa sợ nhất là những con sứa biển. Sao mà ở đây lắm thế. Toa không nhìn thấy hả? Chúng nó trong vắt hình ngôi sao lượn lờ trong nước thấy mà ghê! Đụng vào chúng là ngứa lắm nhớ. Lại còn có san hô ở dưới đáy, dẫm lên đau cả chân... Bãi Au Vent này trông thì đẹp nhưng không tắm được.
“Moa thích tắm ở đây hơn, bãi trước đông nghẹt những người”.
Gabrielle không trả lời, nó ngồi dịch người vào trong, dựa lưng vào vách, nhắm mắt lại. Lát sau Bôn nghe nó hát một bản nhạc anh vẫn thường nghe qua một đĩa hát ở nhà bà Simône. Tiếng hát nhỏ nhẹ và mỏng bay tạt theo gió: E-toi-les des nei-ges! Mon coeur a-mou-reux... C’est pris au pi-ège... de tes beaux yeux... Je te don-ne en-gage, cet-te croix d’ar-gent... Et de t’ai-mer tou-te ma vie, je fais ser-ment....
Nửa giờ sau hai đứa theo con đường cái xuống bãi. Người xà-ích ngồi tựa vào gốc cây ngủ. Con ngựa bị buộc lâu một chỗ nó ngứa ngáy cái đầu hục hặc. Xuống đến bãi Bôn thấy bà Simône trải trên cát một tấm vải lớn trên bầy bánh mì cho buổi ăn trưa. Bà sửa soạn bánh mì jambon và pho-mát cho hai người ăn, còn bà không ăn chỉ uống. Bà rút trong túi xách một chai rượu vang đã khui sẵn rót đầy một cốc đưa lên miệng uống nhấm nháp. Lâu lâu bà Simône quay đầu lại khum tay che gió bật lửa châm điếu thuốc lá, bà thở ra những làn khói nhẹ nhàng ở khóe môi. Ăn bánh mì xong, Gabrielle thò tay cầm cốc rượu vang của mẹ đưa lên miệng, bà Simône lườm con giơ tay toan cản nhưng lại thôi, con bé uống một hớp lớn, nhăn mặt, đặt mạnh cốc xuống đất làm rượu đổ loang trên vải một vệt tím thẫm. Lát sau con bé lại mò mẫm cầm bao thuốc lá của mẹ, tính rút ra một điếu nhưng bà Simône giằng lại bao thuốc.
Bôn nằm xấp trên cát cạnh bà Simône. Gabrielle nằm ở phía bên kia. Cảm thấy buồn ngủ anh thiếp đi một lát. Tỉnh dậy nhưng mắt vẫn nhắm anh nghe có tiếng hai mẹ con nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp:
“Maman, sao lâu quá không thấy papa trở về? Mẹ có tin tức gì của papa không?”
“Mẹ vẫn nhận được thư của papa đều. Dạo này chiến trường ở miền bắc không yên, mẹ cũng thấy không an tâm lắm. Nhưng papa có hứa là tháng tới thế nào cũng về... Còn con ra sao? Dạo này không thấy Robert lại chơi với con...”
“Con ghét nó! Con không muốn gặp nó... Nếu nó có đến mẹ nói là con không có nhà nhớ!”
“Chuyện gì thế con?”
Không thấy tiếng Gabrielle trả lời mẹ. Im lặng một hồi lâu. Chắc Gabrielle đã ngủ. Bôn quay đầu hé mở mắt. Bà Simône trong bộ đồ tắm đang nằm co một chân đọc sách, bà đội chiếc mũ rộng vành, mắt đeo đôi kính dâm, chiếc mũi cao của bà in trên nền trời xanh. Bôn nhìn xuống cặp đùi của bà Simône, cặp đùi chắc nịch, rám nắng, nước da hồng lấm tấm những hạt cát bám giữa những sợi lông tơ vàng óng ánh. Lóe trong trí anh cái cảnh ở trên sân thượng buổi trưa hôm nào anh cúi xuống nhìn thật sát cặp đùi ấy. Hình ảnh một con ruồi bay ngoằng một cái rồi đậu lên bẹn bà Simône in trong trí Bôn. Con ruồi đậu yên một lát. Nó lấy hai càng sau địu đôi cánh mỏng xuống vuốt vuốt rồi nó bắt đầu thám hiểm đi len lỏi giữa những sợi lông măng. Trong lúc con ruồi di chuyển anh thấy da đùi của bà Simône rùng rùng. Rồi một bàn tay của bà Simône vu vơ khuơ phía dưới. Con ruồi bay đi nhưng lại đậu ngay trên mu cao của chiếc quần bikini. Một lát nó bò xuống đường riềm của chiếc quần tắm nơi có những sợi lông màu vàng quăn thò ra. Bà Simône chuồi bàn tay qua rốn thọc vào trong quần tắm gãi. Con ruồi bay đi.
Bôn nhắm mắt lại lòng hực lên một sự thèm muốn. Trưa hôm ấy trên bãi Ô Quắn, nằm úp mặt trên cát mềm, lưng bỏng lên vì nắng, Bôn lịm đi trong một cảm giác bềnh bồng thấy mình ôm cứng một vật gì mềm mại giống như cặp đùi của bà Simône. Rồi anh trôi đi mê man trong cơn khoái cảm mà anh chưa từng biết đến trước đó; cảm giác thống khoái tăng lên từng chặp, từng chặp, như những đợt sóng biển dạt dào ngoài kia trồi lên hạ xuống càng lúc càng nhanh và cao, cuối cùng đẩy anh lên đỉnh chất ngất anh rùng mình ngạc nhiên thấy lành lạnh ở quần tắm.
Mùa hè đã hết. Sau chuyến đi Cap St Jacques ấy vào đầu niên học mới Bôn đổi lên trường Yersin trên Đà Lạt học và kể từ đó anh không gặp lại mẹ con bà Simône nữa. Mấy năm sau tình cờ gặp lại thằng bạn cũ, Robert cho anh hay là Gabrielle và mẹ nó đã trở về Pháp sống. Còn ông Henry, chồng của bà Simône đã tử trận trong chiến trường Điện Biên Phủ.

***
Dưới biển số người bơi đã vãn nhiều, nhưng trên bãi người đi dạo mặc thường phục đông hơn. Hòn Pyramid ở ngoài khơi thẫm lại trong bóng chiều. Dưới tàn dừa hai người đàn bà vẫn tiếp tục nói chuyện. Nga bảo bạn, giọng đè thật nhỏ như sợ ông già nghe thấy: – Khi nào già tao nhất định về Việt Nam sống. Thấy cái cảnh ông già tao sống ở bển mà ớn quá. Ổng lú lẫn quá rồi tao không coi sóc nổi phải để ổng ở nhà già. Mà như thế có yên đâu. Ổng quậy quá người ta dọa đuổi đi mấy lần. Báo hại tao phải năn nỉ hết cỡ bây giờ mới tạm yên.
– Nga nói ổng quậy là thế nào?
Liếc nhanh về phía ông già lúc đó vẫn còn như đang ngủ, Nga trả lời bạn:
– Nói ra thật xấu hổ. Ông già tao đúng là già dịch. Cứ thấy mấy bà y tá Mỹ nào lại gần là ổng làm bậy, bóp vú người ta tùm lum. Có bữa họ gọi cảnh sát bắt ổng. Sau phải có giấy bác sĩ chứng minh ổng bị bệnh Alzheimer không ý thức việc mình làm mới yên. Mà ổng cũng kỳ lắm hè! Không phải bạ ai ông cũng sờ soạng đâu nhé. Bóp vú mà cũng có chuyện kỳ thị đấy! Ổng chỉ lựa mấy bà Mỹ trắng tóc vàng thôi, còn mấy bà y tá đầu đen người Phi hay người mình ổng chê. Khi bị người ta cự thì ổng lại chống chế sổ ra một tràng tiếng tây chả ai hiểu ổng nói gì.
– Thế ba của Nga có biết việc mình làm không?
– Tao cũng chẳng biết. Có bữa tao hỏi ông cụ: “Ba có biết mình sờ người ta như thế là xấu không?”. Ổng trả lời: “Biết chứ sao không biết! Đụng vào người ta thì nó tát cho mấy tát ấy chứ lỵ!”
Lát sau Nga ngồi nhỏm dậy, xỏ đôi dép rồi đứng lên bảo bạn:
– Mình về thôi. Cũng muộn rồi.
Khi người bạn đứng lên, Nga khoác tay lên vai bạn, nói nhỏ:
– Hồi chiều tao hoảng quá! Lúc xuống thang máy ở khách sạn Hải Yến, trong lồng thang máy có một bà du khách ngoại quốc ông cụ cứ nhìn trừng trừng vào ngực bà ta làm tao vội vàng phải xen vô đứng chắn giữa hai người. Nếu chuyện ấy xẩy ra ở đây bà ta hô hoán lên thì cứ là ế mặt hết. Thật khổ!
Bốn người đi trên cát, lưng quay phía biển. Thằng bé con lăng xăng đi trước, vừa đi vừa đá một cái vỏ dừa. Hai người đàn bà đi giữa. Bà bạn của Nga dáng nghiêng nghiêng vừa đi vừa nói chuyện trên cell phone. Ông già bước những bước chậm chạp trên cát. Đến vỉa hè xi-măng của đại lộ Trần Phú hai người đàn bà dừng lại đợi ông già lững thững phía sau. Ông già dừng lại thở, quay nhìn phía cây bàng, nơi có những quán rượu với những chiếc bàn tròn phủ khăn trắng và du khách ngoại quốc ngồi đầy kín trong những nhà chòi bằng lá dưới những chiếc đèn lồng màu sặc sỡ đã bắt đầu thắp sáng. Có tiếng hát từ trong quán vẳng ra. Một bản nhạc xưa. Ông già lắng nghe và nhận ra giọng cao vút của nữ ca sĩ Edith Piaf. Ông mấp máy đôi môi theo với tiếng hát: Mou-lin des a-mours... Tu tour-nes tes ai-les... Au ciel des beaux jours... Mou-lin des a-mours... Mon coeur a dan-cé.... Sur tes ri-tour-nel-les... Sans mê-me y pen-ser... Mon coeur a dan-cé... Ah, mon Di-eu, qu’ils é-taient jo-lie... Và ông lịm đi trong giây lát nhớ lại tiếng hát của bà Simône. Phải, cũng bản nhạc ấy. Moulin Rouge. Tiếng hát hòa lẫn tiếng vó ngựa lộp cộp khi cỗ xe rời bãi Ô Quắn trên đường trở về.

______________

(còn tiếp)