ĐƯỜNG THI - CỔ THI

caonguyen

Cao Nguyên tuyển dịch

26.
Từ Dần

十里煙籠
十里煙籠一徑分,
故人迢遞久離群。
白雲明月皆由我,
碧水青山忽贈君。
浮世宦名渾似夢,
半生勤苦謾為文。
北邙坡上青松下,
儘是鏘金佩玉墳。
徐夤

Thập lý yên lung
Thập lý yên lung nhất kính phân ,
Cố nhân điều đệ cửu ly quần .
Bạch vân minh nguyệt giai do ngã ,
Bích thủy thanh san hốt tặng quân .
Phù thế hoạn danh hồn tự mộng ,
Bán sanh cần khổ mạn vi văn .
Bắc Mang pha thượng thanh tùng hạ ,
Tận thị thương kim bội ngọc phần .
Từ Dần
Quyển 708_28

Thập lý yên lung : chỉ mười dặm sương liễu trên đê hồ Huyền Vũ , thuộc kinh đô xưa của Lục triều tại Nam Kinh nơi tác giả từng du ngoạn thưởng lãm cùng bạn trước đây.

江雨霏霏江草齊,
六朝如夢鳥空啼。
無情最是台城柳,
依舊煙籠十裏堤。
韋莊 - 台城

Giang vũ phi phi giang thảo tề ,
Lục triều như mộng điểu không đề .
Vô tình tối thị Đài Thành liễu ,
Y cựu yên lung thập lý đê .

Vi Trang - Đài Thành; Bắc Mang : núi Bắc Mang ở Lạc Dương , nơi được coi có phong thủy tốt
cho việc chôn cất , có lăng miếu phần mộ các hoàng đế xưa .

Dịch thơ:

Mười dặm sương lồng
Mười dặm sương lồng chia lối đi
Bặt tin bạn cũ thuở phân ly
Trăng thanh mây trắng còn lưu dấu
Núi biếc sông dài gửi bạn đi
Hoạn lộ hư danh lòng mộng hão
Nửa đời lao nhọc để làm chi
Bắc Mang khuất dưới tùng xanh bóng
Vàng rắc mộ ai lúc cuối kỳ.
Cao Nguyên

27.
Trương Tịch

節婦吟
君知妾有夫,
贈妾雙明珠。
感君纏綿意,
繫在紅羅襦。
妾家高樓連苑起,
良人執戟明光裡。
知君用心如日月,
事夫誓擬同生死。
還君明珠雙淚垂,
恨不相逢未嫁時。
張籍

Tiết phụ ngâm
Quân tri thiếp hữu phu
Tặng thiếp song minh châu,
Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng la nhu
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi
Lương nhân chấp kích Minh Quang lý
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt
Sự phụ thệ nghĩ đồng sinh tử
Hoàn quân minh châu song lệ thùy
Hận bất tương phùng vị giá thì.
Trương Tịch

Dịch thơ :

Khúc ngâm của người tiết phụ
Chàng biết em đã có chồng,
Còn tặng em đôi ngọc quý.
Cảm kích bao nhiêu tình ý,
Em đeo trong áo lụa hồng.
Nhà em lầu gác liền vườn Uyển.
Chồng em hầu trước điện Minh Quang.
Biết lòng chàng sáng tựa trăng,
Đã nguyền sinh tử khăng khăng cùng chồng.
Trả ngọc chàng hai dòng lệ ứa.
Hận chẳng quen khi chửa có chồng.
Cao Nguyên

28.
Vũ Nguyên Hành

春興
楊柳陰陰細雨晴,
殘花落盡見流鶯。
春風一夜吹鄉夢,
夢逐春風到洛城。
武元衡

Xuân hứng
Dương liễu âm âm tế vũ tình,
Tàn hoa lạc tận hiện lưu oanh.
Xuân phong nhất dạ xuy hương mộng,
Mộng trục xuân phong đáo Lạc thành.
Vũ Nguyên Hành

Dịch thơ:
Cảm hứng mùa xuân
Mưa phùn tạnh, liễu xum xuê.
Hoa tàn rụng hết, hiện về bóng oanh.
Gió xuân thổi mộng quê lành,
Hồn theo gió đến Lạc thành một đêm.
Cao Nguyên
-----------------------------
題嘉陵驛
悠悠風旆繞山川,
山驛空濛雨似煙。
路半嘉陵頭已白,
蜀門西上更青天。
武元衡

Đề Gia Lăng dịch
Du du phong bái nhiễu sơn xuyên,
Sơn dịch không mông vũ tự yên.
Lộ bán Gia Lăng đầu dĩ bạch,
Thục môn tây thượng cánh thanh thiên.
Vũ Nguyên Hành

Dịch thơ :
Đề trạm Gia Lăng
Gió thổi non sông rợp phướn bay,
Mưa mù sơn trạm ngỡ khói lay.
Gia Lăng nửa chặng đường đầu bạc,
Cổng Thục lên trời thẳng hướng tây.
Cao Nguyên


28.
Vương Bột

滕王閣
滕王高閣臨江渚,
佩玉明鑾罷歌舞。
晝棟朝飛南浦雲,
珠簾暮捲西山雨。
閒雲潭影日悠悠,
日換星移幾度秋。
閣中帝子今何在,
檻外長江空自流。
王勃

Đằng Vương các
Đằng Vương cao các lâm giang chử,
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.
Hoạ đống triêu phi Nam phố vân,
Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
Các trung đế tử kim hà tại,
Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu.
Vương Bột

Dịch thơ:
Gác Đằng Vương
Bên sông gác Đằng Vương cao ngất,
Đeo ngọc vàng reo ngừng múa hát.
Cột vẽ mây Nam Phố sớm bay,
Rèm cuốn mưa Tây Sơn chiều tạt.
Đầm in bóng mây, ngày chậm trôi
Sao dời vật đổi mấy thu rồi.
Trong gác , con vua giờ đâu nhỉ?
Ngoài hiên, sông vẫn chảy đấy thôi .
Cao Nguyên
--------------------------------
思歸
長江悲已滯,
萬里念將歸。
況屬高風晚,
山山黃葉飛。
王勃

Tư quy
Trường Giang bi dĩ trệ
Vạn lý niệm tương qui
Hướng phục cao phong vãn
Sơn sơn hoàng diệp phi.
Vương Bột

Dịch thơ:
Nhớ về
Trường giang sầu lắng đọng,
Nghìn dặm vẫn mong về.
Gió chiều tà lồng lộng,
Lá vàng khắp sơn khê.
Cao Nguyên


29.
Vương Duy

山居秋暝
空山新雨後,
天氣晚來秋。
明月松間照,
清泉石上流。
竹喧歸浣女,
蓮動下漁舟。
隨意春芳歇,
王孫自可留。
王維

Sơn cư thu minh
Không sơn tân vũ hậu
Thiên khí vãn lai thu
Minh nguyệt tùng gian chiếu
Thanh tuyền thạch thượng lưu
Trúc huyên qui cán nữ
Liên động hạ ngư chu
Tùy ý xuân phương yết
Vương tôn tự khả lưu.
Vương Duy

Dịch thơ :
Đêm thu trong núi
Sau cơn mưa núi vắng,
Hơi thu đượm khắp trời.
Hàng thông trăng chiếu sáng,
Lèn đá nước êm trôi.
Tiếng ai sau bụi trúc,
Thuyền câu động lá sen.
Ý xuân thơm dẫu hết,
Vương tôn dễ nào quên.
Cao Nguyên

過香積寺
不知香積寺,
數里入雲峰。
古木無人徑,
深山何處鐘。
泉聲咽危石,
日色冷青松。
薄暮空潭曲,
安禪制毒松。
王維

Quá Hương Tích tự
Bất tri Hương Tích tự,
Sổ lý nhập vân phong.
Cổ mộc vô nhân kính,
Thâm sơn hà xứ chung.
Tuyền thanh yết nguy thạch,
Nhật sắc lãnh thanh tùng.
Bạc mộ không đàm khúc,
An thiền chế độc long.
Vương Duy

Dịch thơ :
Qua chùa Hương Tích
Biết chùa Hương Tích nơi nào,
Đường mây lối gió đã lẩn vào.
Nẻo vắng người xanh um cổ thụ,
Rừng sâu chuông vẳng tự phương nao.
Suối trong vắt vẻo trên ghềnh đá,
Tùng biếc trời xanh lạnh sắc màu.
Chiều xuống quạnh hiu trên đầm vắng,
An thiền vui cảnh sống thanh cao.
Cao Nguyên

--------------------------------------

送別,送君南浦
送君南浦淚如絲,
君向東州使我悲。
為報故人憔悴盡,
如今不似洛陽時。
王維

Tống biệt- Tống quân Nam phố
Tống quân Nam phố lệ như ti,
Quân hướng Đông Châu sử ngã bi.
Vị báo cố nhân tiều tuỵ tận,
Như kim bất tự Lạc Dương thì.
Vương Duy

Dịch thơ :

Tống biệt- Nam phố tiễn bạn
Tiễn bạn nơi Nam phố, lệ tuôn,
Đông châu bạn đến để ta buồn.
Người xưa tiều tuỵ, chưa đền đáp.
Chẳng giống như hồi ở Lạc Dương
Cao Nguyên

渭城曲
渭城朝雨浥輕塵,
客舍青青柳色新。
勸君更盡一杯酒,
西出陽關無故人。
王維

Vị Thành khúc
Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần,
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân.
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu,
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.
Vương Duy

Dịch thơ :
Khúc hát Vị Thành
Vị Thành mưa sớm bụi đường
Liễu bên quán khách sắc dường xanh ra
Xin anh cạn chén quan hà
Dương quan từ đó đã là cố nhân
Cao Nguyên


30.
Vương Thập Bằng

萱草
有客看萱草 ,
終身悔遠遊。
向人空自綠 ,
無复解忘憂。
王十朋-宋

Huyên thảo
Hữu khách khán huyên thảo ,
Chung thân hối viễn du .
Hướng nhân không tự lục ,
Vô phục giải vong ưu .
Vương Thập Bằng

Dịch thơ :
Cỏ huyên
Có người ngắm cỏ huyên
Viễn du suốt đời hối tiếc
Nhìn hoa màu xanh biếc
Không giải hết ưu phiền.

Cao Nguyên