Print

Túy Kiều Phú

Một phó sản Kiều lưu hành mạnh mẽ trong Nam từ đầu thế kỷ 20

Gs Nguyễn Văn Sâm

tuy kieu phu tuy kieu phu

Ở miền Nam, một trong những phó phẩm của ĐTTT nổi tiếng và lưu hành rộng rãi suốt thế kỷ 20 là bài Túy Kiều Phú. Khi viết bài nầy tôi nghĩ là mình nên để nguyên cách phát âm chữ Thúy của Túy Kiều Phú theo người xưa trong Nam. Chuyện nầy đã có tiền lệ: Kim Túy Tình Từ của ông Phạm Kim Chi (Sg, 1917). Mặc dầu trong phần chữ Nôm trên bìa sách viết là Kim Kiều Tình Từ 金翹情 詞!
Về bản văn Túy Kiều Phú, lần theo hai (2) tư liệu có trong tay, chúng tôi tạm vạch ra con đường hình thành những văn bản trước sau để đi đến một văn bản coi như hữu lý, đáng tin:

Chữ viên ngoại trong nguyên tác Kim Vân Kiều: Có nhà viên ngoại họ Vương đã thành Vương ngoại ở các câu 1, 214, 267, 347, trường hợp nầy chúng tôi tự tiện sửa lại (mặc dầu khi in bản Nôm N1911 đính kèm với bản Quốc Ngữ tân tạo QN 2015 chữ Vương ngoại 王外 hay vài chữ thừa/thiếu ở các câu mà chúng tôi đã tự tiện bỏ đi/thêm vào vẫn còn nằm đó/hay không có.)
Ta đi đến lược đồ sau:
                                            -> N1911 - >
                          N1900                                  QN2015
                                            -> QN1920 - >

Nghĩa là bản quốc ngữ QN 2015 được thực hiện với mục đích đi gần với bản Nôm đầu tiên mà chúng ta có thể hình dung đuợc.

***

Trong quá trình thực hiện, thấy có những trường hợp sau:
Cả hai bản đều sai: c1: Trường hợp chữ Vương ngoại nói trên.
c1: Chữ Nàng cần phải thêm vào cho đủ 7 chữ và xuôi câu...
Bản Nôm sai, sót, ta theo bản Quốc ngữ:
c132: nỡ để lầm tay quá ngặt. bản N không có chữ mà.
c167: Mụ khoe rằng mụ có cháu nhà. bản N: con.
c193: Bởi nghe thiếp đêm khuyên ngày dỗ. bản N: mới.
c215: Từ nghe mấy lời nàng than dứt. bản N: khuyên
c227: Hồ nghe tiếng Kiều đàn ngành ngọn bản N khg có chữ tiếng.
c235: Gái quốc sắc như con sóng lượn. bản N: thiên quốc sắc.
c294: Bảng trời mở khôi khoa Nhâm Ngọ. bản N: Nhâm Tý.
c365: Vậy chẳng hay người ấy người nào. bản N: (không đọc được)
c 352: Thương thân người lưu lạc mấy lâu. bản N: không có chữ thương.
c422: Bán mình trả thảo cho thân là phải. bản N: không có chữ cho.
c433: Kim nghe qua hết nỗi ưu phiền. bản N: ưu sầu.
c438: đã huê tàn trăng khuyết, bản N: không có 3 câu nầy
c439: Thân ta vậy xin bày hơn thiệt. -//-
c440: Chẳng hổ han trần cấu hay sao -//-
..................

Bản Quốc ngữ sai, ta theo bản Nôm:
c59 : Bỗng dắt trâm nơi chốn vườn đào bản QB: rớt trâm
c66: Vuông khăn nầy nắm lại trao tay bản QN: gói lại
c220: Vững miếu đường cơ nghiệp vầy nên. bản QN: dựng miếu đường..
c254: Giữ lời dặn đạo cô Tam hợp. bản QN: Bói lời dặn..
c265: Trọng nghe qua phăng mối kiếm tìm. bản QN: phăng hỏi…
c273: Nghĩ từ cơn đòi đoạn xót xa. bản QN: không có.
c278: Trả duơn chị sơn minh hải thệ bản QN: lỡ nguyền..
c287: Biển dầu cạn lòng Kiều còn nhớ. bản QN: lời Kiều.
c387: Kim cựu nguyền nghĩa nọ ngày sau. bản QN: không có.
c394: Nghe lời vãi Kiều dừng bịn rịn. bản QN: đừng bịn rịn.
c396: Kiều cúi đầu tạ chốn dưỡng xưa. bản QN: chốn dưỡng thơ.
c401: Xe ngựa chạy rần rần chật đất. bản QN: không có chữ chạy.
c460: Biết no nao trả đặng ơn thầy. bản QN: Biết nọ nào…

Trong cả 3 trường hợp chúng tôi ghi lại sự lựa chọn mà không biện luận. Xin dành phần biện luận hay phê phán đúng sai cho độc giả. Đó cũng là cách tôn trọng người đọc và không muốn mở đường cho những tranh cải cũng như làm cho bài viết trở thành quá rườm rà.

***

Nhận xét về  chữ  Nôm trong bản N1900:

Chữ Nôm ở đây như tất cả các bản Nôm miền Nam có ba điều đặc trưng căn bản:

A. Viết theo âm Nam: ấu sinh (ấu xin), xúm xít (xúm xích), tiết thanh minh (tuyết thanh minh), dùng dằng (dùn dằn), khác (khát), dứt (dức), gia (da), khăn (khăng), dan ca (giang ca) , dừng cương (vừng cương), giục vó (dục), lươn lấm đầu (lương lấm đầu), bao quản (bao quảng), mắc phải (mắt phải), bởi tin (bởi tinh), Khuyển Ưng (Quyển Ưng), khiêng bỏ trước (khiên bỏ trước), giường bát bửu (dường bát bửu), toan hại (tan hại), thiền môn (thuyền môn), thỏa lòng (thả lòng), nay chẳng khác (nay chẳng khát), con sóng lượn (con sóng lượng), lòng đinh dạ sắt (dạ sắc)
B. Viết đúng âm không cần đúng nghĩa: tử vi hùng, nhứt trụ kình thiên, Dươn tưởng vậy.
C. Viết âm na ná: day mặt nhìn (diêu mặt nhìn), Lâm truy (Lâm tri), cho tường tin tức (tinh tức).
Có nhà ‘Kiều học’ viết đâu đó rằng không có cái gọi là chữ Nôm Nam, chỉ có chữ Nôm viết sai chuẩn mà thôi (có lẽ vì những đặc trưng trên). Tôi không muốn phản biện về sự sai/đúng, tôi chỉ nói rằng loại chữ Nôm nầy đã hiện hữu lâu dài và sâu rộng ở trong miền Nam kỳ lục tỉnh. Chữ viết và tiếng nói của người một vùng đất lớn -dầu bị gọi là sai -thì chính bản thân nó ít ra cũng tạo ra chữ viết và tiếng nói của vùng đó mà người vùng khác nếu không học tường tận thì không biết, không thưởng thức được hay có hiểu thì rất lờ mờ sai chạy. Văn học Miền Nam nước Pháp, văn học tiếng Pháp ở Canada hay các xứ cựu thuộc địa có bản sắc riêng của nó dầu cách biểu hiện không đúng chuẩn với tiếng Pháp nói chung. Cũng vậy với những tác giả viết tiếng Anh ở miền Nam nước Mỹ và các xứ nói tiếng Anh so với tiếng Anh chính quốc.

***

Giải thích tại sao Túy Kiều Phú hiện hữu tôi cho rằng khi lưu dân Miền Trung gồng gánh vô vùng đất mới lập nghiệp và trở thành người định cư Miền Nam thì chữ nghĩa họ mang theo không nhiều. Đời sống mới tuy có dễ dàng nhưng đầy bất trắc về địa lý và thường xuyên phải đối đầu với những xung đột- dầu nhẹ nhàng cách mấy vẫn có- về mặt quyền lợi khai thác đất đai và khác biệt văn hóa cùng cư dân địa phương cho nên khi giải trí họ chuộng những bài văn dễ đọc dễ hiểu, không quá dài hay cao kỳ bác học đầy văn hoa, điển tích với những thác ý và ngôn ngoại. Túy Kiều Phú hợp với những yêu cầu đơn giản, nguyên bản Kiều ở xứ mới nầy chỉ hợp với thiểu số trí thức mà thôi. Túy Kiều Phú ra đời vì lẽ đó, nó cũng không thiệt sự là một bài phú, phú có những qui luật chặt chẽ không phù hợp với dân Nam mới định cư và cho cả sau nầy. Phù hợp nhứt là bài thơ lục bát dài hay là thơ thất ngôn trường thiên. Hình thức nầy có thể kêu bằng từ vãn như Ai Tư Vãn của Ngọc Hân Công Chúa, như Ngọa Long Cương VãnTư Dung Vãn của Đào Duy Từ, như Thuật Tích Việc Nước Nam Vãn của Đặng Đức Tuấn .. . Nhưng từ vãn thì cũng khó hiểu, thôi thì kêu nó là phú cho dễcàng dễ hiểu hơn nếu đổi vãn thành giảng một điều mà khôgn ai chủ trương nhưng tự nhiên hình thành.
Vì sao Túy Kiều Phú được ưa thích tôi đã giải thích trong trường hợp Kim Vân Kiều Ca, nay xin trích lại:
“Giải thích sự kiện Kim Vân Kiều Ca và Thúy Kiều Phú được chào đón nồng nhiệt ở miền Nam tôi cho rằng những từ ngữ Nam Kỳ Lục Tỉnh đã gây cảm giác trong lòng người đọc tương tợ như tâm trạng bàng hoàng xúc động của đứa con đi xa lâu ngày nay trở lại làng quê, bồi hồi trước bụi tre đầu ngõ mà có lúc mình đã sợ ma, con đường đê gập ghềnh vẫn như xưa thấp thoáng những ngôi mộ ông bà làng nước, dòng nước nhỏ mình từng tắm bơi quậy nước khi chưa biết mắc cở, cái giếng làng tụ hội khi mới bắt đầu lớn… Tất cả hình ảnh trên nhờ những từ ngữ đặc thù kia mà các hoạt cảnh của quá khứ kéo trở về trong trí: nhà trò, một đò, mà tế Đạm Tiên, còn đương ngần ngại, ông già mắc nạn, trên quan dưới lại, dọc đàng, phối hợp cùng chàng, vơi tát, khát mặt thung huyên, phản trá, dắt díu nhau... không thể kể hết".
Riêng bài Túy Kiều Phú thì các chữ thuần Nam nêu rõ hơn sắc thái địa phương: xúm xít, tên đâu lạ bất tường hương sở, uổng cho nàng, nước mắt đầy nhỏ giọt dầm khăn, dùn dằn ở nán, đôi lứa nợ nần, bợ ngợ, ấu sinh, đứng nhìn lại, bóng liền xế vó câu nhẹ tếch, gái nhà trò, sông hẹn núi hò, buông lời dức chị rằng, hơi đâu khóc, khấn vái gọi là, hành lộ, tấm lòng đáo để, hổ ngươi, dùn thẳng, rảnh việc nhà, dan ca, chung tình lặng lẽ, lươn lấm đầu, tra cán, phăng mối, nhìn tứ cố, trở mặt, bợ ngợ, bốn phía dạ rân, khấp khởi, con Hoạn Thơ…
***

Túy Kiều Phú là một bản tóm lược danh tác ĐTTT, chỉ bằng 1/10 với 470 câu, có những điểm lý thú: đầy đủ sự kiện quan trọng trong nguyên bản được viết bằng lối văn dễ hiểu, thuần Nam. Một vài đoạn dài trong ĐTTT đã được rút ngắn tới tối đa hay loại bỏ luôn, trong khi đó có đoạn lại dài hơi so với toàn bản, nhứt là đoạn chót từ khi Từ Hải dấy binh tới lúc Kim-Kiều xum hợp. Âu cũng là ý muốn của tác giả. So sánh tỷ lệ tương đối giửa nguyên bản và đoạn tương ứng trong bài phú để rút ra kết luận tác giả thích đoạn nào trong ĐTTT và thử giải thích tại sao cũng là điều lý thú.
Trước khi kết thúc bài tưởng chừng cũng nên chép thêm vào đây một phó phẩm khác của Kiều ít người biết là bài Vọng Cổ Hoài Lang tựa là Trách Túy Kiều của soạn giả cải lương Mộng Trần Nguyễn Văn Là, người viết tuồng cho gánh cải lương Đồng Ích Ban, in trong tập tuồng cải lương Tang Đại Giả Gái, năm 1925, tại Sàigòn để thấy rõ hơn ảnh hưởng của Nguyễn Du qua ĐTTT ở Nam Kỳ.:
Trời Liêu xa cách bao nhiêu đó,
Sao chẳng tin nhắn cho Kim sinh,
Dầu không muốn cho rối tình.
Đề oanh chước kia cũng liệu mình.
Ai nỡ đi vong thệ.
Nén vàng Mã sinh nặng là dường bao?
Ành vùi hương dập phấn.
Cho bướm ong thừa ở đất Lâm-Tri.
Đêm đỗ cho căn mạng,
Quên phức lời khi giả từ đi.
Vài năm chờ cũng không lâu gì.
Kìa ai vội lỗi nghì,
Cái thân nàng kể chi.
Cám thương chàng mang khối tình si.
Danh phận đỉnh chung sá gì.
quyết từ đi tìm ai, nàng ôi!
Chốn sông Tiền,
May gặp vãi Giác Duyên.
Khi tái ngộ cũng ướm toan nuốt quyền,
Dạ bao đành như vậy hỡi nàng ôi!
Mộng Trần (TĐGG trang 50-51)

Nguyễn Văn Sâm
(Khởi thảo tháng 7/2015 tại Victorville, CA
Hoàn thành tháng 9/2015 tại Lausanne, tư gia của họa sĩ Lâm Bình Duy Nhiên, Thụy Sĩ).

 

Đăng ngày 29 tháng 12.2015