Nhân mùa Quốc hận 2017

bàn về chữ "thống nhất"

Người Lính Già Oregon

Thống nhất ư? Cái gì? Cách nào? Tại sao?

1. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chỉ có Việt Cộng và bọn Cách Mạng Đeo Băng Đỏ Ăn Có Cà Chớn trong nước mới nhảy cỡn lên reo mừng, “hồ hởi” gọi đó là ngày “giải phóng miền Nam”. Nhưng chỉ thời gian đầu, vì sau này, khi lính và dân từ Miền Bắc nghèo nàn, đói rách vào Sài Gòn, nghểnh nhìn những tòa nhà chọc trời thiếu điều gãy cả cổ, và thấy Miền Nam giàu có, hạnh phúc, hoàn toàn khác với giọng điệu tuyên truyền bịp bợm của lũ lãnh đạo và chính trị viên VC, họ tỉnh người và thầm tiếc (và trách) sao Miền Nam không chiếm Miền Bắc, cho họ đỡ khổ, thì danh từ “giải phóng” tự động biến mất từ những cái mồm vẩu hôi hám, để tránh phản ứng ngược. Bọn Việt Gian hải ngoại, cho đến bây giờ, vẫn chưa dám công khai sử dụng động từ “giải phóng”, vì sợ ăn đòn công luận, kể cả câu “ngày vinh quang của dân tộc” của tên nhạc sĩ nằm vùng và trốn quân dịch Trịnh Công Sơn đã hò hét trưa ngày 30/4/75 trên đài phát thanh Sài Gòn.
Gần đây, bọn Việt Gian đó bắt đầu thử dùng chữ thống nhất, cốt thăm dò phản ứng, bắt chước anh hề Nguyễn Cao Kỳ, cựu tướng, cựu phó tổng thống VNCH, đã táng tận lương tâm đến nỗi thốt ra, khi xum xoe nâng bi lũ chóp bu Việt Cộng trong bữa tiếp tân do tên đại thù Nguyễn Minh Triết, cựu phu cạo mủ cao su, tổ chức tại Dana Point, CA, tháng 6 năm 2007, đại khái (không nguyên văn) như: “Quý vị có công thống nhất đất nước, điều mà chúng tôi muốn mà không làm nổi”. Y hệt, trước đó nhiều năm, ở Pháp, tên xu nịnh ba xu Đặng Tiến, một cựu nhân viên phòng Thông Tin Quốc Ngoại (của ông Hoàng Đức Nhã, còn sống tại Mỹ?), tòa Đại sứ VNCH tại Thụy Sĩ đào nhiệm đầu thập niên 1970, sang Pháp trốn và sống cho đến bây giờ, từng là thành viên trong Nhóm Thông Luận của Nguyễn Gia Kiểng, trong một bài thơ cho con gái, cũng đã trơ trẽn o bế Việt Cộng như sau:
Cha muốn nói với con
Những lời nói nửa đời chưa nói trọn
Độc lập, Thống nhất, Tự do*
Chữ thống nhất thoạt đầu nghe có vẻ nhẹ nhàng, bớt lộ liễu hơn “giải phóng” và “vinh quang”, đã bị bọn trở cờ lợi dụng trong âm mưu biện minh cho cái mà chúng gọi là “hiện thực khách quan”: cả hai miền Nam-Bắc nay trở thành một nước, được đưa về một mối –nhưng trên thực tế, dưới mắt người tỵ nạn Việt Cộng, cả hai miền cùng chui vào một cái rọ khốn nạn Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Từ ngữ, tự nó, có nghĩa đẹp đẽ như vậy, nhưng sa vào mồm miệng giặc VC, nó trở thành mỉa mai, nếu không muốn nói lố bịch. Chưa kể lý do khác: VC muốn chiêu dụ những người tỵ nạn nhẹ dạ, hoặc mỏi mệt, sau 42 năm đánh, hoặc nghe đánh, võ mồm (không đánh võ mồm thì còn đánh bằng thứ võ nào đây?), chưa thấy chút ánh sáng nào lóe lên từ chân trời, bèn quay ra nghe theo lời dụ dỗ của VC, qua nghị quyết 36, đã trở về quê hương ăn chùm khế ngọt, dâng khúc ruột (già) ngàn dặm cho VC nối lại, hay đúng theo “ý đồ” của chúng, đã gửi tiền về cúng dường hàng năm lên tới hàng tỷ đô, vô tình nuôi sống, vỗ béo chúng, để chúng vẫn còn tồn tại, lớn mạnh, phè phỡn, hà hiếp, tàn ác với dân, cho đến hôm nay.

Một ví dụ lịch sử chứng minh một cách hùng hồn sự bỉ ổi của VC trong việc hiếp dâm ngôn từ. Đó là sự kết thúc chiến tranh Nam Bắc Mỹ, mở đầu cho việc thống nhất đất nước và thành lập Liên Bang (Union) Hoa Kỳ, cách đây đúng 152 năm (1865-2017). Quả vậy, sau khi thua trận Petersburg, tướng Miền Nam Robert Lee, vào ngày 9 tháng 4 (cũng tháng 4 oan nghiệt!) năm 1865, phải ký giấy đầu hàng tại Appomattox Courthouse, VA, trước mặt tướng "thắng cuộc" Ulysses Grant. Grant ra lệnh không ai được đối xử tệ với những hàng binh, cho phép họ giữ ngựa và súng, cung cấp lương thực trước khi cho họ về nhà. Đó mới là thực sự hòa giải, trong tinh thần thống nhất đất nước. Còn Việt Cộng? Sau khi chiếm trọn Miền Nam, nhờ công của tập đoàn phản chiến và phản bội Mỹ, bọn Bắc Cộng đã lừa, và lùa, các sĩ quan Miền Nam vào tù, tịch thu tài sản, cướp giật nhà cửa, đày đọa vợ con của họ, như cả thế giới đã biết. Thống nhất đất nước, hay trả thù man rợ?
Nói hoài về thực trạng thống nhất tại VN chưa bao giờ đủ. Bốn mươi hai năm trôi qua kể từ khi chiến tranh chấm dứt, toàn cõi Việt Nam được chúng gọi là thống nhất, Việt Cộng đã không làm được gì để cho dân giàu nước mạnh. Trái lại, chúng chỉ biết ngồi đó, ngoác mồm ra khoác lác, nổ sảng về những chiến thắng ảo tưởng, chỉ biết tự ca, tự sướng là “nước ta sao có quá nhiều anh hùng, hễ bước ra ngõ là gặp anh hùng”, là “nước duy nhất đã đánh đuổi được hai đế quốc sừng sỏ, Pháp và Mỹ” bla-bla-bla. Chúng đã không biết lợi dụng dịp may ngàn năm một thuở để lo xây dựng đất nước. Trái lại, đã đưa VN tụt xuống hạng quốc gia bét nhất trên hành tinh về mọi mặt, kinh tế, nhân quyền, nhân cách, giáo dục, môi trường, thua hết những nước Đông Nam Á láng giềng, Nam Hàn, Singapore, Thái Lan, Mã Lai, thua cả hai đàn em Miên, Lào, nói chi Nhật Bản mà một ngàn năm nữa Việt Nam Cộng Sản vẫn không thể bám được gót chân. Thua cả Bắc Hàn của Kim Jong Un (Kim Ủn Ỉn) –dù sao cũng nuôi tham vọng trở thành cường quốc nguyên tử, chưa cần biết tham vọng đó đúng hay sai, và nhất là không bán nước cho Tàu Cộng. Chưa nói tham nhũng tràn lan, từ thằng VC trên xuống thằng VC dưới, cái gì rớt trúng miệng cũng đớp, như loài cá tra ở bờ sông. Chưa nói tàn ác, bắt bớ, đánh đập, cướp đất, bịt miệng người dân. Chưa nói khúm núm, hèn hạ trước bọn quỉ dữ Tàu Cộng, mà những thằng VC chóp bu ngu dại, khốn nạn đã dâng cho đất đai, sông biển, và chủ quyền, để nhận lại, nghe nói, hàng tỷ đô la.

2. Nói về thống nhất trong nội dung (context) danh chính ngôn thuận. Vào những thế kỷ trước, thế kỷ của chiến tranh, khi loài người còn hiếu chiến, chưa văn minh, việc giành dân lấn đất, dựa trên sức mạnh của vũ khí, là chuyện thường tình. Người ta thống nhất đất nước bằng quân sự, như đế quốc La Mã dưới triều đại Augustus, Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn, Trung Hoa của Tần Thủy Hoàng, Pháp quốc của Napoléon, Liên Xô của Staline, Việt Nam dưới thời Gia Long, Liên bang Union Hoa Kỳ sau chiến tranh Nam-Bắc v.v... Trong những thời kỳ ấy, không có giải pháp nào hữu hiệu hơn là quân sự, mặc dù đã có những Tô Tần, Khổng Tử bên Trung Hoa cổ đại, hay Richelieu của thế kỷ XVII Pháp, Metternich của thế kỷ XIX Âu Châu... Ngày nay, ở thế kỷ hưởng thụ chống, và sợ, chiến tranh, như của chúng ta, thế kỷ mà các bộ trưởng ngoại giao thi nhau trổ tài môi mép, uốn ba tấc lưỡi, tiến trình và phương cách thống nhất khác đi nhiều, nghĩa là phải bằng đối thoại, thỏa hiệp, không còn đơn thuần xua quân tiến chiếm nước đối nghịch, rồi tự xưng hùng xưng bá –điều mà bọn Cộng Phỉ phương Bắc đã làm cách đây 42 năm đối với Miền Nam Việt Nam.
Có lẽ, chính vì chủ trương các quốc gia cần sống chung hòa bình với nhau mà Liên Hiệp Quốc, sau ví dụ tệ hại Việt Nam (với hơn ba triệu dân Miền Nam tỵ nạn trên khắp thế giới và hận thù đằng đằng), không muốn thấy hai nước Đại Hàn thống nhất bằng quân sự và chiến tranh, mặc dù Bắc Hàn của Kim Jong Un nay đe mai dọa đánh Nam Hàn, và liên tục phóng thử hỏa tiễn. Mà Tàu Cộng hiếu chiến vẫn chưa dám tiếp thu Đài Loan bằng vũ lực vì còn ớn những hạm đội Mỹ và tân tổng thống Trump, vẫn chưa dám nắm trọn chủ quyền trên biển Đông. Mà đầu thập niên 1990, nước Đức được thống nhất không bằng chiến xa, đại bác từ Tây hay Đông, nhưng do lòng dân Đông Đức khao khát dân chủ, tự do, đã cùng nhau đứng lên đập phá bức tường Bá Linh ô nhục, mở đầu cho việc thống nhất không tốn một viên đạn, và nhờ vậy, hai miền Đông Tây hôm nay thật sự sống trong hòa bình, thịnh vượng, và hòa giải dân tộc.

3. Còn Việt Nam? Hiệp định Paris được ký đầu năm 1973 bởi một đại diện đồng Minh Mỹ phản trắc, tráo trở có tên là Henry Kissinger –viên bộ trưởng ngoại giao bất tài vô tướng, nhưng kiêu căng, quỷ quyệt, đệ tử vụng về của Metternich, muốn thực tập những bài học bang giao quốc tế của trường Harvard mà y chưa tiêu hóa kịp– đã đi đêm, đi ngày với tên cáo già gian manh Việt Cộng Lê Đức Thọ, để âm mưu bán đứng VNCH cho miền Bắc, bằng cách cho phép quân đội Cộng sản nằm lại Miền Nam, mai phục, chờ ngày. Cả hai đã được lãnh giải Nobel Hòa Bình từ Ủy Ban Thụy Điển lúc nào cũng quá ngây thơ, nếu không nói ngu xuẩn. Để rồi hai năm sau, tháng 4, 1975, theo kế hoạch của liên minh ma quỷ Thọ-Kissinger, Bắc Cộng và Nam Cộng (phong trào Giải phóng Miền Nam) vùng lên, tấn công VNCH, một quốc gia hợp pháp, với sự đồng lõa bỉ ổi, hay làm ngơ, của Washington, Paris, London, Bonn và thế giới. Những gì xảy ra sau đó, tất cả những người tỵ nạn chân chính chúng ta và những nạn nhân khốn khổ của Cộng sản đều biết quá rõ.
Như vậy, tôi xin hỏi, Cộng Phỉ Bắc Việt đã có công thống nhất đất nước, hay chúng chỉ là lũ xâm lăng xua quân đi chiếm Miền Nam, xé bỏ chính cái hiệp định mà chúng vừa ký chưa ráo mực, mà chúng xem như một tờ giấy lộn, không hơn không kém? Chúng là ai? –Là quân ăn cướp ngày đúng nghĩa, có môn bài và giấy phép cấp bởi những siêu quyền lực cơ hội chủ nghĩa, vô cùng hèn mạt, trên toàn thế giới.
Nói rằng Việt Cộng có công thống nhất đất nước thì cũng chẳng khác gì kể thành tích của một thằng ăn cướp vào nhà anh, chiếm đoạt mọi thứ, kể cả vợ anh, rồi dí dao vào lưng anh, bảo: “Kể từ hôm nay, ta thống nhất nhé, nhà cửa, tài sản, vợ con của anh là của chung giữa anh và tôi nhé.” Nghe được không, hỡi những tên nằm vùng VC hải ngoại hoặc bọn Việt Kiều đã bỏ nước ra đi vì miếng cơm manh áo –đang cam tâm nâng bi Việt Cộng, đang mưu toan chối bỏ ngày 30/4 bằng cách thay đổi danh xưng, hoặc đang tổ chức văn nghệ, hát xướng, nhảy đầm, cùng hòa vui với VC trong và ngoài nước, vô tình hay hữu ý? Đừng nói tôi chụp mũ. Các ngươi chưa phải là tay sai VC gộc để xứng đáng được chúng cho đội nón cối. Vả lại, không bao giờ Việt Cộng cho phép những tên nịnh hót cắc ké công khai, có giấy phép, có môn bài –như Nguyễn Cao Kỳ (bị người quốc gia chân chính khinh rẻ và bị VC viết sách gọi là “đứa con hoang trở về”), Phạm Duy, Phó Bá Long, Trần Trường v.v..., những đứa làm trong các báo hải ngoại nổi tiếng thân Cộng– trở thành Cộng sản, nghĩa là được vào hàng ngũ của chúng, dù có quì xuống, phủ phục, tâng bốc chúng cách mấy. Chúng coi bọn phản thùng này không đáng cục phân. Được lợi, nhưng chúng vẫn xem bọn trở cờ, phản bội chính nghĩa quốc gia như một thứ khuyển mã (nôm na: chó ngựa), lợi dụng xong là đá đít, đuổi đi, hoặc như thời trước, bỏ rọ thả trôi sông, hoặc như thời nay, cho uống cà-phê hay đụng xe, không thương tiếc. Có nghĩa là, chúng khôn lắm, hiểu được rằng bọn này nếu đã phản bội VNCH, ân nhân trước kia của mình, thì sớm muộn gì sẽ cũng phản bội chúng –một thời là kẻ thù. Cho nên, cần tiêu diệt trước cho chắc ăn. Kìa như ông tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, bằng cấp đầy mình, bị dụ khị từ Pháp phấn khởi trở về nước, cung cúc phục vụ Hồ Chí Minh và chế độ, thế mà khi không cần nữa chúng vẫn tống cổ ra khỏi club, siết hộ khẩu và lương thực, cho ăn đói, đến nỗi ông phải viết hồi ký kể lể, than thân trách phận, dù quá muộn. Sá gì bọn tay sai lấc cấc, vênh váo, hèn hạ đầy dẫy ở hải ngoại, rặt một phường văn dốt vũ nát, tâm địa tráo trở, chỉ có tài khôn nhà dại chợ, tức giỏi chửi đồng môn và thầy dạy, chửi những người quốc gia bảo vệ cờ Vàng, mà hễ thấy “người lạ”, “tàu lạ”, tức Việt Cộng hay Tàu Cộng, chưa lên tiếng chất vấn, đã run như cầy sấy, thiếu điều vãi cả ra quần, miệng túm đặc lại như miệng "ông bình vôi" của Phan Khôi.
Một thắc mắc nữa. Tại sao nước nhà đã thống nhất rồi mà bọn Việt Gian hải ngoại, gốc du học, hay vượt biên, hay công chức đào nhiệm, hay xướng ca vô loại đã bán linh hồn cho quỷ, không chịu về ở hẳn bên đó? Tại sao? Vì theo VC nhưng vẫn sợ mã tấu VC? Vì không muốn bỏ mọi thứ tiện nghi, quyền lợi, tự do (kể cả tự do chửi bới) ở hải ngoại? Vì ăn gian nói dối với chính lòng mình? Vì được VC cài làm việc, có lương hay không, vào các cộng đồng với nhiệm vụ phá hoại người quốc gia, theo nghị quyết 36? Rồi khi học xong, xin ở lại định cư, hay xin vào định cư từ những trại tỵ nạn Đông Nam Á, và tại bàn phỏng vấn, có thằng nào, con nào trong bọn trở cờ hiện tại dám dùng chữ đất nước VN đã được giải phóng, đã được thống nhất, với nhân viên di trú không?

4. Chữ nghĩa tự nó trung tính, không màu, không mùi, nhưng vẫn có linh hồn riêng, cũng như mỗi con người. Chữ thống nhất cũng vậy. Nó chỉ là biểu tượng, hay biểu hiện, phản ảnh con người thực. Khi mang linh hồn ngập máu của bọn VC chính hiệu và lũ ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản, chữ thống nhất ám chỉ một công lao, một chiến thắng, dù là tưởng tượng, của “đảng ta”, của “nhân dân anh hùng chống Mỹ cứu nước” và đàng khác, một thái độ vô ơn đối với đất nước VNCH đã cưu mang chúng, bảo vệ chúng và cho chúng ăn học đến nơi đến chốn, trở thành người. Ngược lại, khi mang linh hồn của người tỵ nạn có lập trường quốc gia chân chính, vững chắc, chữ thống nhất đồng nghĩa với ăn cướp, xâm lăng, với các trại cải tạo, với hận thù, chia rẽ, kỳ thị, độc tài, áp bức, gian manh, tham nhũng, với đau thương, khổ nạn, bất hạnh, nghèo đói, với băng hoại xã hội và đạo lý, với nền giáo dục vong bản tồi tệ, với thứ văn hóa bần cố nông khuyến khích con chửi cha mẹ, trò chửi thầy, tớ chửi chủ. Và trầm trọng hơn nữa, đồng nghĩa với âm mưu bán đất, bán biển, bán quốc gia, bán chủ quyền, bán sinh mạng của toàn dân cho Tàu Cộng, kẻ thù muôn kiếp của dân tộc...
Cho nên, trên pháp lý, mọi người có quyền và tự do dùng chữ thống nhất. Nhưng kẻ nào sử dụng nó, công luận sẽ biết chắc chắn hắn là ai trong cộng đồng tỵ nạn hải ngoại. Đừng cãi chày cãi cối nữa. Vô ích.

*Trên báo Đoàn Kết ở Paris, số 188, ngày 30.4.1976, kỷ niệm 1 năm giải phóng miền Nam [sic], Đặng Tiến có bài thơ “Nói với con Nhất Lập”. Theo báo Thể thao & Văn hóa ngày 4.4.2009, “tên cô con gái đầu lòng Nhất Lập, thể hiện rõ ông chờ đợi đất nước thống nhất và độc lập”. Sau đây là nguyên văn bài thơ của Đặng Tiến, một tên Tố Hữu mới, một đồng môn của tác giả NLGO tại ĐH Văn Khoa Sài Gòn (1960-63),một công chức VNCH đào nhiệm,để quý vị và quý bạn phe ta phán xét, xem hắn nịnh hót VC đến cỡ nào:
Nói với con Nhất Lập
Con hình thành
Khi cô bác vùng lên giành lại núi sông
Năm mươi lăm ngày đêm đất chuyển trời rung
Con có nghe
Trong bụng mẹ sóng gào biển lớn?
Cha muốn nói với con
Những lời nói nửa đời chưa nói trọn
Độc lập, Thống nhất, Tự do
Vì hôm nay lịch sử hẹn hò
Trên năm ngón tay cha sờ bụng mẹ
như ngọn gió Lào lay Trường Sơn nhủ khẽ
Trận cuối cùng dứt điểm hôm nay
Con có nghe trong chín tháng mười ngày
Năm nghìn năm rung chuyển?
Từ nguồn đến sông từ sông về biển
Con chào đời thao láo mắt bình minh
Cha đã muốn nói với con trăm ngàn chuyện quê mình
Chuyện lưỡi cày cắm sâu vào sỏi cát
Chuyện giọt mồ hôi trên đồi trưa bỏng rát
Thành củ khoai tròn trịa tựa tim người
Chuyện bàn tay hơ bếp lửa sắn vui
Thắp tiếng cười lung linh mái lá
Chuyện mối tình đêm trăng đầu hạ
Trên đường làng mùi rạ ấm phân trâu
Cha muốn hôn con trong cái hôn đầu
Bằng ngọn gió nồm
Thổi qua chùm hoa khế
Còn lắm chuyện con không cần cha kể
Đã khắc sâu trong lịch sử loài người
Những nét lửa bay dài thế kỷ hai mươi
Chuyện các cô tay mò cua bắt ốc
Súng trên vai đôi mắt đựng trời xanh
Cao tay roi này các chị các anh
Vừa chăn trâu vừa đuổi giặc
Hiền như đất kia con chào các bác
Giữa đô thành ôm súng nhớ rừng sâu
Nhớ từng chiếc lá xanh mấy lớp đã thay màu
Trên mái tóc đang nhòa trong sương muối.
Với bè bạn năm châu sau này con sẽ nói
Việt Nam
Con thấy chúng nghiêng mình
Con có quyền hãnh diện
Việt Nam Việt Nam
Miễn con đừng quên ơn cô dì chú bác
Miễn suốt đời con biết
không có gì quý bằng ngọn cỏ quê hương.
ĐẶNG TIẾN
Orléans, 12-1975
(Nhân ngày sinh con gái đầu lòng)

NLGO
Portland, Mùa Quốc Hận,
8 tháng 4, 2017


Cái giá của ngày 30/4

Nguyễn Văn Châu


 
Bản quyền hình ảnh Getty Image caption
Hình chụp ở Saigon đánh dấu 40 năm kết thúc chiến tranh

Trong thời gian này hằng trăm bài xã luận sẽ đề cập đến mốc lịch sử ngày ba mươi tháng tư năm 1975, hoặc như ngày thống nhất đất nước, ngày chiến thắng vinh quang nhất lịch sử theo luận điệu Ðảng Cộng sản Việt Nam và những người xu nịnh ĐCSVN, hoặc như ngày quốc hận theo quan điểm của người Việt chống cộng hay không thân cộng trong nước cũng như ngoài nước.
Có lẽ đây là một cơ hội tốt để cả hai bên cùng nhau ôn lại vài bài học mà nhân dân Việt Nam đã phải trả mua bằng giá rất đắt.

Ðộc lập, Thống nhất và Chiến tranh
Sau Thế chiến thứ hai, các nước thực dân trên thế giới đứng trước hoàn cảnh mới và khí thế mới của các phong trào nhân dân đòi lại độc lập trên toàn cầu đành phải đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác và cuối cùng phải cúi đầu công nhận nền độc lập của các quốc gia mà họ thống trị trước đó.
Chế độ thực dân suy sụp và chủ nghĩa đế quốc đã đến thời kỳ cáo chung. Chúng ta cứ nhìn vào Nam Dương và Việt Nam, hai nước cùng tuyên bố độc lập vào mùa thu 1945. Hòa Lan công nhận quyền độc lập Nam Dương vào năm 1949. Pháp chỉ công nhận chủ quyền Bắc Việt Nam năm 1954, sau khi chiến tranh Pháp Việt đẩm máu gây trên 300,000 binh sĩ và trên một triệu thường dân Việt Nam bị tử thương,
Trong lúc đó, chế độ thực dân Anh chấm dứt ở Ấn độ vào năm 1947, đưa đến độc lập cho Ấn Độ và Hồi Quốc. Việc này cũng xảy ra ở Miến điện và Tích Lan vào năm 1948. Phi luật Tân lấy lại từ Hoa Kỳ quyền độc lập vào năm 1946 .
Phần lớn các nước nhược tiểu ở châu Á, châu Phi không cần đổ máu nhân dân, chiến đấu trường kỳ, bần cùng hóa dân tộc, phá hủy bao nhiêu công trình văn hóa của đất nước mà vẫn đạt được mục đích giải phóng quốc gia và lấy lại quyền độc lập cho xứ sở nhanh chóng hơn ta. Phải chăng vì các nước đó đã có những nhà lãnh đạo sáng suốt có cái nhìn chiến lược, thấu hiểu sự suy tàn của chủ nghĩa thực dân, nên đã ứng dụng phương thức đàm phán, đấu tranh không võ trang, không bạo động để tiết kiệm xương máu nhân dân.
Phải chăng nhân dân ta đã không tiết kiệm được xương máu, đã phải chứng kiến bao nhiêu tàn phá, cùng khổ vì các nhà lãnh đạo Cộng sản thời đó không có cái nhìn chiến lược? Hay tệ hơn nữa họ đã có những mục tiêu khác thay vì mục tiêu dành quyền độc lập và thống nhất cho xứ sở trái lại theo đuổi mục tiêu tận diệt các đảng phái cách mạng khác và tất cả những người Việt Nam không cùng chính kiến với họ?

Ai chia cắt Việt Nam?
Cuối cùng, sau chín năm máu lửa, hòa hội Genève quyết định số phận Việt Nam. Pháp và Trung Cộng đã đi đêm với nhau và đưa ra giải pháp chia cắt Việt Nam thành hai mảnh. Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đành phải nghe theo nước đàn anh phương bắc, chính quyền Ngô Đình Diệm nhất quyết không nghe lời Pháp và Trung Cộng, và cuối cùng không ký vào bản hiệp định đó.
Sông Bến Hải và Vĩ Tuyến 17 đã phân chia Nam, Bắc. Người miền Nam gọi ngày đất nước bị qua phân (20 tháng 7) là ngày Quốc Hận từ năm 1954 đến năm 1975.
Thuyền nhân Việt Nam tại một trại ở Hong Kong năm 1994
Vì đất nước bị qua phân, nên chỉ năm năm sau Bộ Chính Trị Bắc Việt lại đưa nhân dân ta vào chiến tranh một lần nữa, và lần này chiến cuộc kéo dài mười lăm năm, với ba triệu người Việt bị tử vong.

Từ 1960 đến 1975
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) chỉ có danh mà không có thực. Không mấy ai ở Việt Nam tin rằng MTGPMN là một tổ chức độc lập. Ai cũng thừa biết MTGPMN được Bắc Việt thành lập, chỉ huy và điều động. Chỉ có báo chí ngoại quốc mới nhắm mắt dùng tổ chức ngụy trang này để mô tả chiến cuộc từ năm 1960 đến năm 1969, và những năm 1970 đến 1973 là một phong trào võ trang của nhân dân Miền Nam nổi lên chống chính quyền Miền Nam.
Bằng chứng MTGPMN hoàn toàn ở trong bàn tay của chính quyền Hà Nội là:
1. Sự thành lập Văn phòng Trung ương Cục miền Nam vào năm 1960, đặt trực tiếp dưới quyền chỉ huy của Ban Chính Trị, Ðảng Cộng Sản Việt Nam.
2. Lực lượng võ trang của MTGPMN là Quân đội Giải phóng miền Nam đã bị ném vào hơn mười đô thị trong một cuộc tổng tấn công thiếu chuẩn bị vào dịp Tết Mậu Thân (1968) để đến nỗi trên hai trăm ngàn binh sĩ bị tử vong (và hơn 7000 thường dân Huế bị thảm sát).
3. Chỉ một năm sau ngày 30 tháng tư 1975 thì tất cả tổ chức ở miền Nam kể cả Chính phủ Cách mạng Lâm thời đều bị xóa bỏ.
Chính quyền miền Bắc đã đưa gần một triệu dân Việt Nam vào các trại tù cải tạo, đày đọa gia đình họ, làm cho hàng triệu gia đình người miền Nam điêu đứng bao nhiêu năm qua.
Nói chiến tranh ở Việt Nam, nói đến sự mất còn của miền Nam thì không thể không đề cập tới Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người đã nhất thiết không để Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam, và vì vậy đã bị lật đổ và giết chết một cách tàn bạo.
Nhưng rồi Mỹ vào thì Mỹ lại ra, chỉ tội nghiệp cho bao nhiêu người Việt, người Mỹ bị thiệt mạng hay tàn phế.
Hoa Kỳ đã đạt được mục tiêu chiến lược của họ là nhân sự leo thang của họ trên chiến trường và việc xử dụng vũ khí tối tân đã khiến nhà cầm quyền Bắc Việt phải ôm chân Nga Sô, tạo ra thù hiềm và kình địch giữa Nga Sô và Trung Cộng.
Miền Nam không những bị Mỹ bỏ rơi mà còn bị trói buộc của Hiệp Định Paris 1973.
Chỉ cần thêm vào đó vài sai lầm chiến lược của nhà cầm quyền hồi đó là cả Miền Nam sụp đổ.
Năm 1975 Ðảng Cộng Sản Việt Nam lại có một cơ hội nữa để thực sự thống nhất đất nước, xóa bỏ hận thù để toàn dân tham gia vào việc xây dựng quốc gia. Nhưng họ đã không làm như vậy. Chiêu bài yêu nước yêu dân đã bị lột bỏ. Chính quyền miền Bắc đã đưa gần một triệu dân Việt Nam vào các trại tù cải tạo, đày đọa gia đình họ, làm cho hàng triệu gia đình người miền nam điêu đứng bao nhiêu năm qua. Chính quyền đã khiến bao nhiêu người Miền Nam phải bỏ xứ sở để ra đi.
Khó tìm thấy lý do gì để gọi ngày 30 tháng 4 1975 là một ngày vinh quang của dân tộc.
Nguyễn Văn Châu
Gửi cho BBC từ Texas
17 tháng 4 2015


* Bài viết nêu quan điểm riêng của tác giả, người từng viết một cuốn sách về bà Ngô Đình Thị Hiệp, em gái của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm.

http://www.bbc.com/vietnamese

 

Đăng ngày 28 tháng 04.2017