Sử lịch sang trang

Phí Ngọc Hùng

Canh khuya đèn tàn, tối qua sử quan thức suốt đêm, sáng nay ra đứng trước sân ngẫn ngẫn với ba cây trổ hoa kết quả, ngậm hương mang tuyết, mờ mờ sương phủ lùm cây xa xa, mặt mũi ông ủ dột như chiếc lá ướt gặp mưa. Bởi lẽ nhìn suông đất trời như thế này với việc đời biến cải, thời gian đổi dời, hạ qua thời thu tới, đông tàn ắt xuân sang, luật biến dịch tự nhiên là thế. Với ông, tất cả như vừa mới qua giấc mộng dài, nhưng chưa chín một nồi kê…
Chẳng là với giấc mộng đồ thư nửa gánh, gươm đàn một bao, ông mang cái hoài bão lấy sở học ra kinh bang tế thế… Vậy mà con đường hoạn lộ không ngoài tiến vi quan thoái vi sư. Ông chỉ là thái tử thiếu bảo tức thầy đồ bát nháo dậy dỗ con vua. Ấy vậy mà đến cái tuổi tứ thập nhi bất hoặc, tưởng ông không còn gì huyễn hoặc nữa! Thì nhờ ơn vua lộc nước, ông được tiến cử có chút hư danh trong triều, đó là tước vị sử quan. Nay ông đang ngồi ở Quốc sử quán rị mọ sao chép, thêm bớt bộ thông sử của những sử thần tiền nhiệm.
Sử quan sai trà đồng bày bàn trà trước hàng hiên, ông muốn được thảnh thơi đôi chút trước khi nhập triều. Ông đang vờn mây khuấy nước cùng chim kêu hoa nở, gió thoảng hương bay thì buổi sáng nhón nhén của sử quan bỗng chấm dứt đột ngột vì có tiếng reo hò từ phía cửa Thượng Tứ. Ông nghe rõ tiếng chân nhiều người rầm rập trên đường mỗi lúc một gần. Ông đứng lên trông cho rõ hơn. Qua mặt tường thành loáng thoáng một nhóm người cầm gậy gộc đuổi theo một con chó và hô hoán: “Chó dại! Đánh chết nó đi!”. Chó và người vụt khuất sau mảng lá rậm của rặng cây ngô đồng. Lát sau, đám đông tản mát ai về nhà nấy. Chuyện vặt ngoài kia chẳng đọng lại lâu trong tâm trí sử quan. Bởi lòng dạ ông đang rối như tơ vò vi bộ thông sử ông hiệu đính đây còn nhiều khuyết sử cần phải cẩn án, hiệu đính này kia, kia nọ.
Chiều tối về, gặp buổi mây chiều gió sớm với bữa yến thưởng trăng tại Vọng nguyệt lâu, trong khi chờ vua xem hát bội, các quan nói chuyện rôm rả về cái chết của con chó hồi hôm.
Hàn lâm viện học sĩ rôm rả: "Hình như là chó dại..."
Đông các điện đại học sĩ gật gù: "Chó dại đánh chết là phải"
Thượng thư bộ binh: "Đánh? Bọn lính giản bắn mấy phát tên mới giết được nó đấy"
Hàn lâm viện học sĩ: "Không có cung tên nào hè. Tại hạ thấy con chó bị đánh bằng gậy!"
Vừa lúc vãn tuồng, vua tới khai tiệc và vui vẻ báo tin: "Các khanh biết không? Sáng nay, ngự lâm quân của trẫm đã bắn chết con chó bằng súng điểu thương". Các quan đại thần nhất loạt đứng lên, cung kính bẩm tâu: "Lạy thánh mớ bái, thật không hổ danh ngự lâm quân".

***
Bước vào sử quán, sử quan bã bười vì với như thị ngã văn, bởi sự việc xảy ra trước mắt, ông còn chưa biết đâu là sự thật thì làm sao mà viết sử sách? Huống chi nhân vật lịch sử, sử tài cách ông cả trăm năm ông còn mù mờ biết nhường nào? Ấy là chưa kể sử kiện sẩy ra cả ngàn năm trước với tiền sử, cổ sử như gió thổi mây bay nàophanthanhgian ai có hay biết. Vì vậy những gì ông đang hiệu chỉnh trong bộ thông sử đây, với giác ngoại biệt truyền bất lập văn tự, nếu như có bậc thức giả nào đấy văn kiến xúc tích, sở kiến cao minh để ông kiến văn sở thị thì hay biết mấy. Ông chắc mẩm đêm nay ắt hẳn phải châm dầu đèn và quay lại dòm chừng đèn đóm…
Bất chợt ông ngước mắt nhìn lên bức truyền thần vẽ vị tiền bối của ông là cụ Phan Thanh Giản, cụ là Quốc sử viện giám tu ở đây, mà trước kia thời vua Minh Mạng được gọi Quốc sử quán. Vị đại thần này là người đã soạn thảo bộ Đại Nam hội điển, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Minh Mạng chính yếu.
Ảnh chụp cụ tại Ba-lê năm 1863 nhân cụ dẫn đầu sứ bộ đi Tây để xin chuộc đất. Cụ mặc áo đại triều mầu thiên thanh, đội mũ cánh chuồn, chân mang hia cánh phượng. Cụ trông thật cương nghị và quắc thước với bộ râu trắng, dường như đang nhìn ông muốn…dò hỏi chuyện gì làm ông đang rối trí đây.
Trong rối ren, ông bật ra ý đồ tránh giẫm lên những bước chân sói mòn của tiền nhân dựng sử theo kỷ truyện của Tư Mã Thiên với tiểu sử nhân vật. Hay như cụ Phan chẳng hạn với sử biên niên, sử liệu viết theo theo niên hiệu, niên đại mà Khổng Phu Tử là người tiên khởi. Hoặc sử cương mục của Chu Hy với tiểu đề ở đầu chương là đề mục rồi dàn trải dông dài hồi sau. Vì vậy ông chẳng rỗi hơi lặp lại toàn bộ thông sử vì ai cũng biết rồi, nhiều khi chỉ làm rối mù thêm. Những gì ông đang mọt sách ăn giấy đây, tất cả chỉ là những mảnh rời của những đoạn tạp bút, đúng ra chỉ là…phiếm sử. Trong mươi trang câu thiếu chữ thừa này, ông chỉ đề mục cảo văn một vài khúc ông chưa thông tuệ của triều Nguyễn mà ông đang là bề tôi. Rồi cứ thế mà ngược dòng lịch sử qua bến Văn Lâu thuyền ai thấp thoáng bên sông, đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non…Ông sẽ khoắng mái chèo dăm ba uẩn khúc vần còn ẩn dấu của khuyết sử nay vẫn còn tồn nghi. Hay nói khác đi, ông muốn đối thoại với lịch sử với những ngộ nhận.

***
Lấy bộ tứ bảo, chấm bút lông vào nghiên mực Tức mặc hầu của vua Tự Đức để lại. Nói cho ngay, ông đang cách rách như xẩm tìm gậy đi tìm một vài thâm cung bí sử mà hệ phả nhà Nguyễn không đề cập trong Nguyễn Phúc lộc thế phả nên được xếp vào khuyết truyện…
“…Một hôm trong cung khám phá ra cô hầu Cúc có thai. Đức thái hậu, chánh phi của vua Đồng Khánh nghi hoàng tử Bửu Đảo tằng tịu với con hầu, bèn cho đào một cái hố sâu, đổ nước, bắt cô Hòang Thị Cúc (1). đứng ở dưới đó, để cho lính tra khảo. Nhưng cô vẫn một mực không chịu khai, Bửu Đảo thấy vậy, thương hại nên nhận là “tác gỉa” của bào thai. Vua băng hà, Bửu Đảo vì không có con trai nối dõi nên bị hội đồng hòang tộc lọai ra ngòai. Bà Hòang Thị Cúc, tuy xuất thân từ giới dân giã, nhưng rất khéo léo, vận động thẳng với tòan quyền Đông Dương để Bửu Đảo lên nối ngôi (tức vua Khải Định). Còn cái bào thai sau là thái tử và sẽ là người kế vị…”. Sách sử chép vua Khải Định có tất cả 12 bà vợ, không có con. Vì vua bất lực (2) không thích gần đàn bà, chỉ thích đàn ông (3),
khaidinhSử sách còn ghi chép vua Khải Định mê hát bộ, cải lương. Ngay chính ông múa bút tự trào với khẩu khí chẳng biển ngẫu chút nào: “Xuân xanh tuổi ngoài đôi chục, chơi đục trần ai, khi bài khi bạc, khi tài bàn vác, khi tổ tôm quanh, khi năm canh ngồi nhà hát, khi gác cổ ả đào, khi ghẻ tầu con đĩ xác, khi nằm rạp thuốc phiện tiêm, hoang ra dáng, rạng ra rồng, ngông ra phết, cóc biết chi tồi, miệng én đưa qua mùi gió thoảng”. Vua thường tuần du vào Sài Côn để xem hát bộ. vua nhìn những màn hát múa may một cách buồn chán, vua bảo quan hãy dẹp những màn vũ ấy và thay thế vào những màn vũ công nam. Vua lấy làm thích thú, còn ra lệnh những vũ công nam phải thoa phấn, đánh má hồng và tô môi son đỏ, thậm chí cho họ mặc áo quần màu lòe loẹt... Ngay vua cũng thế, cũng thích mặc quần áo loè loẹt nhiều màu sắc, mang nhiều nữ trang trên người và "đội nón lá"...
Sài Côn ở đâu sử quan cũng chẳng hay biết. Huống chi Bắc thành ngoài Bắc bộ, hay Nam Kinh mãi ở bên Tàu, sách địa dư, địa chí không có nên viết sử khó khăn không phải là ít. Còn vua kế vị là ai (Bảo Đại) là chuyện của sử quan kế tiếp, như ông đang làm cái công việc của Quốc sử viện giám tu đây. Như triều đại nhà NguyễnvớivuaTự Đức, cứ theo giai thoại vào thời này, Tự Đức truyền quan quân kéo tới đập phá đền thờ quan Trạng "An Nam lý học hữu Trình truyền". Hỏi ra mới hay Tự Đức tức giận vì câu sấm “Gia Long tam đại - Vĩnh Lạc vi vương”. Diễn nghĩa là nhà Nguyễn không truyền tử tôn đời đời kế thế như bà Thiên Mụ dậy mà theo cụ Trạng với tam đại, chỉ có 3 đời: Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị. Vì Tự Đức không thuộc phổ hệ nhà Nguyễn mà là con của Quận Quế người Vĩnh Lạc. Như cụ Trạng đã dậy: Vĩnh Lạc vi vương. Vì vậy theo ông: Nhà Nguyễn ngừng lại ở triều Tự Đức hay Khải Định.

***
Qua chuyện cụ Phan Thanh Giản đã xuất dương nhiều nơi, ông như chiếc đèn dầu đang muốn soi rọi những bước đi của vị tiền nhân này thì… Thì bỗng cái đèn hạt đậu đang đỏ đèn bỗng lóe lên một cái như muốn phụt tắt. Ông chồm người khêu cái tim dầu. Và quay lại… Ông thuỗn người ra vì thấy rõ mồn một… một ông Tây mặt như lá chuối hơ lửa, đứng trong thư phòng tự lúc nào. Ông dụi cái đóm lửa và thần ra nhìn ông khách lạ như gặp lại “người về tự trăm năm”. Người khách lạ ngó lơ như không có ông ở đấy, lẳng lặng kéo cái ghế trông ngồi xuống, bình thản săm soi bản trước tác của phiếm sử mà ông đang rị mọ…
Đèn đóm tỏ đèn lại, ông ngắm ông Tây kỹ hơn rõ ra đại nhân đây cao lớn như quan Khâm sứ Trung Kỳ vẫn thường đến gặp bà Hòang Thị Cúc: Ông liếc trộm thấy quan Tây mũi tẹt đội mũ chùm hụp như cái nồi. Lưng địu cái túi như…bị gạo vải bố. Áo cộc tay bốn túi, túi có nắp đậy với khuy đồng như cái liếp cửa trái bếp, hai cầu vai có hai mảnh vải như con cá rô con nằm bẹp dí. Áo bỏ ngoài quần, quần không có ống. Chân đi giầy da bò, bắp chân quấn vải giống cái rọ bắt cua (bí-tất). Ông có nét mặt đồng nhan, nghiễm nhiên như tùng bách. Như có linh tính, sử quan quay lại nhìn bức ảnh chụp cụ Phan Thanh Giản đằng sau lưng, và đập vào mắt là…cái khung trống trơn. Ông đang trơ mắt ếch thì nghe cười khủng khỉnh:
- Bản chức là Phan Thanh Giản đây.
Sử quan như Từ Hải chết đứng vì chẳng hiểu là người hay…ma. Vừa ngây người nhìn bộ áo quần cụt ngủn, ông vừa suy nghĩ ngôi có tôn ti, lễ có cấp bậc nên tú hụ ra mặt và lập cập:
- Quan… Quan ngự sử…
- Quan cách gì. Tiên sinh rõ vẽ chuyện.
Rồi “Quan ngự sử” chỉ vào bộ đồ đang mặc:
- Hồi qua Tây nhờ nhìn “cái đèn đường chổng ngược” nên bản chức sắm được đấy.
Ông líu lưỡi nên càm ràm:
- Cụ… đi… đi… Tây.
Cụ Phan cười bép:
- Thì còn ai trồng khoai đất này, sử sách của tiên sinh chép in hịt thế đấy.
Thế là cái đầu đậu phụng của ông như dầu tẩm bột gạo vì với cụ Phan, ông ngưỡng mộ đã lâu. Nay nhân giải vong niên, thật là tam sinh hữu hạnh mới được hội kiến nên ông cứ đực ra như ngỗng đực. Đang đỏ đèn, tim đèn bỗng lóe lên một cái nữa như muốn tắt…
Trong mờ nhân ảnh, cụ hiu hắt:
- Sử sách của tiên sinh viết rằng bản chức đi Pháp thương lượng chuyện mất ba tỉnh miền Đông rồi về “dựng“ lên…cái đèn đường chổng ngược. Tiên sinh đừng quên rằng năm 1858 là năm Pháp và Tây Ban Nha đánh Đà Nẵng. Bởi nhẽ đó vua Tự Đức triệt hạ người công giáo. Cũng vì vậy năm 1858, Nguyễn Trường Tộ theo giám mục Gauthier sang Pháp để tránh bị sát hại. Từ đó văn học sử của tiên sinh…vẽ chuyện cái đèn đường!
Làm như có gì ngẫm ngợi lung lắm…
- Khỉ một cái là 20 năm sau, năm 1878: Thomas Edison mới phát minh ra điện!
Trong ánh đèn chập chờn, cụ quá mù sa mưa…
- Thế nhưng không “dựng chuyện” bằng một giáo sư (Bùi Duy Tân) ở trường đại học Tổng hợp Hà Nội viết giáo án cho rằng bài thơ "Nam quốc sơn hà..." không phải của Lý Thường Kiệt.
Chuyện là ông giáo sư đang điều trị ung thư giai đoạn cuối và không biết sẽ "đi" ngày nào. Trong hương khói linh thiêng của Thái miếu Quốc tử giám Thăng Long - Hà Nội 1000 năm văn hiến, ông chính thức xin lỗi các thế hệ thày giáo và các thế hệ học trò vì ông đã nói không thật.
Nào khác gì chuyện giáo sư Phan Huy Lê, một nhà sử học đầu ngành và là chủ tịch hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã công bố công khai trên báo theo lời trăn trối của Phan Huy Liệu chuyện “cây đuốc sống” Lê Văn Tám đốt bồn săng Nhà Bè là do chính ông Phan Huy Liệu dựng lên. Ấy vậy mà ở Sài Gòn bảng tên đường Lê Văn Tám vẫn còn gắn trên cái cột đèn!.
Cụ lại quắn quả với…cái cột đèn của Thomas Edison:
- Vì vậy mới có chuyện cái cột đèn biết đi thì nó cũng đi.

***
Đi đâu chưa biết, nhân nghe đến địa danh Sài Gòn, trong khi ông đang ngồi bí rị ở Quốc sử quán kinh đô Huế. Thiên bất đáo địa bất chi, ông “bất chi” là bấy lâu nay ông lạc vào mê hồn trận với những nhà biên khảo, học giả cùng địa danh bắc giáp địa dư, tây giáp địa chí như lạc vào bát quái trận đồ. Bèn hỏi? Cụ cho hay xưa là…Sài Côn, mà xưa kia cũng là…Sài Gòn.
Ngừng lại một chút, cụ gọ gạy…
Từ thời vua Lê chúa Trịnh, theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776:
Năm 1674 Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ "Luỹ Sài Gòn". Đây là lần đầu tiên chữ Sài Gòn xuất hiện trong sử liệu.
Hán-Việt viết là "Sài Côn", "Côn" đọc theo Nôm là "Gòn". Như vậy, từ năm 1674 đã có địa danh Saigon! Thì làm gì phải đợi đến 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn tiêu diệt lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cổng như ông Vương Hồng Sển viết sách.
Ngay cả ta gọi người Tàu là….Tàu cũng đã có từ thời Lê Quý Đôn vì trong Phủ biên tạp lục đã ghi: “Tàu buôn từ Quảng Đông đến Hội An thuận gió mùa thì chỉ ở hai, ba ngày thôi. Tàu từ Phước Kiến đến thì nạp 2.000 quan, lúc tàu trở về thì chỉ nạp 200 quan. Có lẽ vì người Quảng Đông, Phước Kiến, Triều Châu, thêm người Hải Nam đến tấp nập, đông đảp trên các tàu buôn lớn nên dân ta gọi họ là “dân Tàu” cho tiện”.
Ông lưỡi đá miệng nói chữ và hay hớm:
- Sao các hạ hay mà tại hạ chẳng…hay.
Cụ giọng khàn khàn, tịt tịt:
- Hay ho gì…Chẳng dấu gì tiên sinh, bản chức vốn là người thiên cổ, tức người cõi trên ở chốn thiên đàng. Bản chức giống thiên thần suốt ngày bay tới bay lui. Lắm khi bản chức bay tới cả nghìn năm trước, trăm năm sau mà chữ nghĩa sau này gọi là “lỗ hổng thời gian” ấy mà. Vì vậy có một số người vượt thời gian không gian, tìm thấy những gì thuộc về quá khứ. Thỉnh thỏang họ lại mang về dăm cái nồi cũ kỹ, cái chảo hoen rỉ…
Đùm đậu xong, cụ lôi trong túi áo ra bao giấy bóng kính to bằng bàn tay có hàng chữ Gauloises để lên bàn…Sử quan thần ra chẳng biết là cái của nợ gì? Cụ nắn no:
- Tiên sinh còn nhớ thằng Tây Ban Nha và thằng Tây đánh Đà Nẵng năm 1858. Trước đó (1531) hai thằng này Tây này đã hợp tác làm thứ thuốc lá này và đặt tên là Gauloises.
Sử quan ớ ra…
- Sao lại gọi là thằng…Tây.
Thì cụ rọ rạy…
- Khi Pháp bắn súng đại bác thị uy ở cửa Hàn (1847), ca dao Quảng Nam có câu: Tai nghe súng nổ cái đùng, tàu Tây đã tới Vũng Thùng anh ơi “. Ta gọi là Tây, có lẽ từ thuở đó.
Rồi cụ ngoa ngữ:
- Tàu hay Tây đề ở…cái tàu mà ra. Thưa Phí tiên sinh
Ông ngẫm ngợi cụ xuất dương bằng…”tầu” có khác, nên ý tại ngôn ngoại, học thuật tinh vi, ắt hanh thông hơn người. Từ cái cột đèn biết đi, Tàu hay Tây đều ở…cái tàu mà ra, ngay cả cái họ tàu tàu của ông cụ cũng thông hanh. Nên nhân khi thấy cụ có thể quay về tới cả nghìn năm trước. Sử quan đang có những khúc mắc về sử thi. Nay cửu trùng tri ngộ, ông cũng muốn cơ xướng náo nhiệt một phen với cụ qua nhà Lê với “bí sư”: Lê Lai liều mình cứu chúa…
"…Theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử: Quân Minhbiết Chí Linh là chỗ Lê Lợi lui tới, bèn đem binh vây đánh. Vương hỏi các tướng rằng: Có ai làm được như người Kỷ A Tín chịu chết thay cho vua Hán Cao Tổ không? Bấy giờ có Lê Lai xin mặc thay áo ngự bào, ra trận. Quân Minh tưởng là thật, xúm nhau lại bắt sống Lê Lai dẫn về thành Đông Quan…“giết chết”.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú kể: Lúc mới khởi binh, bị tướng Minh vây ngặt, vua hỏi các tướng, bàn xem (có ai) đổi áo đánh lừa giặc, như việc Kỷ Tín ngày xưa. Ông xin đi. Bèn mặc áo bào, đem quân đánh đến đuối sức, và… “bị bắt”.
Một điều đáng ngạc nhiên là các sử quan các đời về sau đều chép truyện Lê Lai liều mình cứu chúa, trong khi nhóm sử quan đời Lê không ghi chép truyện này. Sự thực ra sao? Chắc chỉ có Nguyễn Trãi, một người trong đại cuộc, mới có câu trả lời đúng nhất. Sách Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi được chính Lê Lợi đề tựa, kể rằng: Thế giặc đang lớn mạnh, vua vời các tướng lại nói: Ai có thể mặc áo bào thay ta đem quân đi đánh thành Tây Đô?Lê Lai nhận. Nguyễn Trãi cho biết là Lê Lai bị quân Minh... ‘’bắt sống’’ và bị tra tấn dã man.
Riêng Đại Việt sử ký toàn thư chép: Giết Tư mã Lê Lai, tịch thu gia sản, vì Lai cậy có công đánh giặc, nói ra những lời ngạo mạn nên bị giết.
Rõ ràng Lê Lợi hạ lệnh giết Lê Lai năm 1427. Sử kiện quan trọng này không thấy các sử quan đưa vào sử thi. Hoàn cảnh của Nguyễn Trãi không cho phép ông viết lúc Lê Lợi còn sống. Ngô Sĩ Liên, một sử thần nhà Lê, chép lại cho hậu thế một sự kiện lịch sử và đã giữ đúng tác phong của một sử gia nghiêm túc. Ngô Sĩ Liên nhận xét về Lê Lợi như sau: Vua dấy nghĩa binh đánh có mưu lớn sáng nghiệp (…). Song đa nghi hay giết quần thần tôi trung, đó là chỗ kém…”.
Cụ cười ruồi là “sử phẩm” này cụ biết từ đời tám hoánh nào rồi… Rồi lôi trong “túi bao gạo vải bố” chai nước mắm nhĩ tên… Bordeaux và hai cái ly cẳng cao như cẳng cò. Mà cũng làm như cụ đi giày da bò trong đầu ông, cụ to hó ấy là cái túi… ”Tây ba lô”. Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ xong, cụ rót mỗi người một ly. Ông “lỳ một lam” thấy chua chua như nước đái mèo, mặt nhăn quéo như táo tàu khô...Nom dòm thấy vậy, cụ lắc lắc cái đầu…
- Trong văn chương quán nhậu có câu: “Uống rượu như Phan Thanh Giản uống thuốc độc” là thế đấy, thưa Phí tiên sinh.

***
Như thị ngã văn qua bài phiếm sử của mình, có ghi quyển Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, viết từ thời Triệu Đà đến nhà Lý. Nhưng nay đã bị thất lạc…Thời nhà Lý, không có bộ sử nào?
Nghe vậy, cụ lôi trong túi Tây ba lô cái IPad Pro và mò ra bài Đối thoại sử học viết về trách nhiệm của những người viết sử: Một là thay vì dùng các tư liệu truyền thuyết, tư liệu khẩu học, những người viết sử miền Bắc dùng lịch sử để phục vụ chính trị, họ vận dụng khá nhiều kinh điển Mác-Ănghen để thay đổi lịch sử. Hai là sự đấu đá danh vị trong giới sử học, nếu họ thay đổi thì những người khác, có nghĩ khác, cũng không dám nói ra. Vì vậy những tác giả trong Đối thoại sử học nhấn mạnh việc đã đến lúc phải viết lại lịch sử, chẳng hạn như: Sử ta thu hẹp triều đại An Dương Vương và bỏ qua nhà Triệu, là những người cai trị có nguồn gốc Tàu.
Thế là được thể sử quan rong ruổi ngược về thời An Dương Vương và Triệu Đà.
Với tình riêng nỗi cảnh, nỗi khách bâng khuâng, chẳng thể cầm lòng... Sử quan vạy vọ với cụ Phan về những ngộ nhận trong thời kỳ Bắc thuộc mà ông bí đặc bí lù, cụ rẽ ràng:
“…Theo truyền thuyết, Thục Phán người Ba Thục đánh vua Hùng lúc vua…“đang say rượu” nên thôn tính được nước Văn Lang, lên ngôi là An Dương Vương, đổi quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê. 50 năm sau Triệu Đà mang quân sang xâm lấn nhưng bị nỏ thần bắn nên bỏ chạy. Đà sai con là Trọng Thủy vào hầu làm túc vệ rồi câu hôn con gái vua là Mỵ Châu. Trọng Thủy dụ dỗ Mỵ Châu lấy nỏ thần, thế là Triệu Đà đánh thắng được An Dương Vương.
Vào thời nhà Lê, theo Ngô Sĩ Liên thì An Dương Vương chưa hẳn đã có mặt ở trên đất nước ta! Đến thế kỷ 19, Nguyễn Văn Siêu sử thần nhà Nguyễn tỏ ý hoài nghi An Dương Vương ở đất Ba Thục. Vì đất Ba Thục thời xưa ở Tứ Xuyên cách Giao Chỉ rất xa, phải đi qua nhiều vương quốc khác. Lại nữa nhằm vào niên đại của An Dương Vương trong Đại Việt sử ký toàn thư thì đất Ba Thục không còn nữa từ hơn một thế kỷ trước. Trước khi An Dương Vương xuất hiện vì đã bị nước Tần tiêu diệt vào năm 315 trước Công nguyên.
Trần Trọng Kim cũng lặp lại ý kiến của Nguyễn Văn Siêu. Dưới thời Pháp thuộc, Ngô Tất Tố cho rằng: “Nước Nam không có ông An Dương Vương nhà Thục”. Một số học giả Pháp như H. Maxpêrô, trong bài Vương quốc Văn Lang, cho An Dương Vương chỉ là một “nhà vua thần thoại”, hoặc như A.G. Ôdricua đã kết luận: “Trước nhà Hán thì không có lịch sử An Nam”. Một vài học giả khác như G. Duymuchiê và R. Dêpie thì chỉ viết sơ sài thời An Dương Vương…”
Sử quan như lạc đường vào lịch sử, cụ đốt thuốc và nấu sử sôi kinh…
- Như tiên sinh đã tường khi H. Maxpêrô cho rằng An Dương Vương chỉ là một “nhà vua thần thoại” vì truyện An Dương Vương từ Lĩnh Nam chích quái với huyền thoại thần Kim Quy: “…Thục Phán vì tổ phụ (Thục Vương) khi trước cầu hôn lấy Mỵ Nương là con gái Hùng Vương không được nên mang oán. Thục Phán cử binh đánh Hùng Vương diệt nước Văn Lang, xưng là An Dương Vương, cải hiệu là Âu Lạc, Rổi lên làm vua, xây thành ở đất Việt Thường…”.
Đại Việt sử ký toàn thư chép gần giống y hệt như Lĩnh Nam chích quái, chỉ nói khác rằng vua đóng đô và xây thành Cổ Loa tại Chu Diên. Thế nhưng Việt Thường và Chu Diên là tên các huyện mà Tàu họ gọi…sau này. Việt Thường nằm ở Châu Hoan (Nghệ An) và Chu Dương thuộc vùng Hải Dương, Thái Bình. Cả hai chỗ không trùng với địa điểm Cổ Loa hiện nay.
Lại nữa tên Cổ Loa cũng là do người sau đặt ra vào đời Lê được coi như là của An Dương Vương. Còn tên thật của nó nếu mà do An Dương Vương dựng lên và đặt ra thì không ai biết.
Làm một hơi, cả thư phòng đụn khói thuốc lá. Cụ như người cưỡi khói theo mây…
- Gần đây bản chức bay về Đông Anh, Hà Nội xem tận mắt họ đào xới mới thấy nền móng còn lại của thành hình thước thợ như bất cứ cổ thành nào khác. Không hề có việc các vòng thành cuộn hình xoắn ốc. Thành nằm gần một vùng ao đầm lắm ốc tên Vọng Nhân nghĩa là “người ốc”. Nên dân gian gọi nôm là thành ốc chăng? Bản chức chỉ ăn ốc nói mò vậy thôi.

***
Bởi có tới hai ông Tàu làm vua nước ta qua hai triều đại liên tiếp kéo dài 146 năm nên sử quan nhờ cụ thế sự quân mạc vấn dùm. Cụ nắn nuôi:
“…Sau Hùng Vương thứ 18, Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên viết sử nhà dựa vào Sử Ký của Tư Mã Thiên có một chương nói về Triệu Đà, trong đó có đoạn: “Triệu Đà lấy được nước Âu Lạc của Thục Phán và gọi là nước Nam Việt, tự xưng làm vua, lập ra nhà Triệu, tức Triệu Vũ Vương đóng đô ở Phiên Ngung”. Sử thần ta sếp vào “kỷ nhà Triệu” như một triều đại trong lịch sử Đại Việt.
Ngô Thì Sĩcẩn án trong Việt Sử Tiêu Án là Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên đều sai vì:
Triệu Đà chỉ mới ngừng chân ở Quảng Đông, Quảng Tây, chưa đến đồng bằng Bắc Việt. Mà nước “Nam Việt ấy ở bên Tàu”, miền Nam Hải, Quế Lâm. Do vậy, trong sử Nam ta chẳng bao giờ có quốc hiệu là Nam Việt với một ông vua gốc Tàu tên Triệu Đà. Ngô Thì Sĩchê Ngô Sĩ Liên “hiểu theo lối nông cạn” của Lê Văn Hưu. Rồi chê các sử quan sau tiếp tục “cùng nhau ca tụng” Triệu Đà đến cả ngàn năm, cứ sai lầm mãi mà không thấy rằng đó là kết quả của tinh thần từ chương kinh sử.
Thêm một sử liệu thời nhà Nguyễn với Nam Việt của Triệu Đà ở Quảng Tây với chỉ dụ của vua Gia Khánh nhà Thanh: Trẫm đã duyệt kỹ biểu văn thỉnh phong của Nguyễn Phúc Ánh việc xin phong tên nước là “Nam Việt” không thể chấp nhận được. Địa danh “Nam Việt” bao hàm rất lớn, khảo sử xưa hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây đều nằm trong đó. Nguyễn Phúc Ánh là tiểu di nơi biên giới, lãnh thổ bằng đất Giao Chỉ xưa là cùng, làm sao lại được xưng là Nam Việt cho được. Rõ ràng tự thị muốn đòi thêm đất, nên lệnh truyền cho các quan Quảng Đông, Quảng Tây lưu tâm phòng bị biên giới, quan ải không được trễ nải, lơ là…”.
Thấy sử quan thiên bất đáo địa bất chi với địa dư, địa danh, cụ giảng giải:
- Năm 111 trước Công nguyên, Hán Cao Tổ đổi tên nước ta là Giao Chỉ (từ “Giao Chỉ” lần đầu tiên được dùng để chỉ nước ta vào thời Triệu Đà) và đưa quan quân của nhà Hán sang cai trị. Các sử gia ta sau này không để ý đến khoảng cách thời gian này là cùng trong một niên kỷ dưới thời nhà Hán, có hai nước riêng rẽ là Giao Chỉ và Nam Việt (nhà Triệu kéo dài 96 năm).
Thêm nữa Sử ký của Tư Mã Thiên cho hay: Triệu Đà (Triệu Vũ Vương) truyền ngôi cho cháu nội của Trọng Thủy tên Triệu Hồ tức Triệu Văn Vương. Gần đây ngành khảo cổ ở bên Tàu tìm được mộ của Triệu Văn Vương ở Quảng Châu. Trong mộ có ấn tín, triều phục và đồ gia dụng như bát đĩa, tách chén. Tất cả những di tích này không có dấu tích của nước Việt ta.
Cụ Phan khẽ khọt với sử quan…
“…Thư tịch Tàu chẳng thể giải mã những sử kiện từ thời Đường Ngu, tức 2600 năm trước Công Nguyên nên sự hiểu biết của sử gia Tàu bị hạn chế. Sau này, kể cả Tư Mã Thiên, phần nhiều mang dòng máu Hán tộc nên viết không chính xác những nước gọi man di chung quanh. Vì vậy nguồn thư tịch Tàu chẳng thể là khuôn vàng thước ngọc cho các sử quan “man di” ta lấy đó để…dựng sử “tiểu di” của mình.
Chẳng qua là từ thời sơ khai Nghiêu - Thuấn nước Tàu nằm trên sông Dương Tử, vì không có đồ chí, địa dư đồ nên ngay lúc này đây với khảo cổ hiện đại họ cũng chưa xác định kinh đô Nghiêu -Thuấn ở đâu? Huống chi đất Giao Chỉ. Riêng Giao Chỉ chỉ là cái tên với khái niệm mơ hồ hiểu theo nghĩa là tên gọi nhưng chẳng thấy đất đai. Địa danh Nam Giao đẻ ra địa danh Giao Chỉ. Vì “Giao” từ hai chữ Nam “Giao” với chữ “chỉ” có bộ phụ mang nghĩa là khu vực. Giao Chỉ được hiểu là vùng đất ở về phía nam của địa danh Nam Giao của họ.
Giao Chỉ là một vùng đất rất lớn, vào đời Chu bao gồm luôn tên nước Sở thời Xuân Thu chiến quốc. Đời Tần Thủy Hoàng gọi Giao Chỉlà…”Tượng Quận”. Đời Hán thì Giao Chỉ mới thành địa danh cố định là bắc bộ Việt Nam, châu thổ sông Hồng.
Cụ hong hanh mắt với sử quan và gục gặc:
- Nay xin vấn tôn ý tiên sinh chứ…Chứ với 600 năm trước thành Tây Giai nhà Hồ hay kinh đô Nam Kinh nhà Mạc ở đâu? Ngay như thiên niên kỷ 21 với ải Nam Quan, các nhà học giả, biên khảo cũng chẳng hay nó nằm ở mảnh đất đầu thừa đuôi thẹo nào? Thưa Phí tiên sinh.
Rồi cụ gật đầu tắp lự:
- Khỉ gió căn răng gì đâu chẳng biết nữa! Vì các nhà biên khảo, học giả theo Tây học vào thập niên 20 họ viết sử ta theo ngoại sử Tàu. Mà sử liệu Tàu lại do người Tây lưu trữ trong viện Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội từ năm 1902. Tạm hiểu là từ năm 1902 cho đến nay, vẫn còn nhiều học giả, biên khảo theo Tây học chưa thoát được sự “cầm tù” của thư tịch Tàu.
Bỗng dưng không đâu cụ đờ đẫn cười:
- Cho đến nay, những nhà biên khảo, nhà sử học với danh vị hàn lâm luật sư, tiến sĩ (Hoàng Cơ Thụy, Lê Mạnh Hùng) cũng lại dẵm lên vết đái chân trâu của những người đi trước. Họ cũng dùng cổ sử Tàu để viết tiền sử Việt, họ lại đi tiếp con đường vô vọng tìm cá trên cây!
Như trên bản chức đã thưa với tiên sinh thực ra người Tàu cũng chẳng biết gì nhiều về tổ tiên gốc gác của minh, vậy thì họ làm sao có thể tìm tổ tiên gốc gác Việt từ Sử ký, Hán thư? Họ dựa vào ngoại sử Tàu cùng những kiến thức khảo cổ học, nhân chủng học chắp vá, họ trình bày thời tiền sử tộc Việt một cách đầu Ngô mình Sở chẳng ra…ngô ra khoai gì cả khiến người đọc bị lạc đường. Với tiền sử Việt, cổ sử Việt, bản chức sẽ giải trình với tiên sinh sau.

***
Nghe thủng rồi, sử quan vội dụi điếu thuốc, lật đật đẩy đưa cụ ngược dòng lịch sử với hai bà Trưng, nhất nhất giải bày ngoại vọng bất động kỳ tâm cho rõ mong cụ thông sử cho:
“….Nhà Hán sai Mã Viện mang quân vây hãm hai bà tại hồ Lãng Bạc (7), hai bà chống không nổi, phải lui về Cẩm Khê. Sử ta chép rằng: Hai Bà cùng nhẩy xuống sông Hát Giang tự vẫn.
Chuyện hai bà mất, qua Hậu Hán Thư viết: Minh niên, chính nguyệt, trảm Trưng Trắc, Trưng Nhị, truyền thủ Lạc Dương. Dịch nghiã: “Năm sau, tháng giêng, chém Trưng Trắc, Trưng Nhị, gửi đầu về Lạc Dương”. Sử Khâm Định Việt sử thông giám cương mục triều Nguyễn ghi: Trưng Vương và em gái chống với quân Hán bị binh lính bỏ trốn, cả hai thất trận chết ở trận địa.
Sách Thủy kinh chú của người Tàu viết về ông Thi thì ông chẳng hề bị Tô Định giết mà còn sát cánh với bà, sau khi bị Mã Viện tấn công: Thi và Trưng Trắc chạy về Cẩm Khê, 3 năm sau cả hai vợ chồng bị bắt. Và 8 tháng sau bị hành hình. Vậy sao sử quan nước nhà lại mượn tay Tô Định…”khai tử ông Thi”. Họ lập luận rằng vì người Việt cổ theo chế độ mẫu hệ. Các sử quan sau này là nhà Nho để ông Thi còn sống mà bà Trưng Trắc làm vua thì ngược lẽ với…thánh hiền Khổng Mạnh. Nhà Nho không làm như vậy…
Về tên Thi Sách thì Thái Tử Hiền, con vua Cao Tông nhà Đường đã chú thích như sau:
“sách” đây nghiã là “lấy”“thꔓvợ”. Nên phải nhấn ở chữ “Thi”: Châu Diên Lạc tướng tử danh Thi sách Mê Linh Lạc tướng nữ danh Trưng Trắc vi thê. Diễn nghiã: “Con trai Lạc tướng huyện Châu Diên tên “Thi”, “lấy” vợ là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh tên Trưng Trắc…”.
Thông hanh rồi, cụ nhăn mặt với nhân kiếp phù sinh hề, một thóang bạch câu…
- Theo sử ta thì cho đến nay bà Trưng Trắc vẫn là quả phụ bất đắc dĩ.
Tiếp đến cụ thông sử với sử quan….
- Tiên sinh lại bị “cầm tù” của thư tịch Tàu. Chuyện với cái tên trong Đối thoại sử học cũng có đấy. Ngay ở Hà Nội 36 phố phường. Theo tác giả Bùi Thiết trong Đối thoại với sử học thì…
“…Hiện nay ở Hà Nội có một phố tên là Đặng Tiến Đông. Vốn ông này là Đặng Tiến Giản. Ông Đặng Tiến Giản này là quan của nhà Lê-Trịnh, bỏ Lê-Trịnh theo Tây Sơn, được Tây Sơn cử làm tướng đánh nhau với quân Trịnh năm 1788. Nhưng người ta không đọc ra là Giản mà lại đọc là Đông, và cái công đánh Trịnh trở thành cái công đánh Thanh (vì năm 1788 quân Thanh chưa vào). Do đó chuyện ấy là chuyện sai. Hiện nay chúng tôi đã chứng minh rằng ông này là Đặng Tiến Giản và chỉ đánh nhau với quân Trịnh chứ không đánh nhau với quân Thanh. Chúng tôi đề nghị với các cơ quan quản lý nhà nước phải sửa lại phố Đặng Tiến Đông bằng phố Đô Đốc Long, chính cái công đánh trận Đống Đa mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789 là của Đô Đốc Long. Đô Đốc Long là ai thì hiện nay chúng tôi đang có nhiều giả thiết, chỉ biết ông là Đặng Văn Long, một trong những người theo Tây Sơn từ đầu, đấy là người ở Bình Định…”
Trong 32 bài viết của 7 tác giả, chúng tôi tiếp tục làm sáng tỏ nữa vao thời Tây Sơn:
“…Như cuộc hành quân của Quang Trung ra Bắc năm 1789. Ông ấy đi đường nào để mà ra được Hà Nội nhanh như vậy? Từ Huế ra Hà Nội đi bộ mất khoảng 40 ngày. Theo cách trình bầy hiện nay thì ông ấy chỉ đi 20 ngày. Hai mươi ngày hành quân bộ, thưa chị, như thế thì một ngày đi bao nhiêu? Sáu trăm cây số mà đi bộ như thế tức là một ngày đi 30 cây số. Chúng tôi nghĩ rằng là thời trung đại không thể đi bộ một ngày 30 cây số được. Các đạo quân của Napoléon và những danh tướng lừng lẫy Châu Âu, thời Quang Trung, cũng đi bộ tối đa, ngày khoảng 5, 6 dặm tức là khoảng 15 cây số. Chúng tôi chứng minh rằng Quang Trung đi 40 ngày (4), theo con đường thượng đạo từ Huế ra Hà Nội và đúng là một ngày đi 15 cây số.
Như thế là dựa trên cơ sở sinh học của các sử liệu và địa hình nữa, bởi vì con đường 1A hiện nay, cách đây hai thế kỷ không thể đi được: voi và pháo không đi được bởi vì cứ 10 cây số là có một con sông. Mà sông của Việt Nam thì bùn lầy hai bên bờ. Muốn qua sông thì phải đi ở thượng lưu, có nền sỏi. Nhất là mùa mưa thì không thể đi đường này được. Do đó chúng tôi chứng minh rằng con đường thượng đạo Quang Trung đi rất tốt, chứ không phải là con đường 1A hiện nay. Bởi vì trong cái chứng minh hiện nay là đội quân này nghỉ 20 ngày ở Nghệ Tĩnh và ở Thanh Hóa. Nghỉ 20 ngày. Tôi bảo không. Họ không nghỉ 20 ngày mà họ đi liên tục như vậy.
Có một tài liệu dạy cho học sinh rằng quân Quang Trung hành quân, hai người cáng để một người ngủ. Tôi đã đi cáng người nhà đi khám bệnh. Hai người cáng một người đi vào huyện mà không thể cáng được. Cái thằng nằm trên võng cũng khổ mà hai thằng gánh cũng khổ. Chẳng thà nằm ngủ rồi vừa đi vừa chạy còn hơn. Hay là đi qua con đường hạ đạo 1A này, người ta dùng thuyền thúng, vừa để cáng, vừa cho voi qua sông. Khổ quá, con voi nó to làm sao nó bước xuống thuyền được! Những thuyền gỗ ở bên sông chỉ chở 20 người đã chìm rồi
mà con voi nó nặng hơn 50 người! Rõ ràng tất cả những cái đó phi lý.
Xuôi dòng sử Việt với cái thế lao dật từ lâu vì những ngộ nhận của sử thi nên sử quan như xẩm vớ được gậy qua máy iPad Pro ngay trước mặt…
“…Xung quanh Đối thoại sử học thì chúng tôi thấy có rất nhiều vấn đề nữa. Chẳng hạn như giới hạn của thời Hùng Vương, ngoa truyền là 4000 năm, nhưng chúng tôi chứng minh chỉ có khoảng 2700 năm thôi (5). Hùng Vương thì hiện nay nhiều sách vở ngộ nhận rằng là đã có từ 4000 năm trước. Tức là 18 đời vua Hùng kéo dài khoảng 2600 năm. Thì như thế, một đời người, một đời vua là 130 năm. Chúng tôi chứng minh rằng một đời vua có khoảng chừng 30 năm. Như thế, thời đại Hùng Vương như sử của chúng tôi ghi chép, bắt đầu thế kỷ thứ VII trước Công nguyên. Tức là 18 đời vua Hùng Vương khoảng chừng năm thế kỷ là vừa.
Chúng tôi có từ hai căn cứ: Căn cứ cuốn Việt Sử lược (5) từ thế kỷ XIV, viết rằng: Đến đời Trang Vương (nhà Chu 696-682 trước Công nguyên) thì có một người ở Bộ Gia Ninh có sức mạnh áp đặt được các bộ tộc khác lập thành Hùng Vương. Chúng tôi có rất nhiều sự kiện lịch sử chúng tôi đã chứng minh rằng nó khác với những trình bày hiện nay…”
Với 4000 năm tìm đâu ra “huyễn sử” để dựg sử, mắt ông tròn dấu hỏi. Cụ lụng bụng…
- Viết sử theo “chủ nghĩa tự tôn dân tộc” thì 4000 năm còn quá ít. Vi thế nhà sử học Hà Nội (Hà Văn Thùy) kéo dài sử Việt tới 70.000 năm. Theo ông, nhờ di truyền học ADN ghi trong máu huyết của tộc Việt cũng như toàn châu Á, phát hiện ra rằng, 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi di cư tới Việt Nam. Rồi người Việt di cư ra các đảo Đông Nam Á. Sang chiếm lĩnh Ấn Độ. 40.000 năm trước. Người Việt đi lên khai phá đất Tàu, trở thành dân cư đầu tiên của Tàu.
Và cụ cười tịt mà rằng…
- Rằng theo như nhà sử học Hà Nội trên thì:
Không có cái gọi là từ Hán Việt như ông nhắc tới qua một bài viết khác. Ông còn công bố:
Tiếng Việt, chủ thể tạo nên ngôn ngữ Tàu. Và: Chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ viết Tàu.
Sử quan ớ ra vì người Việt di cư ra các đảo Đông Nam Á lại sang chiếm lĩnh Ấn Độ hồi nào mình chẳng hay. Bèn hỏi. Cụ dóng dả:
- Có thể vì vậy nên có một thiền sư (Lê Mạnh Thát) đã giải mã cổ sử ta: Truyện An Dương Vương được vay mượn từ bộ sử thi cổ đại Mahabharata của Ấn Độ.
Tiếp đến cụ thao thiết:
- Nước Việt ta khởi đầu có sử từ đời nhà Trần, vào quãng thế kỷ thứ 13. Vậy thì các sử gia ta dựa vào đâu mà viết cổ sử, rốt lại những dữ kiện về cổ sử mà các sử gia ta bày ra giống như bày cua bỏ trong cái giỏ, que càng cứ quắp vào nhau, loay hoay vặn vẹo rộn cả người.

***
Rồi cụ cầm điếu thuốc lá chỉ vào màn ảnh của cái iPad Pro…
“…Tóm lại, truyền thuyết nhiều nhưng nhiều nhà sử học không xử lý được mà bê truyền thuyết vào lịch sử. Ví dụ, trong cuốn Lịch Sử Việt Nam của giáo trình Đại học Tổng hợp, với truyền thuyết về Thánh Gióng: Không thể lôi vào lịch sử được. Truyền thuyết chỉ là biểu trưng thôi. Như giáo sư Đặng Thai Mai nói rằng: Nói quá đi để vừa. Bây giờ nói ông Thánh Gióng nhỏ quá thì không tiện mà phải nói ông rất to, to lắm. Truyền thuyết ta có thể đọc và hiểu nó. Nhưng khi nghiên cứu lịch sử, việc xử lý lại khác: Cái quan trọng là giải mã truyền thuyết.
Như sự tích ba ông đầu rau. Truyền thuyết này phản ảnh gì? Nó kết thúc một thời đại một người đàn bà có thể chung sống với nhiều người đàn ông để chuyển sang phụ hệ. Hay truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh. Theo tôi không phải là làm thủy lợi…” (duy vật lịch sử của Marx)
Tiếp đến cụ bổm bảm:
- Thế hệ sau, các sử gia hậu sinh viết sử theo truyền thuyết như những người viết sử của những thế hệ trước: Nguồn gốc tộc Việt là người hành tinh tới qua Thánh Gióng cầm roi sắt, cưỡi ngựa trời. Vì họ dựa vào hoa văn trên trống đồng Đông Sơn ghi ”Thuyền hình chim trong mỹ thuật Đông Sơn” (6) nhưng vì “tam sao thất bản” nên sử gia hậu sinh đọc là “phi thuyền”.
Cụ như hoà nhập với sử Việt thời hậu hiện đại với 1000 năm sau:
- Bởi sử gia hậu sinh trẻ là người Mỹ gốc Việt qua Cancun ở Mễ Tây Cơ thăm các đền đài lăng tẩm của người Maya đã được khám phá từ năm 1773 do một cố đạo Tây Ban Nha. Năm 1785. ông cố đạo cho người vẽ và ghi chép lại các hình chạm nỗi. Nhưng mãi cho đến sau kế hoạch Mercury (1959-1963), vào năm 1968 một tác giả người Thụy Sĩ tên Erich von Däniken trong quyển Chariots of the Gods? Tạm dịch ra tiếng Việt là “Chiến xa của các vị thiên vương”. Ông Danikenmới nhìn ra một số hình ảnh chạm nỗi là phi hành gia không gian là vua Pakal.
Vì người Maya (và Inca) vốn th́ích và nghiên cứu tìm hiểu về không gian nên các đền đài của họ đều cho thấy người ngoại tầng không gian quen với vua Pakal, người ngoại tầng không gian cho vua Pakal lên phi thuyền đi thử cho biết. Theo sử gia hậu sinh, vua Hùng Vương của ta, chẳng có liên lạc gì với người hành tinh lạ, nên sự hiểu biết về không gian của vua Hùng không có, cho nên chẳng có hình chạm tương tự và cũng chẳng có hình vẽ nào ghi lại.
Nhìn hình ảnh chạm vua Pakal lái phi thuyền, sử gia hậu sinh không khỏi nghĩ đến Phù Đổng thiên vương cỡi ngựa sắt, và sau đó bay mất về trời tức bay trở về hành tinh gốc của mình. Sau các siêu khoa học gia trái đất mới khám ra hành tinh Pluto tức Diêm vương tinh. Tất cả những cư dân ở hành tinh Pluto đều có tên họ chữ đầu là “P”. Vì vậy vua P”akal và “P”hù Đổng thiên vương đều từ hành tinh này tới. Sử gia hậu sinh trẻ người Mỹ gốc Việt cho rằng Phù Đổng thiên vương là phi hành gia lái phi thuyền “Con ngựa” (như phi thuyền của Pakal là “Chiến xa”) nhưng phi thuyền “Con ngựa” bị “crash” và được bà lão nghèo cứu sống rồi đem về nhà nuôi dưỡng ba năm cho nên đánh giặc Tàu chỉ là một cách trả ơn.
Một giả thuyết khác của sử gia hậu sinh trẻ người Đức gốc Việt cho rằng; ”Một thiên sứ ở hành tinh Uranus tức Thiên vương tinh mà người xưa gọi Nôm là “trời” sai xuống giúp dân Nam dẹp giặc Ân từ phương Bắc kéo xuống xâm lăng nước Nam”. Nên nhớ giặc Ân là giặc Tàu, vì lý do gì đó người ta không giám và không muốn cho học trò học sử Việt biết rõ giặc Ân là ai.
Cũng có thể vì nhà trường bóp méo lịch sử với học trò qua Truyện kể lịch sử là sách giáo khoa lịch sử của cả 7 lớp định hướng chinh chiến, chiến tranh,chi phối toàn bộ giáo trình dạy lịch sử theo nhu cầu chính trị. Vì vậy trước đó năm 1988, bà Phạm Thị Hoài ở Đức viết tiểu thuyết lịch sử “Thiên Sứ”: Thiên Sứ lỡ sa xuống cõi trần ai, rơi vào mảnh đất Việt Nam, lạc vào thế giới người lớn chỉ biết…hôn (Love not war). Thiên Sứ của bà Phạm Thị Hoài hao hao giống chú lùn trong truyện Cái Trống (Le Tambour) (1959) của Günter Grass, một tác phẩm pha trộn thực tại với hoang tưởng trong bức tranh châm biếm của Dantzig, dưới chế độ Hitler.
Ông trố mắt ra dòm cụ Phan ra điều như vậy học trò nào biết quái gì về lịch sử? Cụ Phan Thanh Giản cười hụt, cất giọng Bình Định kể lể nghe điếc mũi. Và ông nghe ong cả tai…
Trong giờ lịch sử, thầy giáo gọi Tèo lên hỏi:
- Ai đã ăn cắp nỏ thần của An Dương Vương.
- Dạ thưa thầy, em không lấy.
Thầy bực quá nên đem chuyện này nói với hiệu trưởng. Nào ngờ thầy hiệu trưởng nói:
- Láo thật, mới học lớp 10 đã ăn cắp rồi. Bé thì ăn cắp nỏ, lớn lên thế nào cũng tham ô, tham những. Phải đuổi học ngay.
Chuyện đến tai thứ trưởng giáo dục. Thứ trưởng gọi giám đốc học vụ lên:
- Hiệu trưởng xử lý như thế không được. Có mỗi cái nỏ gỗ mà đuổi con cái người ta. Bảo “anh” Dương Vương làm báo cáo rồi phải tự đi mua cái mới. Có mỗi cái nỏ mà cũng không giữ nổi lại còn làm ầm ĩ cả lên.
Tai ông như tai đất vì đang để hồn đi hoang về ngành sử học “khoa học giả tưởng” của thời hậu hiện đại thì...Thi vừa lúc kể xong, cụ đẩy đưa sử quan về thực tại:
- Gần đây ở trong nước có khuynh hướng viết ẩn dụ để người đọc…ú ớ như:
Phi hành gia đầu tiên trên thế giới bay lên mặt trăng và còn ở đó là...chú cuội.

Rút điếu Gauloises để đó…Làm như chú cuội có “liên hệ” đến miếu ông Cuội cao vòi vọiđầu đường ngang. Nhân khi cụ Nguyễn Khuyến về hưu, cụ Phan cũng vui thú điền viên theo
- Chủ tịch nước (Nguyễn Minh Triết) ký thác tâm sự của mình vào thánh Gióng khi bảo rằng: Thánh Gióng bay về giời để…vui thú điền viên.
Vê vê điếu thuốc…cụ Phan đùn sử quan về thời Hai bà Trưng bị Mã Viện đánh đuổi chạy về hồ Lãng Bạc (7) (tức hồ Tây) với sử kiện có khác đôi chút qua một nhà văn...
- Nhà văn kiêm nhà thơ Nguyễn Đình Thi, viết rằng: Thánh Gióng tắm ở hồ Tây, rồi chui vào rừng nằm chờ chết chứ không có chuyện bay về trời.
Châm lửa, bập bập vài hơi. Dụi dụi điếu thuốc. Xong, cụ lụi đụi…
Nhiều nhà văn làm văn học trong nước đã có nhiều sáng tạo, thực hiện việc đổi mới tư duy từ 1986, tại sao những nhà viết sử chưa bắt đầu? Một vài người nào đó có quyền uy (Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Huy Liệu, Đinh Xuân Lâm, Lương Ninh…) cứ áp đặt lịch sử qua tư liệu của họ với những sử liệu sai. Những sử gia thế hệ sau, ngại việc thay đổi, tức là ngại đụng chạm đến các bậc đàn anh, của các bậc thuộc thế hệ thầy.
Nói cách khác, ở đây cái không khí học phiệt chính trị nó khá nặng, những khuynh hướng sửa đổi lịch sử cho phù hợp với đòi hỏi chính trị với chủ nghĩa duy vật biện chứng lịch sử của Các-Mác và Ăng-Ghen. Vì vậy để cắt nghĩa, lý giải các sự kiện lịch sử cũng như văn học theo biện chứng chủ nghĩa Mác Lênin thì người ta phải phê bình những sử gia đi trước.
Dòm chừng chẳng còn điếu thuốc nào, xé bao Gauloises trải ra bàn để đó. Cụ nao nuốt...
- Vì vậy bản chức và sử gia miền Nam đã bị vạ lây. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử đề ra việc kết tội một số nhân vật lịch sử như Hồ Qúy Ly, Nguyễn Trường Tộ, Lưu Vĩnh Phúc, Phan Thanh Giản. Viện trưởng viện sử học Trần Huy Liệu đã bôi nhọ trí thức nói chung và sử gia miền Nam nói riêng: Tất nhiên khi chép về sử kiện Phan cắt đất dâng cho xâm lược Pháp thì trí thức và sử gia miền Nam đã vô liêm sỉ coi đó không phải là chuyện phản quốc.
Móc túi lấy cái bút máy xăn xó giữa hai ngón tay. Rồi chẳng biết nghiệp ngão thế nào cụ dậy cái này là bút Parker 1988. Ông trộm nghĩ bút cũng ngày sinh tháng đẻ nữa ư! Làm như đi guốc trong bụng ông, cụ miệng giật giật như muốn nói rằng năm 1988 là năm Đồng Khánh băng hà. Nhờ vậy mới có Thành Thái, Duy Tân và Khải Định (1916-1925) để ông vẽ vời chuyện bà Hoàng Thị Cúc có cái bào thai Bảo Đại (1925-1945). Bỗng dưng bị cụ bị đay cho u đầu, ông thầm nghĩ đúng là số ruồi thì cụ giải bày cái số ăn mày bị gậy phải mang của cụ…
“…Ðiểm mà tôi (Trần Huy Liệu) muốn nhấn mạnh vào cái chết của Phan là tất nhiên, là rất biện chứng trong chỗ bế tắc của Phan. Dầu sao, cái chết của Phan cũng chỉ có thể chấm dứt con đường biện chứng bế tắc của Phan, chứ không thể xóa được tội danh của Phan trước tòa án dư luận nhân dân. Như vậy, kết tội Phan Thanh Giản phải gắn liền Phan với triều đình Huế, với Tự Đức, bản án Phan là nằm trong hồ sơ bản án hàng giặc bán nước của triều Nguyễn…”
Với Parker ngòi vàng 18 K, cụ vừa hí hoáy viết lên bao thuốc Gauloises vừa hặm hụi…
Vì thế, những nhà dựng sử miền Bắc không tiếc lời chê trách nhà Nguyễn là tay sai cho thực dân Pháp nên họ cấm viết về sử nhà Nguyễn từ năm 1956 đến 1958. Khoảng 10 năm đầu (1954-1964) Sở văn hóa Hà Nội đã thành lập “Ban tên phố” giúp sở đặt lại một số tên phố. Bỏ tên phố mang tên vua quan thời Nguyễn, đặt mới một số tên tượng trưng chiến địa với chiến tranh (các phố Bắc Sơn, Điện Biên Phủ, v…v…).
Viết được vài hàng rồi ngừng bút…Cụ hững hờ nhìn ra ngoài song cửa, trong cái tâm thái lờ mờ như khói, lãng đãng như sương, cụ héo hắt với sử quan:
- Theo thời thế, sử miên Bắc với chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx xem lịch sử “là bản thân hiện thực khách quan, tồn tại và phát triển theo một logic, không phụ thuộc ý thức của con người”. Nhưng với bản chức thì cũng có thể…“tồn tại” lằm và cứ thế, sử nhà Nguyễn (1802-1945) như nước chẩy qua cầu, những trang sử lặng lờ trôi dạt về bờ mê bến lú...
Bỗng không cụ tặc lưỡi đến tách một cái, bày tỏ khí vị:
- Các sử gia miền Bắc bị cấm viết về sử nhà Nguyễn theo bản chức thì cũng có lý do “nhậy cảm” và “tế nhị” nào đấy. Vì vậy 1000 năm sau, các sử gỉa trẻ hậu hiện đại người Pháp gốc Việt hay người Úc gốc Việt học theo cách viết “ẩn dụ” của người trong nước rồi cứ viết thoả mái…“sử miền Bắc” thì người đọc sẽ hiểu ngay: Đây là…”sử nhà Nguyễn”.
Luận sử rồi, cụ ngửa cổ uống hết ly vang. Ông như xẩm mất gậy vì chẳng thấy “ẩn dụ” của bến ngộ, bến giác ở cái khổ nào. Làm như có thần giao cách cảm, cụ búi bấn rằng…
Triều đại Quang Trung chấm dứt (1788-1802), gần 60 năm sau một sử thần nhà Nguyễn (Bùi Đình Trí) dâng sớ lên vua Tự Đức (1847-1883) để biên soạn thời Quang Trung, sau lai thôi vì lý do nào đó, Mãi cho đến 100 năm sau thời Tây Sơn, vào cuối đời Thành Thái (1888-1907) có một quan ngự sử (Đặng Xuân Bảng) viết Việt sử cương mục tiết yếu. Đây là bộ sử duy nhất ở nước ta có ghi chú các sự kiện lịch sử từ thời Hùng Vương đến hết triều Tây Sơn (1802). Thế nhưng hồn ma bóng quế của hoạn quan Tư Mã Thiên cứ lẩn quẩn trên những trang sử vì vậy chữ nghĩa viết về nhà Tây vẫn còn bị “cầm tù” trong Quốc sử quán.
Trước đó nhà Nguyễn có Đại Nam liệt truyện, trong đó có một chương Ngụy Tây liệt truyện. Sử gia nhà Nguyễn khen vua Quang Trung thì cũng có đấy, nhưng ngay những hàng chữ kế tiếp là chê bai, xúc xiểm. Cho đến nay (1988) đã có 1,623 công trình viết về nhà Tây Sơn thế nhưng lại đầy rẫy những chi tiết trái ngược. Một là họ chỉ đi tìm những chi tiết phù hợp với quan điểm của mình mà bỏ qua những gì không ăn khớp. Hai là gần như sử phẩm nào cũng vậy, họ cũng đều vay mượn từ Hoàng Lê nhất thống chí. Nhưng quyển sách này là tiểu thuyết lịch sử viết theo dạng Tam quốc chí. Theo cụ, sử nhà Nguyễn cùng một dòng sinh mệnh với sử nhà Tây Sơn với những trang sử đang bèo dạt nổi trôi về cuối sông bến bãi…
Ngỡ chữ nghĩa với sử sách cụ buôn đầu chợ bán cuối sông đến đây là phiên chợ chiều, là “Hết”. Nhưng cụ lại vơ bèo gạt tép cùng những nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Mộng Giác, Trần Vũ viết tiểu thuyết lịch sử. Những nhà văn cứ nghĩ là sáng tạo, sáng tác nhưng họ đâu có hay Hoàng Lê nhất thống chí đãnhập hồn nhập vía vào họ. Để rồi họ lên cơn đồng thiếp viết về nhà Tây Sơn như bà Phạm Thị Hoài viết “Thiên sứ” pha trộn thực tại với hoang tưởng qua bức tranh của Dantzig. Bức tranh chân dung Nguyễn Huệ Quang Trung vốn dĩ đã “méo mó” với mấy ông cố đạo truyền giáo, nay với tiểu thuyết lịch sử còn “dị dạng” hơn nữa.
Kết sử xong, tiện tay, cụ bỏ chai rượu vào túi Tây ba lô…

***
Sử quan ngồi thừ ra ở án thư và lặng lờ nhìn ra ngoài song cửa, tiết trời êm dịu, hình bóng u nhã, móc đọng trên hoa, hương bay nhè nhẹ, trăng chiếu vào hiên, trúc thưa gió lọt…Chợt gió lọt qua khe nên đèn phụt tắt, ông lui cui châm thêm dầu. Thư phòng sáng tỏ lại, đẩy cụ Phan ra khỏi bóng tối của lịch sử và cụ…thăng. Nhưng cụ không quên để lại vỏ bao thuốc lá Gauloises với dăm hàng chữ. Đang trầm luân trong bể phù sinh với sử thi, ông quáng quàng cầm lên đọc thì…Hoá ra chữ nghĩa cụ để lại những nổi trôi theo dòng mực về bến ngộ, bến giác náo đấy với cô vọng ngôn chi, nôm na là người nói chuyện với…ma, là…sử quan.
Sử lịch sang trang
Chạy quàng
Là lịch sử
Ấy vậy ở dưới cụ cũng không quên ghi chú: Lá hoa cồn, trang 55, thơ Bùi Giáng.
Xuân tàn hạ tắt, sương rơi lá rụng, ông vẫn ngồi nơi chốn cô liêu cũ, chẳng có gì đổi thay, nhất nhất vẫn như xưa…Việc đời biến cải, thời gian đổi dời, cảnh thu ly khiến ông cảm hồi khôn xiết, tựa vào bệ cửa còn he hé mở, trong u tịch của Thạch trúc gia trang, ông đánh một giấc ngủ ngày, đắm chìm trong giấc hoàng lương, ông ngụp lặn giữa mộng và mơ.
Với viễn mơ, viễn mộng của sử thi ngút ngàn cả ngàn năm nay đã sang trang…

Thạch trúc gia trang
Ngộ Không Phi Ngọc Hùng
(viết xong Tân Mão 2011, viết lại Bính Thân 2016)

Chú thích:
(1) Trong bài viết Chuyện cung đình nghe kể lại đăng trên niên san Tiếng Sông Hương, Dallas, 1997, tôi (Khuyết danh) có nói sơ qua về chuyện mệ ngoại tôi kể thời hàn vi của bà Cúc (Bà Từ Cung, thân mẫu vua Bảo Đại).
Bà ngọai tôi húy là Hồ Thị Thìn, người ở Vạn Vạn, có hàng quán ở chợ An Cựu, thường cung cấp thực phẩm cho phủ Phụng Hóa nên có dịp vào ra nơi này, có cơ hội chuyện trò với kẻ ăn người làm trong đó nên mới nghe được câu chuyện để kể lại cho con cháu nghe. Vào thời điểm câu chuyện xảy ra, hầu như chưa có cái tên Cúc, mọi người đều gọi bà là chi Út.
Bà tôi kể: một đêm nọ, sau khi dự tiệc ở lầu Sứ (Tòa Khâm Sứ) về, ông hòang (tức vua Khải Định về sau) ngó bộ ngà ngà và hứng tình, gọi anh người hầu, biểu : “Coi có đứa mô ở dưới đó, kêu lên cho ta một đứa.” Người hầu vâng lịnh đi kiếm. Thường thì trong phủ có hai ba chị, nhưng hôm đó chị thì đi ra ngoài có việc, chị thì có tháng, chỉ một mình chị Út rảnh rang sạch sẽ nên được kêu lên hầu. Sau đó chị Út có thai. Đức Thánh Cung (mẹ đích) và Đức Tiên Cung (mẹ đẻ) khi biết chị Út có thai, liền mở một cuộc tra hỏi gắt gao. Vì cái bụng chị Út đã lùm lùm, nên các ngài cho đào cái hố nông, bắt chị Út nằm sấp bụng xuống đó cho an tòan rồi mới sai nhịp roi vào mông mà hỏi tội. Dù bị đánh nhưng trước sau chị Út cũng chỉ một mực khai là có thai với ông hòang. Hỏi ngày tháng gần nhau, chị Út khai ra, hai bà biểu ghi sổ và hăm rằng “Nếu sau ni mi đẻ không đúng ngày đúng tháng thì ta chém đầu ba họ.” Chị Út khóc lóc cam đoan là đúng sự thật. Hai bà đem việc này hỏi lại ông hòang thì ông cũng công nhận đúng y như vậy. Sau sinh ra vua Bảo Đại *, tính ngày tháng y như đã khai nên hai ngài mới công nhận.
* Đến nay, nghi án Vĩnh Thụy là con ai vẫn là bí mật cung đình, là đồn đại, dù một số người trong hoàng tộc đã viết rõ ràng trong hồi ký. Nhưng theo sự nhìn nhận của chính thống, Vĩnh Thụy vẫn là con của Khải Định và đã được Khải Định chǎm sóc nâng niu. Mẹ ông vẫn được tôn xưng là bà Từ Cung. (Nguyễn Đắc Xuân)
(2) Nhiều người biết vua Khải Định bất lực, chính vua cũng nhận điều đó. Thế nhưng, các quan đại thần vẫn muốn “tiến” cung con gái để được làm ông nhạc (bố vợ) của vua, mong hưởng nhiều quyền lợi. Vào những lúc đó, vì khó lòng chối từ, vua thường nói với các quan: "Nội cung của trẫm là một cái chùa (ý nói không có chuyện ái ân tình dục), ai muốn vào tu thì cứ vào!".
(nguồn: Nguyễn Đắc Xuân, người Huế, nhà biên khảo, sử học “liệt truyện” triều Nguyễn)
(3) Trong cuốn “Chuyện nội cung các vua Nguyễn”, ông Nguyễn Đắc Xuân viết:
"... Những buổi sáng phải ra điện Cần Chính thiết triều, các bà đứng hai hàng bái yết đón chào, vua liền dùng tay ôm gọn hai vạt áo bào sát vào người để khỏi vướng vào đàn bà". Suốt 10 năm làm vua, Khải Định không có ăn nằm với bà vợ nào. Ông đã nuôi Nguyễn Đắc Vọng làm thị vệ. Ban đêm, vua ôm ông Vọng mà ngủ. Và cũng nhờ sự khéo léo trong việc phục tùng này mà ông Vọng được thăng chức nhanh lên Ngũ đẳng Thị vệ.
(4) Ta không biết quân Tây Sơn điều động tượng binh thế nào với mấy nghi vấn sau đây:
Thứ nhất: Voi di chuyển tương đối chậm, tốc độ đường núi khoảng 1,5 đến 2 dậm/giờ (2,4-3,2 km/giờ), đường phẳng có thể lên đến 3 dặm (5 km/giờ). Voi nếu chở một lượng trung bình thì di chuyển trong khoảng 18-25 dặm (29-40km/một ngày). Tuy nhiên với khoảng cách đó, voi sẽ không đi được lâu ngày vì đau chân. Vì thế, voi trận nếu cần di chuyển đường trường thì không thể di chuyển nhiều hơn 10-12 dặm(16-19km- ngày). Voi tuy khỏe, nhưng cũng chỉ chở được khoảng 300-400lbs (135-180kg). Nếu đi liên tục trong nửa tháng, voi phải được nghỉ một, hai ngày mới lại sức.
Thứ hai, voi phải được ăn uống đầy đủ. Một con voi cần khoảng 120-150 kg mỗi ngày cỏ, lá, rễ cây. Voi không chịu được đói khát, dễ bị kiệt sức nếu bị ép làm việc nhiều và mỗi ngày phải có ít nhất vài giờ thong dong để tìm thức ăn. Voi phải sống gần nơi có nước và vì da có lỗ chân lông và tuyến mồ hôi nên uống rất nhiều. Voi cũng phải tắm hằng ngày vào buổi sáng.
Thứ ba, da voi tuy dày, nhưng lại rất sợ các loài sâu bọ, ruồi muỗi, bị thương cũng khó chữa vì sần sùi. Chân voi không thể đóng móng như móng ngựa và chỉ là một lớp da mềm, dễ bị gai góc làm cho bị thương. Theo kinh nghiệm của người Hòa Lan thì voi và ngựa rất kỵ nhau. Ngoài ra, voi lại sợ tiếng lợn kêu và thường hoảng sợ khi nghe lợn eng éc nên có nơi đã dùng lợn để chống với voi.”
(Nguồn: Từ tượng binh đến voi giầy ngựa xé – Nguyễn Duy Chính)
(5) Sách Việt sử lược có từ thế kỷ 13 không ghi tên tác giả, bị thất lạc, mãi về sau mới tìm thấy ở Bắc Kinh và được xếp vào Tứ khố toàn thư. Tuy nhiên vào thời Hùng Vương trong Việt sử lược được (hay bị) Tiên Hi Tộ đời Thanh hiệu đính. (Việt Nam tinh hoa – Thái Văn Kiểm)
(6) Hoa văn trên trống đồng Đông Sơn là hình vẽ tay, trích trong quyển “Mỹ thuật cổ truyền Việt-Nam” của Nguyễn Khắc Ngữ.Khoảng thời gian tác giả chưa có hình chụp trống đồng.
(7) Sử chép Lãng Bạc là hồ Tây ở gần Hà Nội, nhưng có người bác đi, bảo không phải.
(Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim)
“…Bài nghiên cứu về các địa danh thời Hai Bà Trưng: Xác định lại vị trí của Mê Linh, Lãng Bạc, và Cấm Khê tức Cẩm Khê…”.
(Đối thọai với sử học – Đinh Văn Nhật)

Nguồn:
Vui buồn của người chép sử - Ng. Ph. Vĩnh Quyền
Đi tìm một mảnh khuyết sử qua Khâm Định Annam sử lược - Nguyễn Duy Chính
Hồ Đình Vũ - Nguồn gốc một số địa danh miền Nam – Hồ Đình Vũ
Một thời kỳ khuyết sử - Nguyễn Phan Quang
Ai giết Lê Lai ? – Nguyễn Dư
Đối thoại sử Học gồm những tác giả: Bùi Thiết, Đinh Văn Nhật, Đỗ Văn Ninh,
Lê Trọng Khánh, Lê Trọng Hoàn, Trần Thanh Lâm và Trần Văn Quý.
Vua Lê Đại Hành – Trần Quốc Vượng
Có đúng thành Cổ Loa hình xoắn ốc? – Hà Văn Thùy
Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam – Trương Thái Du
Và những tác giả khác:
Trần Nhuận Minh – Như Ngọc - Nguyễn Khắc Thuần - Trần Quốc Vương - Thụy Khuê - Lâm Công Quyền - Nguyễn Văn Lục – Tạ Chí Đại Trường - Vĩnh Sinh.

 

Đăng ngày 05 tháng 02.2017