Print

Còn lại với đời

Trần thị Diệu Tâm

(Tác giả ghi lại cảm nghĩ sau một tai nạn xe hơi tháng 8/2000)
 
Chiếc xe chúng tôi đang chạy về hướng Ermenonville, trên con đường đến tham dự một lễ cưới tại nhà thờ thuộc tu viện Chaalis. Con đường trải nhựa màu nâu đỏ khác thường.
Bỗng nhiên, tôi cảm thấy tối sầm lại, mất hết cảm giác, rơi vào một khoảng trống không. Sau đó một khoảng bao lâu tôi không biết, mở mắt ra thấy trời còn chiếu ánh nắng vàng rực. Tôi thấy nhà tôi bên cạnh, anh ấy ngả đầu sang một bên. Tôi hỏi trong hơi thở thều thào "Tại sao anh không tiếp tục lái, hay anh mệt hả?" Tôi không hiểu rằng có thật tôi đã nói được những lời như thế với nhà tôi không, hay chỉ là ý tưởng mới thoáng hiện ra trong đầu. Hình như nhà tôi trả lời "Ừ anh mệt". Tôi trôi nổi trong một trạng thái bồng bềnh, nửa ý thức nửa vô thức. Với phản ứng thật nhanh chóng của một cơ thể bắt đầu hồi sinh, tôi nhìn xung quanh. Chiếc xe hơi của chúng tôi phía sau bị bẹp dúm như một cái hộp giấy do bàn tay ai bóp lại. Tôi biết tại nạn vừa xảy ra tức thời.
Đầu tôi bắt đầu nhức buốt, hình như có máu chảy xuống vai. Nghĩ đến máu, tôi lại mê thiếp vì sợ hãi.
Tôi nghe thấy rất mơ hồ, tiếng nói tiếng ồn ào tiếng còi của xe cứu thương. Tôi cố gắng mở mắt ra. Cảnh tượng trước mắt diễn ra giống y hệt cảnh tượng tôi thường thấy trên con đường đi làm hằng ngày. Một tai nạn xe hơi, có người bị thương nặng. Nhưng trước đây tai nạn ấy xảy ra cho người khác, nay thì xảy ra với mình.
Tuy toàn thân tôi đau đớn ê ẩm và nhức buốt, nhưng đây là một sự kiện lạ nên tôi ghi nhận hết tất cả mọi chi tiết. Tôi đang đóng vai chính của mẫu chuyện ngắn này. Nhà tôi mở cửa xe bước xuống, ngơ ngác như một người đang ở trong bóng tối lâu năm, vừa chợt thấy ánh sáng. Anh ấy cũng như tôi đã qua một cơn mê thiếp vì bị cú sốc quá nặng.
Nhà tôi không bị việc gì. Nhưng tôi bị thương trầm trọng. Cả thân thể tôi như dán chặt vào chiếc ghế xe, không thể nào cựa quậy. Hai ba người cấp cứu cố đỡ tôi đem ra khỏi xe. Nhưng chiếc cửa xe đã bị kẹt. Họ đang cưa cánh cửa xe. Khi cửa xe mở ra, hai người cứu thương nâng tôi dậy nói "Bà hãy nằm yên". Cái lưng tôi hình như đã gãy nát. Trên xe cấp cứu, bác sĩ đang chuyền nước biển vào tay tôi, vì máu ra nhiều quá. Ông nói "Bà hãy mở mắt ra". Vì nếu tôi cứ nhắm mắt, sợ rằng tôi sẽ mê vào cơn mê bất tận, không thể nào tỉnh dậy được. Cây cối hai bên đường vùn vụt chạy ngược chiều. Mình đi đâu đây? Mình có thể chết trước khi vào bệnh viện chăng? Tuy tự hỏi thế nhưng tôi bình tĩnh.

Đối đầu với cái chết, người ta không thấy sợ nữa. Nếu chết, thì tôi đã chết từ lúc nãy rồi. Nhờ suy nghĩ được như thế nên tôi yên tâm. Xe vào đến bệnh viện Senlis, các y tá đã túc trực sẵn sàng đẩy tôi vào phòng "urgence"( sau này tôi nghe kể lại có một bác sĩ làm việc tại đây đi làm về gặp thấy tai nạn, đã gọi điện thoại ngay cho bệnh viện báo tin và nhờ chuẩn bị cứu cấp). Các y tá nhẹ nhàng cởi bỏ hết áo quần tôi đang mặc.
Bộ áo đầm tôi mới mua ở hiệu "Un jour ailleurs ". Bộ áo màu pastel mà tôi đã đi lui đi tới mấy lần trước khi quyết định mua. Màu sắc nhã nhặn vừa ý, nhưng lại không vừa với túi tiền vì hơi đắt. Tôi yêu qúy biết bao nhiêu bộ áo mới này. Nhưng giờ đây, chiếc áo đã ướt đẫm máu từ đầu chảy ra. Chiếc nịt ngực trắng đăng ten, chiếc júp bó sát người, đôi vớ mỏnh manh, tất cả mọi thứ bị cởi bỏ. Các món nữ trang trên người cũng lần lượt tháo ra. Những thứ mà mới hồi chiều, tôi đứng trước gương cẩn thận trang hoàng cho thân thể. Bây giờ, cái lớp vỏ ấy đối với tôi đúng là những thứ vô nghĩa nhất. Vô nghĩa trướccái chết.
Mùi nước hoa Christian Dior từ tấm áo để bên cạnh chen lẫn mùi máu còn tươi nồng lặng lẽ thấm vào mũi tôi. Tôi chảy nước mắt, không hiểu tại sao mình khóc nhanh thế. Điều gì làm xúc cảm? Phảichăng là tính chất vô thường phù ảo tôi vừa kịp nhận ra. Cái tính chất tôi thường nghe rất nhiều, nói rất nhiều, nhưng giờ đây mới thấu hiểu.
Cách đây chỉ có mấy gìờ đồng hồ, tôi sang trọng, tôi lịch sự, nhờ ở cách ăn mặc điểm trang. Sau khi cởi bỏ hết mọi thứ ấy ra, tôi còn lại gì. Một thân thể trần truồng bẹp dúm của con người rất mong manh yếu đuối trước định mệnh.
Cô y tá cố gắng hỏi han cho tôi quên đi phần nào đau đớn: "Bà đi đâu mà ăn mặc đẹp thế?" Tôi trả lời nhẹ nhàng qua hơi thở: "Chúng tôi đi ăn đám cưới, chứ không phải đi nhà thương". Nếu biết vào bệnh viện như thế này thì việc gì tôi phải mất công loay hoay cả buổi chiều sửa soạn tươm tất.
Un jour ailleurs! Một ngày ở một nơi khác. Đúng thế. Một ngày không như mọi ngày, và nơi khác là nơi nào?

Sau khi chụp hình thân thể, mấy tấm phim được treo lên giá ánh sáng. Kết quả cho thấy: Xương vai gãy làm ba khúc, nhô lên nhô xuống. Xương sườn phía sau, một hai ba bốn... đều gãy. Tôi không dám nghe, tôi không dám tin. Tôi bất động như một xác chết, chỉ còn cái đầu. Nhưng máu còn chảy, cô y tá thấy da đầu bị rách, khâu mấy mũi kim. Hỏi tôi có đau không, tôi lắc đầu. Tôi chẳng hề sợ sệt trong phút giây này.
Đau đớn về thể xác thấm gì với nỗi đau tinh thần. Phút giây này, một mình tôi chống chọi với khắc nghiệt của định mệnh. Nó bắt tôi phải nhẫn nhục, thần phục quyền lực nó. Vì thế tôi phải tỏ ra mình rất vững tinh thần, không hề bối rối trước nguy nan nào. Tôi chưa hề chết, tôi còn sống. Còn sống, tôi cần phải vượt qua mọi trở ngại. Tôi nằm chờ đưa vào phòng mổ. Banh da xẻ thịt. Tôi chờ đợi người ta chụp thuốc mê một cách bình tĩnh. Nhưng chờ mãi tôi sốt ruột hỏi y tá tôi có phải bị mổ không. Nhưng cô y tá trả lời: Bác sĩ nói không cần mổ. Và họ bắt đầu bó thân thể tôi bằng một cái đai cứng ở vai và ngực. Mỗi lúc tôi mỗi thấy đau hơn trước. Có lẽ sau khi thấy mọi chuyện đã bắt đầu ổn định, bớt nguy hiểm, ý chí tôi nghỉ ngơi không căng ra đẻ đương đầu với sợ hãi. Cho nên cơn đau có cơ hội tấn công dữ dội. Trong lúc nằm chờ đợi bác sĩ làm hồ sơ bệnh lý, và để được theo dõi sức khỏe trước khi cho về phòng, tôi lan man nghĩ ngợi cho bớt đau.
Trên giá ánh sáng, mấy tấm phim vẫn còn treo. Thân tôi chỉ là bộ xương ốm yếu, trơ trọi, chiếc rời, chiếc gãy. Bộ xương khẳng khiu vô hồn. Bộ xương chẳng định nghĩa được điều gì về tôi, về một người đàn bà đã sống trên năm mươi năm với đời. Khổ đau và hạnh phúc.
Thế đấy! "Nhà văn nữ DT" cái tên người, những người lạ thường gọi tôi. Bây giờ lại càng xa lạ hơn nữa. Tôi chỉ là những chiếc xương vô tình được ghép lại với nhau, lỏng lẻo. Chẳng còn nỗi bí ẩn nào của một đời người, với tiêng tôi. Tôi không còn một chút giá trị nào qua ánh sáng X. Đừng đòi hỏi gì nữa nhé, tôi ơi! Tiền bạc, tình yêu, danh vọng. Bộ xương này không hề có nhu cầu ấy. Nó biết nó sẽ trở về với đất. Tôi nuốt ực xuống. Không còn nước miếng để trôi xuống trong tôi niềm tuyệt vọng thăm thẳm. Hãy nhìn cho rõ mọi chi tiết tấm phim con người mình. Để thôi cao ngạo, thôi mơ tưởng. Vì ta chỉ là những chiếc xương sườn, đã vỡ.

Tôi hướng mắt lên trần nhà lợp bằng thứ kiếng mờ, nghe tiếng mưa rơi lộp độp. Cô y tá nói: "Mưa lớn quá". Tôi tự hỏi không biết mấy giờ rồi, tiệc cưới bên ngoài chắc đến hồi rộn rã tiếng cười,tiếng chúc tụng. Tại sao trời mưa lớn thế này. Mới buổi chiều nắng đang tươi, vàng ấm rực rỡ. Nắng ấm đến độ tôi đã phải tháo sợi dây nịt trên ghế xe hơi vì nóng. Nhưng sau đó tôi cẩn thận gài lại. Nếu không, với tai nạn này, tôi bị bể sọ đầu vào tấm kính xe phía trước.
Mọi chuyên xảy ra thật lạ lùng. Sống và chết, sinh và tử chỉ cách nhau một tích tắc đồng hồ. Nhanh hơn tốc độ âm thanh và ánh sáng. Sẽ có những người tham dự tiệc cưới hôm nay, tuần sau đi đưa tang mình nếu mình chết. Tôi thích thú vì ý nghĩ này.
Bầu nước trợ lực nhỏ từng giọt đều đặn thánh thót vào cánh tay. Những giọt nước bé nhỏ di động, còn tôi bất động nằm lặng một mình nơi này. Người ta chờ những phản ứng khác có thể xảy ra trên cơ thể tôi. Bác sĩ và ý tá trở vào hỏi han đôi ba câu, họ yên tâm khi thấy tôi trả lời sáng suốt, đôi khi còn tỏ ý khôi hài.
Người ta đưa tôi về phòng, chiếc giường được đẩy đi nhẹ nhàng nhanh chóng qua các hành lang bệnh viện. Các cô y tá tóc vàng mắt xanh xinh đẹp, hình như chúng ta, mọi người đang đóng phim. Một cảnh trong phim "Les choses de la vie". Chuyện đời. Một phim Pháp tôi xem đã mấy chục năm nay, hồi còn ở Việt Nam. Mới đây, xem lại với các tài tử Mỹ đóng. Cuốn phim với đề tài cũ không mới lạ gì, nhưng gây một cảm nhận sâu đậm với người xem là tôi vì cái chết bất ngờ của nhân vật chính trong một tai nạn xe hơi. Cuốn phim nhắc tôi rằng chết là xóa bỏ mọi vấn đề tình cảm với người sống. Sống là mở ra, chết là đóng lại.
Trong lúc này, tôi nghe một giọng nói tiếng Việt rất lớn, giọng của nhà tôi. Có lẽ anh kể với mọi người về tai nạn xảy ra. Nhưng với ai, với các bạn bè đến thăm chăng. Tôi tưởng chừng mình đã lìa khỏi xác, bạn bè đến thăm viếng an ủi nhà tôi. Tôi không còn phân biệt nổi trạng thái nào tôi đang sống. Nhưng đồng thời tôi biết tôi đi vào một cảnh giới khác rồi, trong đó tôi phải sống một mình không thể chia xẻ cùng ai sự bất hạnh này. Tuy nhiên tôi mừng cho nhà tôi, không bị thương tích nào. Tôi yên tâm. Anh là một người đàn ông có tinh thần lạc quan, tin tưởng vào đời sống, nhờ thế thường gặp may mắn.

Sau khi vào nằm yên trong căn phòng rộng, tôi chợt mở mắt. Thấy nhà tôi đứng cạnh, tôi hỏi hồi nãy anh nói với những ai mà ồn ào thế. Anh ngạc nhiên trả lời: Nãy giờ anh nằm trong máy chiếu scanner để xem cái đầu có bị gì không, làm sao anh có thể nói chuyện với ai. Có lẽ trong lúc nửa mê nửa tỉnh, tôi thấy cần thiết có bóng dáng một người thân bên cạnh. Bóng dáng của người chồng.
Tôi không bao giờ muốn sống một mình, và cũng không thể sống một mình. Nhưng mọi lúc mọi ngày tôi vẫn hằng nói: chỉ mong ở một nơi không có bóng người. Vì luật đời sống đôi khi làm cho tôi mệt mỏi, nghẹt thở.
Nằm bất động trên chiếc giường nệm trắng phau, mỗi cử động là cả toàn bộ cơ thể tôi chống cự mãnh liệt. Cả thân xác này không còn phục tùng tuân lệnh trí óc nữa. Đành phải nằm im đưa mắt nhìn vào khoảng trống bức tường bệnh viện, khoảng trống thật mênh mông.
Anh chị M vào thăm đem vào một bó hoa tươi màu trắng thật đẹp. Bó hoa ngày cưới con gái anh chị. Tôi nói vì mình mà tiệc cưới hôm qua mất vui. Chị cho biết bạn bè đều lo lắng khi biết tin chúng tôi bị tai nạn. Có người thấy tôi máu chảy nhiều trên đầu sợ không qua khỏi. Cô y tá biết chuyện tôi đi ăn cưới gặp tai nạn, cô cười nói: "Vậy là raté một bữa tiệc vui" Tôi nhớ lại chữ raté tiếng Pháp, bắt gặp chữ này trong một truyện ngắn ở tạp chí Sáng Tạo vào năm tôi mười tám tuổi. Một con chữ ám ảnh tôi không ngừng. Raté là không có may mắn hay khả năng để thành công, với tôi có nghĩa là định mệnh. Ai trong chúng ta cũng đều muốn đến sân ga đúng giờ để bắt kịp chuyến xe đời. Chỉ vì một lý do rất nhỏ nhặt,rất tình cờ đã làm hụt đi tất cả. Nếu chiều hôm qua, chúng tôi lái xe sớm hơn hay chậm hơn một chút thì chắc chắn không xảy ra tai nạn, chúng tôi sẽ có mặt trong buổi tiệc cưới. Mọi chuyện đều vui vẻ. Nhưng vì đề phòng sợ kẹt xe dọc đường vào chiều thứ sáu,nên đẵ khởi hành sớm, xa lộ thong thả. Thế nhưng định mệnh chơi nghịch, bày trò để thử thách tôi. Làm sao tôi có thể cãi lời ông ta?
Tiệc cưới vẫn được diễn ra một cách tốt đẹp, cô dâu chú rể là những người hạnh phúc nhất của giây phút ấy. Hình ảnh đẹp nhất của đời người là hình ảnh đám cưới của đôi người yêu nhau. Dù tôi có nằm đau đớn trên giường, dù trời đổ mưa lớn vào tối hôm qua, mọi việc bên ngoài tôi vẫn xảy ra đúng như chương trình dự định. Mọi chuyện vẫn an nhiên như chưa hề có tai nạn tôi xảy ra. Nếu tôi chết thì hoa vẫn nở, anh vẫn sống, chị vẫn cười, một gìờ đồng hồ có sáu mươi phút, một phút có sáu mươi giây. Tôi chỉ là một người trong sáu tỷ người của địa cầu này. Tôi chỉ là mấy cái xương sườn vỡ, sẽ tiêu đi khi cho vào lò thiêu ở nghĩa địa Père Lachaise. Có nghĩa gì một chữ "tôi".

Qua hôm sau, bạn bè biết tin kéo đến hỏi thăm, nhà tôi thay tôi trả lời. Cả hai chúng tôi đều không biết gì về tai nạn đã xảy đến như thế nào, vì cả hai đều bị đưa vào cơn hôn mê bất tỉnh. Chiếc xe cam nhông đâm từ phía sau. Riêng tôi, cảm thấy như mình vừa trải qua cái chết, nay sống dậy. Đối với nhiều người khác, tai nạn thật kinh hoàng. Tôi còn sống được là may. Cái may mắn lớn nhất cho tôi, đó là tiếp cận với cái chết. Từ sự nhận thức về điều bí ẩn này, tôi tìm thấy những giá trị khác có thật và không có thật trên đời tôi sống lại.
Đến đêm, tôi mới thật sự sống với tai nạn. Ban đêm tôi chỉ có một mình chịu đựng đau đớn. Dù được uống mỗi ngày rất nhiều viên thuốc chống đau, cơn đau không vì thế mà giảm bớt khi tôi thức giấc.Với chất morphine trong thuốc, tôi mê đi trong cõi chết giả tạo. Nhiều lúc phải chống lại với công lực của thuốc, vì sợ rằng khi thiếp đi, tôi không còn muốn tỉnh lại nữa. Giữa đêm tối, ánh đèn điện bên ngoài hắt vào qua cửa sổ lạnh lẽo và ma quái. Tôi chỉ sợ mình chết trong đêm tối như thế này, không một lời từ giã với chồng con, không được dặn dò một lời cuối nào. Tôi thở rất yếu, có lẽ buồng phổi bị xẹp rồi chăng, nếu có việc gì xảy ra, tôi bấm nút điện cấp cứu. Liệu rằng y tá có đến kịp chăng? Khi tôi ngừng thở là chết, là hết. Đối diện với sự chết trong bóng đêm một mình là điều tôi chưa hề tưởng thấy bao giờ, nhưng giờ đây đang xảy ra. Một triệu chứng bất ngờ nào đó mà bác sĩ chưa tìm thấy, sẽ chổi dậy trong đêm tối, bóp tôi nghẹt thở. Bình nước trợ lực nhỏ đều từng giọt thời gian. Tôi xin ánh nắng ban mai đến sớm hơn, cho tôi được thấy mình có thể sống thêm một ngày nữa. Ôi đời sống, ôi một ngày, quý biết là bao!

Bệnh viện Senlis nơi này là bệnh viện lớn thành lập từ năm 1925, được phát triển thành bệnh viện toàn khoa. Bác sĩ và y tá làm việc rất tận tâm chu đáo, luôn luôn nụ cười trên môi. Tôi không phải lo chuyện quà cáp hay "phong thư" như hồi ở Việt Nam Cộng Sản, trước khi nằm trên giường bệnh, phải xã giao với người săn sóc mình. Tôi nhớ một lần, con tôi suýt chết vì bị sốt xuất huyết nặng, không kịp xã giao với y tá, nó phải nằm chờ suốt từ chiều cho đến sáng hôm sau mới được cấp cứu. Máu sắp bị đông cứng, may nhờ có một bác sĩ tận tâm, tôi nghe ông mắng cô y tá về việc chậm trễ này. Suốt buổi tối ấy nằm chờ y tá gọi con vào phòng cứu cấp, tôi nghe những tiếng khóc thảm thiết của các bà mẹ có con chết. Họ bó con trong những manh chiếu cuốn lại.
Các cô y tá nơi đây có lẽ ít gặp bệnh nhân người Á Đông, họ hỏi tôi có hiểu tiếng Pháp không. Tôi gật đầu, họ vui vẻ thấy tôi biết nói tiếng nước họ. Tôi được đối xử như một bệnh nhân đồng chủng. Thế mà ở quê hương tôi, người Cộng Sản xem chúng tôi là người dị chủng.
Buổi chiều hôm sau, một bác sĩ và đoàn sinh viên thực tập vào xem xét khám nghiệm trường hợp tai nạn của tôi. Ông bác sĩ đưa các tấm phim chụp lên cao giảng giải. Tôi theo dõi lắng nghe chăm chú vào bộ xương người như mới được khai quật từ thế giới cổ đại nào đó, bộ xương của tiến kiếp tôi. Ông ấn mạnh ở phần bụng trên bụng dưới, hỏi tôi có đau không. Luôn luôn tôi lắc đầu. Nhưng ông không tin tưởng vào những cái lắc đầu "non" của tôi. Tôi phải cần được dò tìm qua máy siêu âm bộ phận gan, vì đây là cơ quan nằm sát bên cạnh những cái sườn gãy. Tôi không ngờ cơ thể mình lại sinh ra những chuyện nhiêu khê đến như vậy. Cái này liên hệ đến cái kia.
Tôi phải nằm trên cái bàn lạnh trong căn phòng rộng, không tiếng động, chỉ có tôi với chuyên viên siêu âm. Suốt một gìờ, chiếc máy di chuyển trên người lần mò tìm dấu vết. Bác sĩ nghi ngờ một điều gì đó ở bộ phận gan và bụng. Với một cú sốc quá mạnh như thế của tai nạn, gan phổi có thể bị thương tích là chuyện dễ xảy ra.
Người chuyên viên cố gắng dùng mọi khả năng chuyên môn của mình để bắt gặp, tôi thì trái lại mong cho ông ta không tìm ra thêm vết thương. Kẻ này mong tìm ra sự thật, kẻ kia mong chối bỏ sự thật. Cả hai đều im lặng trong suốt hơn một gìờ đồng hồ. Ông ta có vẻ mặt cứng cỏi, không hề nói tiếng nào với bệnh nhân. Như một anh công an đang vào nhà tôi lục xét tài liệu phản động theo lời chỉ điểm của một ai đó. Tôi rất hồi hộp theo dõi nét mặt của hắn ta,và cảm thấy thù nghịch. Tại sao hắn ta lục soát lâu đến thế, nếu có thì đã thấy tìm ra ngay mà. Trên màn ảnh nhỏ của chiếc máy, căn nhà cơ thể tôi hiện lên rõ ràng. Hy vọng hắn không thấy gì. Vừa bị trần truồng trong hơi lạnh vừa bị đe dọa mình có thể là tội nhân, thật là một thử thách cực hình. Sau đó, tôi được thoát. Ông ta cho biết không tìm thấy dấu tích. Tôi thở phào nhẹ nhõm, mình được vô tội. Nhưng sau này, bác sĩ vẫn còn nghi ngờ lá gan tôi có vẻ "phản động" trên tấm phim, nên có ghi chú xin tiếp tục theo dõi điều tra!

Nằm trên gìường bệnh, mới hiểu ra sống một mình không phải là chuyện của con người bình thường. Tôi mong có sự hiện diện của người khác trong lúc này. Để cùng tôi chống lại sự ác là cơn đau đớn đang hoành hành trong cơ thể. Để quyết tâm tiêu hủy nỗi ám ảnh của bệnh tật, tôi nghĩ đến lòng tốt của những người chăm sóc, những an ủi hỏi han của bạn bè thăm viếng. Hy vọng lòng thương yêu quý mến của người khác sẽ che chở cho tội tai qua nạn khỏi. Vì ai cũng chúc tôi chóng khỏi đau sớm lành lặn trở về nhà. Tôi nhớ đến câu nói nổi tiếng của J.P.Sartre: "L'enfer c'est les autres". Đó là cái nhìn bi quan tiêu cực. Chính người khác là một phần sự hiện hữu của mình. Không có les autres mình trở nên vô nghĩa.
Một bài thơ hay không có độc giả, bài thơ không lên tiếng nói. Đó là bài thơ câm. Phải có người khác nhìn tôi đang sống, thì tôi mới thấy tôi sống thực sự. Người khác thấy tôi khỏe mạnh, tôi mới thực sự khỏe mạnh. Tôi ở trong người khác chứ tôi không ở với một mình tôi. Chính lúc này, dù tay chân bất động như một xác chết dán chặt vào nệm, tôi bình tĩnh nghĩ đến ngày mai tôi ra khỏi nơi này, gặp lại bạn bè, làm việc như trước. Sự tin tưởng giúp cơ thể tôi bớt đau.
Thế nhưng những lúc ngồi viết một mình, cảm giác cô đơn chợt đến, là lúc một ý tưởng tuyệt vời hiện ra giữa cái tôi với cuộc nhân thế này. Cái cảm nhận "một mình, mình biết, một mình, mình hay" là cảm giác trống vắng độc đáo của cô đơn, đưa tới trạng thái tâm hồn vừa tê dại vừa đau thương. Một trạng thái ao ước được tự hủy diệt, để lao mình vào cái không gian vắng vẻ ấy. Cô đơn từ bỏ hiện tại, vì không thể nhập cuộc với hiện tại. Là tiếng kêu cứu trong cõi sa mạc không người. Cô đơn vì thiếu tình thương, thiếu hy vọng.
Không, tôi vẫn yêu lấy đời sống này, vẫn muốn nhập cuộc. Dù có thế nào chăng nữa.

Tôi được chuyển về một bệnh viện gần nhà để gia đình dễ bề thăm viếng. Bác sĩ tiếp tục theo dõi hồ sơ, Bộ xương tiền sử tôi nằm yên đúng vị trí, chờ chúng nối lại tình thương yêu. Nhưng những gì ở phía dưới lồng ngực vẫn là điều đáng lo ngại. Ông cho biết nếu không có gì xẩy ra thêm, tôi sẽ được xuất viện vào ngày mốt. Thật còn gì sung suớng hơn được về nhà của mình. Còn hai ngày nữa nằm trong thế giới cách biệt như một linh hồn chưa chịu rời bỏ thể xác. Đêm đến vẫn là những ám ảnh, vì không ngủ được. Lâu nay tôi từng nhờ đến ánh sáng ban ngày để làm việc, để thấy xung quanh mình, nhưng tôi không hề biết ơn nó. Bây gìờ mới hiểu giá trị của ánh nắng. Đêm trong bệnh viện, những tiếng rên la của bệnh nhân già yếu bên cạnh phòng làm tăng thêm sự đau đớn cửa cơ thể. Tiếng rên: "Au secours, au secours, hãy đem tôi ra khỏi cơn đau". Các khớp xương như muốn gãy lìa theo tiếng kêu cứu ấy. Nhìn qua phía cửa, ban mai chưa thức dậy. Nhìn đồng hồ, mới 4 gìờ sáng. Tôi chập chờn trong tiếng gà gáy sáng ngày xưa ở quê nhà.
Không khí nơi bệnh viện Paris này thật khác xa với bệnh viện ở ngọai ô Senlis. Chỉ cách nhau 57 cây số đường dài, đây là đô thị. Các cô y tá đi ra đi vào làm phận sự nói chữ bonjour mà không đủ thì giờ nhìn người đối diện. Họ làm việc như những người máy, tình cảm trên nét mặt không hề hiện ra. Con người bị đô thị hóa, đã mất đi bản tính đơn sơ giản dị giàu cảm xúc của thiên nhiên.
Tôi nhớ lại tiểu thuyết ngày xưa "Gương vỡ lại lành" của bà T.L. Thực tế tôi chưa hề thấy bao giờ, tấm gương vỡ ra có dán khít lại, cũng sẽ cho thấy một mặt người méo mó biến dạng, không còn hoàn hảo như trước. Nay tôi "xương vỡ lại lành" như lời bác sĩ nói, tôi không tin hẳn. Đã có vết nứt rồi. Liệu rồi thân thể tôi có bị tật nguyền nào, đi đứng có được bình thường như mọi người khác hay không. Phải chống nạng hay ngồi xe lăn? Nhưng nếu không hy vọng,không tin mọi điều tốt đẹp sẽ xảy đến với mình, thì làm sao tôi có thể sống nổi cuộc đời này?

Tôi trở lại nhà như một thương phế binh chiến đấu nơi sa trường. Tôi đã chiến thắng với cái chết. Như người đi xa nhà một thời gian lâu lắm, tôi bồi hồi nhìn lại căn nhà với đồ đạc thân yêu của mình. Như thế là tôi được trả về với đời sống thực sự rồi, không còn những đêm thẳm thẳm bệnh viện. Tôi thuộc về thế giới của người đang sống.
Các con tôi ở xa gọi về "Mẹ nghỉ ngơi, đừng lo lắng gì cả, chúng con luôn ở cạnh mẹ". Cô con gái nói "chúng con muốn về thăm mẹ ngay". Con tôi sợ rằng nếu chậm về, sẽ không còn gặp mặt mẹ nữa. Tôi ứa nước mắt, trả lời "mẹ không thể chết được". Nói thế chứ tôi đã biết rằng sống rất khó mà chết thì quá dễ. Con tôi lo lắng chu đáo việc nhà, cậu út quý tử biết làm món ăn cho mẹ trước khi đi học. Khuấy một dĩa bột khoai tây, đổ một quả trứng gà là xong. Cô chị làm cầu kỳ hơn. Lấy sâm nấu với cà rốt rau đậu và xương để làm món xúp cho mẹ.
Sự lo sợ tàn tật dần dần thành một sự thật. Tôi không thể nào tự ngồi dậy hay nằm xuống một mình. Nhà tôi hoặc con tôi phải đỡ tôi. Nằm trên giường mãi thế này sao, không có thứ thuốc nào làm cho xương cốt liền lại với nhau tức thời. Chỉ có thời gian, phải ba tháng nằm yên như dự liệu. Chiếc xương vai, chiếc xương đòn gánh gãy làm ba đoạn, mong sao chóng lành để tôi còn lo gánh vác chuyện đời.
Những người quen biết tin gọi điện thoại hỏi thăm, tôi xin gửi cho tôi sách đọc, xâu chuỗi lần hạt. Tôi cần đến những thức ăn bổ dưỡng tinh thần trí óc. Thể xác đã bại liệt, tinh thần phải vững vàng để chổi dậy. Sách nào cũng đọc, mong tìm trong ấy lý do để hy vọng về đời sống vốn nhiều bất trắc. Và những cuốn sách về tôn giáo lại có khả năng giúp tôi tỉnh táo. Mỗi ngày tôi cầm tràng hạt của chị bạn gửi tới như tìm một điểm tựa. Ánh nắng Đức Tin đem lại hơi ấm cho cơ thể, vì hy vọng là bếp than hồng. Trời mùa hè tháng tám, ai cũng kêu nóng, nhưng riêng tôi phải đắp chăn suốt đêm lẫn ngày, có khi lạnh run. Chỉ những lúc đọc kinh hay đọc sách đạo, cơ thể tôi bớt lạnh, ít bị ho. Chuỗi tràng hạt chị bạn mua tại Lourdes, có thể đem cho người cầm một ân huệ nào đó chăng. Tôn giáo luôn luôn là kẻ cấp cứu sau cùng khi mọi phương thuốc chữa bệnh đều vô hiệu. Khi con người không còn tin ở chính mình nữa, chỉ có tôn giáo mới giải quyết những vấn nạn của đời sống con người. Tuy tôi chưa là kẻ tuyệt vọng, nhưng tôi yếu đuối, mong manh dễ vỡ. Người khác cũng như tôi, dễ vỡ mong manh yếu đuối. Tôi biết tựa vào ai để có can đảm bước trên chiếc cầu khỉ lắt leo trong hành trình biến động đầy bất ngờ không báo trước? Tôn giáo ở trong trời đất, hay nói cách khác ở ngay trong tâm mình. Nhìn lên thấy Trời, nhìn xuống thấy Đất. Có Trời Đất bao la che chở tôi, mong sao tôi được hạnh phúc vui vẻ. Có gì đâu phải lo lắng thở than. Một ngọn cỏ bên vệ đường, có thể bị dẫm nát với chân người, mà vẫn tươi xanh. Tôi cảm thấy mình bất xứng với ngọn cỏ ấy.

Vì lòng nghi hoặc về đời sống, trước đây tôi luôn bi quan nghĩ ngợi. Nhưng khi nằm trên giường bệnh, tâm trí tôi tĩnh lại, hồi hướng sự sống đã qua, ngay với cái chết đã cận kề, thì không gì làm tôi có thể lo sợ nữa. Chết tôi không sợ, thì tôi sợ gì khác nữa đâu. Mọi chuyện sẽ tự nó ổn định, vì tôi có Trời ở trên và Đất ở dưới che chở định đoạt. Tôi tin tưởng vào một Đấng Thiêng Liêng, an ủi tôi trong mọi nguy nan như lúc này đây. Đấng ấy, tưởng chừng như vô hình, nhưng thật sự là hữu hình. Lòng tin tưởng này mong theo tôi cho đến cuối đời, để bắt tay với cõi chết, nói được lời Bonjour la mort một cách dịu dàng.
Năm 2000, người ta lo sợ những biến cố trọng đại có thể xảy ra cho nhân loại. Biến cố sẽ không xảy ra cho toàn thể, nhưng cho cá thể. Trong biến động cá thể, mỗi người sẽ tìm kiếm một giải đáp cho riêng mình để tồn tại. Có lời giải đáp hay không là do chính thiện tâm của mình. Không ai khác.
Từ suy nghĩ ấy, tôi thấy mình mạnh hơn lên. Tôi nhớ có một bài báo của một linh mục trẻ, viết "Thiên Chúa không có quyền năng, Thiên Chúa chỉ là tình yêu". Một suy nghĩ mới, Thượng đế không phải là người gia ân đầy quyền lực, nhưng Ông ban phát tình yêu. Nhờ tình yêu tuyệt diệu ấy, mọi chuyện ổn định, vì mọi điều trước mắt sẽ mang một ý nghĩa mới. Tôi là người đàn bà như muôn vạn người đàn bà của thế gian này, luôn luôn khao khát tình yêu. Nhưng con người vốn là một bản thể giới hạn, không thể đáp ứng với tuyệt đối tính của tình yêu muốn có. Cho nên những mẫu tình của đời này là những mảnh vỡ rướm máu. Tình yêu đòi hỏi tuyệt đối, nhưng con người đáp trả tương đối.

Mỗi sáng mỗi trưa mỗi chiều mỗi tối, tôi bất động nhìn ra phía bên ngòai. Mãng trời xám có mây bay, con sông Seine chảy ánh bạc lấp lánh, những chòm cây đang thay áo mùa Thu. Mọi thứ vạn vật di động biến thái trong luật cố định của thiên nhiên. Vào một buổi sáng, tôi chợt nhìn thấy nơi chậu cây đầy lá úa, nở ra hai nụ hoa lan màu trắng tinh khiết. Bất ngờ, đẹp như một lời tỏ tình. Như hy vọng, như một niềm tin.

Trần thị Diệu Tâm


 

Chó và Người

Trần Thị Diệu Tâm

Không hiểu tại sao người ta gọi con vật ấy là chó. Cái tên này không gây nên một ấn tượng đẹp theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nhất là đối với tôi, một người không mấy ưa loài động vật này. Lý do, có lẽ từ một kỷ niệm thuở mới lớn.

Hôm ấy tôi mặc chiếc áo dài mới may. Chiếc áo màu xanh ngọc bích, thứ hàng mới có trên cửa hàng tơ lụa, mẹ tôi nói với tôi, mua cho nó để may mặc Tết. Nhưng chờ đến Tết thì lâu quá, (với thời gian chờ đợi dài gấp mấy lần thời gian bình thường) tôi phụng phịu đi may liền mặc liền, cũng chiều nó thôi. Chiếc áo ấy mãi đến ngày hôm nay, ngồi viết những dòng chữ này, tôi vẫn còn nhớ rõ như đang nhìn thấy trước mắt, chiếc áo hiện ra cùng với cảm giác mượt mà. Màu xanh tuyệt đẹp, tưởng chừng đó là màu xanh của một khối ngọc non vừa được mang ra ánh sáng từ một hang động nào trên cõi thiên tiên. Khi tôi ướm thử vào người, chiếc quần trắng mới, chiếc áo lót mớilàm nổi bật màu xanh vời vợi. Mẹ tôi, nhìn tôi sững sờ ngạc nhiên thấy tôi bỗng lớn hẳn lên. Đã nói, nó dậy thì trông xinh ra. Mẹ ngờ ngợ nhìn vào ngực tôi, đôi vú nhỏ bắt đầu nhú lên như hai quả cau non. Mẹ nói nhỏ với dì, chắc vài bữa cũng phải mua cho nó cái xú chiên, áo lót mỏng không đủ che nổi. Mẹ lại bảo, khi nào đi chơi mới được mặc áo này, áo đắt tiền không phải lúc nào cũng mặc được. Dạo ấy, mẹ bắt đầu mua bán làm ăn phát tài, cái ǵì đẹp mẹ cũng mua cho con gái đầu.
Tối ấy, tôi xếp bộ áo quần mới, chiếc áo dài mới đặt dưới gối ngủ cho êm, cho thấy ấm áp, và được mơ giấc mơ có hoa có bướm, có bà tiên đến dẫn đi chơi.

Không biết có phải với sự xúc động với áo dài đẹp, hay vì một lý do sinh lý của cơ thể, sáng hôm sau, tôi thấy máu thấm ướt cả quần, chảy ra chiếu. Hoảng sợ, ngẫm nghĩ không biết nguyên nhân nào. Không ngờ sau khi mình may mắn có áo đẹp, lại phải chịu một cực hình như thế. Ông Trời khó khăn chi lạ. Thấy tôi nằm dài măi trên giường, dì tôi hỏi tại sao không dậy đi học, tôi nói, cháu bị thương nặng lắm. Bị khi nào? Hồi đêm đó dì, máu chảy nhiều quá, chắc cháu phải vô nhà thương. Dì tôi Dì à lên một tiếng, mi lớn rồi đó, không phải bị thương. Dì mau mắn đưa một miếng vải trắng mỏng xếp nhiều lớp (bấy giờ làm gì có các loại bông băng) nai nịt gọn gàng cho tôi, nói tôi nằm nghỉ, bữa nay khỏi phải đi học, dì đến trường xin phép cho. Đầu óc tôi rối bời loạn xạ, tôi đưa tay ấn vào bụng, hình như có cục gì trong đó đang vỡ ra, bụng căng, hai quả cau cũng căng. Đi không dám đi, ngồi không dám ngồi, nên chỉ có việc nằm là đỡ sợ đỡ lo. Vì khi bước đi, máu lại ra nhiều hơn. Nếu chảy mãi như thế này, có lẽ tôi sẽ chết mất, áo dài đẹp thế kia chưa có dịp mặc. Nước mắt tôi ứa ra.
Mẹ tôi nói, nó có sớm quá, mới mười ba, thường thì mười lăm, có sớm thì khổ sớm. Câu này cứ ám ảnh tôi măi về sau. Tại sao mình khổ sớm. Sau này tôi diễn nghĩa thêm, như là biết sớm thì khổ sớm, yêu sớm thì khổ sớm, hay biết nhiều khổ nhiều. Những ngày bị bệnh, trời mưa dai dẳng, buồn muốn chết. Tôi nghỉ học cả một tuần lễ, chờ hết. Mẹ dặn dì, không được ăn me chua, không được ăn ổi xanh, không được ăn chùm ruột chấm muối ớt. Chao ơi, nhớ mà thèm, nhưng khoái lắm, vì biết mình bệnh thật, không cần giả bộ đau bụng như những lần trước trốn học.

Sáng hôm ấy, tôi nhớ trời đẹp lắm, gần Tết rồi. Khi thấy cây mai trước sân nở ra những chùm hoa vàng đầu tiên, tôi đánh liều quyết định mặc áo dài xanh mới. Giữa sự hiện diện của chùm hoa mới nở và sự mộng mơ tuổi mới lớn, hình như có ai thúc đẩy mình hành động quyết định một điều mà lý trí không thể kiểm soát được. Vì nếu không liều lĩnh quyết định, e rằng mình không thể lớn lên làm người.
Tôi nói bữa nay con phải đến trường ăn tất niên. Tiệc tất niên cũng như tiệc Tết, nên cần phải mặc áo quần mới, đó là lẽ đương nhiên. Tắm rửa sạch sẽ xong, tôi mặc nguyên bộ đồ mới. Nhìn thấy mình trong gương tươi tắn, bỗng nhiên nhớ chuyện máu chảy, thấy ớn lạnh quá. Dì nói máu sẽ ra một tháng một lần, may chưa tới một tháng, mau mau mặc đẹp đi chơi, kẻo rồi lại khổ sớm.
Hôm ấy, tôi không đạp xe đạp, vì mặc áo quần đẹp thế kia phải đi bộ thong thả cho ra dáng thiếu nữ con nhà khuê các. Chẳng thế mà mấy người đẹp lừng danh xứ này đều luôn luôn đi bộ đến trường, đi qua cầu Trường Tiền gió bay tà áo thì phải biết, đẹp mê hồn đi chứ.
Tôi ghé qua nhà Tố.
Vừa vào đến cổng nhà, con chó lớn bỗng dưng hôm nay nhào ra, ngoạm ngay vạt áo dài bích ngọc của tôi, kéo rách toạc. Tố chạy ra ôm con chó đuổi nó ra sau nhà. Tôi hoảng sợ nhìn vạt áo, nghẹn ngào.
Tố phân bua, hôm nay bạn mặc áo đẹp quá nên nó tưởng người lạ đó, mọi lần nó đâu có dữ tợn như vậy. Nói xong Tố lấy chiếc kim băng ghim tà áo phía bên hông. Tôi không nói được nên lời, im lặng, không thèm nhìn Tố, trở về nhà không đến trường nữa. Để nguyên bộ áo quần mới, tôi nằm dài ra giường tấm tức khóc. Tôi thề từ nay không thèm đến nhà nó, thề không chơi với nó và không nhìn mặt nó. Con Tố, chủ của con chó hung dữ độc ác kia. Tố có nhiều tính không được bạn bè ưa cũng phải, con nhà giàu kín cổng cao tường. Mẹ nó thường cho lối xóm vay nợ ăn lời cắt cổ, tiền của nhiều nên phải nuôi chó dữ. Nó còn hay mượn bài vở của mình chép lại. Tố bỗng hiện nguyên hình một cô bạn nhiều nét xấu. Làm sao nói với mẹ, với dì. Thế nào họ cũng nói con ni lanh chanh như hành không muối, vào nhà ấy làm chi.

Sở dĩ tôi ghé qua nhà Tố vì nó căn dặn, khi nào đi bộ ghé qua rủ mình đi với nghe. Nó có chiếc răng khểnh duyên dáng, và hơn thế nữa, ngôi nhà của nó đẹp lắm, đẹp nhất xóm, tọa lạc giữa một khu vườn cây xanh mát, hai bên lối đi có trồng cả hoa hồng. Đi vào một ngôi nhà sang như thế mình cũng thấy dễ chịu, nhất là khi mặc chiếc áo dài mới như thế này. Người ta thường nói, chọn bạn mà chơi. Bạn sang thì mình cũng sang theo, bạn đẹp thì mình cũng đẹp theo. Các chị lớn mấy lớp trên thường chơi với đám bạn đẹp nên nổi tiếng, nên lừng danh. Sau khi bị chó cắn, tôi hứa từ nay chừa cái tật chọn bạn như vậy. Con Hường gần nhà, thích lân la với tôi nhưng nào tôi có màng để ý. Nhà nó vách gỗ vách ván, chẳng vườn tược hoa trái, buồn chết. Nhưng nó không hề có chó dữ, khi mẹ nó nấu chè đậu ván, nó mời tôi sang ăn, nhưng tôi lắc đầu bận học bài. Tôi đâm ra ân hận đủ thứ.

Nhìn chiếc áo mới, ôm vào lòng như ôm một nỗi ngậm ngùi khôn nguôi. Tôi nhanh chóng nghĩ ra được cách che dấu, ngày Tết chắc chắn sẽ lạnh, tôi có dịp mặc áo len bên ngoài áo dài mới, chẳng ai thấy được đường rách, mẹ không biết.
Nhưng chiếc áo rách rồi, tay ai tài giỏi vá lành lại đây, buồn không tả. Rách, không thể lành, không thể hàn gắn như xưa. Cái áo mới sẽ được khâu vá lại, nếu khéo che đậy, có khi không ai thấy, nhưng thực chất nó đă trở thành một chiếc áo cũ rách. Tôi bần thần ngẩn ngơ về những điều lạ lùng xảy ra. Tuổi mười ba, cùng với một sinh lực chớm nở dậy thì đầy mộng mơ, tôi đã biết ngậm ngùi thất vọng một điều không may xảy đến cho mình. Vừa mới hân hoan hãnh diện mặc tấm áo dài mới, bỗng chốc con chó dữ xé toang vạt áo. Tôi choáng váng suốt cả mấy ngày liên tiếp vì biến cố này. Đúng như mẹ nói, có sớm khổ sớm. Tôi thấy khổ vì biết cảm nhận cái vô lư, cái không bình thường vừa xảy ra.
Từ dạo ấy, con chó gây nên một ấn tượng không mấy đẹp với tôi. Nhà ai có nuôi chó, tôi tránh xa, quen biết mấy tôi cũng không muốn vào.

* * *

Lúc qua ở bên Tây, thỉnh thoảng về thăm mẹ ở tỉnh xa. Mẹ nuôi chó. Thấy mẹ cưng quý chó, tôi cũng phải nể nang nó ra mặt. Tôi mạnh dạn đưa tay vuốt ve đầu nó nói vài ba câu xã giao cho ra vẻ có tình (để làm vui lòng mẹ). Nhưng tôi nói tiếng Việt nó chẳng hiểu gì cứ sủa gâu gâu. Mẹ bảo phải nói tiếng Tây. Tôi chột dạ, lỡ nói không đúng văn phạm, chắc nó chẳng hiểu.
Trong phòng khách, con chó được ngồi một vị trí ưu tiên nhất, đó là chiếc ghế bọc nệm gần mẹ tôi. Trong phòng ăn, nó cũng chiếm một vị trí gần bà chủ nhà. Thức ăn của nó được nấu riêng, không phải là thứ dư thừa. Mẹ tôi gọi nó là Bu (viết theo chữ Pháp là Bou). Cái tên dễ gọi không lôi thôi như Jean Louis David, hay Jonathan.
Tối ngủ, mẹ nói Bu qua ngủ với mẹ, còn phòng nó để dành cho tôi. Đó một căn phòng có giường rộng dành cho khách, nhưng không có khách thì Bu chiếm ngự. Căn phòng có mùi đặc biệt, dù thay áo gối ra giường khác sạch sẽ tươm tất, tôi vẫn ngửi được cái mùi kỳ lạ từ khi bước vào phòng. Đó chính là mùi của con Bu, nó khác với mùi của con người. Suốt cả một đêm tôi không thể nhắm mắt ngủ vì cái mùi này.

Cuộc đời mẹ, từ những ngày ấu thơ, lớn lên lấy chồng cho đến nay, trải biết bao thăng trầm. Tôi ít dịp được ở gần mẹ, sau năm mười ba tuổi, mẹ đã đi buôn bán xa rồi. Tôi vào học nội trú trường bà sơ, kỷ luật nghiêm nhặt. Cuộc chiến tranh Việt Pháp đă làm rách nát mọi gia đình, trong đó có tôi. Cha tôi đi kháng chiến chống Pháp, mẹ ở nhà buôn bán tần tảo với người Pháp (đôi khi lo tiếp tế cho cha tôi ở mật khu). Nhờ có học tiếng Pháp, mẹ làm ăn phát đạt. Mấy tấm hình của mẹ chụp ngày xưa, thấy mẹ rất đẹp. Có lẽ nhờ ở những ưu điểm ấy mà mẹ tôi sớm chịu những oan trái cuộc đời. Tôi luôn ám ảnh, cho rằng một con người có ưu điểm, hay có may mắn hơn người khác thì phải bị thua thiệt ở mặt nào đó. Tôi nhớ có lần gặp một bác lớn tuổi cho biết rằng mẹ cháu xưa kia đẹp lắm. Tôi thật xúc động, chỉ muốn ôm bác nói vạn lời cám ơn. Tôi là một đứa con như muôn vạn đứa con khác, luôn mong muốn nghĩ rằng mẹ của mình là người đàn bà hơn người. Mẹ đẹp hơn người, giỏi hơn người, thông minh hơn người, nhưng, mẹ khổ hơn người. Nghĩ vô lư thật.
Mỗi khi có tôi bên cạnh, mẹ kể chuyện đời xưa, những chuyện buồn khổ ám ảnh mẹ không nguôi. Tôi an ủi, mẹ ơi đừng nhắc những chuyện buồn nữa, sao mẹ không nhớ những chuyện vui. Mẹ lắc đầu, mẹ chẳng biết cái chi vui mà kể. Thuở nhỏ năm lên mười tôi thuộc thơ TTKH, vì mẹ hay ngâm nga. Mẹ cũng ngâm lại bài thơ của cha tôi làm tặng mẹ khi hai người mới thương nhau, ngâm xong mẹ nói thương vậy mà cũng bỏ đi.

Đang lan man nghĩ ngợi, nửa đêm, con Bu bỗng chạy qua phòng tôi, có lẽ muốn chiếm lại giường ngủ. Nó nhảy phóc lên giường. Tôi khiếp vía ngồi ngay dậy bật đèn sáng. Nó nhả vào cạnh tôi một khúc xương ống trắng hếu, lại gầm gừ nhìn tôi. Con này thật quá quắt, nó muốn đuổi mình đây.

Sáng mai tôi đáp xe lửa về Paris sớm, vì giận con Bu quá. Mẹ tôi hỏi sao không ở lại thêm. Tôi buột miệng ngủ với chó hôi quá chịu không được. Câu trả lời rất đúng sự thật, nhưng làm phẫn nộ mẹ. Mẹ giận dữ nói tao nhờ nó mà sống được đến ngày hôm nay, con cái có đứa nào chịu ở với tao, mi chê nó hôi tức chê tao hôi. Tôi ân hận lỡ lời. Tôi chào mẹ ra về, con Bu thấy thế, vì cũng không mấy ưa tôi, đứng cửa sủa gắt lên. Đáng lẽ ra tôi phải vung tay nói muôn ngàn lời cảm tạ với Bu, rằng em đă thay mặt chị ở với mẹ, yêu thương mẹ, em đã giúp thêm nghị lực cho mẹ sống với đời này, chị biết em là con người hóa kiếp chó, em nhiều tình cảm đối với mẹ, mẹ bảo gì em cũng vâng lời, không hề tỏ ý kiến trái lời mẹ, em là đứa con ngoan ngoãn nên được mẹ thương yêu nhất nhà. Tôi thầm thì nói với Bu khi ngồi trên chuyến xe lửa tốc hành trở về. Ừ! Ừ nhỉ, tôi sẽ viết cho nó bức thư dài tạ lỗi. Nhưng về đến nhà, công việc dồn dập trước mắt, tôi lăn vào cuộc sống mệt mỏi và quên bức thư tha thiết dự tính viết cho Bu.

Mẹ tôi giam giữ quá nhiều cay đắng trong lòng, chỉ cần một vết nứt nhỏ, niềm đau nỗi khổ ấy chợt vỡ ra, tuôn ào ạt. Mẹ viết cho tôi một bức thư dài nói về con chó của mẹ. Mẹ ca tụng nó như một đứa con nuôi hiếu thảo nhiều tình cảm, và kết luận nó là con chó nhưng tốt hơn con người.
Những chuyến về thăm Việt Nam, mẹ đem Bu đi theo, mua cho nó một chỗ ngồi trên máy bay. Mẹ không thể sống xa Bu. Bu là điểm tựa tinh thần, là sự an ủi, là sự ve vuốt cho nỗi cô liêu hoang vắng đời mẹ. Mẹ quyết định về sống lại ở Việt Nam, vì theo mẹ, xứ Tây này ích kỷ quá, sống không nổi.

Năm vừa qua, vào nửa đêm, tôi bị đánh thức dậy vì cú điện thoại gọi từ Sàigòn cho biết mẹ đã chết rồi.
Khi người mẹ của mình chết đi, mình như thế nào nhỉ? Muôn ngàn mũi kim châm chích vào thịt da mình, muôn ngàn tấn ân hận đè lên trái tim mình. Vé máy bay mua không kịp, tôi về trễ, không kịp giã từ mẹ, không kịp đưa mẹ vào lò thiêu xác. Không kịp gì cả. Nếu tôi suy nghĩ kịp, nếu tôi hành động kịp, cuộc đời tôi bớt tiếc nuối nhiều chuyện.

Hôm tẩm liệm mẹ ở Sàigòn, dì tôi nói con Bu chạy vô chạy ra tru lên thảm thiết, người ta phải cột cho nó vành khăn trắng trên đầu. Nhìn tấm ảnh mẹ để trên quan tài bên cạnh vòng hoa phong lan màu tím, mẹ cười tươi dịu dàng. Mẹ đẹp quá. Mẹ vui lòng được chết trên quê hương mình sau nửa đời xa cách.
Dì tôi nói chị mất thế mà yên. Sống khổ, nên chết là yên, là hạnh phúc. Chỉ có chết, mẹ mới được bình an. Tôi ôm bình tro mẹ trong tay nước mắt chảy dài, tự hỏi tại sao lúc mẹ còn sống, tôi không hề một lần nào ôm mẹ trong tay. Tôi xa cách mẹ và mẹ xa cách tôi. Mới đó mẹ chết rồi. Tôi ngơ ngẩn lảm nhảm. Đất vẫn quay, trời vẫn có ngày có đêm, xe vẫn bóp còi inh ỏi trên đường phố Sàigòn, chỉ có mẹ là chết.
Tôi không bao giờ gặp mẹ trên cuộc đời này nữa.

Hôm tôi về đến nhà Sàigòn, con Bu chạy ra nhìn tôi, đôi mắt đen láy chăm chú nhận diện quen biết, vẫy đuôi mừng rỡ. Cả nhà ngạc nhiên, tôi cũng ngạc nhiên, sao nó còn nhớ tới mình. Bu nhớ chứ, nó nhớ tôi là con của mẹ, người đã sống cùng với nó như hình với bóng. Mẹ tôi bỏ nó ra đi mãi mãi không về. Mấy ngày sau khi mẹ mất, nó bỏ ăn nằm ủ rũ trong góc nhà. Khi tôi về, bỗng dưng nó quấn quít bên cạnh tôi. Tôi ngồi đâu, Bu cũng lẩn quẩn theo ngồi bên cạnh. Ai bảo gì cũng mặc, chỉ có tôi bảo nó mới nghe lời. Các dì bảo con chó khôn thật, vì tôi giống mẹ. Máu huyết tôi là máu huyết mẹ, Bu hiểu điều ấy hơn ai hết, và trong thâm tâm nó, hy vọng rằng tôi sẽ nuôi nấng nó thay mẹ tôi (có thể nó quên chuyện đã từng dọa nạt tôi trong đêm khuya).

Buổi tối, không ngủ được, vào nửa đêm, tôi bật đèn ngồi dậy. Bu nằm dưới chân giường đưa đôi mắt đen buồn thảm nhìn tôi. Đôi mắt nó ướt như vừa mớikhóc. Tôi không ngủ, nó cũng không, cả hai chúng tôi đều nhớ mẹ. Tôi đưa tay vuốt đầu Bu, nó dụi đầu vào tay ư ử ra chiều cảm động. Bu thè lưỡi liếm vào chân tôi, cử chỉ Bu thường làm với mẹ, chiếc lưỡi mềm mại của Bu thật trìu mến. Tôi thương mẹ quá, tôi thấu hiểu tại sao Bu chiếm được tình thương của mẹ. Có khi nào tôi ôm chân mẹ như thế chưa. Bu đã hôn lấy bàn chân gầy ốm tật nguyền của mẹ mỗi ngày, mỗi đêm khi mẹ mất ngủ. Tôi đau đớn ân hận.
Tôi bảo nó lên giường nằm bên cạnh. Mẹ nói đúng, Bu xứng đáng hơn tôi. Có lẽ mẹ tôi ở nơi nào đấy, đang mỉm cười với với con gái, biết tôi thương yêu Bu như mẹ đã thương yêu nó. Điều này chắc chắn mẹ vui lòng lắm.

Khi đến tòa lãnh sự Pháp để lo giấy tờ khai tử cho mẹ, tôi bị làm khó dễ ở cổng gác với nhân viên Việt Nam, lý do hôm nay đông khách, để lần khác. Tôi xin trực tiếp nói chuyện với nhân viên sứ quán người Pháp, chẳng đặng đừng, họ cho tôi vào. Trong văn phòng dịch vụ, không thấy có bóng khách nào ngồi chờ. Anh Tây trẻ ra bắt tay chào mời ngồi đàng hoàng. Chị đầm lo giấy tờ, nhanh chóng đưa giấy xin ký tên vào tờ khai. Chị đầm nói, mấy bà lớn tuổi về đây ở đều bị chết sớm, không khí ở đây rất độc vì dơ bẩn. Trong cử chỉ nói năng của tây đầm ở tòa lãnh sự, họ xem tôi là người đồng hương. Tôi cũng nhận thấy có điều thân ái giữa họ và tôi, điều này tôi khó tìm ra được ngay, khi tiếp xúc với đồng bào trên cố hương mình. Một cảm giác nhói đau trong trái tim, tôi tự hỏi nơi nào là quê hương thực của mình, Pháp hay Việt Nam? Tôi nhìn xung quanh tòa nhà lãnh sự, không khí thoáng mát hơn ngày ấy, ngày mà gia đình tôi lo lắng khép nép e dè hồi hộp vào làm giấy tờ xin đi ra khỏi xứ sở này. Ngày ấy, tôi người Việt Nam. Hôm nay, tôi vào đây với thái độ ung dung của một công dân Pháp, được đối xử lịch sự thân tình. Tôi là người gì, Pháp hay Việt? Lúc ở Tây, tôi sống giữa những kẻ khác chủng tộc. Về Việt Nam, tôi thấy mình không hẳn là người Việt. Đó là sự mâu thuẫn rắc rối khá đau lòng.

Tôi sắp sửa trở về Pháp, thấy tôi lăng xăng dọn dẹp áo quần hình ảnh mẹ vào vali, Bu như cảm thấy một điều gì đó, nó quấn vào chân tôi không rời. Tôi ở nhà bếp nó chạy xuống bếp, tôi lên nhà trên nó chạy lên theo sau bám sát, thỉnh thoảng Bu ngẩng đầu nhìn tôi thắc mắc. Đôi mắt Bu lạ lùng, đôi mắt đen tuyền long lanh và thắm đẫm dịu dàng, đẹp hơn cả mắt người. Mẹ ơi, bây giờ con mới hiểu tại sao mẹ yêu quý Bu đến thế. Tôi lặng người nhìn đôi mắt tha thiết. Ngày mai tôi đi, không thể đem nó theo cùng, tôi không thể cưu mang nó như mẹ tôi. Phải để Bu lại đây thôi. Càng đến giờ ra đi, tôi càng lưu luyến nó, thứ tình cảm ủy mị này tôi chưa hề trải qua với người, nhưng với con vật này, tôi biết mình cũng yếu đuối quá. Tôi tránh những cử chỉ vuốt ve, sợ làm nặng thêm cho nó, cho tôi, nỗi chia lìa. Bu là tình thương của mẹ, tôi thương nó chính là thương mẹ. Điều này tôi mới vừa nhận biết, tôi trả hiếu mẹ tôi quá muộn màng. Không kịp.
Tôi và dì bàn tính chuyện nuôi nấng Bu. Dì tôi năm nay cũng già yếu, trí óc lẩn thẩn quên trước quên sau. Dì nói con Bu quen ăn sướng rồi, ở với dì ăn cực không biết nó có chịu được không. Mẹ sáng nào cũng cho nó bánh mì quết bơ, bơ nhiều ăn, bơ ít chê, nó thích ăn thịt bò chứ không ăn thịt heo, phải đi mua xương phở cho nó nhai. Tôi nói tập cho quen có gì ăn nấy, mẹ mất rồi, phải biết thân biết phận chứ. Tuy nói vậy, tôi không tránh khỏi xót xa.

Buổi sáng lên phi trường, để tránh sự đau lòng của Bu, tôi nhờ người nhà đem hành lý ra xe trước, trong lúc Bu ăn điểm tâm sau bếp, tôi lẹ làng lén ra xe. Khi xe rồ máy, tôi nghe thấy tiếng sủa inh ỏi trong nhà, tiếng sủa tru lên gào thét. Xé lòng.
Xe ngang qua ngôi nhà thờ có tro tàn của mẹ, nước mắt tôi chảy dài. Có một sinh linh bị hai lần tuyệt vọng, con Bu, một lần mẹ bỏ nó, một lần nữa tôi bỏ nó. Mẹ ra đi không bao giờ trở lại, còn tôi biết bao giờ trở lại xứ sở này, và lúc bấy giờ Bu còn sống chăng.

Mẹ tôi, một người đàn bà cưu mang tất cả sự khốn cùng rách nát của chiến tranh, cưu mang gánh nặng nỗi nhục nhằn của một kiếp người. Nỗi cô đơn lạnh lẽo xứ người làm mẹ xác xơ, co quắp trước thói đời ích kỷ, mẹ mất hết hy vọng. Mẹ hoang phế trong đời sống này. Mất quá khứ, mất hiện tại, vô vọng với người thân. Mẹ xa lánh mọi người, chỉ trừ nó, con chó.

Trần Thị Diệu Tâm

 

Đăng ngày 20 tháng 1.2020