Print

Thắng bại tháng tư

Kong Kong

Cuộc chiến huynh hệ tương tàn bằng súng đạn kết thúc đã 44 năm. So với đời người thì khá dài. Thông thường với thời gian như thế thì cho dẫu có bị thương tích cũng đã rơi vào quên lãng. Vì thời gian là “thuốc tiên” chữa lành những vết thương lòng.
Một bé chào đời năm 1975 bây giờ có thể đã là ông bà nếu lập gia đình sớm, có thêm một thế hệ mới.

Thời gian đằng đẵng là thế lẽ ra phe chiến thắng yên tâm tận hưởng “thành quả” nếu đất nước đang là con rồng, con hổ (theo cách nói về sự phát triển ngoạn mục mọi mặt) Được như thế thì các lãnh đạo đảng đâu cần phải lo tìm mua quốc tịch nước ngoài, lo thâu tóm của cải rồi tìm mọi cách cho gia đình đi định cư ở các nước Dân chủ Tự do? Chế độ đâu cần phải dốc sức vào cái gọi là Bộ Thông tin và Tuyên truyền (xin gọi là 4T) để tự ca ngợi? Vì đã có thực tế trước mắt trả lời cụ thể! Thử nhìn các “con rồng, con hổ” ở Á châu có tốn kinh phí khổng lồ như Bộ 4T không?
Nhưng để đối phó với “bọn phản động”, “bọn căm thù quê hương”, “bọn dân chủ cuội”, “bọn tung tin nói xấu đảng”, “bọn khủng bố”… và đặc biệt quan trọng là “bọn tự diễn biến” dù Bộ 4T phải làm việc cật lực vẫn thất bại! Vì “tự diễn biến” chính là người của phe chiến thắng. Ở phe chiến thắng mà “tự diễn biến” thì rõ ràng có cái gì đó rất không ổn nếu không muốn nói là khủng hoảng nội bộ.

Chính sự dốt nát và vô đạo của giàn lãnh đạo mới là phản động. Bọn chóp bu làm mục ruỗng chế độ chứ chẳng có “thế lực thù địch” nào. Đây là sự đổ vỡ từ bên trong, không do áp lực bên ngoài. Là sự đổ vỡ tất yếu do ngu và tham. Vì bất cứ việc gì đi ngược với sự phát triển tự nhiên thì cho dù có vu khống hay che đậy dưới bất cứ hình thức nào tự nó cũng phải bị đào thãi. Dù Lực lượng 47 với mười ngàn hay trăm ngàn dư luận viên được đào tạo bài bản và thêm vài cái Luật An ninh mạng nữa ra đời cũng sẽ thất bại. Vì không ai có thể ướp màu da cho một cái xác chết được mà phải chôn đi.

Thế giới văn minh đã xác nhận: Cộng sản là đại họa của nhân loại!

Thử nhìn các nước Dân chủ Tự do, hỏi có nước nào có Bộ 4T? Đã thế họ cũng chẳng hề lo lắng về cái goị là “tự diễn biến”! Trái lại, nếu tự diễn biến để thích nghi với thực tế xã hội, càng tốt. Có được nhiều đảng viên như thế sẽ giúp đảng điều chỉnh kịp thời để cử tri tín nhiệm bầu cho nhiệm kỳ kế tiếp! Nhờ đó xã hội Dân chủ Tự do cứ thăng tiến.

“Tự diễn biến” là những ai?
Hiện tại trí thức XHCN đang có phong trào “tự diễn biến” điều mà Tổng Chủ Nguyễn Phú Trọng lo lắng và cảnh báo nhiều lần nhưng chắc chắn sẽ không đi đến đâu. Vậy họ là những ai?

- Là một số trí thức theo Mặt trận GPMN bị gạt ra rìa sau năm 1975 . Một số bỏ chạy khỏi nước. Một số không chạy thoát hoặc chọn ở lại. Những “tai to mặt lớn” đó từng lãnh đạo sinh viên học sinh tranh đấu chống VNCH bây giờ quay ra chống chế độ. Trong tuổi hoàng hôn họ viết bài phân tích, kể lể hay ký tên vào các thư ngỏ phản đối… nhưng lúc còn sung sức, tức 10, 20 năm sau 1975, không hề dám chống chế độ như từng chống VNCH. Tại sao? Tại hèn. Sợ bị tù cộng sản. Sợ chết! Họ hiểu thời VNCH dẫu gì cũng có Tự do Dân chủ, có tam quyền phân lập, có Hiến Pháp bảo vệ. Nếu bị tù gia đình con cái cũng không bị ảnh hưởng. Có người bị giam giữ vẫn được cho ra ngoài đi thi để hoàn tất việc học!

Bây giờ sinh viên tranh đấu thì đừng nghĩ sẽ được đi học trở lại. Không những thế, gia đình sẽ bị liên lụy ngay. Trường hợp Nguyễn Phương Uyên là một ví dụ. Đã thế công an còn công khai đàn áp đẫm máu người dân giữa Sài Gòn (ngày cả nước xuống đường chống Luật Đặc khu và Luật An ninh mạng, 10/6/2018) Hôm đó có 2 ông giáo sư của một trường đại học được công an gọi đến công viên Tao Đàn, thay vì thể hiện vai trò nhà giáo lại hành sử vai trò “đảng ủy”, giúp công an đàn áp, làm ngơ trước tiếng kêu cứu trong tuyệt vọng của học trò.

- Với số trí thức XHCN lớn tuổi phía Bắc phản tỉnh công khai, rất ít. Đa số họ chỉ chống đảng đương quyền (ví dụ chống đảng Nguyễn Phú Trọng) cho thấy họ vẫn cho rằng đảng Hồ Chí Minh tổ chức chiến tranh “giải phóng miền Nam” là đúng, bất chấp cảnh núi xương sông máu của hàng trịệu người. Vì thế họ rất khó bỏ đảng trừ khi bị kỷ luật hoặc biết sẽ bị khai trừ.

- Với số trí thức XHCN trẻ tuổi dấn thân chống đảng còn ít dù nhờ internet không bị nhồi sọ. Họ nhìn lại cuộc nội chiến khách quan hơn. Nhưng lại bị ràng buộc với thực tế đang có nhờ công trạng, gốc gác, gia đình… so với thời bao cấp. Tâm lý sợ rơi vào tình cảnh “đứng núi nầy trông núi nọ”, nên khó dứt khoát hẳn.

- Với dân phía Bắc, từ nghèo đói lạc hậu bây giờ nhờ dựa vào quen biết cán bộ, phe nhóm… có nhà, có xe…, con cháu có điều kiện du học ở các nước Dân chủ Tự do… đương nhiên là “nhờ ơn đảng”(!) Qua chuyện kể của một số vị tranh đấu ở Hà Nội về thăm quê dịp Tết vừa rồi phần nào đó đã phản ảnh như vậy. Số trí thức nầy bị bà con gia tộc có vẻ mỉa mai, nếu không muốn nói là tiếp xúc miễn cưỡng. Họ chỉ trách đảng vì đụng chạm đến quyền lợi riêng chứ không chống đảng! Vụ Đồng Tâm ở ngay Hà Nội là điển hình.

Nói chung trí thức XHCN và người phía Bắc đa số chỉ chống đảng tham nhũng chứ không chống đánh chiếm miền Nam. Do đó, với họ, biểu tượng Cờ Vàng của miền Nam vẫn chỉ là “cờ 3 que”(!) Đây là lý do chế độ cộng sản sụp đổ trên thế giới nhưng tại VN vẫn đang còn là tiến trình. Cho dù là tiến trình không thể đảo ngược!

Trí thức “tự diễn biến” là như thế nhưng tại sao Tổng chủ Nguyễn Phú Trọng lo sợ?

Câu trả lời là chính Tổng Chủ biết rõ đảng đang bị ung thư “cấp” nên phải làm bất cứ điều gì có thể, để kéo dài mạng sống, kể cả chư hầu cho Bắc Kinh!

Về mặt nổi, xã hội đang hỗn loạn mọi mặt, điều nầy cho thấy những cơn sóng ngầm dữ dội dưới đáy sẽ quyết định vận mạng của đảng. Người dân phải tự xoay xở, tự tìm cách đối phó với nan đề của đời sống vì không còn tin vào việc được bình đẵng trước pháp luật. Cùng đường nên họ quay ra ngưỡng mộ cả những tên xâm trổ đầy người, từng là tội phạm, như chuyện Dương Minh Tuyền về Hưng Yên hỗ trợ gia đình nạn nhân bé gái bị bạn học cùng lớp bạo hành. Hay phản ứng sai luật của vài cá nhân xịt sơn, quăng chất bẩn vào nhà của đảng viên Nguyễn Hữu Linh, cựu Phó viện trưởng viện KSND Đà Nẵng ấu dâm cháu bé trong thang máy ở Tp HCM. Điều trớ trêu, đó là họ học đúng cách của công an đối với với gia đình người bất đồng chính kiến! Rồi nhìn lại hình ảnh cựu Ủy viên Bộ Chính trị Đinh La Thăng hay Trịnh Xuân Thanh khóc lóc, van xin tại phiên tòa hình sự giúp người dân “sáng mắt sáng lòng”! Rồi so sánh với hình ảnh 5 người tranh đấu của nhóm Liên Minh Dân Tộc đứng hiên ngang hô lớn “đả đảo cộng sản”, “đả đảo phiên tòa” ngày 18/3/2019 ngay giữa tòa phúc thẩm tại Sài Gòn coi bản án tù khổ sai 10, 15 năm không ra gì cả! Thực tế những tiếng hô đó không đủ lớn để bên ngoài phòng xử nghe được nhưng là tiếng nổ của những cơn sóng ngầm, tự nó vang xa, đánh thức được lương tâm công luận.

Lịch sử chưa có nghèo giải phóng giàu, lạc hậu giải phóng văn minh mà chỉ có cướp. “Giải phóng miền Nam” đang nói lên như thế. Khi kẻ cướp điều hành xã hội tất phải hỗn loạn!
Cộng sản biết rõ và không thể nào thoát khỏi được tâm trạng bất an của kẻ cướp (!) vì biết rằng họ sẽ phải đối diện Công lý.

Thử nhìn thực tế sau 44 năm “giải phóng” hỏi có được bao nhiêu người từ phía Nam ra Bắc lập nghiệp so với “biển người” phía Bắc tràn vô Nam? Hiện tại giai cấp đang thống lĩnh kinh tế tại phía Nam do những ai cầm đầu? Hầu hết mọi cơ ngơi đồ sộ nhất, các trọng điểm kinh tế hái ra tiền do ai làm chủ? Đồng bằng sông Cửu Long là vựa thực phẩm của cả nước nông dân vẫn nghèo xơ xác, cơ sở hạ tầng không được nâng cấp như các nơi ở phía Bắc mà một tờ báo chỉ nhắc thoáng qua đã bị phạt đình bản 3 tháng? Tại sao Sài Gòn “phồn vinh giả tạo” bây giờ vẫn là “đầu tàu kinh tế cả nước”?
Còn với lãnh vực văn minh, văn hóa thì ngược lại. Phía Bắc cố gắng đồng hóa phía Nam bằng thứ ngôn ngữ đặc trưng XHCN. Ngọng nghịu, chói tai, kẻ cả. Vì thế tính “ưu việt XHCN” đó thất bại ngay từ đầu. Chẳng những không hủy diệt được “cặn bã Mỹ Ngụy”, dù tổ chức chiến dịch đốt sách, nhưng ngọn gió văn minh thổi “tro tàn” của nó bay ngược tràn lan ra khắp phía Bắc rất nhanh. Những tác phẩm văn học, nghệ thuật thay vì tàn lụi thì mỗi ngày một sống lại, dù chẳng có ai tuyên truyền. Nhạc Vàng, nhạc bolero… các ca sĩ già U70 cỡ Chế Linh, Khánh Ly, Hương Lan, Elvis Phương, Lệ Thu… ở ngoài nước được mời về hát, được đón tiếp nồng nhiệt với tiền cát xê hậu hĩnh trong lúc đó NQ 36, cái gọi là “hòa hợp hòa giải”, chỉ biết “ăn theo”! Thực tế sờ sờ như thế do ai “chủ đạo”?

VNCH tồn tại chỉ 20 năm trong thời chiến mà đến bây giờ, 44 năm sau, những tác phẩm, tác giả thời đó càng ngày càng được nhiều người ưa thích, tìm đọc. Tại sao?

Sự thật khách quan như thế! Sự thật đó cho biết VNCH đã đi vào lòng dân tộc, đi đúng hướng văn minh của thời đại. Vì thế cho dù có bị phỉ báng, bị vùi dập cỡ nào thì chính nó vẫn tiềm ẩn trong lòng xã hội, như một thân cây bất ngờ bị giông bão làm gãy ngang nhưng rễ của nó vẫn sống trong lòng đất. Lòng đất là lòng người. Được lòng người nuôi dưỡng, che chở gìn giữ nên nó tồn tại.

44 năm của đời người thì rất dài nhưng 44 năm của dòng lịch sử lại ngắn. Một chế độ chỉ tồn tại vỏn vẹn 20 năm (1955-1975) tưởng đã là cát bụi nhưng mạch sống của nó vẫn tiềm ẩn trong lòng người nên lại vươn lên. Là những cơn sóng ngầm làm chế độ đang băng hoại thêm lo sợ. Như những đóa tulip ẩn tàng dưới băng giá mùa Đông đợi đến mùa Xuân sẽ nứt tuyết nhú lên đẹp lóng lánh, khoe sắc dưới ánh mặt trời.
Đó mới thật sự là chiến thắng. Một chiến thắng rạng rỡ, nhân văn, không hề có tiếng súng hay hận thù.

Quy luật của lịch sử là thế. Chẳng có “3 dòng thác cách mạng” nào cuốn phăng được bọn “tư bản giãy chết” mà chỉ có Thịnh vượng, Văn minh đối đầu với Đói rách, Ngu dốt.

Một chế độ chỉ còn biết dựa vào sức mạnh, cố bám víu vào quân đội và công an “còn đảng còn mình”, vẫn chủ trương giáo dục nhồi sọ, ngu dân, vì sợ dân biết sự thật, chế độ đó đã tự phơi bày ra sự sợ hãi tột cùng.

Tội ác phải sợ hãi Công lý. Bóng tối phải sợ hãi Ánh sáng. Và Ánh sáng là sự Sống. Sự Sống tất thắng.

Kong Kong

(6/4/2019)
_____________________

 

Tháng tư ngày đó

Nguyễn Thị Thêm

Tháng ba 1975 Đà Nẵng trong cơn sốt chiến tranh. Ngôi trường tôi dạy tạm thời cho học sinh nghỉ học. Người dân tị nạn từ các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị chạyvào lũ lượt. Trường mở cửa để làm trại tiếp cư. Các giáo viên phải có mặt để giúp đở dân chúng.
Nhà tôi ở đối diện với trường học. Đó là lý do tôi nhất định xin về dạy tại đây để tiện việc đi về. Mặc dù bên Ty Giáo Dục Đà Nẵng đã bố trí tôi dạy tạitrung tâm thành phố.
Con nhỏ tên Khanh dạy chung trường với tôi đã khuyên tôi từ tháng trước:
- Em nói với riêng chị, Đà Nẵng sẽ mất về phía bên kia. Chị nên rút hết tiền nhà băng ra và tìm cách cho anh ở nhà đừng về đơn vị. Quân Giải phóng sắp về.
Tôi nhìn Khanh bằng đôi mắt nghi ngờ. Đã từng ở vùng xôi đậu, tôi hiểu hai bộ mặt của một con người. Tôi nói:
- Em làm việc cho phía bên kia hả?
Nó cười:
-Em mà làm gì. Em nghe người ta nói!
Thế là Khanh rút tiền ngân hàng, dẫn nhóm tôi đi Chợ Cồn ăn uống một bữa thịnh soạn. Em mua tặng cho mỗi đứa một xấp vải áo dài hoa đồng màu và lơi dần không đi dạy. Chúng tôi phải thay phiên nhau đứng lớp dùm. Khi đoàn người tị nạn về trường, Khanh chỉ có mặt vài lần để xem tình hình. Lần cuối em nhắc tôi lần nữa:
- Chị đã làm như lời em dặn chưa? Hãy tin em. Em coi chị như chị ruột nên mới dám nói. Chị xem em nè.
Nói xong Khanh xòe hai bàn tay đã cắt móng sạch sẽ không sơn màu mè đỏ rực như lúc trước. Nó ôm tôi thật chặt. Cho địa chỉ nhà dặn khi nào cần thì tìm nó.Xong nó biến mất không tới trường.
Tôi lúc đó chạy qua chạy về phụ sắp xếp và giúp đỡ cho bà con trong nỗi lo sợ. Thế nhưng tôi nói ra thì mẹ chồng không tin, còn chồng thì ở mãi đơn vị vớibao nhiêu tin xấu từ hậu cứ đưa về.
Đêm đêm pháo dội về ầm ĩ, vì nhà tôi gần phi trường Phước Tường. Đêm nào tôi cũng ôm con chạy xuống hầm trú ẩn. Tôi cũng như mọi người dân ở đây sống hồihộp vô cùng.
Radio loan tin quân ta đã tháo chạy nhiều nơi và Đà Nẵng trong cơn dầu sôi lửa bỏng. Thiên hạ đua nhau tháo chạy về hướng bến tàu, nhà cửa bỏ trống, mọingười không màng làm ăn, chỉ nghe ngóng và bàn tính đi hay ở lại. Chợ thưa dần, dường những tên nằm vùng đã chính thức lộ mặt. Chồng tôi vẫn còn ở bộ chỉ huy trung đoàn. Mọi tin tức về anh mù mịt, không biết dọ hỏi nơi nào. Ai chạy mặc ai, chúng tôi chỉ ngồinhà chờ tin anh trong sự hồi hộp và hoang mang.

Ngày tiếp ngày, Đà Nẵng vẫn hổn loạn, bọn hôi của nhào vào những nhà chạy loạn lấy đồ. Những chiếc xe đạp, xe Honda, xe ba gác xuôi ngược với đủ thứ đồ dùnggia đình trên đó.  Đà Nẵng bắt đầu xuất hiện những người mang trên tay những băng đỏ. Họ nghênh ngang đi khắp mọi nơi, mặt đằng đằng sát khí.  Những tin xấu trên radio vẫn liên tục đưa về. Chồng tôi vẫn bặt tăm. Chết sống ra sao không rõ.
Nhà tôi cũng là một trại tạm cư, ba gia đình bà con bên chồng từ Quảng Trị vào lánh nạn.  Mụ Xếp đến ở nhà tôi với cô con gái thật đẹp tuổi đang độ 17, 18. Đây là gia đình có người đi tập kết. Họ vui ra mặt khi cuộc chiến mỗi lúc nghiêng về phía bên kia. Gia đình anh Bi với hai vợ chồng và 5 đứa con nhỏ. Gia đình chú Đen, 2 vợ chồng với đứa con trai. Mẹ chồng tôi đã mua gạo thật nhiều gạo và thức ăn khô dự trữđể phòng khi hữu sự. Bây giờ là lúc phải dùng để phục vụ cho  hơn 10 người đến ở mà không biết khi nào cuộc chiến chấm dứt.
Gia đình mụ Xếp bán vải nên đồ đạc mụ đem tị nạn chất chật căn phòng bên hông nhà. Vợ chồng anh Bi sáng sớm là bỏ đi ra ngoài. Tôi không biết anh chị đi đâu, bầy cháu tôi phải lo cho ăn uống và chăm sóc. Mỗi lần về đến nhà là đem rất nhiều đồ đạc. Anh chị bỏ vào trong phòng khách dành riêng cho anh chị. Tôi đoán anh chị đi hôi của những tiệm mà chủ đã bỏ đi ra bến tàu, nhưng không dám hỏi.
Tôi bận bịu với trường, con và 5 đứa cháu. Nấu nướng, cơm nước liền tay. Mẹ chồng tôi hết đi ra rồi đi vô, thở dài lo lắng. Có lúc bà và Mụ Xếp dẫn nhau đi dò tình hình cả buổi trời. Về nhà bà ngồi khóc vì không biết con trai mình sẽ ra sao.
Cuối cùng, trong cơn hổn loạn đó, chồng tôi đã về với một toán lính mặt mày  xơ xác, đầy mỏimệt và sợ hãi. Họ mặc quân phục, súng ống đầy đủ vì từ căn cứ về. Nghe kể, chồng tôi ở trung tâm hành quân và nhận lệnh bỏ ngõ, nhưng không liên lạc được với Đại đội cũ của mình. Lo cho lính tráng anh đích thân lên tận nơi đóng quân của Đại đội  để kéo họ về. Lịnh trên tuyên bố bỏ Đà Nẵng, ở lại chiến đấu chỉ có con đường chết. Cho nên anh cùng một số lính về đây. Một số tan hàng đã trà trộn với dân chúng tìm về gia đình.
Tôi lo làm cơm nấu thức ăn cho một đại gia đình tối tăm mặt mũi. Ăn cơm xong, chồng tôi quyết định cùng anh em ra bến tàu chạy về Sài gòn.
Có người về báo tin ở bến tàu rất hổn loạn, lính và dân tràn về không thể chen chân. Mọi người tranh nhau tìm một chỗ để thoát khỏi Đà Nẵng. Nghe nói cónổ súng và có người chết.

Má chồng tôi lưỡng lự không muốn chạy vì còn phần mộ tổ tiên ở quê. Thương con bà đành chìuchúng tôi, miễn cưỡng đi theo. Mấy gia đình tạm cư nhà tôi họ ở lại chờ tình hình. Gia đình tôi nói lời từ biệt và gửi nhà lại cho họ trông chừng dùm. Những người lính đi thành một vòng cung bảo vệ đưa gia đình ông thầy ra bến tàu. Đi được một quảng đường,hòa mình vào dòng người di tản đông đúc, hỗn tạp, má chồng tôi không đi tiếp. Dừng ngay giữa đường, bà nói:
- Thôi! Vợ chồng mi đi đi. Mạ không đi nữa, mạ về có chết ở cươi mạ cũng chịu. Nếu còn sống thì mạ về quê lo phần mộ tổ tiên ông bà.
Là con một, mẹ anh ấy đã ở vậy nuôi con từ lúc chồng mất thật sớm, chồng tôi không thể làm đứa con bất hiếu. Anh quyết định ở lại cùng mẹ. Từ giã đồng đội, chồng tôi dẫn mẹ và vợ con rẽ đoàn người để  ngược lại về nhà. Đó là ngày 28/3/1975.
Về nhà được một chút, mừng vì nhà không bị người ngoài vào hôi của. Chưa biết phải làm gìtrong tình thế hổn loạn, thì xe chở người bên kia, cờ xí rợp trời, reo la inh ỏi chạy ngang đường lộ. Đà Nẵng đã thật sự thất thủ.
Tới tối, những người lính lục đục trở về nhà tôi trong sự sợ hãi, mọi việc đã kết thúc. Tôi lôi đồ dân sự của chồng phân phát cho họ. Mấy anh em quăng  quântrang, súng, đạn xuống  cái hố kế ao rau muống sau nhà. Cuộc đời binh nghiệp chấm dứt hôm nay.
Chồng tôi cố thủ trong nhà để chăm mấy đứa cháu và con. Tôi đi chợ nấu ăn tất bật cả ngày. Những người lính cũng chỉ biết ngồi nhà nghe radio, thỉnh thoảngra ngoài nghe ngóng. Không khí trong nhà trầm lại, nặng nề. Dường như có một bàn tay vô hình siết chặc cổ. Đau đớn, ngộp thở không thể vẫy vùng. Những người cùng quê ra khỏi nhà mỗi ngày, chôm đồ cũng có, tìm bà con cũng có. Họ dọ dẫm tìm phương tiện về lạiQuảng Trị.

Cuối tháng ba, đầu tháng tư  những người bà con bên chồng tôi từng đi tập kết đã có mặt ở Đà Nẵng. Họ tìm cách liên lạc và nhắn tin khuyên má chồng tôi về quê.  Những người tạm cư nhà tôi lần lượt rời nhà tôi để về quê. Khi đi họ ít đồ. Khi về nhiều hơn. Chỉ có nhà tôi gạo cũng lưng, thức ăn cũng hết và tiền bạc cũng không còn là bao. Bây giờ đã đến lúc mạnh ai nấy bơi.
Tôi thuyên chuyển về đây dạy học, lương truy lãnh đầu tháng tư sẽ nhận coi như mất trắng. Mẹ con tôi dành dụm mới mua cái nhà này. Bà chủ nhà bán gấp để theo Cha Đạo vào Nam. Mọi sự việc xảy ra bất ngờ ngoài sức tưởng tượng. Tuy nhiên chồng tôi còn sống và về nhà kịp thời là sự may mắn nhất hiện giờ.
Những người lính quê miền Trung chia tay chúng tôi về lại gia đình. Những người quê miền Nam không biết đi đâu, vẫn ở lại nhà tôi chờ đợi tình hình. Họ lànhững người bạn, người em chân thành dễ mến. Họ cũng như tôi đang hướng về Sài Gòn với tất cả thương yêu và lo lắng.

Má chồng tôi quyết định đem gia đình về lại quê nhà để ổn định đời sống. Nhất là để gặp lại người em trai út đã tập kết ra Bắc bao nhiêu năm không gặp.Tôitìm Khanh, nhỏ bạn dạy chung. Đến nhà mới phát hiện nhà Khanh là căn cứ  nằm vùng. Ba em ấy là thành ủy và  gia đình thuộc thành phần  cốt cán của chính quyền mới.
Khanh khuyên tôi đừng về Quảng Trị, hãy ở lại Đà Nẵng vì ở thành phố chính sách cho "lính ngụy" sẽ khác hơn. Tôi không thể cưỡng lại quyết định của mẹ chồngvà chồng nên đành phải ra đi. Khanh dẫn tôi đến Ty Giáo Dục Đà Nẵng. Giữa cơn hỗn loạn, giấy tờ văn thư tung tóe khắp nơi, mà em vẫn tìm ra người tiếp quản . Em xin cho tôi được giấy thuyên chuyển từ ty giáo dục Đà Nẵng về Quảng Trị. Đưa giấy tờ cho tôi. Khanhdặn:
- Em khó khăn lắm mới có được giấy này. Chị phải giữ kỹ, không thể xin cái thứ hai. Vì khi ổn định, thành phần cán bộ cốt cán sẽ thay đổi . Chị nhớ chỉ trao cho Ty Giáo Dục Quảng Trị, không đưa cho bất cứ ai ở cấp Xã, Huyện. Chị phải đi dạy vì chị là một nhà giáo giỏi, có chuyên môn.
Khanh ôm tôi lưu luyến và từ biệt. Còn tôi trong vòng tay ấm áp đó tôi chợt rùng mình. Thì ra lâu nay bên cạnh mình là người của phía bên kia. Thật đángsợ. Kể từ hôm đó, tôi không hề biết tông tích hay liên lạc với Khanh cho đến bây giờ. Cám ơn Khanh đã hết lòng giúp đở.
Đúng như Khanh đã nói, tiền gửi ngân hàng của gia đình tôi không lấy được một đồng. Nhưng với tính cả tin, mẹ chồng tôi vẫn nuôi hy vọng chính phủ mới sẽ trả lại cho mình, vì mình gửi ngân hàng nhà nước. Mình là dân, nhà nước nào, chính phủ nào cũng đối xử với dân như nhau mà thôi.

Căn nhà của tôi đã được tháo gỡ, đồ đạc chất một đống trước sân. Che vài tấm tôn làm chỗ ngủ ban đêm và trưa nắng. Tôi như người mộng du làm việc liền tay mà đầu óc không tỉnh táo. Tôi sẽ về đâu, quê chồngtôi sẽ đến như thế nào?. Gia đình anh em tôi loạn lạc này sống hay chết? hai giới tuyến khác nhau biết bao giờ tôi mới gặp lại mẹ cha. Tôi có còn tiếp tục đi dạy được không? Cuộc sống mới sẽ ra sao?
Mẹ chồng tôi mừng vui ra mặt. Bà chỉ có một thằng con trai. Bây giờ im tiếng súng không còn chiến tranh. Hòa bình về rồi, quê hương là vòng tay ấm áp ôm những người xa xứ về lại gần gũi bên mồ mãtổ tiên. Bà sẽ về quê, sum họp với bà con làng nước, sửa sang lại nhà từ đường, vun quén lại mãnh đất bà từng sinh ra và lớn lên. Bà sẽ không còn lo sợ cho con trước làn tên mũi đạn.
Những người bên kia tìm cách liên lạc về:
- Mụ trở về làng mền đi. Không răng mô. Chi chứ việc của hắn có bầy choa lo, vợ hắn đi dạy tại làng. Mụ chừ yên tâm khỏi lo chi súng đạn. Đảng sáng suốtlắm. Mụ sợ chi. Chú chồng tôi từ quê cũng nhắn vào:
- Mụ về làng đi. Tui cho một sào lúa sắp chín ngoài đồng. Mụ về gặt mà ăn, lo chi đói với khổ. Khi mô mụ lo cho chúng tui, bi chừ tới lúc bầy choa lo chomụ.
Ôi! những tin thật tốt, những tấm lòng mở ra như như hoa như gấm. Xóa đi bao nhiêu lời khuyên chân tình của tôi. Tôi khuyên gia đình chồng tôi khoan về quê,cứ ở lại đây chờ tình hình. Người ta sao mình vậy. Xem sao đã rồi hãy tính. Nhưng tiếng nói của tôi rơi vào vô vọng, khi mẹ chồng tôi buông một câu như đinh đóng cột với sự đồng tình của chồng tôi:
- Mi muốn ở lại thì ở. Tao và hắn sẽ đem con bé về quê. Mi mần răng thì cứ làm.
Tôi ở lại ư? Nhà đâu mà ở, tứ cố vô thân biết sống với ai. Còn con tôi, núm ruột yêu thương tôi không thể xa cách. Tôi ngậm ngùi buông xuôi số phận.
Mẹ chồng tôi cả tin nên không mua gạo đem về quê. Gạo nhà dự trữ đã  gần hết, Má chồng tôi chỉ cần gạo đổ vào các thùng đạn để chén, dĩa kiểu cho khỏi bể mà thôi. Khi tôi nói bà mua vài bao gạo đem về quê, bà lắc đầu cười rạng rỡ:
- Về làng mình ăn gạo mới con hè! Chi chớ lúa mới gặt về, chà ra, nấu cơm ăn với ruốc và rau luộc thì ngon chi lạ. Ai lại chở củi về rừng.
Bà thuê một chiếc xe tải chở nhà và gia đình về quê với giá hơn một cây vàng. Bà không tiếc nuối vì nghe lời cách mạng.
Một người lính miền Nam là đệ tử ruột của chồng tôi, theo chuyến xe tải má chồng tôi mướn,cùng chuyển đồ đạc gia đình tôi về quê. Em ở lại phụ dựng nhà xong mới từ giã tìm đường về với gia đình. Chúng tôi sau này ở trong Nam cũng cố gắng đi tìm nhưng không gặp lại. Chúng tôi đã biệt tin em tới bây giờ.

Đây là lần đầu tiên tôi biết đến quê chồng. Một miếng đất từ đường nho nhỏ, căn nhà gạch bị hư nhiều, bây giờ được làm nhà bếp. Nhà từ Đà Nẵng đem về đượcdựng lại làm nhà trên. Gia đình bên chồng tôi đa phần làm nghề mộc nên anh em mỗi người góp một tay chỉ mấy ngày là xong. Chúng tôi tạm thời ổn định chỗ ở.
Con sông Ô Lâu rất gần nhà. Nước trong veo, cá lội nhìn thấy rõ ràng. Tắm giặt lấy nước uống, nước xài gì cũng ở đó. Tôi ra bến loay hoay không biết làmsao lấy nước. Không biết làm sao tắm. Mỗi chiều vợ chồng tôi tập gánh nước. Tôi tập gánh mỗi đầu 1/4 thùng nước rồi tăng dần dần. Vai sưng to đau nhức. Đã vậy tôi không dám tắm sông. Cứ khệ nệ gánh nước về nhà để tắm. Có lần chồng tôi xô tôi đại xuống sông rồi nói: "Tắm là vậy đó. Có gì khó đâu" Thế nhưng tắm sông đối với tôi cũng kỳ kỳ vì tôi không quen.
Nhà quê cho nên chỉ xài đèn dầu và cũng không có bếp gas. Về đây đầu tiên là phải kiếm cái gì để chụm lửa nấu cơm. Mấy mẹ con đi ra chợ quét lá cây bàngvề thổi. Quơ nè tre gai đâm tay chảy máu. Con bé lớn đi qua nhà máy xay lúa xin trấu về chụm.Vợ chồng tôi xin ông chú gốc rạ ngoài đồng và cắt gánh về phơi khô chụm lửa. Hai vợ chồng gặp mưa và gió lớn. Tôi ướt mem, gió thổi muốn bay cả người và quang gánh.Chồng tôi lôi tôi vào trường học trú mưa. Anh lau nước mưa trên mặt tôi thương cảm. Đó là cái nhìn âu yếm lần cuối cùng trước khi anh đi tù Cộng Sản.

Vợ chồng tôi trình diện chính quyền địa phương. Ông Bí thư, ông Chủ Tịch đều là người làng.Cả hai nhìn chúng tôi như những con vật bị ghẻ lở. Họ soi mói nhìn tôi, một người phụ nữ ngụy quyền miền Nam có một đứa con lai Mỹ. Dù đứa con gái ấy tôi không sinh ra nhưng tiếp tay nuôi dưỡng tàn dư Đế quốc thì tội còn nặng hơn lỡ có con với Mỹ. Ông Chủ tịch xã giơ hàm răng vàng khè cáu thuốc lào cười vào mặt tôi:
- O có tội. Tội nặng lắm. Phải đi học tập, phải học tập cải tạo thông suốt mới được trả quyềncông dân.
Chồng tôi bị Ủy Ban Xã đòi phải đưa ra tất cả huy chương anh đã được. Phải bằng vàng, bằng đồng thực sự. Họ không tin những huy chương đó chỉ là tượng trưng. Giấy tờ chứng minh đưa ra chúng bảo không hợp lệ. Lại một phen cãi vã sôi nổi của chồng tôi và nhóm cán bộ ngu ngốc mới từ miền Bắc vô. Chồng tôi bị ghi sổ bìa đen vì dám chống cự cãi tay đôivới cán bộ.
Các chú  chồng và cậu chồng tôi phán những câu thật mới mẻ và nhớ đời:
- Mi là đại úy, mi  có tội với Đảng với đồng bào. Tại sao mi ngoan cố cãi chi với cán bộ. Mi đi học tập cải tạo tư tưởng tốt sẽ được chính phủ khoan hồngvề sum họp gia đình. Gia đình mi ở nhà có Đảng và nhà nước lo.
Thế là chồng tôi được lệnh gọi, khăn gói đi tù tận miền Bắc thâm sơn nước độc suốt hơn 8 nămtrời. Không như miền Nam còn được về nhà rồi mới đi tiếp. Chồng tôi một lần đi và biệt vô âm tín.
Má chồng tôi bán nữ trang để mua gạo ăn ngay tuần đầu tiên dọn về. Bà bị rơi từ thất vọngnày đến thất vọng khác. Bà không còn cười sảng khoái như trước. Bà thường khóc tức tưởi và bệnh thật nặng. Trong bà niềm hối hận vì nhẹ dạ cả tin Thương con đi tù không tin tức. Thương dâu ruộng đồng cực khổ. Không có cái ăn, bà phải vất vả buôn bán, nên bà đau yếu triền miên.
Tôi bị trấn lột hết giấy tờ tùy thân kể cả giấy thuyên chuyển đi dạy. Họ tuyên bố mọi việc được quyết định từ cấp xã. Muốn đi lên tỉnh không có chữ ký của xã tôi không thể rời khỏi làng. Họ cho tôi đi học tập chính trị tại Đông Hà 3 tuần. Ở nhờ  nhà dân, mọi sự tự túc. Con bé em ở nhà khát sữa không có mẹ. Làm gì có sữa Similac để bú, sữa hộp muacũng không có tiền. Bà nội cho uống nước cháo pha đường đỡ đói. Ở đây tôi lên cơn sốt vì sữa căng cứng không biết sao giải quyết. Cuối cùng phải nhờ con người dân bú thép dùm.
Những buổi học chính trị nhàm chán, những bài giảng huấn vô lý và ngang ngược. Nuốt vào lòng bao bất mãn tôi chịu đựng để còn về với con. Một người trongkhóa học vô tình hỏi một câu ngô nghê:
- Xin hỏi cán bộ.  Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đặt thủ đô ở nơi nào trong nước ta?
Thế là hôm sau anh ta khuất bóng. Nghe nói đã được lịnh thuyên chuyển đi học tập nơi khác rồi.

Sau hơn 3 tuần đi học chính trị tại Đông Hà tôi chính thức được gia nhập hợp tác xã nông nghiệp.Ông chủ tịch nói với tôi :
- Giấy tờ đi dạy của O tui giữ. O phải tập lao động chân tay. O lao động tốt thì chồng O sớmvề. O ngoan cố, chồng O không được khoan hồng.
Cái mắc xích giữa người ở nhà và tù cải tạo ràng rịt như vậy nên tôi đành chịu nhịn sang sông.Tôi đã biết thế nào là lao động vinh quang. Biết thế nào là xã viên hợp tác xã miền Bắc. Thế nào là người dân dưới chính quyền Cộng Sản. Đây là một miền quê chuyên về trồng lúa. Tất cả ruộng của người dân bị xung vào hợp tác xã nhà nước. Trâu bò cũng vậy.Trong xã chia nhiều đội lao động dưới quyền một ông Đội trưởng, một đội phó và một thư ký đội. Đội tôi là đội 11.

Tất cả việc làm ngoài đồng đều được làm bằng sức người và sức trâu. Trâu cày, bừa và đạp lúa.Còn lại người xã viên làm mọi việc. Cuốc đất, gieo mạ, cấy lúa, làm cỏ, xịt thuốc, bón phân, cắt, gánh lúa...Tất cả công đoạn, mọi xã viên đều phải được phân công làm. Không vì yếu hay không biết mà miễn trừ. Mọi người đều phải lao động như nhau, hưởng quyềnlợi như nhau và xem chừng lẫn nhau.
Tôi đã được phân công chăn trâu ngay từ ngày đầu tiên vào đội.  Tôi về nhà ôm mặt khóc vìsợ. Cả đời tôi không biết ruộng nương. Trâu là con vật tôi sợ nhất với cái sừng to và dài. Vậy mà tôi vẫn phải "Chăn trâu sướng lắm chứ". Tôi cắt cỏ cho trâu ăn bị gai quàu chảy cả máu tay. Không đúng loại cỏ, trâu chê, tôi không có điểm. Tôi cấy lúa hè thuông xã trưởng đến ngay lối nhổ lên coi, độ sâu không đúng, bị mất điểm hôm đó.Tôi đi đạp nước ruộng sâu, đi bộ đến nơi là gần một ngày trời. Một tuần đạp nước, mỗi lần đạp là hai người, không quen làm, tôi bị bàn đạp đập vào chân bầm tím. Họ cho tôi đạp ít,nấu cơm nhiều. Cuối cùng bị trừ điểm . Tôi cắt lúa không quen cầm vằng tay bị thương chảy máu. Tôi không biết  dùng đòn xốc  đâm bó lúa để gánh đi,phải nhờ người khác giúp bị trừ điểm. Tôi gánh lúa không nổi và về sân đội chậm, bị trừ điểm.
Cuối cùng điểm nào tôi cũng thấp. Nhưng tôi học được nhiều thứ ở đây mà không trường nào dạy. Đó là kiên trì chịu đựng và học hỏi.  Sống ở đây mới biết miền Nam mình quá ư trù phú, sung sướng. Thật lòng, chỉ khi làm một xã viên hợp tác xã mới thấy thương dân miền Bắc và yêu quý vô cùng cuộc sống dưới chính thể VNCH tự do dân chủ.

Tham gia hợp tác xã, mọi xã viên ăn cơm nhà đi lao động. Lúa chỉ được chia khi vụ mùa kếtthúc. Sau khi đóng thuế cho Xã, trả nợ phân, lúa giống, thuốc trừ sâu... còn lại mới chia cho xã viên. Lúa được chia theo công điểm lao động cộng lại suốt vụ mùa. Điểm  lao động được bình bầu sau mỗi ngày làm việc. Mà bình điểm lao động mới nhiêu khê.
Sau khi được lệnh nghỉ việc, cả nhóm ngồi lại và mỗi người đứng lên tự nhận xét mình làm hôm nay tốt hay không, đáng bao nhiêu điểm. Mỗi xã viên có ý kiến nhận xét số điểm ấy có xứng đáng hay không. Đồng ý thông qua hết, thư ký mới ghi vào sổ. Bình tới bình lui, tranh nhau, cãi nhau từng điểm một. Hôm nào về nhà cũng tối om. Tôi đi bờ ruộng khôngquen cứ bị sụp chân lọt xuống ruộng hoài.  Hai chân mốc cời, gót chân nứt nẻ. Lẹt đẹt đi sau, sợ ma muốn khóc.  Ôi còn đâu cái thời điệu đàng mang guốc cao đứng trên bục giảng.
Tôi là dân chưa hề biết ruộng đồng nên công điểm có là bao.  Nhất là cái khoản bình điểm tôi thấy như tập cho con người tranh chấp nhỏ mọn soi mói lẫn nhau. Thật là một việc làm đáng xấu hổ. Coi quyền lợi cá nhân quá lớn không ngại bôi bẩn hay hạ gục người khác. Tôi không bao giờ tự cho điểm mình hay bình điểm xấu cho người khác. Khi tới phiên tôi, tôi chỉ xin tập thể cho bao nhiêu cũng được. Tôi đến đây để học làm cho nên không biết đáng được bao nhiêu điểm. Do đó cuối mùa lúa tôi chỉ được 100 ký thóc và vài gánh rơm đem về chụm lửa.

Mẹ chồng tôi bán dần nữ trang để mua gạo và thức ăn. Khi lấy lại cân bằng, bà phải thích nghivà bắt đầu buôn bán lại để có đồng ra đồng vô nuôi cả gia đình. Mọi sinh hoạt đều nhờ vào sự bươn chải của bà mẹ già tội nghiệp. Tôi không quen ngôn ngữ và phong tục, không biết buôn bán, lại phải đi lao động hợp tác xã nên thật tội nghiệp mẹ chồng tôi cựckhổ nuôi dâu và nuôi cháu.
Một lần cả ba bà cháu đều bệnh. Mẹ chồng tôi đau buồn, sức yếu không ngồi dậy được, toàn thân đau nhức. Tôi đun rơm nấu ba nồi nước. Một nồi nước lá thuốc, một nồi nước chè xanh, một nồi nước trà tươi để bà cần thứ gì thì có. Sáng sớm lo cho mẹ chồng xong, tôi để con bé nằm bên nội, cõng con bé lớn đi trạm xá.
Đoạn đường làng thật xa. Hai chân con như muốn quẹt dưới đất. Những cơn ho làm con bé như muốn ngất đi. Làn da trắng tái lại tội tình. Đến nơi khai bệnh để lấy vài viên xuyên tam liên đem về. Buổi chiều bồng con bé em đi trạm lần nữa cũng để lấy vài viên xuyên tam liên tán ra cho uống. Biết rằng thuốc cũng chẳng trị được gì, nhưng có sự chứng nhậncủa trạm, tôi mới được phép ở nhà chăm con.
Nhìn căn nhà trống vắng, nhìn ba người nằm rũ trên giường vì bệnh. Tôi muốn chết cho xong.Tôi ra giữa trời khấn tứ phương, tôi xin cho tôi một lối thoát, tôi xin cho mẹ chồng và hai đứa con tôi bình an. Tôi như muốn điên lên vì bao nghịch cảnh. Như một người máy hay một người mất trí, tôi ra vườn hái đủ loại cây cỏ kể cả dây tơ hồng, cỏ vườn chầu,rau má, cỏ gấu, mã đề, rau húng quế, rau sam, dây cứt quạ, dây nhãn lồng... Tôi chặt ra, phơi khô rồi rang thủy thổ. Tôi nấu nước cho cả ba người cùng uống. "Liều mạng". Tôi nhủ thầm.
Thế mà mẹ chồng tôi ngồi dậy được, con bé lớn giảm ho, con bé em bớt sốt, những ban đỏ nổilên rồi từ từ lặn. Một sự trả lời diệu kỳ từ ơn trên. Tôi cảm thấy mình vững tin hơn về sự sắp đặt an bài từ cõi vô hình. Tôi mạnh dạn đối diện thực tế. Tôi cứng cỏi hẳn lên. Tôi phải gánh vác cùng mẹ chồng lo nuôi con khôn lớn.

Tôi được tin Sài Gòn thất thủ vào một buổi chiều trên đường từ ruộng về nhà. Xa xa đã ngheloa của Xã vang vang báo tin toàn thắng.  Tôi khựng lại để nghe một lần nữa rồi lặng người đi. Vậy là toàn cõi VN đã là của Cộng Sản. Đành chấp nhận như một định mệnh đã an bài. Trong tôi nhen nhúm một niềm vui đoàn tụ song thân. Bên bờ sông Ô Lâu nhìn dòngnước êm đềm trôi tôi lại nghĩ đến Sài gòn trong cơn hổn loạn như Đà Nẵng trước đây. Nhưng tôi thật sự không thể tưởng tượng được sự hỗn loạn đó kinh khủng đến thế nào.
Chồng tôi vẫn biền biệt. Hình như anh đã được chuyển ra Bắc nhưng nơi nào thì chưa có tinvề. Tôi ôm con vào trong lòng. Con bé ốm yếu xanh xao tội nghiệp. Mọi thứ đã chấm dứt hôm nay. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ được trở lại nghề dạy học. Tôi biết con đường phía trước sẽ đầy dẫy chông gai và tủi nhục. Tôi hoàn toàn không biết tin tức chính xácvề Sài gòn. Chỉ biết tổng thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng và toàn cõi VN đã rơi vào tay Cộng Sản.

Con bé lớn tôi đi học. Tờ giấy khai sinh kèm theo hồ sơ đóng một cái mộc đỏ "Con ngụy quân,ngụy quyền" làm tôi chới với. Làm sao thoát khỏi mấy chữ đỏ này trong suốt cuộc đời con tôi. Con bé em lớn dần và bập bẹ nói. Mỗi khi đi ngang cỗng chào của xóm có hình ông Hồ và tấm bảng "Độc lập, tự do, hạnh phúc" Cháu giơ tay lên "Muôn năm, muôn năm". Trời ơi! những câu hô hào khẩu hiệu hàng ngày trên cái loa trước trụ sở Ủy Ban đã dạy con tôi hai chữ này. Mọi thứ nhồi nhét vào đầu óc trẻ thơ cho tôi thấy sự khác biệt của nền giáo dục tôi từng học và dạy  khác với bây giờ như thế nào.
Con bé chị đi học về hỏi tôi;
- Mạ có biết răng mà mền được như ri không? Tôi trả lời con là Không biết. Con bé hí hửng trả lời:
-Rứa là nhờ Bác Hồ Chí Minh hy sinh cứu nát. Khôn có Bác mền chết đói. Cô con dạy như rứa. Mền phải nhớ ơn Bác Hồ Chí Minh".

Học tập và giáo dục chính trị dường như tổ chức thường xuyên cho mọi người dân trong làng xã. Buổi tối đi làm về chưa kịp ăn cơm đã nghe kẻng đội vang lênbáo tin lên Ủy Ban học tập.  Có khi về trễ không kịp tắm rửa thay đồ, nghe kẻng đội đánh là phải đi ngay. Mọi người tay cầm con cúi (là rơm bện thật chặc dùng để đốt lên làm đuốc đi đêm) để đi họp. Trên chiếc bàn con, đèn dầu leo lét, cán bộ miền Bắc quầnchẻn áo ngắn nói như vẹt. Vừa dai, vừa dài vừa vô lý kéo dài trong cái ngáp mệt mõi và ngủ gật của bà con xã viên.
Tan buổi họp, từng đoàn người như những bóng ma với đóm lửa lập lòe đi vào từng xóm. Những hàng tre  trúc thấp thoáng ánh lửa như âm hồn phảng phất trở về.

Tháng tư năm 1975, người con gái Biên Hòa hoàn toàn đổi đời để sống cho chồng và cho con. Tôi quên mình là ai và hòa nhập với đời sống một xã viên hợp tác xã. Dần dần giọng tôi cứng lại. Tôi nói chuyện bằng âm hưởng của người Quảng Trị nặng và trầm. Tôi dùng những từ địa phương mà người miền Nam không thể nào hiểu được. Thí dụ như "Lấy chỗi quét sân", tôi sẽ nói "Lấy chủi suốt trươi." "Vợ chồng" sẽ dùng chữ "Cáy Dôn", "Uống nước" là "Uống nát", "Cắt gốc rạ" gọi là Bứt Tót"... Mặt tôi sạm đen, chân mốc cời nứt nẻ. Bàn tay ô dề chai cứng, lưng bàn tay chằng chịt những đường gân nổi lên xấu xí. Chiếc vòng cẩm thạch lên nước xanh tuyền ngày xưa, đã bị vùi xuống bùn đen làm chết ngọc. Tôi muốn cỡi ra cất đi nhưng bàn tay đã quá to không cách nào lấy ra được.
Tôi đã có thể chăn trâu, ra lịnh cho trâu đi hay đứng lại. Biết cỏ nào trâu ăn, cỏ nào trâu chê. Việc làm ruộng tôi cũng quen dần. Tôi đã không còn sợ đỉa. Quen dần những câu nói chơi, nói lóng tục tỉu của những người nông dân khi xuống đồng hay gặt lúa. Tôi đã biết cười mỉm khi nghe những bài lên lớp thần thoại Liên Sô vĩ đại hay sự trù dập của những người cầm quyền. Tôi không giận khi họ lấy tôi làm đề tài để chế nhạo vợ sĩ quan ngụy mất nết, hám danh. Tôi không nhục khi họ nói tôi là Me Mỹ có con lai, bám chân đế quốc.
Sống ở nơi này, tôi đã hứng chịu nhiều bi ai nhất trong cuộc đời. Nhưng cũng nơi này cho tôi một tình cảm thiêng liêng ràng buộc nghĩa tình. Cho tôi tập làm người đúng nghĩa, biết tiết kiệm và lo xa. Biết trân quý hạt gạo, củ khoai, chén ruốc. Biết sự nhọc nhằn của những người nông dân tay lấm chân bùn.
Hơn nữa, ở đây tôi đã biết thế nào là bão lụt. Con nước từ dưới sông cứ dâng lên theo cơn mưa không lớn lắm nhưng rất nhiều gió và lạnh. Chỉ vài giờ đồng hồ thôi là xung quanh nước ngập mênh mông. Ngồi trong nhà có thể vớt củi trôi về. Những bụi chuối ngoài vườn chỉ còn thấy những chiếc lá lay động như bàn tay con nguời giơ lên vẫy để cầu cứu. Người dân ở đây nghe gió là đoán biết con nước sắp về, lụt sẽ tới. Họ chặt sẵn chuối làm bè và đó là phương tiện duy nhất để đi từ nhà này sang nhà khác.
Lụt có thể kéo dài vài ngày, nhưng cái lạnh thì cả mấy tháng. Đó là lý do mà ruốc và thuốc lá rất mắc mỏ và cần thiết. Nhà nào cũng phơi khô khoai, sắn, ớt, trữ mắm ruốc để dành  ăn.  Cái lạnh  miền Trung mới đáng sợ. Lạnh đến cá cũng nhảy lên bờ để chết. Tay tôi cấy lúa mà trơ ra không nắm được. Hai chân đứng dưới ruộng quíu lại không thể bước. Tôi té nhiều lần, quần áo lấm đầy bùn nhưng phải đứng lên tiến tới cùng bạn cấy. Nếu không đỉa sẽ gom về tấn công và sẽ bị phê bình kiểm thảo. Mọi người ai cũng ăn trầu và hút thuốc. Riêng tôi chỉ nhai gừng để giữ ấm. Thức ăn đem theo họ kho ớt đỏ lòm, lại còn cắn ớt trái. Riêng tôi chỉ chút muối mè nên lạnh càng thêm lạnh.
Vâng, tháng tư năm 1975 riêng tôi là như vậy. Tôi từng nói đùa với chồng
Anh đi cải tạo miền xa.
Em cũng cải tạo ở nhà khác chi
Giữ trâu, cấy lúa khó gì
Làm thân vợ ngụy kiên trì vượt qua.

Sau 30 tháng 4/ 1975 Biết bao oan khiên đã xảy ra cho dân tộc VN. Bao nhiêu xác người bỏ thây trên biển đông vì hai chữ tự do, bao nhiêu mạng tù nhân CS chết ức oan trên núi rừng Việt Bắc, bao nhiêu người con gái đã bị làm nhục vì hải tặc Thái Lan. Những vết hằn chiến tranh thành sẹo, thành hậu chấn theo mỗi mùa tháng tư lại về. Những khúc phim cũ được quay lại ngay chính từ mỗi con người để khắc khoải không nguôi.

Tôi đang ở đây, một nước Mỹ xa lạ trở thành quê hương. Những người láng giềng nhiều chủng tộc khác nhau. Hai thằng con trai tôi sinh sau ngày chồng ra tù, bây giờ đang là những người quân nhân trong quân đội Hoa Kỳ. Màu cờ con tôi phục vụ không phải là màu cờ của Tổ Quốc VN.
Các cháu tôi đã được sinh ra và lớn lên với quốc tịch Mỹ, nói tiếng Mỹ và sống theo người Mỹ. Con bé 5 tháng tuổi trong ngày 30/4/75 bây giờ là một phụ nữ trung niên công ăn việc làm ổn định. Chồng tôi do hậu chấn tù đày nên thân xác và tâm thần sa sút nặng nề. Những ám ảnh những ngày tù tội đè nặng quá khứ  anh vô phương vùng vẫy. Tôi sống trong sự tuyệt vọng về bệnh tình của chồng, dù đây là một nước văn minh có điều kiện về y tế tiên tiến nhất trên thế giới
Tôi cám ơn đất nước đã cưu mang gia đình tôi để chúng tôi có cuộc sống tự do. Các con và cháu tôi đến trường mà không bị cái lý lịch ngụy cản bước tương lai. Tôi đã có quá nhiều thứ trong cuộc sống nhờ bàn tay giúp đỡ của những người không hề quen biết. Ông Trời đã xếp đặt cho những kẻ thua cuộc lại có thể đứng thẳng lên hãnh diện vì lý tưởng của mình. Những chiếc áo lính, những cái nón, những bản nhạc...Tất cả những gì của Mỹ Ngụy bây giờ lại là những món đồ giá trị được yêu thích và đáng trân trọng.
Những người con Ngụy thế hệ thứ hai đã làm rạng danh cha ông tham gia vào dòng chính của quốc gia tạm dung. Các cháu đang  và sẽ là những con người tài năng,giỏi giang đóng góp tài sức và trí tuệ cho đất nước cưu mang mình. Con tôi hãnh diện vì lý tưởng Quốc Gia của cha mình và dù lá cờ vàng không được tung bay tại quê hương VN nhưng nó lồng lộng rực rỡ mọi nơi trên thế giới.

Xin cám ơn những người đã tranh đấu cho người lính được đến Mỹ theo diện HO. Cám ơn những người đã dũng cảm đứng lên cất cao tiếng nói tự do của người ViệtNam. Cám ơn  anh, cám ơn chị, cám ơn mọi người đã cho chúng tôi đến đây để sống một cách lương thiện và đầy tình người.

Tháng 4 /2019 tôi viết lại bài này để nhớ một thời xã viên của mình.
Người chồng của tôi đã khuất núi. Anh đã về với tổ tiên và anh em đồng đội. Anh đã không còn đau đớn và khổ sở vì hậu chấn của chiến tranh và tù đày.
Tôi không còn trẻ để buồn vui quá khứ. Mọi sự việc trong tôi bây giờ là hãy quên những gì quên được. Sống vui vẻ từng ngày cho con cháu vui theo.
Quê hương Việt Nam vẫn mãi mãi nằm trong trái tim tôi.
 
Nguyễn thị Thêm
tháng 4/2019

 

 

Đăng ngày 29 tháng 04.2019