Print

Vai trò của hải phỉ trong chiến thắng Kỷ Dậu

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

Chính sử Việt Nam cũng như của Trung Hoa khi chép về trận đánh mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789) thường chỉ miêu tả như một cuộc giao binh thuần tuý giữa hai quân đội nhà Thanh và Đại Việt, nhấn mạnh vào tài cầm quân, ưu và khuyết điểm của hai bên. Dù yêu hay ghét nhà Tây Sơn, sửû cũng chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh chính qui của quân đội – nhiều chỗ huyền thoại hoá, khen phò mã tốt áo, phóng đại kết quả mà quên đi sự phức tạp của thời đại trên cả chính trị, kinh tế, kỹ thuật lẫn hoàn cảnh xã hội.
Những chi tiết cụ thể của chiến thắng này đã được khá nhiều tác giả Việt Nam miêu tả với đầy đủ chi tiết, lên đến hàng ngàn bài viết và biên khảo, hàng chục cuốn sách dày. Ở đây chúng tôi chỉ muốn đưa ra một góc cạnh xưa nay ít sử gia đề cập. Đó là vai trò của thành phần thương nhân trên mặt biển, đời sống gắn liền với đại dương nhưng trong nhiều thế kỷ bị loại ra khỏi thành phần xã hội. Vô hình chung họ biến thành những kẻ sống ngoài vòng pháp luật, gió chiều nào che chiều ấy, nghiêng ngả tuỳ theo cách đối xử của nhà cầm quyền, có khi là kẻ thù chung của mọi triều đình từ Nhật Bản xuống đến Đông Nam Á, có khi được nuôi dưỡng để trở thành một chính quyền nho nhỏ như họ Trịnh ở Đài Loan thời Minh mạt Thanh sơ, hoặc được tập hợp để trở thành một cánh quân đắc lực như thời Tây Sơn vào cuối thế kỷ thứ 18. Vai trò của họ không những góp phần khá nhiều vào những biến chuyển chính trị tại Việt Nam mà còn quan trọng trong chiến thắng đánh bại quân Thanh, trở thành một chỗ dựa đáng kể để Nguyễn Huệ tính toán những bước ngoại giao sau trận đánh và nếu như ông không mất sớm, rất có thể Việt Nam đã trở thành một trong những cường quốc trên biển cả vào đầu thế kỷ thứ 19.
(…)

Nguyễn Huệ thu đụng hải phỉ như thế nào?
Một trong những chi tiết trước đây chưa được đánh giá đúng mức. Đó là việc Nguyễn Huệ sử dụng cướp biển như một lực lượng chủ yếu trong quân đội của ông. Gần đây, sau khi chính quyền Đài Loan cho phép nghiên cứu một số tài liệu còn lưu trữ trong văn khố trước nay dấu kín thì một số học giả ngoại quốc mới tìm ra những tài liệu xác thực về việc Nguyễn Huệ thu dụng những tên “vong mạng” này không phải chỉ để quấy phá miền nam nước Tàu nhằm tạo khó khăn cho nhà Thanh mà thực sự ông đã biến họ thành một đội thủy binh, có tổ chức và hệ thống dọc cũng như ngang, được phân bố lãnh hải hoạt động một cách minh bạch. Điều đó cho thấy Nguyễn Huệ không bị ràng buộc trong nhãn quan chỉ dùng người Việt hay người địa phương ông quen thuộc mà muốn tổ chức một lực lượng qui mô hơn, gồm nhiều thành phần, nhiều sắc tộc, rất gần với cái bản chất khai phóng của xứ Đàng Trong.

Thành phần dân chúng sống liên quan trực tiếp đến biển cả vốn dĩ bị bỏ quên trong một thời gian dài của lịch sử. Đây là những người làm nghề chài lưới, có khi sống hẳn trên thuyền như một loại nhà nổi, có khi sống dọc theo duyên hải nhưng sinh nhai chính là đánh cá và sản xuất những sản vật trực tiếp từ biển khơi như muối, rong biển, hải sản... Họ sống rất thầm lặng và không được liệt kê vào bốn thành phần căn bản của xã hội sĩ nông công thương (tứ dân) mà chỉ được coi như những sinh vật dưới con người, trên cầm thú một tí. Trên thực tế, vì ngày đêm chỉ sống quây quần với đồng bọn, gia đình trên một xã hội nhỏ bé, sinh hoạt chủ yếu của họ rất đơn sơ, tiếng nói cũng hạn chế, phần lớn chỉ là những từ cụ thể, tiếng gọi, tiếng chửi, hoàn toàn chưa đạt tới mức độ gọi là văn hóa. Rất hiếm ai biết chữ và vì thế họ cũng khó tiến thân ngoài việc theo đuổi nghề nghiệp của ông cha và qua lại giữa hai sinh hoạt, đánh cá và ăn cướp.

Trong nhiều thời kỳ, mỗi khi động binh, thuyền bè tài sản của họ bị trưng dụng hay tịch thu để xung vào lực lượng triều đình, cả người lẫn vật và thường không được đền bù gì cả. Nếu sử sách chép rằng quân ta đem 1000 chiến thuyền thì có nghĩa là một phần lớn là phương tiện của ngư dân bị xung vào quân đội trong một nhiệm vụ đoản kỳ. Chính vì thế, xã hội phong kiến thời xưa vô hình chung đẩy một số lớn dân chúng vào đường chống đối. Cái nhìn hoàn toàn thay đổi của Nguyễn Huệ với những người dân chài này đã tạo cho ông một chỗ đứng đặc biệt và cũng là câu trả lời tại sao trong quân đội của ông có rất nhiều Đô Đốc, Đề Đốc (I), là một chức vụ vốn dĩ là một cấp chỉ huy thủy binh (II) , và những nhân vật nhiều công trạng này không bao giờ có một tiểu sử rõ rệt, lắm khi chỉ có tên mà không có họ, xuất hiện một cách bất ngờ rồi không còn thấy trong những biến cố khác.

(I) Theo Heath trong Armies of the Nineteenth Centery: Asia, Vol 2: China
(Great Britain: Foundry Books, 1998), tr 18-19 thì những cấp bậc đó tương đương với hiện thời: Đô đốc (?), Đề đốc (đại tướng), Tổng binh (trung tướng), Phó tướng (thiếu tướng), Tham tướng (đại tá), Du kích (thượng tá), Đô ty (trung tá), Thủ bị (thiếu tá), Thiên tống (đại úy), Bá tống (trung úy), v…v…
(II) Đô đốc Bảo nắm tượng binh và kỵ binh (?) trong trận Kỷ Dậu.

Đối với ngư dân, chiếc thuyền vừa là một nơi cư ngụ, lại vừa là nơi làm việc và cũng là toàn bộ tài sản của họ. Có thể nói đó chính là thế giới riêng, và vì thế nảy sinh ra một tình cảm phục tòng tuyệt đối người thuyền trưởng (và cũng là gia trưởng). Người chủ thuyền phải luôn luôn làm gương cho những người khác, hi sinh và phải chứng tỏ là mình trội hơn những người chung quanh để tiếp tục giữ quyền chỉ huy. Chính tập quán tự nhiên đó hình thành một sức mạnh tập thể gắn bó, sống chết với nhau trong nghề nghiệp cũng như trong chiến đấu, chỉ tuân phục những người có cùng một cá tính như họ và cũng là điều tại sao họ đi theo Nguyễn Huệ mà dần dần bỏ rơi Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ. Khi thủy quân được chính qui hóa trong triều đại Cảnh Thịnh, sự tinh nhuệ của họ cũng giảm đi khiến cho chiến thuyền của nhà Tây Sơn không đương cự nổi với Nguyễn Ánh khi kỹ thuật của đối phương được nâng cấp và cơ chế được tổ chức, chỉ huy theo lối mới của Tây Phương.
Để sử dụng được lực lượng hải khấu vốn dĩ hoành hành đã nhiều thế kỷ dọc từ Nhật Bản xuống tới Indonesia, chúng ta phải tìm hiểu qua 2 vấn đề chính: kỹ thuật đóng tàu của Đàng Trong và quá trình hoạt động của bọn cướp biển.

Thu phục cướp biển
Trong nhiều thế kỷ tuy nạn cướp biển có hoành hành nhưng cũng không trở thành một lực lượng đáng kể vì thiếu một căn cứ địa để trốn tránh khi bị săn đuổi. Thế nhưng đến cuối thế kỷ thứ 18, Nguyễn Huệ đã nhìn ra được tiềm năng và vai trò của họ nên đã thu dụng và trở thành một vị thủ lãnh tập hợp được nhiều nhóm khác nhau, phân chia mỗi nhóm một lãnh bàn hoạt động, chỉ đạo các chiến dịch và cho họ nơi trú ẩn. Robert J. Antony đã nhận ra rằng ở cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, cướp biển ở biển đông đã tập họp thành một vài nhóm, có đến hàng ngàn chiến thuyền, tổng cộng đến hơn 7 vạn người. [12]
Đối với đám hải khấu lẻ tẻ vùng Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang và Giang Tô, Nguyễn Văn Huệ được gọi là Đại Ca Việt Nam, là người bán những đồ họ cướp được và chia cho họ từ 20 đến 40% số tiền. Những bọn cướp lớn cũng được Hoàng đế che chở vì họ không những được phép neo thuyền tại vùng biên giới (Trung Hoa và Đại Việt) để tuyển quân và trộm lương thực mà còn có thể dùng Việt Nam như một “sào huyệt” để rút về. Bọn hải khấu đó coi nhà vua như chủ nhân vì dưới thẩm quyền của ông họ có thể thu hoạch nhiều nguồn lợi từ biển cả.[13]

Theo Ngụy Nguyên [14] thì nhà Tây Sơn không những chỉ dung túng cho đám hải khấu mà còn giúp đỡ những giáo phái như Bạch Liên Giáo và Thiên Địa Hội lúc đó đang nổi dậy trong nhiều vùng tại Trung Nguyên từ Hồ Bắc đến Hồ Nam, Tứ Xuyên, Quảng Đông kéo dài trong nhiều năm.[15] Có lẽ những điều Ngụy Nguyên viết không có chứng cứ rõ rệt vì giai đoạn này nhà Tây Sơn đang phải tập trung sức lực đối phó với Nguyễn Ánh ở miền nam đánh lên không thể nào còn đủ uy thế để hỗ trợ những lực lượng nằm sâu trong lãnh thổ Trung Hoa, hoặc nếu có thì là những hoạt động ngầm của vua Quang Trung khi còn sống với dụng ý cầm chân triều đình Mãn Thanh, mặt khác lại cũng là một hình thức kinh tài để giúp ông chuẩn bị những phương án chiến lược mới.
Sau khi mua chuộc và chiêu dụ được một số thủ lãnh của đám hải phỉ, vua Quang Trung sử dụng họ như một cánh kỳ binh tinh nhuệ tấn kích bất ngờ khiến quân Thanh trở tay không kịp. Việc Nguyễn Huệ sử dụng cướp biển để sang quấy phá miền nam Trung Hoa đã được đề cập đến trong sử triều Thanh cũng như triều Nguyễn. Theo Ngụy Nguyên trong Thánh Vũ Ký (phần Càn Long Chinh Vũ An Nam Ký), viết vào năm Đạo Quang thứ 22 (1842) có đề cập đến như sau: “Nước nhà từ đời Khang Hi thứ 22 (1683), đánh Đài Loan, dẹp họ Trịnh, rồi năm thứ 24 (1685) mở rộng tuần phòng trên bể thì vùng Mân, Việt, Chiết, Ngô, trên vạn dặm bể trời, kình nghê không bóng sóng. Đến đầu đời Gia Khánh (1796), mới có cướp thuyền (Đĩnh đạo) quấy rối. Cướp thuyền này bắt đầu từ khi cha con Nguyễn Quang Bình ở An Nam cướp nước, rồi quân mỏi của hết, bèn mời tui vong mạng dọc bể, cấp cho binh thuyền, nhử bằng quan tước, sau cướp các thuyền buôn ở bể gần để biện lương thực. Mùa hè tới, mùa thu về, tung tích không lường, làm họa lớn cho đất Quảng Đông.
Sau lại có bọn cướp đất ở bang Phượng-vĩ, bang Thủy-áo cũng phụ vào. Chúng bèn vào sâu trong vùng Mân, Chiết. Cướp đất dựa vào thuyền rợ (An Nam) làm thanh thế, thuyền rợ cậy cướp đất làm hướng đạo. Trên vài ngàn dặm trên mặt bể ba tỉnh, nếu ta lên bắc thì chúng xuống nam, nếu ta xuống nam thì chúng lên bắc. Nếu ta chống với thuyền, thì tụi cướp đất tung ra cướp; nếu ta đương đầu với cướp đất thì thuyền tới cứu. Vả chăng thuyền rợ cao, to, nhiều súng; có gặp cũng chưa chắc được chúng. Cướp đất giảo quyệt lại có nội ứng; mỗi lúc tạm trốn rồi quay nhóm lại. Mà bấy giờ tụi giáo-phỉ ở Xuyên Thiểm vừa dấy. Triều đình vừa chú ý đến tây chinh, chưa rảnh để tính việc hòn đảo. Cho nên thế giặc càng ác liệt. [16]
Cuối thế kỷ 18, ba nhóm dương đạo hùng cứ biển đông của Trịnh Nhất, Ô Thạch Nhị và Trương Bảo đã trở thành một lực lượng thuỷ quân xung kích và cũng đồng thời là lá chắn cho Nguyễn Huệ khiến cho thương nhân ngoại quốc phải gờm không dám đóng vai đòn sóc hai đầu, vừa buôn bán với nhà Tây Sơn, vừa giao thương với lực lượng đối nghịch của họ. [17]

Thế nhưng việc sử dụng thành phần hải phỉ không phải chỉ đơn giản như thế. Đây là một chương trình có tính toán, một canh bạc cháy túi nếu đi sai. Lúc đầu ông thu dụng bọn họ như một lực lượng vây cánh nhưng ngay cả khi đã lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Huệ vẫn tiếp tục tin dùng và phát triển thêm lên. Nếu nói đây là bụng dạ đàn anh của ông cũng được mà bảo rằng là chủ đích của ông thì cũng không sai. Robert J. Antony đã nhận xét:
Ngay cả sau khi vua Càn Long đã phong vương cho một trong những lãnh tụ Tây Sơn năm 1788 (đúng ra phải là 1789 - NDC), ông này vẫn theo đuổi một chính sách chơi dao hai lưỡi, một mặt vẫn gửi đồ tiến cống sang Thanh triều ở Bắc Kinh, mặt khác vẫn đồng thời yểm trợ cho những vụ cướp phá của hải tặc dọc theo bờ biển. [18]
Những tên cướp đó không những có nơi trú ẩn an toàn khi bị săn đuổi mà còn được cung cấp vũ khí, tiền bạc để nuôi sống gia đình, lại còn được phong tước. Cho tới khi nhà Tây Sơn bị lật đổ, những bọn cướp biển đó được dành riêng một khu vực gần biên giới Việt – Hoa gọi là Giang Bình (Jiangping) [19] coi như sào huyệt của họ. Trong số những tên cướp biển kiệt hiệt phải kể đến Mạc Quan Phù (Mo Guanfu), Trịnh Thất (Zheng Qi), Vương Quí Lợi (Wang Guili) và Ô Thạch Nhị (Wushi Er). Bốn người này được lệnh của triều đình Tây Sơn qui tụ những nhóm lẻ tẻ lại lập thành những toán quân lớn. Mạc Quan Phù và Trịnh Thất đã từng tham dự nhiều trận đánh chống lại Nguyễn Ánh và năm 1796 Mạc được vua Cảnh Thịnh phong chức Đông Hải Vương. Trịnh Thất thì có dưới tay hơn 200 chiến thuyền, là lực lượng ngoài biển lớn nhất thời ấy và được thăng tới chức Đại Tư Mã (tương đương Thượng Thư bộ Binh). Vương Quí Lợi, có vợ Việt Nam, bỏ y phục người Hoa ăn mặc theo lối Việt và còn lưu lạc mãi tới năm 1810 (8 năm sau khi nhà Tây Sơn bị diệt vong) được phong chức Định Hải đại tướng quân.

Xem lại biểu đồ mà nhà Tây Sơn tổ chức lực lượng hải phỉ ta còn nhận ra nhiều nhóm theo tên gọi chẳng hạn như Phượng Vĩ, Tiểu Miêu... hoặc có khi chia thành nhiều màu cờ như Thanh Kỳ, Hồng Kỳ, Hoàng Kỳ, Hắc Kỳ, Lục Kỳ [20] mỗi nhóm có một vùng hoạt động, những thủ lãnh được phân bố chặt chẽ. Sau khi nhà Tây Sơn bị lật đổ, những nhóm đó đã tự động tập hợp lại để ký với nhau một thỏa hiệp xác định lại một số qui luật để không rơi vào tình trạng chém giết lẫn nhau. Nếu như vua Quang Trung không mất sớm, tổ chức hải quân của ông chắc chắn sẽ trở thành lực lượng đường biển mạnh nhất thời bấy giờ không những đủ sức làm lệch cán cân Việt – Thanh mà còn đủ sức ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân vào đầu thế kỷ thứ 19.
(…)

Vai trò hải phỉ trong trận đánh Kỷ Dậu
Trận chiến năm Kỷ Dậu vẫn còn nhiều điểm chưa được giải thích thoả đáng, phần lớn vì các sử gia Việt Nam bị trói buộc vào một số định đề có sẵn khiến cho những khúc mắc không sao cởi được. Người ta vẫn khẳng định là khi nghe tin quân Thanh kéo sang, Nguyễn Huệ được tin cấp báo về Phú Xuân, ngay hôm sau lập tức lên ngôi hoàng đế rồi đùng đùng kéo quân ra Bắc, tới Nghệ An trong 4 ngày, hạ trại hiểu dụ tướng sĩ, tuyển thêm quân Thanh Nghệ bảy tám vạn người rồi cho quân ăn Tết trước, sau đó kéo thẳng ra bắc dùng 10 vạn quân đánh bại 20 vạn quân Thanh trong chớp nhoáng.

Theo như sách vở, chiến dịch đó là một chuỗi hành quân hoàn hảo đến mức không thể tưởng tượng được, mọi việc đều suông sẻ mà một tướng lãnh tài ba nào cũng không dám mơ tưởng đến vì chỉ một sơ xuất nhỏ cũng khiến cho mọi dự tính tan ra mây khói khiến người ta phải nghi ngờ về những chi tiết và giá trị của tài liệụ. Những chi tiết của trận đánh này chúng tôi viết trong một biên khảo khác nên ở đây chỉ tóm lược một vài ý chính. Cuộc giao binh Thanh – Việt đã được dự tính từ lâu, là một mặt trận tính toán trước theo đúng sở trường của Nguyễn Huệ. Đó là để cho địch đóng quân đâu đó, theo tình hình cụ thể ông mới điều đại binh tấn công bằng một trận quyết tử theo lối “nhất định thắng bằng mọi giá”.
Để nhấn mạnh vào chiến tranh chống xâm lược, các sử gia Việt Nam vô tình hay cố ý không đề cập đến vai trò của nhiều cánh quân theo một nghĩa nào đó không phải là người Việt, chẳng hạn như các toán quân người Thượng thông thạo đường rừng, thường dùng voi đi lẩn theo sơn đạo, và các thuyền chiến do hải phỉ chỉ huy hoạt động ngang dọc trên mặt biển mà chúng ta thường cho rằng là người Tàu. Hai cánh quân này đã tạo ra sự bất ngờ vì quân Thanh bị tấn công từ ngang hông và tập hậu nên không kịp phòng bị, các kho lương thực, kho đạn, thuốc súng, quân nhu... bị thiêu hủy tạo nên sự kinh hoàng dây chuyền làm cho Tôn Sĩ Nghị phải bỏ chạy.

Ngoài ra, một trong những lý do khiến quân Thanh bị thất thế chính là vì họ chỉ chuẩn bị đối phó với bộ binh, tượng binh, kỵ binh mà không quan tâm đến thủy binh. Mùa đông ở miền Bắc nước ta là tháng mưa dầm gió bấc, gió từ phương bắc thổi xuống, không thuận tiện cho thuyền bè từ phương nam dùng buồm tiến lên. Chính vì thế họ không đề phòng thủy quân của nhà Tây Sơn tấn kích mà chỉ tập trung vào phòng thủ những trục lộ giao thông đường bộ. Vả lại, đường từ Thanh Nghệ tiến ra phải qua nhiều nơi hiểm yếu, giữ dễ, đánh khó nên quân Thanh tin rằng quân Nam không thể một sớm một chiều vượt qua được. Từ những lý do chủ quan cũng như khách quan, Tôn Sĩ Nghị phải chùng chình để chờ đợi thêm vài tháng nữa, chuẩn bị lương thảo để tính kế hoạch xuất quân. Cánh quân của hải phỉ trái lại vốn dĩ tập trung sẵn ở các vùng biên giới và vịnh Bắc Việt, là sào huyệt lâu nay của họ, lại thêm tàn quân từ Đài Loan mới bị quân Thanh đánh bại kéo về, nay được dịp tối trời theo các đường sông tiến vào đánh tập hậu quân Thanh trả thù. [33]
Cuộc tấn công chớp nhoáng và bất ngờ khiến cho địch trở tay không kịp và những cánh quân đó mãi mãi là những toán biệt kích vô danh. Chính vì thế theo sử sách trong đại quân của vua Quang Trung nhiều tướng lãnh chỉ huy chỉ có tên mà không có họ (đô đốc Long, đô đốc Bảo, đô đốc Lộc, đô đốc Mưu, đô đốc Tuyết...). Họ vốn dĩ là những thổ hào vùng núi hay hải phỉ được phong những chức tước rất kêu nhưng lại hoàn toàn biến mất khi vua Quang Trung thành lập bộ máy chính quyền. Ngay cả những danh tướng của ông mà chúng ta hằng nghe danh (Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Bùi Thị Xuân, Ngô Văn Sở...) cũng không thấy đóng vai trò nào quan trọng trong chiến thắng lẫy lừng này khiến chúng ta có cảm tưởng rằng chỉ một mình Nguyễn Huệ chỉ huy toàn bộ đạo tiền quân, hậu quân, trung quân tiến dọc theo một trục lộ từ Tam Điệp đến Gián Khẩu, Thanh Liêm, Nhật Tảo, Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi rồi tiến vào Thăng Long.

Một chi tiết chúng ta cũng cần chú ý là trong chiến dịch đại phá quân Thanh, quân Nam dùng rất nhiều các loại hỏa khí, hỏa dược để tấn công cũng như để đốt phá. Đó cũng là thói quen của hải phỉ thường dùng để thiêu hủy tàu địch được áp dụng trên đất liền. Ngay từ nhiều thế kỷ trước, những đám hải khấu đã biết dùng một loại bom làm bằng bình đất nung, miệng hẹp trong chứa thuốc súng và miểng, ném ra như một loại lựu đạn chế tạo giản dị. Loại bom này gần đây đã được tìm thấy nơi biển Đài Loan do quân của Trịnh Thành Công sử dụng khi tấn công quân Hòa Lan.[34] Dian Murray đề cập đến việc hải phỉ dùng những loại miểng vụn của nồi sắt hay đinh, có khi còn dùng tiền đồng hay bình chứa. Họ cũng hay đánh hỏa công bằng thuyền chất đầy đồ dẫn hỏa xông thẳng vào địch hoặc ném những loại pháo bằng ống tre để đánh gãy cột buồm.
Một loại võ khí đặc biệt khác cũng có tác dụng tương tự mà đám giặc biển cũng thường dùng là những bình đất nung chức thuốc súng trộn rượu mạnh. Diêm sinh được chứa vào nắp bình, treo sẵn, khi xáp trận sẽ ném lên sàn tàu địch, bình sẽ vỡ và bén lửa.[35] Ngoài ra chúng ta không thể không nhắc đến một loại hỏa tiễn hình đầu quạ, thân bằng tre có nhồi thuốc súng. Bốn ống phun ở đuôi có thể đẩy loại tên lửa này bay xa đến 300 mét và thường được dùng để đốt phá doanh trại hay tàu bè của đối phương đã khá phổ biến và thông dụng từ trước thế kỷ 17. Những loại đạn phóng như thế cũng đã được quân Mông Cổ dùng trong những cuộc tấn kích Nhật Bản và các quốc gia vùng Đông Nam Á mà sử sách còn ghi chép. Việc sử dụng thuốc súng vào trong những loại súng phóng tay (hand-held projectile weaponry) đã được dùng khá rộng rãi trên bộ cũng như trên biển vào thời kỳ đó nhưng cụ thể loại võ khí đó ra sao thì chưa thấy ai đề cập đến.[36] Xem như thế, rất có thể quân lính của Nguyễn Huệ đã sử dụng một loại súng phóng loại này để tấn công và đốt cháy đồn quân địch dưới cái tên “hỏa hổ”.

Một giả thuyết khác mà chúng tôi đưa ra là ở vào thời kỳ này người ta đã biết chế tạo một loại hỏa tiễn đốt theo hai giai đoạn (two-stage rocket) gọi là “hỏa long” (fire-dragon). Con rồng lửa là một loại ống phóng có bốn hỏa tiễn ở thân chính, khi cháy hết sẽ mồi vào những tên lửa ở trong bụng rồng và những tên lửa đó sẽ được bắn vọt ra đằng miệng. Hỏa long được sử dụng trong những trận hải chiến mà hai bên còn cách xa, các bình thuốc nổ ném chưa tới, dùng để đốt tàu địch. Vì chưng hỏa tiễn bắn ra hàng loạt trông như một con rồng lửa bay trên mặt nước nên được đặt tên là hỏa long. Có thể cũng loại võ khí này được cải tiến đôi chút – dùng diêm sinh, thuốc súng trộn với nhựa thông để dẫn hỏa đốt doanh trại, quân nhu của địch - sử dụng trên bộ nên được đặt tên là hỏa hổ để tượng trưng cho một loại trên bờ, một loại dưới nước. Vả lại hỏa long, hỏa hổ chủ yếu dùng tre, nứa làm ống chứa thuốc mà tre trúc là một loại thảo mộc rất thông dụng ở phương nam nên việc quân Tây Sơn sử dụng các loại võ khí này cũng không phải là chuyện lạ. Có lẽ vì thế mà người thời đó đã truyền tụng là:
Hổ tự Tây Sơn xuất
Long tòng Đông Hải lai
(Hỏa hổ phát xuất từ rừng núi phía Tây,
Hỏa long nguồn gốc từ biển cả phía Đông)  [38]

Những loại võ khí đó không phải là một độc quyền hay bí mật quân sự mà bên kia không biết hay không chế tạo được. Có điều quân Tây Sơn vẫn nổi tiếng là phong phú về thuốc nổ và họ cũng mua được những loại thuốc súng của người Âu Châu nhạy hơn và cũng mạnh hơn của quân Thanh và vì thế quân Tây Sơn luôn luôn có uy thế áp đảo trong những trận đánh. Chiến đấu trong tư thế áp đảo bằng lực lượng cũng như về vũ khí vốn dĩ là một lối đánh mà vua Quang Trung thường sử dụng.
Do đó, chúng ta có cảm tưởng những nhà chép sử cố tình thu gọn một cuộc chiến cho thêm phần chớp nhoáng mà quên đi thực tế của thời đại. Những yếu tố về tổ chức quân đội, điều động, phối hợp hàng dọc, hàng ngang, kỹ thuật và vũ khí, hoàn cảnh xã hội... đã hoàn toàn mờ nhạt trong chiến dịch này. Ngay cả thời gian cũng lộn xộn, không minh bạch. Thực sự quân Thanh bị đánh ngang hông và chặn đường trong đêm tối, không cứu ứng được nhau, mất tinh thần nên đã thảm bại trong mùa xuân năm Kỷ dậu.

Theo những số liệu của nhà Thanh đưa ra một cách chính thức, số lính tử thương và bị bắt có đến gần một nửa ½ (khoảng 8.000 người trong số quân chính qui gần 2 vạn họ đưa ra). Ngoài ra một số dân phu được điều động đi theo làm hậu cần cũng bị giết, không rõ là bao nhiêu nhưng chắc phải rất lớn. Chiến thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu trở thành một chiến thắng thần kỳ vì những cánh kỳ binh của Nguyễn Huệ chẳng khác gì những con rồng theo đường sông tiến vào rồi lại lặng lẽ rút đi, trở về với biển cả.
Điều duy nhất người ta còn biết được là trong số tướng lãnh của vua Quang Trung tử trận có một người mang cấp bậc Đô Đốc. (*)

(*) Đô đốc Long tử trận ở trận Ngọc Hồi.

Kết luận
Thủy binh của Nguyễn Huệ gồm phần lớn là hải phỉ cũng khiến cho chúng ta lượng định lại một số trận chiến trên biển cả và sông ngòi. Thành phần đó mang nhiều đặc tính của những người sinh sống trên đại dương:
- Vì phải đối phó thường xuyên với sinh tử nên một mặt họ rất tàn ác nhưng lại cũng rất nghĩa khí. Không hiếm những trường hợp hải khấu bắt cóc trẻ em, thanh niên để đòi tiền chuộc hay làm bộ hạ rồi về sau nhận làm con nuôi (nghĩa tử) và giao cho những trọng trách chỉ huy. Chính vì thế họ chiến đấu rất anh dũng, tinh thần đồng đội cao.
- Quen với bị săn đuổi và lén lút, thuyền của họ phần lớn là thuyền nhỏ và nhẹ, chèo bằng tay cũng được mà chạy bằng buồm khi có gió cũng tốt. Thuyền hải phỉ thường nông lòng để có thể tiến vào những vùng biển nông mà không sợ bị mắc cạn.
Họ thường lặng lẽ tiến sát vào tàu lớn của địch, khi tới gần dùng thuốc nổ đánh gãy cột buồm, đốt hay đánh chìm tàu rồi xông lên tàn sát đối phương bằng đao kiếm và giáo mác. Ngoài việc cướp hàng hóa, họ cũng thường bắt thủy thủ trên tàu phải gia nhập hàng ngũ của họ để gia tăng nhân số.
- Hải phỉ cũng lắm mưu nhiều kế, hay giả dạng làm con buôn, quan quân, binh lính nhất là khi họ cướp phá trên sông rạch hay làng mạc. Nhiều lần họ chiếm được cả những khu vực đóng quân, lấy tiền bạc, thuốc nổ, súng ống... rồi bỏ đi mất. Những đe dọa đó khiến cho dân chúng vùng ven biển luôn luôn nghe ngóng, sợ sệt những người lạ mặt lảng vảng quanh vùng của họ.
- Nhiều khu vực gần biên giới đã biến thành những “chợ trời”, nơi mua bán trao đổi hàng hóa họ đánh cướp được với giá rẻ hơn, tạo thành những trung tâm thương mại sầm uất.
Hải phỉ thường chỉ giữ lại thực phẩm, nước uống, vũ khí và thuốc súng để sử dụng còn các đồ khác đem bán lại lấy tiền (hoặc giao nạp cho nhà Tây Sơn). Những khu vực này đến đời Gia Long thì bị quan quân Việt Nam dẹp bỏ.

Dưới nhãn quan chính trị, nhiều sử gia cận đại gán cho họ nhiều nghĩa cử và chí khí lớn nhưng thực tế, hải khấu tuy nhiều khi có những nguyên nhân đáng thương nhưng đây là một nghề sinh tử với sức mạnh chủ yếu là bạo lực và tàn nhẫn. Bạo lực và tàn nhẫn cũng chính là điểm mạnh của họ được Nguyễn Huệ khai thác để trở thành một yếu tố đóng góp vào những chiến công lừng lẫy ông tạo ra.
Murray cũng nhận xét là sự bộc phát một cách hết sức đáng kể của những đám giặc bể vào cuối thế kỷ thứ 18 không phải do vấn đề dân số hay thương mại mà chính là vì những yếu tố chính trị mới của Trung Hoa cũng như Việt Nam khiến cho hải khấu đã chuyển biến từ những đám giặc cướp “cắn trộm” (hit-or-miss, small-time operations) thành những đám hải phỉ “qui mô và chuyên nghiệp” (full-blown professional piracy) (39)

Cho đến cuối thế kỷ thứ 18, hải phỉ tại biển đông hùng cứ một vùng lãnh hải rộng lớn trong giấc một tranh bá đồ vương và bảo vệ một khu vực thương mại sống còn kéo dài từ Nhật Bản xuống tới tận eo biển Malacca. Thế nhưng sau khi Trịnh Thành Công từ trần, hải khấu không còn ai lãnh đạo nên tan vỡ thành nhiều nhóm nhỏ cho đến khi Nguyễn Huệ xuất hiện mới đủ uy tín và sức mạnh qui tụ họ. Chính vì thế khi nghiên cứu về sự thoát xác của những toán cướp biển lẻ tẻ sang thành những lực lượng có tổ chức, có chỉ huy chúng ta cũng thấy họ thay đổi không phải chỉ trong cơ cấu mà trong cả phương tiện và vũ khí trang bị (với rất nhiều súng ống mua hay cướp được của người Âu Châu) tạo thành một màn chắn cho triều đình. Vai trò của họ được nâng cao trong thời đại Tây Sơn. Đóng góp không nhỏ vào chiến công năm Kỷ dậu. Chính vì cái ân tri mụ đó mà 10 năm sau khi nhà Tây Sơn mất, đám hải khấu vẫn còn mưu toan đánh vào Phú Xuân để khôi phục lại vương quyền cho chủ cũ nhưng không thành công.

Trận chiến mùa Xuân năm Kỷ Dậu còn rất nhiều chi tiết cần khai thác nhất là sau khi chúng ta có thêm nhiều tài liệu đời Thanh từ văn khố Trung Hoa mà nay còn lưu giữ. Dưới nhãn quan chiến thuật, chiến lược mới người ta sẽ phải đặt lại nhiều vấn đề để giải thích giai đoạn lịch sử này cho sát với sự thực hơn. Chúng ta cũng sẽ minh họa lại được chân dung con người Nguyễn Huệ để làm nổi bật vai trò của ông thay vì chỉ miêu tả ông như một nhân vật thần kỳ.

Tài liệu tham khảo
[12] Robert J. Antony: sđ tr. 20
[13] To the petty pirates of Kwantung, Fukien, Chekiang, and Kiangsu, Nguyen Van Hue was the “Big Boss of Yueh-nan” (Yueh-nan ta-lao-pan) who sold their booty and gave them between 20 and 40 percent of the profits. The big pirate gangs also benefited from the Emperor’s rule, because he not only allowed them to anchor in the border area to gather recruits and steal food, but also let them use Vietnam as a “nest” to which they could retreat. These pirates accepted the Emperor as their master because under his authority they were able to reap great profits from the sea (Na Ngạn Thành: The collected memorials of Na-yen-ch’eng 1834, Đài Bắc 1974, trích lại theo Dian H. Murray: sđ. tr. 40-41)
[14] Ngụy Nguyên (Wei Yuan 1794-1857) là một học giả đời Thanh, tác giả Hải Quốc Đồ Chí, đề xuất chính sách dùng rợ để chế ngự rợ (dĩ di công di, sư di trưởng kỹ dĩ chế di và đề nghị cải cách binh bị bao gồm chiến thuyền, hỏa khí, luyện binh. thời nay những quan điểm đó không có gì xuất sắc nhưng vào thời đó là những sáng kiến táo bạo.
[15] Murray: tr. 41
[16] Ngụy Nguyên: Việt Thanh chiến sử (Hoàng Xuân Hãn dịch: La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II, Hà Nội, nxb Giáo Dục 1998) tr. 1350-1351
[17] Tuy nhiên chính sách đó cũng có bất lợi là nhà Tây Sơn không thiết lập được những quan hệ với các nước Tây Phương để kịp thời canh tân cho quân bằng với lực lượng của Nguyễn Ánh. Chỉ trong vòng 10 năm sau khi vua Quang Trung mất, nhà Tây Sơn đã bị diệt vong mà nguyên nhân chính yếu là kỹ thuật quân sự bị kém thế.
[18] Even after the Qianlong emperor recognized one of the Tâyson leaders as “king” of Vietnam in 1788, the latter continued to pursue a risky double-edged policy of sending tribute misisons to the Qing court in Beijing while simultaneously backing piratical raids along the China coast. Robert J. Antony: sđ tr. 39
[19] Vùng này đã bị người Pháp nhường cho Trung Hoa trong hòa ước Thiên Tân ngày 9 tháng 6 năm 1885
(…)
[33] Để làm cho quân Thanh tin rằng quân Tây Sơn sẽ theo đường thủy đánh ra, Ngô Văn Sở đã cho đóng rất nhiều tàu chiến và cố tình để lộ tin tức cho địch biết mà tài liệu của nhà Thanh còn ghi lại sau đây:
“Tuần dương bả tổng Quảng Đông là Hứa Viết Nghĩa cùng 40 tên lính đi trên biển bị gió thổi dạt xuống Nghệ An, được quan An Nam đưa về Lê thành (Thăng Long), do chú của Lê Duy Kỳ là Lê Duy Cẩn đứng ra cung cấp lương ăn, chia cả bọn Hứa Viết Nghĩa và 40 tên lính thành hai đội đưa trả về doanh trại cho Tôn Sĩ Nghị. Cứ theo lời bẩm của Hứa Viết Nghĩa thì viên Đại Tư Mã và thủy binh Đô Đốc tại Lê thành ngày ngày thao diễn thủy quân, lại đóng nhiều thuyền lớn trên sông Phú Lương, thuyền nào hai bên cũng có rất nhiều mái chèo, trong thuyền có để súng lớn, các viên đạn sắt mỗi viên ước chừng 2, 3 mươi cân...” (Trang Cát Phát: sđ tr. 364)
Tuy nhiên thuyền lớn chỉ là nghi binh trong khi sau này vua Quang Trung lại cho hải phỉ dùng thuyền nhỏ từ vịnh Bái Tử Long tiến vào theo đêm tối đánh tập hậu dùng hỏa công đốt doanh trại địch.
[34] Bức hình của loại “bom” này có trong A Journey Into China’s Antiquity (V. 4) của National Museum of Chinese History (Beijing: Morning Glory Publishers 1997) tr. 165 dưới nhan đề 159. Military “national surname bottle”, Qing Dynasty
[35] Dian Murray: sđ. tr. 97
[36] Jeremy Black: War, Past, Present & Future (New York: St Martin’s Press 2000)
[37] China Science and Technology Palace Preparatory Committee and the Ontario Science Centre: China, 7000 Years of Discovery (1982) tr. 11
[38] Hai câu này ông Lê Nguyễn Lưu giải thích là : Nguyễn Huệ là một hổ tướng từ ấp Tây Sơn ra Bắc, còn Nguyễn Hữu Chỉnh như con rồng từ Thăng Long vượt biển vào Nam (Văn Khắc Thời Tây Sơn ở Huế: Phú Xuân Thuận Hóa thời Tây Sơn, Kỷ Yếu Hội Thảo Khoa Học, Huế 12/2001)

***

Trích đọan kết luận của “Vai trò của hải phỉ trong chiến thắng Kỷ Dậu”   
“…Trận năm Kỷ Dậu còn rất nhiều chi tiết cần khai thác (…) người ta sẽ phải đặt lại nhiều vấn đề để giải thích giai đoạn lịch sử này cho sát với sự thực hơn. Chúng ta cũng sẽ minh họa lại được (…) thay vì chỉ miêu tả ông như một nhân vật thần kỳ…”.

Từ “nhiều chi tiết cần khai thác” và “thần kỳ” của chuyện cái võng hai người cáng một người trong Hòang Lê nhất thống chị, (và Lê triều dã sử) mụ chữ tôi bung bét ra bài khảo luận…“cho sát với sự thực hơn” một cách rất ư…“thần kỳ” với cái tên dân dã:
Chuyện cái điếu cầy
    


     

Chuyện cái điếu cầy

Đầu trỏ xuống cuống trỏ lên gia tộc điếu tôi được các cụ kể lại khởi nguyên từ thời quan Nội Hầu Phạm Ngũ Lão. Phạm “lão” tướng quân cầm quân “qua” chinh phạt một mảnh đất khỉ ho cò gáy không biết gọi tên Nôm là gì. Nên được vua Trần Anh Tôn thưởng công lấy tên tướng quân đặt tên cho xứ ấy là…Lão Qua (Ai Lao). Quân sĩ xa nhà, đêm khuya lạnh lẽo nên hút thuốc của người bản địa cho ấm, để giải khuây nỗi sầu viền xứ. Từ tên Ai Lao được dân gian kêu là nước Lào để có thuốc lào. Vì sơn lam chướng khí nên bị bệnh hàn, họ xem thứ lá trên như…”thuốc” đắng dã tật nên mới có cái tên…hay hay ấy. Hay đâu chưa thấy chỉ thấy…một thằng hút bốn thằng say:
Một thằng hút bốn thằng say
Hai thằng châm điếu ngã lăn quay
Ngọc hoàng thấy vậy hay hay
Vén mây nhìn xuống cũng say thuốc lào.

Dòng họ điếu tôi có mặt trong cõi nhân gian vào khỏang thời gian này. Vì it lâu sau Phạm tướng quân kết duyên với con gái nuôi của đức Trần Hưng Đạo sinh ra công nương Tĩnh Huệ, sau gá nghĩa với ông đồ Vũ Quỳnh, người Hải Dương. Cụ bà tằng tổ điếu tôi (cái điếu bát), tức công nương Tĩnh Huệ về làm dâu họ nhà họ Vũ từ ngày ấy. Và sinh ra cụ cố điếu tôi. Cụ cố điếu tôi hầu hạ điếu đóm ở nhà ông đồ họ Vũ từ lúc ông còn để chỏm. Sau này con đường khoa cử và gia cang ông đồ Vũ càng ngày càng đi xuống. Ông đồ trúng tuyển tam trường được gọi là sinh đồ, tính thi hội để được gọi là hương cống. Nhưng ông không có cái duyên với cái nghiệp bút nghiên, nên rôt cuộc vẫn là ông đồ bát nháo. Nên ông sinh bất đắc chí không thiết gì tiến vi quan đạt vi sư, ông cũng chẳng chịu an phận thủ thường với nghề dậy học, và cũng chẳng màng đến mài mực kiếm gạo, ông cứ nằm co với mo cơm tấm ấm ổ rơm là đủ.
Đến tuổi tứ thập nhi bất hoặc, tưởng ông không còn gì huyễn hoặc nữa, bỗng dưng ông lừng lững phong kiếm quy điền, đóng cửa tạ khách. Nhân một hôm, cụ cố điếu tôi theo ông đồ qua làng gần đấy để điếu đóm cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Gặp lúc cụ Trạng nói bâng quơ với người khách mới bước vào: Chép miệng đánh tan quân kiến gió – Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi. Cụ cố điếu tôi nhòm kỹ, hóa ra đó là Nguyễn Kim, nho phong sĩ khí, dáng dấp an nhiên, ở trấn Kinh Bắc ai cũng biết tiếng.
Về nhà, cụ cố điếu tôi mạo muội luận về thời thế tạo anh hùng với ông đồ rằng: Sao không theo Nguyễn Kim đang chiêu hiền đãi sĩ, mộ quân đánh nhà Mạc, hiện lẩn quẩn ở bên Lão Qua mà tìm kiếm con cháu nhà Lê về phò làm vua. Kẻ sĩ bách vi, một công đôi việc, mang ít cây thuốc của người Lào về để con cháu lập cơ ngơi canh tác. Nhất cử lưỡng tiện xin vua Lê khai khẩn vùng đất Cổ Am của nhà Mạc vì chiến sự nên đã bị bỏ hoang từ lâu. Với thiên thời địa lợi đại cuộc cũng xong, thế là cụ cố tôi lại tay xách nách mang theo dòng họ Vũ lập nghiệp ở vùng Cổ Am, dựng đất Tiên Lãng, Vĩnh Bảo với nghề trồng thuốc lào.

Nghiệp tổ của điếu tôi khởi đi từ đời Lê là thế đó, vua Lê Thánh Tông ban thưởng cho dòng họ Vũ qua bài vịnh Cái điếu bát với Động sóng tuôn mây khi chán miệng – Nghiêng trời lệch đất thuở buông tay. Đến đời Nguyễn cũng thế gia vọng tộc như ai , điếu tôi được vua Tự Đức phong tước hầu: “Thủy hỏa hầu”.

***
Còn cái điếu cày thì chuyện như thế này đây:
Từ năm Canh Tý niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 3 đời vua Lê Thần Tông nhằm niên hiệu Thuận Trị thứ 16. Dân gian ta bắt đầu trồng cây thuốc lào, đàn bà con gái tranh nhau hút thuốc lào, đến nỗi có câu: Ba ngày có thể không ăn - Hút thì không thể cấm ngăn một giờ.  Năm Ất Tỵ niên hiệu Cảnh Trị thứ 3 đời vua Lê Huyền Tông, triều đình đã hai lần xuống lịnh chỉ nghiêm cấm, lùng bắt những người trồng thuốc, bán thuốc, và lén hút thuốc ở trên núi, nhưng không dứt tuyệt được vì họ ẩn nấp tận trong hang động.
Túng thì phải tính, thế là dân gian ta khoét cột tre làm ống điếu tức điếu cày tôi và chôn điếu sành xuống đất. Lâu dần lịnh cấm bãi bỏ. Sau thì việc hút thuốc lào đã thành thói thông thường. Ấy là sử liệt truyện của điếu cày tôi theo sách vở tam sao thất bản từ ông Trương Vĩnh Ký nên các cụ ta mới có câu tận tín thư bất như vô thư.  Vì với gia phả trích ngang của dòng họ điếu tôi, mò mẫm chui vào gốc tre làng cùng chữ nghĩa dân gian để có những nơi chiếu cói, võng đay, điếu sàng, xe điếu chàng say là đà, Nói xa chẳng qua nói gần, chuyện họ hàng hang hốc điếu tôi trước sau ở… "cái võng” (*) mà ra.

(*) Tuy nhiên trước đó “Chuyện cái điếu cầy” gợi yên sĩ phi lý thuần cho mụ chữ tôi từ chuyện bên ta thì có bên Tàu thi không mà cụ Cao Bá Quát trong bài thơ “Tức sự” vì chữ Tàu không biết gọi nó là gì nên cụ gọi nó là…“thằng sàng” là…cái võng..
Nhãn khan cao điểu độc phàn lung
Tự ỷ “thằng sàng” bất ngữ trung
(nguồn: Võ Phiến)

***
Bằng vào tình cờ, vua Quang Trung kéo quân ra Bắc Hà lần thứ ba đánh đuổi quân Thanh. Ngài hành quân thần tốc, cứ ba người thay phiên nhau cáng võng, thổi cơm bằng với cái đòn tre bánh tẻ. Tre bánh tẻ chỉ chung một lọai tre thân to, ruột rỗng, không già cứng, không non mềm. Nhìn thấy cái đòn võng, có chú hỏa đầu quân trong xuất lính nghĩ đến thay cái điếu bát bằng cái điếu tre. Sau này người nhà nông thấy tiện lợi, mang theo trong công việc đồng áng, nên điếu tôi một đầu được vạt nhọn cắm xuống bờ đất. Sau khi bác lực điền cày bừa đến lúc nghỉ ngơi, ngồi dựa gốc cây, kéo điếu tôi lên châm lửa, đốt thuốc, làm một cữ, rít một hơi long sòng sọc và nhả khói…        
Cày bừa rồi rít một hơi. Nên bác lực điền gọi là cái điếu cày.
Điếu tôi trộm nghĩ là cũng là cày bừa! Sao không gọi… bừa đi là cái điếu bừa?
Trở lại với chú hỏa đầu quân chọn khúc tre bánh tẻ to bằng cổ tay và dài bằng khuỷu tay đến ngón tay trỏ. Chú cắt ống tre ngay ở đầu có đốt kín mít để đựng nước. Ngang ống tre khỏang nửa bàn tay từ đốt tre, chú khóet một cái lỗ gắn cái nõ như cái phễu. Phễu tỏe ngang như hình cái guốc, gọi là… guốc điếu. Khi hút, khói thuốc đi qua cử ải này, kêu ròn hay không ở chỗ khéo tay gọt cắt cái nõ hay guốc điếu vừa kể trên.
Như có giao hòa của trời đất, lính cứ hai người cáng, người còn lại mồi lửa lúi húi nấu cơm bằng con cúi rơm. Đó là thân cây lúa khi đã gặt đập hết thóc và tết lại như búi tóc, to bằng bắp tay dùng làm mồi giữ lửa, lửa âm ỉ cháy, khi cần thì thổi phù phù vào mồi giữ lửa và lửa sẽ bốc lên để…hút thuốc.
Từ đó điếu cày tôi gắn liền với củi lửa là…con cúi rơm.
Người Bắc vào Nam theo phong trào mộ phu đồn điền cao su, lúc ấy diêm, quẹt còn hiếm. Không lẽ mang con cúi rơm ở quê nhà đi theo, nên họ quơ nắm bùi nhùi, hai hòn “đá kỳ”, cần tắm táp thì kỳ cọ. Cần hút thuốc cà hai hòn đá vào nhau cọc cạch cho…tóe khói, tóe lửa vào nắm bùi nhùi. Vì thế đầu thế kỷ 20 người Nam gọi người nước Bắc Kỳ ta với cái tên…cọc cạch lửa…”

***
Thế là bài sưu khảo, sưu tầm cái điếu cầy chui vào mạng lưới và lang thang như thần hoàng làng khó đi về đâu chả biết nữa. Khươm mươi niên sau, mụ chữ tôi ngồi thì lì trước máy vi tính thì đập chát vào mặt bài viết của nhà biên khảo ở Hà Nội. Lạ một nhẽ ông không viết về điếu bát, điêu cầy mà là…cái điếu ông. Rất ngay tình, cái giống giuộc này mụ chữ tôi chưa một lần mục sở thị. Bèn lòi mắt ếch đọc mới thông hanh, thông điếu…”cái điếu ống” có cái xe điếu bằng trúc cong vòng (xe điếu của điếu bát bằng trúc thẳng) để cho các quan đi tuần du, ngồi võng…thở ra khói.
Ngốn nửa chừng, mụ chữ chững người vì bài biên khảo có những sưu khảo, sưu tầm thâm căn cố đế như: “bất ngờ Nội Hầu Phạm Ngũ Lão tướng quân qua Ai Lao nên ta mới có…cái điếu bát. Hay “tình cờ, vua Quang Trung kéo quân ra Bắc Hà lần thứ ba đánh quân Thanh nên mới có…cái điếu cầy này kia kia nọ.
Và ôi thôi chẳng thể thiếu sử kiện từ Trần Anh Tôn, Trần Hưng Đạ tới Nguyễn Kim, nhà Mạc, và cuối cùng là Tự Đức phong tước hầu cho cái điếu bát…Thủy hỏa hầu.
Giời ạ! Những “sử phẩm” đắt này của nhà biên khảo nọ do mụ sử tôi “bịa tạc”.

Qua chuyện cái điếu cầy, mu chữ tôi chợt nhớ khi còn sinh tiền, nhà văn Mai Thảo dặn dò người viết mới Trần Vũ hãy trân trọng chữ nghĩa…Trần Vũ thổ lộ với nhà biên khảo Thụy Khuê: “Những khi nghĩ đến ông, tôi lại nhớ đến lời dặn này. Hôm qua, bây giờ, tôi vẫn giữ tròn lời hứa với trưởng thượng của mình”.
Từ đấy, mụ chữ tôi cạch đến già, chả dám nghịch ngợm với chữ nghĩa nữa.

__________________

Phụ đính



Quân Thanh trong trận Kỷ Dậu

(trích lục từ nhiều nguồn khác nhau)

Qua bài “Tổng số quân Thanh trong trận Kỷ Dậu” trong Thanh-Việt chiến dịch của Nguyễn Duy Chính trang 92 dưới đây không dề gì cân đong…đếm. Vì vậy mụ sử tôi…”đếm” quân Thanh qua Wilipedia. Bởi quá nhiều sử gia, học giả, nhà biên khảo xô lấn, chen chân vào Wilipedia nên chuyện trở thành rối rắm với nguồn này nguồn kia để người đọc rối ren thêm với những con số đối chọi nhau nên chả biêt đâu mà lần.
Nhưng mụ sử tôi vẫn “tồn nghi” trong cái tâm thái có còn hơn không!
      
***
Số là sử sách của Việt Nam như Việt Sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục, Lê Quý kỷ sự, Tây Sơn thuật lược... không ghi chép rõ số quân Thanh.
Hoàng Lê nhất thống chí có chép lại "Tám điều quân luật" và "Bài hịch" của Tôn Sĩ Nghị. Trong "Bài hịch", Tôn Sĩ Nghị tuyên bố số quân Thanh có 50 vạn. Theo "Tám điều quân luật" thì "mỗi người lính được cấp một tên phu" (điều 8). Vậy số quân Thanh 50 vạn thì số phu cũng 50 vạn và toàn bộ lên đến 1 triệu người.
Hầu hết các nhà sử học đều cho con số đó có tính chất khoa trương lực lượng. Nhưng nó cũng cho ta biết rằng 1 người lính chính quy có 1 người phu đi theo.
Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện sơ tập (Q.30) và Nguyễn Thị Tây Sơn Ký chép số quân là 20 vạn, nhưng không xác định con số đó có bao gồm lực lượng thổ binh, nghĩa dũng và dân phu hay không.
Tỷ lệ giữa binh lính và dân phu trong các tài liệu cũng không thống nhất. Điều 8 trong "Quân luật" của Tôn Sĩ Nghị quy định 1 lính được cấp 1 phu, trong lúc "Lê Sử Toản Yếu" và "Minh Đô Sử" của Việt Nam lại chép 1 chiến binh có 3 dân binh phục vụ.

Bài Hàng binh chiếu của Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết, là tài liệu được công bố ngay sau chiến thắng Kỷ Dậu. Bài chiếu có đoạn ghi chép:
“Việc Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị nhà các ngươi sức hèn tài mọn, không biết tự lượng, đem hai mươi chín vạn quân sang cửa quan, vượt suối trèo non, vô cớ xông vào chỗ hiểm nguy để gây binh hấn, khiến cho các ngươi, một lũ dân đen vô tội phải nằm sương gối tuyết và chết ở hòn đạn mũi tên. Đó là tội của Tổng đốc nhà các ngươi.”
Qua bài chiếu, tổng số quân Thanh là 29 vạn. Theo ý kiến một nhà nghiên cứu Việt Nam là Nguyễn Phan Quang, bài Chiếu phát phối hàng binh nội địa của Quang Trung là một văn bản chính thức, đương thời, đáng tin cậy. Theo ý kiến của Giáo sư Trần Gia Phụng thì 29 vạn quân tuy do Ngô Thời Nhậm là người trong cuộc viết nhưng đây là một văn thư có tính tuyên truyền nên cũng chưa hẳn sát với thực tế.
Sĩ Nghị, có viết rằng họ Tôn: “điều động năm mươi vạn quân thẳng tới La thành [Thăng Long]. 500.000 quân. Con số nầy lớn quá, do người Thanh tuyên truyền kể thêm, để binh sĩ hăng hái ra đi.
Tuy nhiên, con số…“điên người” nhất là tổng số quân Thanh chỉ vỏn vẹn có 6.000 (sáu nghìn) người. Nguồn từ giáo sư Tưởng Quân Chương, một chuyên gia người Đài Loan về Việt Nam, tại Đại học Văn khoa Sài Gòn. (xem trang 261)

Phương Tây
Một nguồn qua thư từ của một số người nước ngoài sống ở vùng Thăng Long trước thời gian xảy ra trận chiến. (số thư từ này nằm trong tập nhật Ký của hội truyền giáo Bắc Kỳ). Một bức thư gửi từ Thăng Long đề ngày 25/10/1788 về một "tin đồn" có 30 vạn quân Thanh sắp kéo sang cứu viện cho Lê Chiêu Thống.
Một số thương nhân, giáo sĩ phương Tây đến Đại Việt vào khoảng cuối thế kỷ 18 có ghi lại trong hồi ký và thư từ, một ít tư liệu về chiến thắng Kỷ Dậu 1789.
Một thương nhân Anh là J. Barrow, ông này đến Đại Việt năm 1792, ba năm sau chiến tranh. Trong hồi ký của mình, ông viết rằng số quân Thanh là 100,000 người. (Theo Phan Huy Lê, Tìm về cội nguồn tập 1, Hà Nội, Nxb. Thế Giới, 1999, tr. 674. Phan Huy Lê theo sách của J. Barrow, A Voyage to Cochinchina in the year 1792)
Một tài liệu với nhiều chi tiết khác trong hồi ký của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère (1764-1830) đến Đàng Ngoài khoảng năm 1790, viết trong hồi ký xuất bản ở Paris năm 1812 rằng quân Thanh sang Đại Việt khoảng 40.000 người và bị giết tại trận khoảng 20.000 người  Theo Phan Huy Lê, Tìm về cội nguồn tập 1, Hà Nội, Nxb. Thế Giới, 1999, tr. 674. Phan Huy Lê theo sách État actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des autres royaumes de Cambodge, Laos et Lac Tho par M. De la Bissachère, Paris, 1872, tt. 169-170.) Giáo sĩ De la Bissachère ở lại Đàng Ngoài cho đến năm 1798, nên có thể ông thu thập được nhiều nguồn tin và lượng định con số quân Thanh sang nước Việt. (Tiểu sử của giáo sĩ De la Bissachère theo http:/archivesmep.mepasie.org/)
Do ông De la Bissachère tới Đàng Ngoài năm 1790-chỉ 1 năm sau trận chiến và ở lại đến năm 1798 nên Giáo sư Trần Gia Phụng cho rằng "có thể ông (de la Bissachère) thu thập được nhiều nguồn tin và lượng định con số quân Thanh sang nước Việt"
Nhật ký của Hội Truyền giáo Bắc Kỳ về những sự kiện ở trong địa phận Giáo hội Bắc Kỳ từ tháng 10-1788 đến tháng 7-1789. Tài liệu nầy gồm hai phần:
Thứ nhất, khi quân Thanh chưa đến, vào ngày 21-10-1788, có lời đồn rằng nhà Thanh gởi 300.000 quân thủy bộ sang giúp Lê Chiêu Thống.
Thứ hai, Tôn Sĩ Nghị làm lễ phong vương cho Lê Chiêu Thống (19-12-1788), tức lúc đó quân Thanh đã vào đất Việt, tài liệu nầy cho biết số quân Thanh là 280.000 người (28 vạn), một nửa đóng trong thành phố, một nửa đóng ở bên kia sông. (Nhật ký của Giáo hội Thiên chúa giáo Bắc kỳ về những sự kiện đáng ghi nhớ xảy ra trong địa phận giáo hội từ tháng 10-1788 đến tháng 7-1789, do Đặng Phương Nghi dịch, tập san Sử Điạ số 9-10, Sài Gòn, 1968, trong bài “Vài tài liệu mới lạ về những cuộc Bắc tiến của Nguyễn Huệ”, tr. 213, 216)
Theo nhận định của Giáo sư Trần Gia Phụng:
“Nếu một nửa đóng trong thành phố, nghĩa là có 14 vạn quân Thanh trong thành Thăng Long, thì thành Thăng Long lúc đó có đủ sức chứa, chỗ ở và nuôi ăn hàng ngày cho quân Thanh không? Ngoài ra, theo tài liệu Trung Hoa, quân Thanh mất hết một nửa khi trở về nước, vậy mất hết khoảng 14 vạn (so với 28 vạn khi ra đi), vừa chết vừa mất tích, thì con số nầy có thích hợp trong một cuộc chiến bằng vũ khí chưa tối tân? Tuy nhiên con số 28 vạn của tài liệu nầy gần với con số 29 vạn mà Ngô Thời Nhậm đã viết trong "Tờ chiếu phát phối hàng binh người nội địa"
Theo nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường:
“Còn về số ước tính của giáo sĩ, ta nghĩ rằng họ thấy thanh thế quân Thanh to quá so với cá nhân con người thời loạn trốn chui trốn nhủi như họ và người đương thời, nên đã phóng đại ra”

Trung Hoa
Đại Thanh Thực Lục, bộ sử chính thức của nhà Thanh, ghi chép đầy đủ những lệnh dụ của vua Thanh cho biết quân Thanh được lệnh sang đánh Đại Việt là gần 30.000 quân chính quy (quân chủ lực tinh nhuệ điều động ở bốn tỉnh phía nam), 6.000 quân địa phương và ít nhất là 10 vạn dân binh phục vụ vận tải ở trong đó:
Cánh quân Lưỡng Quảng do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp thống lãnh. Cánh quân này gồm 8.000 quân chính quy tỉnh Quảng Ðông, 13.500 quân chính quy tỉnh Quảng Tây. Tổng cộng có 21.500 quân chính quy (ban đầu có 15.000, sau tăng viện thêm 6.500), ngoài ra còn có 1.500 phu chăn ngựa và 751 con ngựa.
Cánh quân Vân Quý do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy có 8.000 quân chính quy, ngoài ra còn có 2.000 con ngựa và 2000 con bò để chở lương thực.
Có khoảng 6.000 quân địa phương đi theo 2 cánh quân trên, nhưng không rõ mỗi cánh quân có bao nhiêu quân địa phương.
Cánh quân Vân Quý có 2 vạn dân binh phục vụ vận tải. Không rõ số dân binh phục vụ cánh quân Lưỡng Quảng, nhưng riêng đội quân Quảng Tây thuộc cánh quân này đã có 54.000 dân binh đi theo phục vụ (theo tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh thì số dân binh phục vụ cho cánh quân Lưỡng Quảng là hơn 10 vạn).      
Theo tính toán của Giáo sư Trần Gia Phụng thì theo chính sử nhà Thanh, hai cánh quân của Tôn Sĩ Nghị và Ô Đại Kinh khi cộng lại có khoảng 2 vạn quân chính quy (chưa kể gần viện binh bổ sung thêm sau đó), thêm đoàn quân tiếp liệu của Tôn Vĩ Thanh không dưới 10.000 người nên khi cộng lại đã được 40.000 quân chính quy. Mỗi quân chính quy lại được quyền đem theo ít nhất một người phu (điều thứ 8 của quân luật Tôn Sĩ Nghị) thì số người Thanh qua Đại Việt tối thiểu là 80.000. Đây là con số tối thiểu, mà thực tế theo ông, phải cao hơn nữa do các tướng lãnh và sĩ quan Thanh chắc chắn phải đem theo nhiều hơn một người phu. Trong khi Đại Việt dân đông hơn rất nhiều nên con số 1-2 vạn quân là quá ít.
Tài liệu này khá khớp với tài liệu của giáo sĩ Pierre-Jacques Lemonnier de la Bissachère khi ông cũng ghi lại rằng quân chính quy của nhà Thanh sang Việt Nam năm đó có tối thiểu (đã bị chính sử Trung Hoa ghi chép giảm bớt) 40.000 người. Giáo sư Phụng tin rằng con số quân Thanh có thể còn cao hơn nữa chút ít, tuy nhiên có thể tạm tin được con số 40.000 quân chính quy (chưa kể dân binh)
Trong sách Thánh vũ ký, Ngụy Nguyên (Wei Yuan, 1794-1857), một sử gia Trung Hoa, chép rằng “Số quân Thanh là 18.000, trong đó đạo quân Lưỡng Quảng là 10.000 (chưa kể số viện binh sau này) và đạo quân Vân Quý là 8.000”. (Hoàng Xuân Hãn dịch bài “Càn Long chinh vũ An Nam ký” nghĩa là “Bài ghi việc đánh dẹp An Nam đời Càn Long”, trong sách Thánh vũ ký, đăng trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 1998, tr. 1342.)
Nhưng Ngụy Nguyên cho biết thêm: "bấy giờ các thổ binh, nghĩa dũng đi theo, tiếng đồn đại binh có vài chục vạn". Như vậy, số quân chủ lực có khoảng 18.000 (chưa kể 11.500 viện binh bổ sung sau đó), chưa tính số "nghĩa binh", "nghĩa dũng" và dân phu vận chuyển có mấy chục vạn người. Ngụy Nguyễn cũng nói, đây chỉ là "tiếng đồn".
Theo các nhà nghiên cứu Tạ Trí Đại Trường, Phan Huy Lê, Hồ Bạch Thảo và Trần Gia Phụng, sử sách nhà Thanh hạ thấp số quân viễn chinh để giảm bớt sự thất bại trầm trọng của triều Thanh. Các sử gia Trung Hoa đó không ghi chép đầy đủ các lực lượng của toàn bộ quân viễn chinh, nhưng chính những đoạn ghi chép của sử sách nhà Thanh, nhất là bộ Đại Thanh Thực Lục, lại bộc lộ nhiều mâu thuẫn: Số quân vài vạn mà Đại Thanh Thực Lục ghi không tính đến "thổ binh", "nghĩa dũng" và dân phu. Hơn nữa, với đạo quân vài vạn thì triều đình nhà Thanh chỉ cử tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị làm thống soái và dưới trướng gồm một loạt võ quan cao cấp như: Đề đốc Phó tướng Hứa Thế Hanh, Đề đốc Ô Đại Kinh, Phó tướng Khánh Thành, Phó tướng Hình Đôn Hạnh; các tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Lý Hóa Long cùng nhiều Tham tướng, Tri phủ, Tri huyện, v.v... Nếu chỉ điều một vài vạn quân, Càn Long không phải quan tâm tới mức vài ngày lại ra một chỉ dụ.
Theo tác giả Nguyễn Duy Chính thì sổ trả lương và kế toán của nhà Thanh ghi rằng ở phía Đông (vùng Bắc Việt Nam) họ có 10.000 quân, phía Tây có 8.000 và cộng thêm số viện binh theo những nguồn tài liệu khác, cũng không quá 30.000 quân chính quy. Và cũng trong phân tích này, tác giả trích dẫn sử gia Ba Lan tên là Wieslaw Olszewski ghi quân Thanh có 200.000 quân (không ghi rõ là loại quân gì) sang nước Việt nhưng không rõ số đánh nhau với Tây Sơn là bao nhiêu.
Trong bài viết in trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Nguyễn Duy Chính dẫn lại những tổng kết của Lại Phúc Thuận, một học giả đã dày công dựa vào các tài liệu của Thanh triều như Thanh Cao Tông Thuần Hoàng Đế thực lục, Khâm định An Nam kỷ lược, Thanh sử cảo, Đông Hoa tục lục và các sổ sách của Bộ Hộ, Bộ Hình v.v. để biên soạn thành Càn Long Trọng Yếu Chiến tranh chi Quân Nhu Nghiên cứu (乾隆重), xác định quân Thanh bao gồm quân chính quy và quân phụ trợ. Quân chính quy ở cánh Lưỡng Quảng có 21.500 người (Quảng Tây đợt một 10.000, đợt hai 3.500; Quảng Đông đợt đầu 5.000, đợt sau 3.000), bố trí 4.000 quân đóng ở các quan ải dọc biên, 5.000 quân không theo đại quân mà chia ba toán (2.000 phòng thủ Lạng Sơn, 1.300 canh giữ 17 kho lương dọc đường Lạng Sơn-Thăng Long, 1.700 canh phòng các nơi hiểm yếu), chỉ có 12.500 người ở cánh này theo Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh xuống Thăng Long. Số quân phụ trợ (gồm thổ binh phối hợp, mã phu, dân phu) ước vài chục vạn người.
(nguồn: Wikipedia)

(còn tiếp)

Trích "Chuyện người ngoại sử" - Tác giả: Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

 

Đăng ngày 26 tháng 05.2020