BỈ TRUNG LUẬN

Chân Diện Mục

Từ 2007 trở lại đây, nhiều học giả viết Thoát Trung Luận: ý nói ta muốn khá thì phải thoát Trung, thoát sự kiềm toả của Trung quốc… Nhưng ý tôi thì thấy việc cấp bách là ta phải xóa bỏ cái ách nô lệ văn hoá Trung quốc. Mà muốn xoá bỏ cái ách đó thì phải chứng minh họ chẳng có gì, “chẳng có gì“.
Ôi! Họ chỉ có một lịch sử đen tối, hèn mạt, bỉ ổi, đáng khinh. Từ Nghiêu Thuấn tới ngày nay.
Thử nhìn lại hai chữ Nghiêu Thuấn mà coi. Nghiêu gồm chữ Nhân đội trên đầu ba chữ Thổ: tượng hình con người ở dưới hang! Thuấn có hai chữ Ngưu nằm ngổn ngang chứng tỏ khi đó họ săn bắn rồi về nhảy múa trước những con vật đang bị thui…! Văn minh nỗi gì!?
Ta có bao giờ thua họ đâu? Dao Nam, Giao Chỉ, Dao Châu là những từ phiếm chỉ phương Nam mà thôi!
Ta ở phương Nam, Người Dao ở phương Nam. Cái hèn, cái dốt là ta gọi người Dao ở thượng du là Mán! Không. Họ chính là ta, những người ở Dao Nam di cư mãi về Nam vì gió lành, mưa ngọt, không có cái rét buốt và gió cát ở phương Bắc.
Nhìn lại lịch sử chỉ thấy họ khát máu, xâm lược, tàn sát, bành trướng! Xin hãy lật lại lịch sử, bẻ ra từng chữ mà ngẫm. Mấy ngàn năm ác độc, đểu cáng của họ chưa đủ cho ta tỉnh giấc sao?
Những chuyện Đát Kỷ chẻ ống xương chân người già (một người già và một người trẻ qua trước mặt Đát Kỷ và vua vào mùa Đông, người già chịu rét không nổi. Đát Kỷ nói: Xương ống người trẻ bên trong có tuỷ dày đặc, tuỷ của người già lỏng le), Bao Tự thích nghe tiếng xé lụa… cho ta thấy sự bạo tàn của họ như thế nào! Chuyện Hà Bá lấy vợ cho ta thấy sự đểu cáng, vô cảm như thế nào! Chuyện Yêu Ly, Câu Tiễn cho ta thấy sự ngu si, đần độn của họ như thế nào!
Ôi! Thế mà mấy ngàn năm vẫn thế! vẫn thế!
Hình pháp của họ thì chặt chân, thiến người, nung một cái chum cho đỏ lên rồi… bỏ người vào… đậy nắp lại! Thời Lí của ta có nói vua sai cung cấp chăn chiếu cho phạm nhân (!) Dù chuyện này là không có, là khoa trương từ bi Phật pháp chăng nữa… nhưng đọc kỹ sử Việt thì sẽ không thể tìm thấy thiến người và nung chum…
Mưu mô của họ thì quá thâm độc, ích kỷ hại nhân. Hàn Tín hỏi thăm đường rồi giết tiều phu, sợ rằng quân địch đuổi tới hỏi đường, ông ta cũng chỉ đường ấy. Tào Tháo cùng Trần Cung chạy loạn, ghé nhà người quen, nghe nhà trong nói nhỏ: trói cả hai. Tháo bèn vào giết hết già trẻ lớn bé, thấy hai con vật bị trói, Tháo biết là mình lầm. Nhưng trên đường bỏ chạy, Tháo gặp người đó trở về với bầu rượu, Tháo bèn giết luôn cho… chắc ăn!
Họ khoe khoang ngu xuẩn mà ta tin sao? Họ bắt ta triều cống trái cây tươi, (trong đó có chuối) đi ngàn cây số mà ta tin sao?
Cái lý học đời Tống là thêm thắt mãi mãi sau này mà nó có ra cái cứt chó gì đâu.
Tôi thấy đời Tống còn mọi rợ, thua xa văn minh Mông Cổ đấy. Không phải mọi Mông Cổ thắng người văn minh nhưng nhân đạo là Tống. Mỗi lần Tống đi chinh phục, đem bao nhiêu “Tướng“ đi. Tôi cứ nghĩ là tướng tài. Ai ngờ Tướng là đơn vị quân đội. Dĩ nhiên không đếm theo số thập phân (!). Làm sao đánh lại quân Mông Cổ có kỷ luật và đội ngũ đàng hoàng với các vị chỉ huy là Thập Phu Trưởng, Bách Phu Trưởng, Thiên Phu Trưởng. Tôi nghĩ là Mông Cổ lúc đó văn minh nhất thế giới. Âu Châu lúc đó cũng chưa có thập phân (?). Ta thấy số đếm của người Pháp, ta không thể không cười: Chín mươi chín, họ nói là: Bốn hai mươi mười chín!
Một “Tướng“ của người Tống dàn hàng như con rắn (thế trận Trường Sà) mà gặp mấy tên Mông Cổ cỡi ngựa khoẻ với giáo dài cung cứng xông tới, Con rắn Tống không đứt ra nhiều đoạn mới là lạ.
Mấy tên dân ngu ngơ, lơ láo mà gặp tụi vua quan tham lam vô độ thì sao? Đi nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh, dòi bọ đầy người, quanh năm không tắm, đánh Cao Ly (thời Tuỳ) chết cả triệu người… thì đâu có chết thằng Tây nào? Dân chết mặc dân, các quan võ cứ dậy con mình bắn tên ra bốn phương để dậy chúng nó cái trò cướp giựt!
Bọn nhà Minh “cùng binh độc vũ“ thì Nguyễn Trãi đã chửi rồi:
Trúc rừng không ghi hết tội
Nước biển khôn rửa sạch mùi
Chúng lập ra “Thiên Hộ Sở“ thu gom người địa phương vào làm như trâu, chúng bóc lột đến tận xương tuỷ.Vơ vét, bắt hầu hạ, thu gom, cống phẩm… dân không chịu nổi phải chạy vô rừng. Chính số dân bị bóc lột thần sầu quỷ khốc này đã theo Trần Nguyên Hãn, Phạm văn Sảo, Lưu Nhân Chú đánh lại chúng và góp phần to lớn vào chiến thắng, chứ không phải đám quân ít ỏi ở rừng núi Lam Sơn!
Bị Nha phiến chiến tranh, bị người Âu đốt phá, họ không tởn, không lo… vẫn tu bổ Di Hoà Viên rất tốn kém và hoành tráng, Thái Hậu vẫn củng cố địa vị, bỏ con này, lập cháu kia… Vẩn phè phưỡn đập đầu con khỉ để ăn óc sống! Vẫn ngu muội: dùng bọn giặc cỏ tàn ác Thiên Địa Hội để chống người Âu (Cái thằng Lí Tài ở Việt Nam: Ở trần mình vẽ bùa vằn vện và đeo giấy vàng giấy bạc khi xung trận chính là Thiên Địa Hội chính gốc)
Người Trung Quốc không bao giờ nghĩ đến người khác, họ gọi người chột người què là thằng chột thằng què vỗ ngay vào mặt, không có một chút mà người Việt gọi là tế nhị, từ tâm! Nếu có một chút từ tâm thì họ đã chẳng hù dọa chị Tường: Khi chết xuống đấy, hai con ma đực tranh chị, thì chị biết theo ai? khiến chị sợ muốn xỉu. Nếu tôn trọng người khác thì vào quán ăn đã chẳng hét lớn, ăn xồm xoàm, khạc nhổ, xả rác… và khinh chửi người địa phương!
Khi Pháp đánh Việt Nam, anh Tầu vội vàng nhẩy vào… hôi của. Sứ Thần Tầu tại Paris là Tăng Kỷ Trạch đề nghị với Pháp rằng: Từ sông Hồng trở vế Bắc thuộc Tầu! Thật là lòng tham đến chết còn tham (giống con cá thác lác đến chết còn lác). Cả nước Tầu kia còn e giữ không nổi mà còn cố xin một miếng đất phía Nam! Thật là bỉ ổi và trơ trẽn!
Hồi quân Tưởng tới giải giới quân Nhật ở phía Bắc thì người Việt thấy rõ thế nào là Tầu phù, thế nào là Tầu ghẻ lở… Ôi! Một đạo quân đại diện cho một trong ngũ cường (!) Có sĩ diện không? Có tự trọng chăng? khi họ gồng gánh những đồ phế thải qua, bắt ép dân ta mua! Và họ vung tay mua đồ của người Việt bằng tiền Quam Kim và tiền Quốc Tệ mà người Việt phải cắn răng nhận, và khi quân lính (và cả sĩ quan) đi rồi thì họ rải xuống đất mà ngồi vì tiền đó tiêu không được!!! Nó thua xa tiền âm phủ, vì tiền Âm phủ đốt… hãnh diện đốt hàng triệu để báo hiếu ông bà!
Thời Mao Trạch Đông thì tôi đã nói nhiều rồi. Chính Mạc Ngôn, Lí Nhuệ, Giả Bình Ao của họ đã mô tả đó là thời đại tồi tệ nhứt trong lịch sử Trung Quốc.
Tóm lại, Cái văn minh Trung Hoa chỉ nhào nặn nên những kẻ ăn thịt người (Nhật Kí Người Điên – Lỗ Tấn). Những người này huênh hoang, sĩ diện hão, ích kỷ, tham lam và tàn nhẫn!
Họ ăn thịt người mà lại còn chọn một cô gái trinh, vì như thế mới… bổ!
Họ hưởng thụ một cô gái trinh để lấy hên, hãnh diện hơn người, vênh vang đắc thắng và… bổ âm… trường thọ…
Họ mua một cô gái quê còn trinh, khoảng mười bốn mười lăm tuổi, cho ăn thịt cá cho bổ béo, đổ nhiều sâm nhung vào… hàng mấy tháng trời… rồi mầy mò cho cái ấy của cô cương lên, tức lên… rồi dùng miệng… cái ấy của cô phọt ra một cục máu… hắn liền nuốt vội vàng… hả hê…
Cái “Hái Hoa“, bổ âm của họ khiến trường thọ chăng? Đẻ con thông minh chăng?
Cái ích kỷ đến tàn nhẫn của mấy ông này nói một trăm năm không hết.
Người Tầu gọi nước mình là Trung Hoa, Trung Quốc, Trung Hoa! Họ hấp thụ hết tinh hoa của trời đất chăng?
Cái tinh hoa của họ ở dưới háng đàn bà chăng?
11 Giêng – Con gà
Chân Diện Mục


KHÓC LÊN ĐI

Một ông Tây nói: Than vãn, rên rỉ, khóc lóc đều là hèn nhát. Và càng ngày người ta càng ít biết khóc. Người Mỹ bây giờ có cha mẹ chết: Người ta đưa tiễn, cầu kinh, không khóc… rồi về nhà họp lại, chia của! Người Việt ở trong nước chê là không có tình cảm (?).
Một anh bạn tôi đọc truyện Tam Quốc: ghét nhất là Lưu Bị: quanh năm chỉ biết nói: Bị này bất tài… rồi khóc! Chuyện văn đã có Khổng Minh, chuyện võ đã có Quan Công, Trương Phi…
Bây giờ người ta chỉ muốn cứng rắn, bản lãnh, lanh lợi, không chịu thua ai
Nếu thất bại xóa bàn làm lại…!
Chuyện cứng rắn, cam đảm, bền chí… thì người Âu Mỹ viết đầy ra đấy! Nhà văn lớn Kipling, nhà văn lớn Melville… Nhưng tôi đọc: “Khóc lên đi! Ôi Quê hương yêu dấu" của một văn sĩ Phi Châu thì tôi xúc động lắm. À, thì ra dân Á Phi vẫn còn khóc, khóc nhiều, kêu người hãy khóc, và viết văn khiến người ta khóc.
Thôi thì nước yếu như Bulgari, Thổ Nhĩ Kỳ, nước lớn mà yếu như Ấn Độ, nước lớn mà quá yếu, yếu xìu như Trung Quốc (người khổng lồ chân đất sét) thì lại càng đáng khóc!
Nước quá tiểu, quá yếu như Việt Nam thì suốt ngày chỉ muốn người ta cười. Nhưng ông Nguyễn Mạnh Tường cố gắng lắm cũng chỉ: “nửa khóc nửa cười“ mà thôi!
Trước đây tôi đọc “Lạc lối về“ của tác giả người Đức đã hơi buồn buồn rồi, đến khi đọc “Chiếc cầu trên sông Drina“ của tác giả người Bulgari thì buồn hơn. Đọc “Cơm Thây cơm Cô“, “Làm đĩ “ cái buồn kéo tới nhiều…! Thấy thân phận chị Dậu (Tắt Đèn) và anh Pha (Bước Đường Cùng) làm tôi buồn nặng! Đến khi đọc “Một Đám Cưới“ của Nam Cao thì tôi buồn thấm thía. Nhưng cái thằng tôi mít ướt đọc đến “Xóm gái hoang“ và “Đa phu“ của Nguyễn Quang Lập thì cười mà mít ướt, nước mắt dầm dề. Quái! Cái ông Nguyễn Quang Lâp này quả là người thích đùa. Ông viết giọng hoạt kê mà tôi cười không nổi. Ngòi bút quỷ quái của ông cứ kéo môi người ta cho cười méo xệch!
Nếu quan sát khuôn mặt người ta khi đọc “Vú bự mông mẩy“ của Mạc Ngôn thì không thể nào đoán người ta vui hay buồn, miệng người ta vuông hay hình tam giác!
Nhưng qua “Chuyện kể năm hai ngàn“, qua “ Âm bản chiến tranh“ thì buồn như điên, muốn khóc như điên… Lại qua truyện ngắn (ngắn ngắn thôi nhưng đủ chết người) “Chị Cả Bống“ thì tôi hết chịu nổi. Ôi! Lòng người đã đến thế rồi sao? Dù bạn có hô: khóc lên đi cả ngàn lần thì chị Cả Bống cũng… khóc không nổi!
Nhiều tác giả không biết dùng bùa chú gì mà viết bằng giọng dửng dưng, giọng tưng tửng nhưng khiến người yếu bóng vía nước mắt lên óc và nước mắt xuống chân.
Đất bằng bỗng rắc chông gai
Ai đem nhân ảnh nhuộm mùi tà dương
Đất nước đã đến buổi hoàng hôn rồi sao?
Sao người ta cứu đói bằng gạo mốc?
Sao người ta giúp chăn nuôi bằng bò bệnh dê què?
Sao người ta xả thuỷ điện khi nước lũ?
Sao người ta dửng dưng khi cá chết đầy biển, đầy hồ! Nước biển cuốn mất tiêu hàng trăm, hàng trăm mét đất ven bờ… và bùn đỏ Tây Nguyên chảy mênh mông mặt đất.
Những câu hỏi bỏ ngỏ này: Ai cười đây? Ai khóc đây?
Ôi quê hương yêu dấu!
Tôi đang khóc cho người đây!
Nhân vật trong “Mạt Lộ“ không khóc.
Thân phận bạc bẽo của bà Dương Quỳnh Hoa không khiến bà khóc.
Cuộc đời cay đắng của Tuệ Sĩ khiến ông không khóc.
Nhưng tôi đang khóc cho các ông lớn, các ông quan, các ông vua.
Ôi! Khóc lên đi!!!

Chân Diện Mục


NÔ LỆ VĂN HÓA

Không có gì! Không có gì! Một văn sĩ nổi đình nổi đám của Trung Quốc đã tung ra một trái bom tấn: Không Có Gì! Ấy thế mà người ta muốn nhận Trung Quốc làm thầy! Muốn học theo Trung Quốc!
Ôi! Người ta đã Không Có Gì mà mình muốn học, thì học cái gì đây??? Hay là con đường học hỏi: Không có gì quí hơn độc lập tự do quá xa vời, quá đuối sức nên người ta mới đi được một phần ba quãng đường (!?)
Tôi ráng tìm ưu điểm của Trung Quốc như Phan Khôi đi tìm ưu điểm của chị Cóc. Nhưng tìm hoài không thấy. Lỗ Tấn đã cất công đi tìm ưu điểm của Trung Quốc nhưng… chỉ thấy mấy ngàn năm văn minh của Trung Quốc toàn sản sinh ra những bọn Ăn Thịt Người (Nhật Kí Người Điên)
Ôi! Cụ Lỗ Tấn ơi! Tôi chỉ thấy Trung Hoa của cụ khoa trương một cách cường điệu. Hèn hạ một cách lê lết, tham lam, ích kỷ, đểu cáng, bỉ ổi. Nếu cụ thấy người ta ca tụng Trung Quốc, chắc là cụ phải che mặt đi (người khen ta là kẻ thù ta)
Các Học giả chân chính,các Giáo sư uyên bác của các đại học lớn Âu Mỹ đã chê chuyện Trịnh Hoà Hạ Tây Dương là láo toét. Thế mà vẫn còn những kẻ lam nham ba lá sách nói là đoàn chiến hạm đứng đầu thế giới hồi đó. Ôi. Một tên Thái Giám vô học dẫn một tụi AQ đi dương danh thiên hạ chăng? Tên cướp biển Trịnh Thành Công tiến quân vào tận Nam Kinh, tế lễ vua Minh, trong khi các ông Tướng và các học giả nhà Thanh trơ mắt ếch ra. Tầu bè của Trung Quốc bị bọn Bồ Đào Nha đuổi như cá lóc đuổi lũ lòng ròng, các học giả Trung Quốc biết không? Nếu không có các Cố Đạo Thang Nhược Vọng, Nam Hoài Nhân, Lợi Mã Đậu làm… cố vấn cho thì Trung Quốc làm sao hoàn chỉnh Thiên văn, Lịch số. Làm sao biết La Bàn và kỹ thuật hải hành. Ồ! đã bảo Trung Quốc chỉ biết khoa trương, phét lác thôi, chứ có làm cái gì ra trò trống đâu.
Sao ta lại ca tụng Trung Quốc theo sách vở của họ. Nghiêu Thuấn là những tên Tù Trưởng ở truồng hoặc đóng khố sao ta lại ca tụng là những Thánh Nhân. Sao ta lại ca tụng cung A Phòng hoành tráng, cao chọc trời, đốt mấy tháng mới cháy hết (?) Đó là các cụ ghét đời Nguyên và đời Thanh nên mượn Tần Thuỷ Hoàng để chửi xéo cho bõ ghét.
Hai cái đường đê ở Tây Hồ là do Càn Long sai đắp để thưởng ngoạn hồ trong hai lần du Giang Nam đấy. Các cụ Trung Hoa đời nay (!) gọi là Bạch Đê, Tô Đê do Bạch Cư Dị và Tô Đông Pha sai đắp (!). Ngớ ngẩn quá đi thôi, chả lẽ chỉ có Ba Tầu các ông biết ngắm hồ, còn rợ Mãn Châu không biết ngắm sao?
Việt Nam ta cứ lải nhải mãi chuyện ca tụng Tầu mà không biết ngượng miệng sao? Cứ nói họ văn minh mấy ngàn năm, rất hoành tráng, rất rực rỡ mà không thấy họ nhận vơ, họ học của người, thậm chí học ngay của Việt Nam ta. Họ học Bố (vải làm từ đay gai) của Việt Nam ta (những chữ chỉ các loại vải đều có bộ Bố một bên, và sử Tầu ghi Giao Châu phải cống Cát Bá. Ôi cát bá là cát bối, cát bố, bố chính là đay, gai đấy các cụ ạ) và Tầu cũng học Miên (bông gòn) của Thiên Trúc chứ có hay ho gì. Họ học làm tương từ hạt đậu mà hồi đó ta gọi là câu tương hay củ tướng. Học làm thuyền: Qua thuyền, Lâu thuyền từ các tộc phương Nam chúng ta.
Người Tầu cứ nói họ phát mimh ra tiền tệ (tệ đồng âm với trị) rất sớm. Xin lỗi. Còn lâu. Tiền da (da thú), tiền đao (thanh đao, dao) khó xác định có từ thời nào, nhưng tiền kẽm mà họ rêu rao, chỉ chỏ, giải thích thì nó chẳng thể là đồng tiền để mua bán được. Đồng tiền nặng hai kí thì gánh đi mua đồ ra làm sao?
Cái gương đồng của họ, tôi chẳng cần biết nó dùng để soi mặt trang điểm ra làm sao, tôi chỉ biết soi vào đó thì cái mặt mẹt, mặt mo của người ta không rõ bằng ra suối soi xuống nước...
Thật là xấu hổ khi 1945 người ta hào hứng với cái trò “dịch chủ tái nô). Người ta đua nhau học tiếng Nhật, ca tụng Nhật và lạc quan với cái tương lai Đại Đông Á... Càng nghĩ đến những người ngu tôi càng nhớ cụ Lỗ tấn. Cụ nói: Nước ta có hai hạng người: Một là hạng nô lệ, hai là những người muốn làm nô lệ mà chẳng được (?). Thế mà ngày nay vẫn còn những hạng “muốn làm nô lệ“
Mấy năm sau 1979 các nhà văn Việt Nam lớn tiếng chửi Mao Trạch Đông (chửi Mao Trạch Đông chứ không chửi Trung Quốc). Chửi dài dài từ Tỉnh Cương Sơn tới Diên An. Chửi từ Diên An tới Bắc Kinh. Chửi Mao Trạch Đông nhưng vẫn nói rằng ta chịu ảnh hưởng mấy ngàn năm của Văn Minh (!) Trung Quốc và còn học cái nền văn minh lâu đời và rực rỡ ấy...
Các vị đó làm tôi nhớ đến cô Đỗ Hoàng Diệu. Cô ta viết BÓNG ĐÈ, bị chê là dâm bôn, tục tĩu. Sách bị thu hồi, không cho phát hành (!). Nhưng tôi thì lại suy tôn Đỗ. Cô ta không viết dâm thư. Cô ta không viết sex. Cô ta ví cái BÓNG đó như văn minh Trung Hoa. Người bị Đè: dau mà thích thú. Ôi! Những người thích Bóng đè là những người thích Nô lệ Văn hoá. Ôi! Trong các thứ nô lệ, không gì hèn, không gì nguy hiểm bằng nô lệ văn hoá. Những người chê Đỗ Hoàng Diệu là những người bị chạm nọc chăng?
Hãy tránh ra cho tôi tôn vinh Đỗ Hoàng Diệu
Vạn Tuế Đỗ Hoàng Diệu...
Chân Diện Mục

 

Đăng ngày 08 tháng 05.2017