Chuyện con còng…

Phí Ngọc Hùng

Người phương Tây có câu đầu môi chót lưỡi: “Cả tháng, cả năm không có gã phát thư xuất hiện trước cửa nhà thì rầu muốn chết”, nghe có xuôi tai lọt con nhĩ tùy theo bá nhơn bá tánh. Đột dưng không rầu mà bỗng đời nở hoa xuân, một ngày thầy ký lững thững bước ra ngòai ngắm cỏ cây. Mở thùng thư có cái phong bì dầy cộm, lòng dạ bồi hồi xốn xang, chắc mẻm tình cũ không hẹn mà gặp, chẳng kêu mà tới. Lật đật với tên trước, họ sau lạ hoắc. Ngó cái địa chỉ lòng thòng, không lẽ người viết ở Cà Mau, Thốt Nốt, hay từ thung lũng hoa vàng. Thầy ký chộn rộn hoài cố nhân: Ủa, chớ ai kia vậy cà?.
Đâu đó có tiếng hoài đồng vọng: Dạ, thưa đó là tui.

***
Nghe như ngọn cỏ gió lùa, thầy ngó lơ chỉ thấy trời xanh, mây tím, nắng vàng…Ắt hẳn chẳng phải là anh linh của Bồ Tùng Linh với câu thơ dẫn nhập trong Liêu Trai Chí Dị: Chuyện đời đã chán không buồn nhắc, thơ thẩn nghe… ma kể mấy lời. Thế nên thầy bèn ngó quanh quất, lâm rẩm như tụng kinh khổ nạn: Mà tui là ai mới đặng chớ!.
Lại có tiếng vang vọng âm u: Hỏi chi lãng nhách, cái đó từ từ tính, vì có tích mới có tuồng…Tui cũng tự hỏi là mắc mớ chi phải viết về…”Gã”, lại gửi cho thầy ký đọc chơi.
Đọc chơi? Thầy phe phẩy cái thư như quạt giấy đuổi ruồi: Gã nào ta?. Rồi thầy lơ đãng nhìn…gã phát thư lái chiếc xe điện khuất nẻo đằng cuối phố, và mở cái phong bì vừa đi vào nhà vừa ngó lướt qua với chữ nghĩa rối rắm chi đâu…:
“…Hỏi chi mà hỏi gấp dữ thần vậy, thì gã cũng là đồng nghiệp với thầy. Chỉ khác một lẽ, đàn ông cũng có ba bẩy thứ đàn ông, gã này thì sáng say chiều xỉn, tối guắc cần câu, mượn chén rượu mong tiêu sầu cố quận, lấy bạn bè gần xa làm thú tiêu dao. Từ ngày có giấy thô, bút bi, thêm con quạ, con cò bắc cây cầu Ô Thước, gã bò ra lăn lộn với chữ nghĩa để gửi gió theo mây ngàn bay. Rồi thẩn thơ thẫn thờ, thơ qua tin lại, chiều chiều ra đứng góc vườn, trông về quê mẹ ruột đau chín chiều đó thầy…”
Khi không thấy có người trên…cây rớt xuống giống hệt mình y trang, thầy ký miệng hít hà như thầy pháp niệm thần chú ra chiều đắc ý: Ngộ ha, mà có thiệt không chớ?
“…Thiệt chớ sao không, gần mực thì đen, gần đèn thì lu, gần gã lâu ngày tui cũng lây cái bệnh…giấy ngắn tình dài kể sao cho đặng. Không có lửa sao có khói, khói lam cuộc tình thì lằng nhằng cho lắm, chẳng qua cũng chỉ vì bấy lâu nay vướng víu hai chữ “bạn đời” với “bạn đường”. Như cái rằm nằm bẹp dí trong lòng bàn tay, lại nằm chấn ngang xưong giữa đường tình với đường gia đạo, nhức nhối và ngứa ngáy chi đâu. Nghĩ lại cái tuổi đang xuân ngày nào, tui ngu ngơ cứ tưởng chuyện đời sẽ êm ru bà rù như như ăn với ngủ, ai dè số kiếp buông xuôi để nghiêng trời đất méo, biết làm sao hơn. Lớn lên một chút, chịu cảnh cô liêu trích bóng cùng vết thương nhớ đời. Thét rồi thì nhớ từ cơn đổ vỡ nhớ đi, nhớ trong hồi đọan chia lìa nhớ lại. Thấp thóang giữa đám lau lách trí nhớ bội bạc, tui nhớ như một người tình bị phụ rẫy, nhớ nỗi bất hạnh của chính mình, như bị bỏ bê xua đuổi với lá úa tiễn người đi, nên mới có lá thư này.
Nay trộm có mấy hàng gửi thầy, gia dĩ biết thầy là người đi Tây đi Tầu, lịch duyệt nhơn tình thế thái, thấu hiểu chuyện đời, rành tâm lý, biết phân biệt giả chơn, xin thầy ký chỉ giáo đôi điều thì đội ơn lắm thay. Thơ bất tận ngôn, ngôn bất tận ý, thiệt tình sui tận mạng nên tui xin mạn phép vào chuyện nha thầy…”

***
“…Ngày qua tháng lại, cũng cả mấy năm nay, tui là bạn của gã. Thêm một lần Đông Tây chẳng bao giờ gặp nhau, tiếng nói gọi nhau ở đây chỉ chẹo queo “Diu” với “Mi” nên tui gọi gã bằng “gã”, nghe cụt ngủn vậy đó thầy. Ngôn ngữ bất đồng là thế. Như gã bao lần chỉ vẽ cho tui chữ bạn qua đất lề quê thói, như bầu với bí, nào là bầu ơi thương với bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn, để có…bầu bạn.
Chưa xong, gã còn lẵng nhẵng với chữ nghĩa như cứ cái gì nhúc nhích được gọi là “con”, như con chim, con còng, tức giống đực. Cái gì cứ ngồi lì một đống thì được gọi là “cái”, như cái bàn, cái bướm, chạy trời không khỏi nắng là…giống cái. Đực hay cái gì cũng thế thôi, thiên hạ tù mù đều hiểu hết trơn qua một cái tình, nhỏ có tình trai gái, lớn nhồng có tình vợ chồng, đến khi già khú đế chỉ còn…tình nghĩa. Úi cha, nghe mệt quá sức, gã nhồi nhét thêm, trước tui là bạn sơ giao, sau là bạn đường cùng…đường đi lối về của gã. Nghe đã không thầy ký, đến cái nước nôi này ít nhất tui học được ở gã:
Tui chẳng hay tui là…cái giống gì nữa: Lại đực hay lại cái đây, thưa thầy ký….”.
Vào trong nhà, về hưu, độc thân, nhà không bàn không ghế, leo lên cái đôn cao nghệu cạnh bếp, thầy nâng mục kỉnh coi lại lần nữa cho chắc ăn và lầu bầu con nhỏ này viết chi làm thầy hiểu lộn tèng beng téc béc hết trơn. Lắc lắc cái đầu, thầy đọc tiếp:
“…Bởi lẽ vậy tui phải làm cho ra lẽ, từ sớm mơi tới giờ tui như Phàn Lê Huê tất bật dọc ngang xuôi ngược là thế. Có người cắc cớ hỏi sao tui mắt xanh nanh vàng mà rành tiếng Việt quá mạng vậy cà, nói năng rôm rốp như voi nhai mía hay sắp trổ mòi gỡ rối tơ lòng chi đây. Họ thương tui chọc cho vui vậy chớ, chớ tui có ăn nói lốp bốp chi đâu, thiệt tình chớ chữ nghĩa tui cũng bí lù, chỉ biết viết không ngòai ghép chữ, ghép câu như ông tề bắt ấn thảo bùa chú. Ngay như thơ này, tui săm soi bứt rứt như nhổ lông gà lông vịt, bứt tới bứt lui cũng bốn, năm hồi lận mà chưa tới đâu đó thầy ký…”.
Thầy nhếch miệng thở ra vô đề chi mà lâu lắc kề rề quá ể!
“…Thầy ký à, tội nghiệp tui, chẳng qua từ cái thuở ông già bà cả xa xưa của gã vẫn thường nói ăn cơm mới nói chuyện cũ: Những kỷ niệm tha ma mộ địa cũ xì, cũ mốc đắp mô, đắp mồ xa tít mù khơi mãi tận nước Bắc kỳ lận. Sau đấy, gã đeo dính cứng tầu há mồm vô đến miền Nam, lớn lên một chút gã sớ rớ ngòai mé kinh, con lộ. Tối ngày gã bầy hàng như tiệm “chạp-pô”, là người nặng tình với bằng hữu, với nỗi sầu bản quán. Chuyện láng giềng láng tỏi thì gã rành sáu câu, còn chuyện đầu đường cuối ngõ gần đây gã quên tuốt luốt. Năm này tháng nọ sàng tới sàng lui ỉ ôi với ao chuôm như chè khoai nước đường cũng bằng ấy thứ hầm bà làng xí cấu, chịu trời không thấu, nghe riết muốn khùng luôn. Không có bạn bè gã làm như muốn đổ bịnh, điệu này ông già bà cả kêu là “Cao sơn lưu thủy trường, nhứt khúc ngộ tri âm đó thầy ký à.
Nhưng hồi sau là bạn đồng sàng dị mộng, tui thấu rõ những tang thương ngẫu lục bỏ xứ mà đi của gã. Tay xách nách mang tới chốn này, đất của cơ hội, gã lại lề mề nho gia sĩ khí với cái tuổi tam thập nhi lập, gã “lập thân” bằng vào những buổi tối với họ hàng hang hốc kẻ đón người đưa. Với sinh ngữ sinh tồn ở mấy lớp đêm, để bắt đầu lại từ con số không, to tròn như cái bánh bao, bánh ú. Vốn liếng còm cõi được mớ chữ dằn bụng làm cái cần câu cơm, mừng hết lớn và gã tưởng như vậy là đủ ra đường đời. Mới tinh mơ mắt nhắm mắt mở, tay vừa lái xe, tay vừa cầm ly cà phê, gã tự cho là đã thích nghi với tập quán của người bản xứ. Đánh vật với bách nghệ, trôi nổi đầu ghềnh cuối bãi, gã vất vả tư mùa, may ra vắt mũi sủi tăm cũng đủ đút miệng. Gã cầy như hạc, sáng mò mẫm đi không kịp ngó lại cái giường. Chiều lẳng lặng về làm tô mì ăn liền hay cơm tay cầm, chẳng buồn nhìn đế cái máy vô tuyến truyền hình đen trắng, vì cơm áo gạo tiền, nên gã cầy mút chỉ cà tha. Nên quên…lấy vợ tuốt luốt. Cuối tuần đàn đúm với mấy ông đồng hương đồng xóm, rượu bất khả từ nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ với mấy cái chân gà, giò heo, ngất ngư ứ hự tới khuya mới trót đời. Xong bữa ai về nhà nấy, tuần sau cũng từng ấy mặt, buồn thúi ruột thúi gan.
Với gã, họ là bè. Tui mới là bạn. Nhưng ấy là hồi sau, như phim tập đó thầy ký…”.

***
“…Qua cơn binh lửa lọan ly, gã tha phương cầu thực tới đây khơi khơi đóng tuồng người di tản buồn. Hồi ấy tui vẫn chưa gặp gã…
Gã đang ở cái tuổi tứ thập nhi bất hoặc, “bất hoặc” đâu chẳng thấy, chỉ biết rằng mươi năm sau hữu duyên thiên lý năng tương ngộ hay vô duyên đối diện bất tương phùng thì chỉ có trời mới thấu. Một ngày mưa gió sập sùi, gã như kép độc lân la làm quen với tui, mới đầu lớ quớ là bạn đồng nghiệp để tui lao đao vất vả, ăn không đặng ngủ không vô. Lội ngang lội dọc như cá lòng tong thì chẳng hẳn là chuyện ví dầu thuyền đã đóng đinh mà lúc ấy, tui chỉ nghĩ đến cái tuổi sương sương, có gã coi mình là tri kỷ, tri âm bảo đảm cuộc đời sẽ không là mầu tím hoa sim. Thế nhưng trước đó…
Ý đồ tui là qua những năm đầu chân ướt chân ráo của gã: Tui chưa sanh ra đời.
Chuyện là sau đấy số xui chi đâu gặp một lần là tui tởn tới già. Hoa rơi cửa Phật, cả chục mùa thu lá rụng gã mới hiện diện trong quãng đời xuân sắc chưa lên đã xuống của tui. Buổi mai hôm ấy, cái ngày đầu tiên gã đến hãng nhận việc, tui đang ngồi sơn móng tay ở văn phòng nhơn viên. Như bị hớp hồn, gã ngó tui thấy ớn, như ma nhát mặt người, chắc mẻm tui là một người hành tinh nào đây. Tui cũng làm bộ tỉnh queo, mắc mớ chi tới người dưng nước lạnh, nói chi đến nhếch mép cười tình làm duyên.
Vậy mà đâu có êm, đến khi gã đưa giấy tờ và nói chuyện với thầy ký, tui mới cháng váng mặt mày và ngó chừng. Ui cha, nói thầy ký bỏ qua, chớ tui nghe muốn lủng lỗ nhĩ lòi con mắt vì không biết gã ăn mắm bò hóc, bò tó gì mà nói tiếng Tây tiếng u với cái giọng miệt vừơn nghe ồm ộp như cóc nhái kêu. Gã như cái máy hát lên giây thiều với sừng, cống, sề, sáng, chữ rơi chữ rớt, nên tui càng không hiểu chi hết trơn hết trọi. Gã nói tiếng người bản xứ với cái lưỡi cứng đơ xà rông nghe muốn chết giấc luôn, tui chắc mẻm gã là thằng Chệt chết bầm nào đó từ Đài Loan mới qua. Rồi thầy ký đưa gã vào trỏng mần công chuyện, nhìn cái lý lịch trích ngang tui mới trời ơi đất hỡi gã là người Việt chèo thuyền mút chỉ ngàn khơi qua xứ tui tỵ nạn. Chuyện vậy đó, thưa thầy…”.
Cái miệng con nhỏ trong thư lanh chanh: Gã vô hãng rồi sau đó thầy nghỉ việc. Thầy ký nhớ ra tui là ai rồi ha. Thầy ký lọng cọng thấy rõ nhưng chịu chết không nhớ ra cái con nhỏ này là giống gì. Rầy rà thiệt, thầy lại cúi đầu ngó thơ tiếp:
“…Trước đó tui có đọc chuyện vượt biển của những thuyền nhơn, ở cái thành phố với nhịp sống tẻ nhạt này, mỗi ngã tư là một cái nhà thờ, một trạm xăng thì những câu chuyện ấy cuốn hút tui như những cuộc phiêu lưu của Robinson lạc vào hoang đảo. Và rồi tự trong tâm can tui cũng có một chút đồng cảm, đồng tình với gã. Vì dẫu gì cũng đồng hội đồng thuyền, gốc gác họ hàng gia tộc của tui, theo gia phả thì tui cũng ở bên Đại Lục từ thời ông Marco Polo với con đường tơ lụa, sau kéo nhau qua đây làm đường rày xe lửa. Nhưng đến chi, tông của dòng họ tui thì cũng mới chỉ qua đây trước gã hai ba thế hệ...Mà này thầy ký, xin vô phép vô tắc vì đàn bà, con gái đái không qua ngọn cỏ, dốt hay nói chữ, nhớ cái đuôi sam tóc bím, nếu tui mang mớ chữ Hoa, chữ Hán ra tụng như tụng kinh thì thầy đừng để bụng nghe…”.
Trong khi ấy, thầy đang rối ren: Ủa, ông tổ bên Tàu của con nhỏ mang chi qua đây để lưu danh thiên cổ vậy ta. Dám ba cái thứ dễ òm như thuốc súng, pháo thăng thiên, la bàn lắm ạ. Nhưng thầy ký cho qua luôn vì không phải là chuyện của thầy. Im re, nín khe một hồi lâu…rồi lan man nghĩ tới nữa: Chuyện kể nghe quen quen, hình như đã gặp con nhỏ này rồi thì phải. Và thầy nghĩ đại như vậy.
Xong, thầy tặc lưỡi: Chuyện gặp nhau ở công sở chi mà rầy rà.
“…Đâu có rầy rà như thầy ký nghĩ, vậy không phải vậy, mỗi người một việc, hồn ai nấy giữ chẳng ai quởn, trừ ngày thư sáu cuối tuần gã ghé văn phòng tui lãnh lương, vẫn cái điệu nín thinh xò câm. Nhưng riết rồi ngó ngang liếc dọc, hình như tui cũng có những vẩn vơ, vơ vẩn…Để rồi lẩm rẩm chi đó được mấy tháng, kịp bổ sung được mấy món võ mồm phòng thân, gặp đợt tuyển người dưới phố. Thế là gã nháo nhào bỏ đi không một lời giã từ hẹn ước một ngày châu về hiệp phố, để lại trong tui những não nùng tê tái.
Cõi đời này y trang như tổ tiên tui đã dậy: “Niệm thiên địa chi du du, độc thương nhiên nhi lệ hạ”, cái chỗ làm việc sáng vác ô đi tối vác về chỉ là bến tạm, tha nhân một lần trong đời trên đường thiên lý phải ghé qua, dù muốn hay không. Đó chẳng phải là cõi nhân gian tạm bợ này sao, đến và đi chẳng ai hay biết, dòng đời cứ chẩy mịt mùng. Không dưng gọi là bến tạm thì nào có khác chi cây đa cũ bến cũ mà tui là cô lái đò một lần tiễn khách sang sông. Bỗng nhiên tui khải ngộ được một điều, đưa người ta không đưa sang sông, sao có tiếng sóng ở trong lòng. Tui đưa gã, tui lại đưa sang sông thì sóng vỗ biết cơ man nào mà kể, bàng bạc từng trên ngọn sóng, từng khúc phà trăn trở. Tui cứ khư khư giữ riết lấy cho mình những hình ảnh cũ, những thương tiếc này, những ngậm ngùi kia, trong khi gã hơi sức đâu bỏ công đi thương nhớ một chỗ tạm dừng…”.

***
“…Đến đây thú thiệt với thầy ký, gần gã tui chịu đèn hết biết câu một duyên, hai nợ của người Việt. Trời thương thánh độ, sau cơn mưa trời lại hết âm u, ít lâu sau có nơi cần người, và mướn tui làm việc. Tui lại…gặp gã nữa, còn duyên hay nợ tính sau.
Chuyến rày hai đứa tui lại ngồi chung trong cái “hộp” dựng đứng, xứ tui kêu là cái “cubic”, xứ gã gọi là cái chuồng cu. Tui cứ nghĩ gã là thuyền nhơn lạc vô đảo hoang và tất cả mọi sự ba chìm bẩy nổi chín cái lênh đênh xảy ra ở cái…hoang đảo này. Khổ nỗi vừa ngồi xuống, gã cứ e dè nhin cái bản mặt mặt vuông chữ điền của tui như nhìn người cõi trên. Xấu đẹp tùy người đối diên, nào tui có tóc vàng như rơm khô, mắt xanh như mắt mèo gì cho cam, nhưng không hiểu sao gã khớp tui thấy rõ.
Tui nín thinh xem con tạo xoay vần tới đâu. Nhắm chừng khi xáp vô bát quái trận đồ cùng nhau trả nợ áo cơm, thấy tui nhấp nháy gõ chữ rào rào như sương sa hạt lựu. Thì gã quýnh quáng, đánh máy bằng hai ngón tay lóc cóc như chim gõ củi, chữ này xọ qua chữ kia, nhẩy hàng tùm lum, thấy mà thảm thiết chi đâu. Bỏ qua cái bộ gõ, như cung đàn lạc điệu với Đông Tây chẳng bao giờ gặp nhau. Gã hời hợt, dễ giận nhưng mau quên, tui lặng lẽ chừng mực ngay cả với những người đã quen. Gã sốc nổi dễ bắt chuyện dẫu là người lạ, để một ngày có con nhỏ người đồng hương gã ghé qua, và nói: “Bác già rồi, “nó” hại bác đấy”. Má ơi, cái con nhỏ xàm láp này dám bày chuyện lắm ạ: Vì “nó” đây là tui chớ còn ai trồng khoai đất này, thiệt tình hết ý.
Nhưng tui hơi sức đâu nghĩ đến chuyện ba láp đó, nói cho ngay tui đang lu bu với chuyện khác. Chuyện là gã đang…dò la tui, kiểu tìm hiểu dấm dớ bờ bụi, có mòi hạp tánh hạp nhãn sẽ tiến…gần hơn tí xíu ấy mà thầy ký à. Ít lâu sau, gã tháo ống cống cho tui nghe, nào là lân la nhiều nơi, nên một người gã quan hệ qua diện mạo, phong thái, trong nhấp nháy gã có thể kết tâm giao tức thì.
Riêng gặp tui thì gã tối hu tối hù, vì tui vô tri vô giác như cây…củi khô, cả ngày không động mồm động mỏ. Tui chưng hửng, nói thiệt thầy ký nghe nha, đứa nào mà nói vậy tui đục phù mỏ, nhưng với gã thì tui lại êm rơ bà rờ. Nhưng qua mặt thầy ký chẳng đặng, là phận “củi khô” như gã càm ràm, gần gã lâu ngày bén hơi bén tiếng, tui cháy lên từng giờ, từng phút, tim ngực căng cứng cảm súc ê hề nào ai có hay biết. Nói đến chuyện bén chơn bén cẳng, gã vô tính, vô ngã đến độ đâu hiểu rằng trong công việc, chuyện đụng chạm chân tay thế nào mà chẳng tránh khỏi. Tui giả bộ…không hay, gã ráo hỏanh chẳng…hay vồ chụp. Chỉ lừng khừng, kiểu lừng khừng của một thằng liệt dương, mà không liệt thì cũng sắp liệt…
Những khi ấy, gã vô tâm, vô tư quá đỗi, lững thững ra ngòai… làm một hơi thuốc lá.
Vào lại chuồng cu, gã khum khum ngó tui…bắt mạch tiếp. Nói cho ngay nhìn lên tui chẳng bằng ai, nhìn xuống chẳng ai hơn mình với bộ vó của tui rõ ra mặt mày thô vụng, người lùn đậm, thấp như cái nấm. Tui nghĩ ra, thôi rồi, gã học thói mấy bà già trầu lấy vợ xem tông lấy chồng xem giống chẳng sai chạy. Thì cứ ngó cái bảng tên đeo tòng teng trước cái ngực xẹp lép của tui là gã dư biết hữu sanh vô dưỡng nhưng còn có tên họ. Ắt hẳn là gã đang u mê với lớn vú bụ con cùng trường túc bất chi lao chi đây, mà cái này thì tui hơi thiếu vắng nên ít ai ngó ngàng rớ tới tui. Nhất là những người lớn tuổi…
Nay gặp gã ngỡ hết cơn bĩ cực đên tuần thới lai, liễu yếu dựa bóng tùng đâu chẳng rõ, nhè anh lừa xương nhả sạn, cái thứ trai tân như gà tây, gà gô, thiệt tình chịu trời không thấu. Riết rồi tui bị ám ảnh câu: “Bác già rồi…” để thấy chạnh lòng. Già thì chẳng hẳn là già, nhưng nhìn gã cắm cúi, hai ngón tay nhặt nhặn từng con chữ, mắt lui cui dò từng dấu chấm, dấu phẩy, thấy mà thương không để đâu cho hết, thầy ký à.
Gã cứ lầu bầu tiếc nuối cái thuở vàng son với mấy cái máy cổ lỗ sĩ Remington rơi rớt lại từ thời Tây đánh thành Hà Nội. Ấy vậy mà cũng ngộ, vừa tiện vừa lợi hết sức vậy đó, mấy ông nhà văn, nhà báo xách cái cục sắt như cái máy thâu băng kim thời. Sáng ra mần chuyện thế sự, sà vào quán cà phê làm bậy cái xây chừng, ngồi xuống là…“máy tay”, mổ cò chí chát. Xong, kéo tờ bản thảo ra cái rẹc, rồi thẩy vào nhà in cho thợ sếp chữ. Chiều về ghé quán cóc lai rai ba sợi ngon ơ, cứ như ông già Ba Tri rà rà, ra từ từ, phẻ gì đâu. Tiếp đến gã rầu rĩ thời buổi hiện đại với cơ khí, cơ tốc là cái máy điện, muốn cho vận hành phải kích động tức bấm nút, muốn tắt thì đi tìm…nút bấm. Tui đồng tình với con nhỏ đồng hương gã là gã chẳng còn thích hợp với công nghệ “hai-tếch” nữa.
Thêm chuyện ăn chắc mặc bền nữa là gã cứ nghĩ rằng làm chỗ nào là bắt “bù loong” vào ghế ngồi chỗ ấy đến mãn kiếp, thiếu điều đến đời con, đời cháu. Như tui phận đờn bà con gái, cứ lớt phớt giữa phòng này ban kia, phe phẩy với phe kia cánh nọ, muốn thọ thì cứ mềm như cục bột để cho cuộc đời nặn với véo. Biết ăn theo thuở ở theo thì, sống thì phải có lửa, có hương, bầu tròn ống thẳng thì cuối năm mới có bình bầu bổng lộc. Cầy mấy năm, gã vẫn lờ đờ há ngoác miệng như mấy con cá trong ao tù, cũng có văn hóa như ai, chỉ thua cái năng nổ nên đường công danh họan lộ của gã như cái biểu đồ đi xuống. Tình trạng thơ thới êm đềm ấy cũng chẳng được bao lâu, để rồi một ngày thứ sáu cuối tuần, gã nhận được cái thơ có hai chữ…”Cám ơn” lạnh tanh, lạnh ngắt. Thêm một lần chia tay, đường ai nấy đi với đường đời muôn vạn ngả.
Khổ nỗi gã vẫn chưa có một mối tình cho ra hồn để vắt vai…”.

***
“…Ngó trời có trăng sao tui tin mỗi người đều có một cái số với run rủi gặp sao tuế, sao nguyệt như định mạng đã an bài. Vầy nè thầy ký, gặp buổi trăng tà nguyệt tận, gã nằm nhà lâu ngày cũng quởn, bèn nhàn tản giữa phố đông người qua. Khi không tui đang ngồi ngắm ông đi qua bà đi lại, bỗng tóc mai sợi ngắn sợi dài cứ dựng đứng lên như lông nhím khi ngó thấy “người xưa” hiện ra một đống trước mặt, miệng cười cầu tài, ăn nói vồn vã như quen nhau tự thuở kiếp nào. Gã nói chuyện trời biển với cái giọng Bắc Kỳ pha tiếng Nam nhẽo nhẹt làm tui ứa ruột ứa gan. Gã nói tía lia, nào là đời người không có bạn như cây không lá, như cầu không đinh, như đình không mái. Gã nói như Sơn Đông mãi võ bán cao đơn hòan tán, nhưng khôn trật đời là hậu sự rủ rê tui về góp gạo thổi cơm chung, gã xuống nước nước chảy riu riu, lộc bình trôi ríu rít, anh thấy em nhỏ xíu anh thương nghe mà bắt mê. Nhưng nghe chuyện lộc bình nổi trôi thấy phát ớn, cũng tại mình hết thảy, tui động lòng thấy gã nói ngon ngọt như khóm Bến Lức, như đường Thốt Nốt. Và tui thương gã thiệt tình mới…lãng xẹt, nên tui khăn gói gió đưa về nhà gã. Đồ đạc gia tư tế nhuyễn không ngòai cái thùng giấy với giây nhợ đó thầy.
Về đến nơi thêm một lần thuyền ra cửa biển, thân phận lục bình mười hai bến nước nổi trôi theo dòng đời, chẳng biết vướng mắc vô đâu. Gã dọn dẹp cho tui một căn phòng riêng. Như thầy ký đang lâm râm trong đầu: Cái gì mà ngược đời quá cha vậy trời. Tui còn biết thầy đang chộn rộn, lửa gần rơm có ngày cũng bén, làm sao tránh khỏi chuyện đờn ông đờn bà. Với thầy là bậc thức giả, tui thì bù trất chuyện người ta và cũng chẳng cần phải dấu diếm chi, mặc dù ở khác phòng với nam nữ thụ thụ bất thân. Tui thề là trên có thiên lôi dưới có hà bà, tối lửa tắt đèn, chẳng có mục như hai trái dưa hấu bổ làm đôi úp lên nhau. Rõ ra cũng không ngòai Đêm nằm tơ tưởng, tưởng tơ – Chiêm bao thấy bậu, dậy rờ chiếu không, rồi tui đánh một giấc ngon ơ đến sáng, không có cái chuyện nhơn tình, nhơn nghĩa khỉ gió khỉ tiều, chim kêu vượn hú ấy. Tình nhân ngải non vợ chồng “Chuối non giú ép chát ngầm” hay chăng là chuyện của gã, tui nào có mơ tưởng ba cái thứ ấy cho mệt xác để ốm o gầy mòn, chuyện là vậy đó thầy ký.
Vào phòng tui, gã mắc chứng đi tới đi lui, như Vân Tiên cõng mẹ trở lui, đụng phải cột nhà cõng mẹ trở ra, Vân Tiên cõng mẹ trở ra, đụng phảicái hộp thơthì mừng rơn vì tìm ra chơn lý. Như ông Archimèdes nhẩy vào bồn tắm, nước chẩy ra bèn nhẩy cỡn lên vì phải lau…cái sàn nhà, không thì vợ con nó rầy rà. Từ đó, gã lấy thơ từ làm cái thú tiêu sầu, tiêu dao, từ cái khúc rẽ ngang ngược ấy, suốt canh trường, trong bóng tối mù u, gã múa bút ngang dọc như Triệu Tử Long phò ấu chúa thấy mà bắt mắt. Gã ra câu xuất cú dễ dàng như gà đẻ trứng, tui thấy mà ham, như thèm của chua, như sòai tượng chấm với mắm ruốc bà Giáo Thảo. Gã rủ rê tui ngồi chung, gã nói ngay mặt tui không hiểu, sợ gã văng hành quăng tỏi, tui một bề lép vế, mặc dù nghe muốn mệt lỗ tai nhức con ráy nên gã bảo sao tui làm vậy. Tui làm ngơ để thuận thảo đề huề…”Buồn riêng biết tỏ cùng ai - Cắn răng nuốt hận, nghiêng tai lấp hờn”.
Nói thiệt tình mục đó tui không ham nên ngó chừng, ngồi sát cánh kề vai nhột muốn chớt thầy ký à. Vậy mà gã còn xuống sáu câu liên tu hồ tận ngọt ơi là ngọt, ngọt sao mà như chuối ba hương, như sôi nếp một, như đường mía lột mới chết tía tui chớ. Mà thầy đừng học cho ai hay nghe, miệng gã như cái gạt tàn thuốc lá hôi rình, thúi hoắc vậy đó.
Nhờ vậy tui mới hay những chuyện tức cười, cười chết bỏ của đám bạn gã đầy nhóc trong hộp thơ. Gặp mẹ vợ bạn ở Việt Nam mới được Chúa gọi về với nước Chúa là hè nhau chia buồn chết cha chết mẹ. Ai nấy đầu tóc cũng nửa đời nửa đoạn, gặp ngày sinh nhật là hùa nhau chia vui quá đã. Đang đông vui vô tư quá thể, thế mà cùng một câu dỡn, bữa trước không sao, bữa sau như trái sầu riêng xẻ làm đôi cùng gai với góc, rồi khi không hờn mát, hờn nóng. Để rồi sầu riêng, sầu chung bày hàng ê hề qua cánh nhạn, chim bồ câu, báo hại bạn bè lại phải mất công vuốt lông vuốt cánh kể gì. Đám bạn gã chưa hẳn là già, nhưng chắc như bắp luộc chẳng còn trẻ nữa. Vậy mà họ như con tắc kè sáng chiều thay mầu đổi sắc, xanh xanh đỏ đỏ không biết đâu mà rờ rồi nghiến răng trèo trẹo, mụ nội ai mà hiểu nổi mấy con kỳ nhông là ông kỳ đà ấy. Kỳ cục, kỳ quái thì có thầy ký há. Đến như ông Bành Tổ nhân trung dài ba thước sống đến tám trăm tuổi cũng thác, huống chi mấy ông ốm nhom ốm nhách này một sớm một chiều lỡ bước…gặp ông bà ông vải. Lúc ấy bằng hữu được thể hô hóan nhau ô hô ai tai, rồi thơ thẩn thương vay khóc mướn dầm dề nghe rầu thấy mồ, rầu thấy mụ nội luôn.
Đảo qua chuyện thơ thẩn âm u một cõi, thay vì như báo nhựt trình đã đăng: Mỗi người Việt là một ông quan thì qua đây với cuộc đổi đời, bạn bè gã mỗi người là một nhà thơ, nhà văn, nhà báo. “Nhà” gì mà nhiều quá thể không biết, chẳng ai chịu nhận mình là nhà quàn, nhà xác, nhà cầu cho ngon lành. Họ chữ nghĩa chi mà nhiều quá mạng, lạc lòai qua xứ tui như sinh lầm thế kỷ, lơ mơ thần trí lạ lùng, đầu óc vất vưởng vào một mảng chữ nghĩa cùng thơ văn, rồi thì lúc nào cũng hanh hao như ẩn sĩ với phố vắng chiều hôm. Trời sui đất khiến, khiến gã cũng lặng lờ lên xuống như nước thủy triều theo đám bạn của gã. Riết rồi gã cũng măc tình cho dòng đời xốc nổi, nổi trôi theo mộng. Mộng lớn mộng nhỏ đủ cỡ, mộng xưa mộng nay, mộng viết văn làm báo, mộng quang phục dựng nước và mộng nào cũng mất thì giờ…như bạn bè gã, mệt kể gì…”.
Thầy ký lâm râm trong bụng…ủa, cái thùng thư mà con nhỏ này mắc chứng chi lại kêu là cái…”cái hộp thơ”. Nào có thơ thẩn trong đó. Nhưng thầy lại cà rà đọc tới bến cái thư dài muốt mùa lệ thủy, chưa tời bờ mê bến ngộ mà đã thấy mà lạnh cẳng lạnh chưn:
“…Lan man qua chuyện khác để không hiểu nổi là thơ của gã như như theo chim trời mây nước, để thơ đi thì có thơ về thì không. Như quan viên hai họ, nhận được cái thiệp cưới, chẳng mảy may quan tâm đến hồi âm, hồi báo. Sự thể có những ông bạn xuân thu nhị kỳ thơ từ chi mà nhút nhít từng chữ, không bung thừa, chém chết không là kỹ sư thực dụng thì cũng là dân võ biền một nghiêm, hai nghỉ. Chẳng bù với mấy người khác, viết lách phủ phê, nhưng gặp mặt thì ôi thôi, nói năng dè sẻn, văn tức là người xem như nửa đời hương phấn. Tui đâm dạ hồ nghi, chẳng hay những ma quỷ chi trong đầu óc hòang hôn của mấy ông bạn u u minh minh tăm tối này, chỉ có ông thiên mới hiểu nổi mấy người ngang như bứa, bướng như gạch nung trên. Từng ấy chuyện để có những tuần cái hộp thơ rỗng như đít nồi, những lúc ấy, mặt mũi gã trông thật thảm sầu bi thiết, hết chong mắt mười ngày đợi mong, không nghe mưa ngắm nắng ngòai vườn thì cũng nằm dài ra giường ôm mớ tứ thư ngũ kinh nghe cổ nhân dậy khôn trên sách vở. Được một lúc lại lóp ngóp dậy lóc cóc với cái bộ chữ như một cái nghiệp.
Lắm khi tui nghĩ làm chi mà cực dữ thần vậy không biết nữa, quên phứt cho rồi…”.

***
“…Tui với gã cũng chẳng hơn gì, hai đứa vẫn như bầu với bí, tuy chung một giàn nhưng vẫn lấp thảm tình sầu với mấy chữ “bạn đời” với “bạn đường” như nước chẩy qua cầu Trông bậu trông đứng trông ngồi – Trông người có nghĩa bồi hồi lá gan nói chi đến hai chữ thủy chung với trăm năm đầu bạc. Nào đâu tui có phải là cây cỏ gỗ đá, đầu tháng rày nhức mình nhức mẩy nhứt là nơi bàn tọa, như bị trúng gió, tui ngỡ bịnh đàn bà. Lây lất mãi tới hồi hôm, ói mửa ho khan, chân tay không chịu cục cựa, mặt mày xanh như tầu lá, cắt không ra hột máu. Không ló mặt ra khỏi cái bàn, cái ghế.
Gã bốc điện thọai kêu bằng hữu. Tui hồi hộp chi đâu cho cái kiếp hồng nhan bé bỏng, còn nhỏ hơn đầu kim mối chỉ, nên tui vái ông thiên gã qua sông không quên đò.
Bên kia đầu giây có tiếng lao xao:
- Chắc phải “ấp-đết”…
Mèng đéc ôi, nghe đến chữ “Âp..ấp…” như ấp hộn vịt lộn mà tui mừng húm. Té ra gã không xanh vỏ đỏ lòng, nên mặt mày tui sáng rỡ, đèn chớp lia chia, như đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn tỏ, đèn lục tỉnh ngọn tỏ ngọn lu. Vậy thì cái thơ…giấy ngắn tình dài này không ướt át mùi mẫn như tui tính, chuyện lãng xẹc vậy đó, thầy ký đừng rầy rà tội nghiệp tui nghe. Chẳng qua cũng chỉ vì cái thằng cha Bắc Kỳ cà chua, cà chớn làm thầy ký mất công hiểu lộn, cái mền mắc mớ chi đi kêu là cái mùng…Vậy chớ thầy ký xem qua chuyện của tui ngó coi có mòi như…như một chuyện tình đặng chăng, thầy ký…”.

***
Thầy ký làm như suy nghĩ lung lắm, lật tới lật lui cái thư và tặc lưỡi như con kỳ đà, kỳ nhông sáng nắng chiều mưa vì thấy truyện tình cũng đặng quá chớ nhưng không thấy…con còng đâu hết trơn hết trọi. Kỳ cục hết biết !!!

Thạch trúc gia trang
Hạ chí, Tân Mão 2011
Phí Ngọc Hùng

 

Đăng ngày 15 tháng 03.2016