Print

Phố xưa


pnhung

Phí Ngọc Hùng

Ghé thị trấn ven sông, ven biển với giấy một túi, bút một túi, ngày nào gã cũng tạt vào quán Phố xưa ngồi một chỗ quen thuộc gậm nhấm nỗi sầu viễn xứ nhật mộ hương quan hà xứ thị, yên ba giang thượng sử nhân sầu. Mấy hôm nay có chuyện không đâu để thành chuyện là ở một thành phố nhỏ như mắt muỗi này, thảng như sẩy ra chuyện gì nhỏ nhặt, chỉ một lát sau thượng Chùa Cầu, hạ Ông Bôn nơi hai đầu của thị xã đều biết. Như mới đây có một bà đi chợ rêu rao: “Có dị nhân xuất hiện dưới mé sông”. Thế là mọi người kháo nhau xuống bến bãi mé nước để xem.

Chuyện là trong cái khoảng thời gian trống rỗng cùng những ngày tháng phiêu lãng quên mình lãng du, trên đường tới quán gã đều gặp gỡ “dị nhân”. Gã không biết ông ta là người xứ Ả Rập nào đấy lạc vào phố thị, thấy mọi người xúm quanh ông, gã cũng len chân vào nhòm chừng. Ông ta râu ria xồm xoam, mặc bộ quần áo vàng nhầu nát, người ta mời ông ăn cơm với cá, thịt, ông lắc đầu. Ông ta chỉ đòi ăn bánh mì với củ cải trắng và…uống bia. Ông ta không nói được tiếng Việt, lại thêm cái khoản ăn uống không giống ai, người ta đồn nhau đến xem chẳng có gì là lạ.

***
Trong cái khỏang trống vắng ấy, gã thả rong qua những con ngõ sâu hun hút với những viên đá xanh nằm rời rạc trên mặt đường hoang phế. Riêng hôm nay, tới quán hơi sớm hơn mọi ngày…Và cũng như mọi ngày, gã len lỏi qua mấy cái chum, cái vại của lò gốm Thổ Hà bầy ở trên sàn quán xá. Gã mò mẫm tới cái kệ trưng bộ đồ sứ Hizen, đồ gốm Seito của Nhật mô phỏng theo đồ gốm Chu Đậu. Thêm dăm đồng tiền Nhật đóng khung treo trên tường thuộc niên đại XVII, trùng với thời kỳ phát triển khu phố Nhật trước đây. Ngay bên cạnh là bức tranh Nhìn xuống Phố Cổ của Akimi Ishimoto với những mái âm dương chồng lên nhau. Những bức tường dọc theo con phố ngắn nhưng trông dài hun hút qua một mầu xám u tịch, mầu nâu phẳng lặng đủ để diễn tả những nét thăng trầm của một thành phố có chiều dài cả trăm năm lịch sử qua bao lớp sóng phế hưng và cũng chỉ riêng cái tên, tự nó đã nói lên tất cả: Phố Cổ.

Quán vắng, lữ khách bên đường, gã ngồi giữa lòng phố cổ Hội An, trở về phố xưa cùng những âm hưởng mang mang vọng về với một phố thị có chùa Cầu khuất nẻo, nằm ngay trên bờ sông Hoài nhạt nhoà theo năm tháng. Sông Hoài cứ mãi mãi tĩnh mịch nỗi hoài xưa, nối vào dòng sông Thu Bồn mênh mông như muốn kể lại câu chuyện mấy trăm năm của biển cả…Để rồi gã lãng đãng phiêu bồng
"có buổi ta mơ về phố cũ
nghe khúc cầm ca bỗng hổ ngươi
thà cứ theo dòng trôi miết miết
biết một đời sông mấy lở bồi"
(thơ Tô Thùy Yên)

***
Gã ngồi giữa phố vắng đìu hiu, thả hồn đi hoang tìm về những nẻo đường xưa lối cũ của một thành phố đang ẩn khuất trong gã. Đường mưa ướt đất, gã như dòng sông kia, muốn kể lại câu chuyện tự trăm năm của Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Với thiên cổ chi mê, gã đang muốn dị mộng hoài thư với cổ sử qua sử thi tam sao thất bản và gã đặt bút xuống trang trải trên giấy thô mực đọng trong một ngày ít nắng nhiều mây…
“…Lê Đại Hành, Lý Thánh Tông, Trần Anh Tông mở mang bờ cõi xuống đất Chiêm Thành phương nam. Thời gian này Chế Bồng Nga đem quân sang đánh phá Đại Việt vào năm 1371. Lê Thánh Tông xuống đến Quảng Ngãi. Nhà Trần bị nhà Hồ chiếm ngôi, Hồ Hán Thương đem quân xuống tới Quảng Nam (1) …”.
Gã đang lẳng nhẳng với
"tưởng tượng ta về nơi bản Trạch
áo phơi xanh phới nhánh đào hồng
mùa xuân bay múa bên trời biếc
ta búng văng tàn thuốc xuống sông"
(thơ Tô Thùy Yên)
thì không hiểu mắc chứng gì khựng lại. Gã…búng văng tàn thuốc xuống dòng sông Hoài và nghĩ…hoài không ra và ngồi cắn bút ngó lơ. Gã ngó bên bức tranh Nhìn xuống Phố Cổ có bài thơ viết qua nét thanh thoát của thư pháp:
"Có buổi ta ngồi trong quán vắng
Tưởng níu thời gian để đợi ai
Thảng hoặc đôi ba người khách lạ
Như nhắc thầm ta nỗi lẻ loi"
(Khuyết danh)

Nhìn quanh quất: Quán vắng bên sông, chẳng có người khách nào ngoài cái ghế đơn độc trước mặt. Gã lúi húi với phố thị vào thuở ban sơ cả mấy trăm năm trước:
“…Hội An với những trầm uất của lịch sử, hoang vắng để rồi phồn thịnh theo năm tháng như những lớp thủy triều. Khởi đi từ thế kỷ thứ 5 của người Chàm cổ, những thuyền buôn của người Ba Tư đã ghé đây để tránh bão, định phương hướng để ngược lên hướng bắc Trung Hoa. Người Chàm đã đào những giếng nước ngọt để trao đổi hàng hóa với nhóm thương thuyền này. Nay những giếng nước bờ gạch hình “vuông”, với đồ gốm như vại, bình và gươm cong, kiếm ngắn, tiền cổ của người Ả Rập được tìm thấy dọc theo con sông Thu Bồn. Gần đây, trong sử liệu của người Ba Tư có viết dăm ba dòng về bến thuyền với cái tên Địa Trung Hải Phương Đông …

Đời nhà Nguyên thế kỷ 13, ông Châu Đạt Quang với 30 năm ngược xuôi trên biển cả và để lại tập Chiêm Thành Phong Thổ Ký , cẩm nang hải hành cho những người đi sau. Cũng chẳng bao lâu đến đời nhà Minh với “Con đường gốm sứ và tơ lụa trên biến” cùng 7 chuyến đi về của Trịnh Hòa qua tận Mecca đông Châu Phi. Trên đường đi họ ghé nước ta, để tránh sự nhòm ngó người quan ngoại, nhà Lý tập họp họ ở một nơi nhất định được gọi là “Bạch Địch Trường”, đó là bến Vân Đồn ở vịnh Hạ Long.
Tiếp đến là nhà Lê, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài lập ra Phố Hiến, thương thuyền của người Bồ Đào Nha đã có mặt từ trước, sau kéo theo người Hòa Lan từ thuộc địa Nam Dương lên. Theo Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài của Alexandre de Rhoded, vua Lê Thần Tông có bà thứ phi hàng thứ sáu là người Hòa Lan. Tượng bà nay vẫn được còn thờ ở chùa Mật Sơn, Thanh Hóa. Vì thế nên người Hòa Lan có nhiều đặc quyền hơn người Bồ Đào Nha, ngoài ở phố Hiến còn được được độc quyền buôn bán cùng với người Hoa ở phường Giang Khẩu (Hàng Buồm) bên sông Tô tại Thăng Long.

Riêng ở Đàng Trong, đoàn thương thuyền của Trịnh Hòa ghé cù lao Chàm và tìm ra Hội An . Ngày nay ở bãi Hương cù lao Chàm có miếu cổ tên Thái Giám thờ thái giám Trịnh Hòa vẫn còn đấy. Nhưng theo ông Yomeiganu qua An Nam Cung Dịch Ký Sự thì có thể vì bà thứ phi của vua Lê (?) khác là người Nhật. Vì thế người Nhật đến đây lập nghiệp sớm nhất, khoảng năm 1560 và họ có nhiều đặc ân và quyền lợi hơn người Hoa ở Hội An…”

***
Đột nhiên gã giật mình thấy “dị nhân” ngoài phố chợ lù lù đứng ngay cạnh bàn lúc nào không hay. Gã buông bút và ngẩng đầu lên ngơ ngác nhìn ông Ả Rập như gặp lại “người về tự trăm năm”. Ông bạn Ả Rập râu xồm lẳng lặng ngồi xuống cái ghế ngay trước mặt gã, bình thản nhồi thuốc vào ống vố. Xong, ông nhòm đăm đăm bài thơ viết chữ thư pháp sau lưng gã và bâng quơ:
- Tiên sinh không lẻ loi vì bản chức là người… khách lạ đây.
Gã muốn nhẩy nhổm lên khi nghe “người khách lạ” này đọc và nói tiếng Việt mới quái. Gã chưa kịp há mồm hỏi han, làm như quen biết nhau tự thuở tám kiếp nào. Ông Râu xồm thản nhiên lấy cái hộp quẹt của gã bật một cái tách nhàn nhã mồi lửa, và ngẩng đầu lên nhẹ nhàng thở ra khói... Tiếp, ông cúi đầu xuống liếc mắt ngó lơ qua khúc dẫn nhập bản thảo của gã, chỉ tay vào khúc gã vừa viết xong và ông Râu xồm từ tốn ậm ừ chao chát:
- Xin vô phép vô tắc mạn phép thưa với tiên sinh rằng: Chế Bồng Nga sinh năm 1360, đem quân đánh phá Đại Việt năm 1371 thì năm ấy Chế Bồng Nga… bao nhiêu tuổi nhẩy? Thưa tiên sinh.
Thêm một lần gã muốn…”nhẩy” dựng đứng lên vì “dị nhân” nói giọng Bắc kỳ đặc, lại nho phong sĩ khí gọi gã là…“tiên sinh”. Lại còn chỉ trỏ cho gã thấy những “khuyết sử” cần phải “cẩn án” nữa mới đau cái đầu. Gã đang lắp bắp định biện giải là bấy lâu nay gã lạc vào mê hồn trận với những sử gia, sử quan, chẳng khác gì khói lửa kinh thành, nhất tướng công thành vạn cốt khô, cùng mỗi người mỗi niên đại, niên hiệu khác nhau. Hết cuộc binh đao, nỗi buồn chạm mặt là gặp mấy nhà học giả, hành giả cùng địa danh bắc giáp địa dư, tây giáp địa chí mù mịt như bát quái trận đồ.

Gã chưa kịp biện bạch thì ông Ả Rập lẳng lặng tiếp:
- Tiên sinh dậy Thái giám Trịnh Hòa tìm ra Hội An, theo bản chức nhẽ ra chẳng hẳn là như vậy. Vì theo như hải hành ký của Mã Huân thì đoàn Đại Bảo thuyền này chỉ ghé đế đô Cri Bannoy (2) của Chiêm Thành vào năm 1451 . Trong hải ký Mã Huân ghi “Đồ Bàn có rất nhiều thổ sản và mít lớn trái rất ngon ngọt…”. Theo tư liệu riêng bản chức hay biết thì đám buôn lậu ven biển người Trung Hoa theo chân đoàn thuyền của Trịnh Hòa và họ ghé Bát Tràng, Chu Đậu để mua đồ gốm. Lại nữa họ dựa vào ông Châu Đạt Quang với tập “Chiêm Thành Phong Thổ Ký” nên chính đám buôn lậu trên tìm ra Hội An, là thuyền buôn nhỏ họ không dám đi xa nên ngừng chân ở Đồ Bàn. Trong hải hành ký có ghi “Chuyện ngạc nhiên là khi thủy thủ nhìn thấy người Hoa buôn bán ở vùng đất Chàm này”. Vào năm 1997 mới đây, người quý quốc hợp tác với người Nhật trục vớt một thuyền đắm ở cù lao Chàm và phát hiện 240.000 đồ gốm Bát Tràng, Chu Đậu ở niên đại thế kỷ thứ 15 đã minh chứng điều ấy, thưa tiên sinh.
Ngay cả thương thuyền Hòa Lan bị đắm thuyền ở cù lao Chàm vào năm 1633 và được người Chàm ra tiếp tế nước, người Hòa Lan mới biết đến Hội An và mở thương điếm ở đấy. Riêng với cù lao Chàm, xin tiên sinh hiệu đính là năm 1804, đặc sứ người Anh Sir Robert Macarthay thương thuyết với Vua Gia Long để thuê cù lao Chàm làm trạm ngừng chân trước khi đến Quảng Châu và các nước lân cận nhưng thất bại. Sau Sir John Crawfurd tiếp xúc với vua Minh Mạng cũng không thành. Đến khi chiến tranh nha phiến, qua hiệp ước Nam Kinh, người Anh thuê được Hồng Kông thay vì cù lao Chàm của quý quốc.
Gã đang tối tăm mắt mũi lại với “Sir” này, “Sir” kia thì ông Ả Rập râu xồm tự giới thiệu:
- Bản chức là… John Barrow.
Và không nói nữa. Thêm một phen gã bị chao đảo, hóa ra ông râu xồm này chẳng phải là người Ả Rập. Nghe đến cái tên “John” gã bụng bảo dạ “ông Tây” này ắt hẳn là người Ăng-lê chi đây nên gã cứ đờ ra và ngọng trông thấy.

Làm như gã không có mặt ở đấy, ông Tây lại ghé mắt… xuôi dòng sử Việt theo gã:
“…Nhà Minh bãi bỏ bế quan tỏa cảng, nên các thương thuyền Trung Hoa tấp nập đi lại theo ven biển nước ta. Dựa theo gió bắc vào mùa xuân, họ đến bằng thuyền buồm, trao đổi hàng hóa và đợi đến gió nam vào mùa hạ, họ dương buồm trở về. Nhưng cũng có một số thương hồ ở lại lập gia đình với người bản địa, họ hành nghề địa lý và đông y. Qua các văn bia ở đền chùa, gia phả của bộ tộc, sổ địa bộ từ thời Tây Sơn, Gia Long và các triều vua kế tiếp, người Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam lập nghiệp ở Phú Xuân và Thăng Bình. Họ là những người Tàu đầu tiên đến nước ta bằng đường biển vào thời chúa Tiên. Vì vậy làng Minh Hương thứ nhất ở Phú Xuân đã có tên trên bản đồ nhà Nguyễn vào năm 1602.
Khởi thủy từ Chúa Nguyễn Hòang vào Thuận Hóa, nhà chúa dùng cửa Việt để thông thương với người nước ngoài. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên thấy cửa Việt gần Phú Xuân, sợ ảnh hưởng đến sinh họat triều chính, nên tìm một “bạch định trường” khác sâu xuống phía nam một chút, nhưng không xa quá tầm tay nhà chúa. Sau Chúa Nguyễn Phúc Lan cho người Tàu nhập quốc tịch Đại Việt và đưa mười gia đình của sáu họ Ngụy, Ngô, Hứa, Ngũ, Thiệu và Hoàng từ Phú Xuân, Thăng Bình về cuối sông Thu Bồn đầu cửa biển. Họ dựng làng Minh Hương thứ hai ở đây.
Quan lại nhà Minh chống nhà Thanh bị thất bại, họ sang nước ta tị nạn. Chúa Hiền Vương cho một số đến cửa sông Thu Bồn nhập vào làng Minh Hương thứ hai. Số còn lại vào Nam lập hương xã Minh Hương thứ ba Cù Lao Phố "(3) .

Bỗng khi không ông Tây hỏi gã khơi khơi, cứ như đùa vậy:
- Bản chức xin mạo muội hỏi tôn ý tiên sinh rằng cớ sự gì người quý quốc gọi người Hoa khi là “Minh Hương”, lúc là “khách trú”, nọ là “người Tàu”, thưa tiên sinh.
Gã đang óc ách, ông Tây đã sần sùi với gã:
- Theo thiển ý bản chức thì hai chữ Minh Hương với “hương” ban đầu là “nhà thờ cúng” vọng tộc nhà Minh. Sau có nghĩa là “xã” tức xã người Minh Hương. Còn “khách trú” là tiếng gọi Đàng Ngoài có từ thời chúa Trịnh khi người Hoa lập ra Phố Khách (4) đầu tiên ở Phố Hiến. Còn “người Tàu”, theo ngu ý bản chức thì qua sách “Hành Trình và Truyền Giáo Ký Sự” của Alexandre de Rhodes viết: “Ở Hội An có người Tàu, Tây…”. Người Tàu (5), có tên gọi từ đấy có thể là đi bằng “thuyền” xuống mà Alexandre de Rhodes kêu là…”tàu”. Còn “Tây” đây là người Tây Ban Nha…”.

Thấy ông Tây dài dòng quá thể, gã nhướng mắt nhìn kỹ hơn. Ông đeo kính trắng tròn vo nên trông có vẻ hóm hỉnh. Ông đội nón cối thuộc địa bọc vải có cái núm ở trên đỉnh nón, vai đeo cái túi dết, tay cầm cây “ba-toong”. Quần áo không nhầu nát như gã đã gặp, mà ông mặc bộ quần áo ka-ki mầu vàng có bốn túi, có cầu vai như đi săn ở rừng rậm Phi Châu. Gã đang trơ mắt ếch, ông Tây cười khủng khỉnh:
- Bản chức là người Hòa Lan lai Bắc kỳ. Mẹ bản chức người Kẻ Chợ. Bản chức sinh ra ở Thăng Long. Vì cha đại diện cho công ty Ấn Độ ở Hòa Lan ở Phố Hiến nên lớn lên bản chức nối nghiệp cha, là làm cho công ty Ấn của Anh, rồi nhập tịch Anh. Xong, ông nheo mắt… dùi mài kinh sử tiếp theo gã:
“…Theo nhật ký hải hành, tầu buôn Groll của Karl Hartsink người Hòa Lan có mặt ở Phố Hiến dựng lên thương điếm. Thương điếm dựng lên như thành lính, có hào bao quanh với lính bảo vệ ngay sát bến thuyền. Chúa Trịnh quy định những người Hoa tới đây làm ăn phải tập trung thương khách tại nơi “khách trú ” (4) là Lai Triều, cấm không cho lai vãng đến Thăng Long. Cùng lúc, người Hòa Lan đưa một số thương buôn từ Anh, Pháp và Nhật tới trong thời kỳ này. Từ Lai Triều đời nhà Lý được đổi tên thành Hiến Nam, năm 1717, Chúa Trịnh Cương đặt tên là Phố Hiến. Năm 1831, Vua Minh Mạng 12 đổi tên là Hưng Yên…”.

Ông thưởng lãm đến đoạn… người Hòa Lan có mặt ở Phố Hiến dựng lên thương điếm, gật gù ra vẻ tâm đắc lắm, ông ngửa cổ lên trần nhà thở một hơi khói dài. Tiếp, ông móc trong cái túi dết bằng vải “ka-ki” mầu cứt ngựa một cuốn sách đã ố vàng có cái tựa đề A Voyage to Cochinchina in the year 1792 and 1793 in từ London và gã ngây người ra vì tác giả là… John Barrow. Ông đưa cho gã xem đoạn chuyến tầu của người Hòa Lan ghé Phố Hiến, gã nhìn bức tranh minh họa bằng mầu vẽ năm 1793 và lướt qua phần ghi chú phía dưới: Một người lính ở Cochinchina”: Người lính đội nón chóp, mặc áo dài đen viền ngắn tới đầu gối, chân bó xà-cạp vải. Cạnh chân người lính là cái bu gà, một tay cầm giáo, một tay cầm một bức tượng Phật…hay Fo (?).

Gã thầm hỏi “Fo” là gì? Vì “Phô” là một từ địa phương có nhiều ở Hội An. Như nhà từ đường dòng họ Nguyễn Tường Tam là đình “Cẩm Phô” ở ngã ba Khổng Miếu. Nhưng gã chẳng dại hỏi vì sợ… lạc đường vào lịch sử. Thế nên gã lẳng lặng viết tiếp:
“…Từ thời chúa Nguyễn, trước là vì nhu cầu gỗ củi và nước ngọt cho Đàng Trong nên lấy Trà Nhiêu thuộc Quảng Nam làm bến củi. Với chiến tranh Nam Bắc, vì nhu cầu súng ống, ống nhòm của người Âu Châu và nhất là gươm kiếm, giáo mác với thép tốt của người Nhật. Chúa Nguyễn Hoàng và Nguyễn Phúc Nguyên từ năm 1558 đến năm 1635 đã trao đổi hơn 30 văn bản với tướng quân Tokugawa Leyasu về giao thương. Năm 1602 ở trên, nhà chúa chọn cửa sông Thu Bồn mà trên bản đồ nhà Nguyễn gọi là cửa Đại Chiêm làm thí điểm cho tầu buôn của họ cập bến (Vua Trần Anh Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và đặt tên là Đại Chiêm). Theo thư tịch cổ của người Bồ Đào Nha thì thời kỳ này họ gọi cửa Đại Chiêm là Cacciam…”.

Lâu nay gã ngỡ bến bãi nào của người mình chẳng hiu hắt giống nhau. Thấy ông này trên thông thiên văn dưới thuộc lòng địa lý quá lắm nên gã đành bấm bụng hỏi rằng người Việt ta đến đây từ thưở tám kiếp nào. Như đợi dịp này từ… kiếp trước, ông rút tờ giấy trong túi dết đưa cho gã. Gã lóng chóng rị mọ:
“Người An Nam dọc theo bờ biển từ Hải Phòng xuống Quảng Nam có hàng chục làng Cổ Trai, có tên mà không có đất, những làng này lênh đênh trên thuyền, trên sông biển, khi tan khi hợp. Tên chữ là “Kẻ Chài”, chữ Hán gọi là Cổ Trai. Từ những làng có tên chung là Cổ Trai, họ theo thuyền người Hoa vào sâu đất liền của người Chàm, dọc theo bến sông từ cực nam đến cực bắc, họ mua năm sào đất lập đền Quan Thánh, thờ hai vị quan nhà Minh. Họ mua một mẫu hai sào lập Tổ Đình. Họ lập làng xã theo khuôn mẫu của người Hoa, mỗi ranh giới thôn, ấp dựng chùa, đền để làm mốc, chạy dài xuống cửa biển và lập lên làng Cổ Trai. Từ làng Cổ Trai trên đất liền họ phát triển dần dần theo thời gian để thành “phố An Nam”, gần “phố Nhật”, “phố người Hoa”.

Có tư liệu “chính sử” phố Nhật, gã tầm chương trích cú thêm:
“…Thương gia Nhật từ Nagasaki tới Hội An gồm các đại tộc Chaya Shiroku, Yashishiro, Sotaro họ làm ăn phồn thịnh nên được nhiều chức phẩm. Giống người Pháp làm quan cho nhà Nguyễn thời ấy. Sau thêm người Nhật làm “thị trưởng” Hội An là Simonosera, là chủ nhân con tầu Furamoto. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên nhận một người Nhật tên Di Thất Lang làm con nuôi. Đồng thời nhiều người Việt lập gia đình với những người Nhật trên như bà Ngụy Cửu Sửu, Võ Thị Nghị và theo họ về nước.
Thêm Hòang thân Nhật Araki Shutaro với 9 thương thuyền đến cửa Đại Chiêm mà họ gọi là Đông Phố . Ông mang theo quà của vua Nhật gửi tặng nhà Chúa như gươm dài và dao lớn. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên phong ông tước hầu, đổi tên là Nguyễn Toro, hiệu Hiển Hùng và gả trưởng nữ là quận chúa Ngọc Liên cho Araki Shutaro để giữ giao hảo với Thiên Hoàng đương thời...”

Khi không gã ngồi cắn bút và chợt u hoài về quận chúa với ông hoàng thân Nhật. Bà theo ông về Trường Kỳ, sau ông Araki Shutaro một mình trở lại phát triển thương điếm và mất ở đây. Quận chúa Ngọc Liên mang tên Nhật là Anio và rất được người Nhật mến mộ. Khi mất, quận chúa được thờ cúng trong đền Daiongi. Đất khách quê người, bà cũng lặng lẽ nằm xuống để rồi hai mộ chí, một nằm đơn độc bên này bãi vắng, một u tịch bên kia biển đông. Một người cố quận Hội An, cảm hoài xa vắng về quê ta xa mãi bên kia biển và có câu thơ:
"Hiên chùa cỏ mộ ban sơ
vọng âm vô lượng chia bờ cõi em
con đường “Phải Phố” Hội An
ta ra biển ngóng ngày tang bồng về".

Với “Ngày tang bồng về…”, gã định mượn bốn câu này thay cho phần kết. Nhưng vẫn thấy có gì trống vắng và lạc lõng, vì qua chuyện gả bán với đất đai. Bấy lâu nay tha nhân chỉ hoài cảm đến Công chúa Huyền Trân cùng cuộc tình với tướng quân họ Trần. Và hững hờ quên đi chuyện củi lửa sài giang, sài thị của quận chúa Ngọc Khoa ở Đại Chiêm, quận chúa Ngọc Vạn tại Mỏ Xòai.
Nhưng là chuyện sau, vì gã vật vã những gì đang dở dang:
“…Chẳng bao lâu sau, Nhật bế quan tỏa cảng, đạo Thiên chúa bị Mạc phủ Tokugawa ngược đãi, nên họ kéo về đây càng ngày càng nhiều. Bà thứ phi của chúa Tiên là người đầu tiên trong dòng họ Nguyễn theo đạo Ki-tô. Vì vậy, chúa Sãi đặc ân cho những thừa sai công giáo người Nhật được lánh nạn ở đây. Họ lập Dòng Tên rất lớn, là nơi gặp gỡ của các tu sĩ công giáo người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp trước khi vào Phú Xuân gặp nhà Chúa. Họ kéo thêm thuyền buôn của người Nam Dương, Anh, Ý và ngay cả Hoa Kỳ, có lúc lên tới 6.000 người. Sách Đại Nam Thực Lục Tân Biên viết: Bấy giờ nhà Chúa trấn trên 10 năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm minh, nhân dân đều an cư lạc nghiệp, chợ không hỏi giá, không trộm cướp. Thuyền buôn nước ngoài đến nhiều. Trấn Hội An trở nên đô hội lớn….”

Gã mồi điếu thuốc và cân, đo, đong, đếm:
“…Hội An buôn bán tấp nập với thổ sản cau khô, quế, hồ tiêu, yến xào cù lao Chàm, các loại tơ sống, lụa. Ngươi Nhật thường mua nhựa chương não, xạ hương. Người Bồ Đào Nha mua hắc đàn, trầm hương. Người Hòa Lan mua tơ lụa, vàng. Người Trung Hoa mua kỳ nam, ngà voi và… thuốc phiện.
Giáo sĩ Christojoro cư trú ở Hội An và mô tả thành phố này như sau: “Thành phố rộng rãi, nên có thể nhận ra hai khu vực, một ở phía tây người Tàu lập phố đầu tiên đặt tên là phố Đường (6) được gọi phố Trung Hoa. Khu vực phía đông được gọi là phố Nhật Bản với bốn phố là Mania, Phnonpenh, Ayuthya, …(?).
Nhà Thanh chiếm Trung Hoa vào thời chúa Nguyễn Phúc Lan, công thần nhà Minh kéo về vùng này càng ngày càng đông, trong đó có “Tam Công” là Tầy Quốc Công, Ngô Đình Công, Trương Hoành Công mua mười bốn mẫu rưỡi đất ở giữa Cấm Phô và Thanh Hà, dựng Cấm Hà Cung. Người Nhật mua 20 mẫu ruộng của làng Hoài Phô và An Mỹ lập nên khoảng 60 căn nhà với 300 Nhật kiều gọi là “Tùng Bản Dinh” (7). Theo thời gian, hai khu phố Hoa, Nhật trở thành Hội An, Hội từ chữ tụ hội, An ở chữ an bình. Nhưng không an bình được lâu, Hội An có những bước thăng trầm qua cuộc chiến với gió thổi chiều nào theo chiều ấy, có lúc Hội An ngả về phía nhà Tây Sơn, có khi nghiêng về phía nhà Nguyễn và sau bị nhà Tây Sơn tàn phá.
Ngay chính với cái tên cũng lên xuống như nước thủy triều, lúc đầu có tên là Lâm Ấp Phố. Dựa theo bản đồ của Alexandre de Rhodes, ghi chú là Hai Phố. Người Hoa phát âm là “Hải Phố”. Thêm giai thoại có ông Tây tới phố Hội An hỏi: Faifo? Nghĩa phải phố không? (8). Gần đây qua chữ nghĩa trên văn đàn còn có những tên tình tự như Hoài Phố, Phố Hoài, Hội Phố…”

Đọc đến đây, ông John Barrow nhấm nhẳng:
- Chẳng dám võ đoán chứ tiên sinh bộc bạch cứ như…thật vậy. Cứ theo sách “Hành Trình và Truyền Giáo Ký Sự” của Alexandre de Rhodes có viết: Thành phố đang phát triển này người Nhật gọi là Faifo. Rõ ra Faifo là tiếng Nhật là Đông Phố, hiểu theo nghĩa thành phố ở hướng đông, thưa tiên sinh.

Gã nhủ thầm: Ông này đúng là rỗi hơi, mà chắc gi tư liệu của ông đã…”khả tín”, họ gọi sao gã viết vậy. Vậy thôi. Thấy ông là người Hòa Lan, gã bèn…”gọi” cho ông một chai bia Heineken để gã rảnh rang…”đánh vật” với những cái tên khác:
“…Như đã đề cập vì nhu cầu củi và nước ngọt cho thương thuyền ngọai quốc và cho chính mình. Chúa Nguyễn lập ra “chợ củi” ở Trà Nhiêu, nhưng vì nhỏ hẹp, trong khi dưới có một giải nước lớn và sâu hơn, đó chính là cửa Đại Chiêm. Từ đó, nhà Nguyễn lập chợ củi ở cửa biển này và được gọi là Sài Thị và con sông Thu Bồn là Sài Giang . Nhưng cả hai tên này chỉ tồn tại một khỏang thời gian ngắn, tuy nhiên bản đồ của nhà Nguyễn, ngay cả nhà Lê, vẫn còn tên và dấu tích của hai địa danh trên. Tiếng Hán, “sài” là một vùng tiếp tế củi và nước cho ghe thuyền.

Trở lại chuyện Chúa Sãi gả quận chúa Ngọc Vạn cho Miên Vương Chey Chetta II . Miên vương tặng chúa Nguyễn Phúc Nguyên đất Mỏ Xòai (9) để làm quà cưới. Theo sử của người Miên quận chúa được phong là Hòang Thái Hậu, sinh một hòang tử tên Chei Chetta III. Miên vương băng hà, vì Miên triều sợ một người Miên gốc Việt lên làm vua, ít lâu sau thái tử Chey Chetta III bị ám hại trong một chuyến đi săn của hòang gia. Buồn phiền vì con mất, bà Ngọc Vạn về Mỏ Xòai xuống tóc quy y một thời gian, bà mất ở đâu, khi nào sử nhà Nguyễn không nói tới … (10) ”.

Thấy ông Tây đang mãi mê “vật lộn” với chai bia, gã bèo dạt nổi trôi theo dòng sử Việt:
“…Tiếp đến năm 1631, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả quận chúa Ngọc Khoa cho Chiêm vương Po Romé (Người Chàm gọi quận chúa là Po Bia Út và tước hiệu là hoàng hậu Akaran) để đổi lấy tỉnh Phú Yên và cho mở rộng cửa Đại Chiêm. Sau này hải quân nhà Nguyễn vào đến Cù Lao Phố, họ cũng dựa theo mô hình Hội An lập chợ củi rất lớn tên Sài Thị để đáp ứng nhu cầu cho chính mình, vừa cung cấp gỗ củi cho kinh đô, việc buôn bán giao cho người Hoa để thâu thuế. Bằng vào chợ củi của hải quân nhà Nguyễn, thời kỳ hoàng kim của Cù Lao Phố là đô thị cổ xưa, một thương cảng sầm uất của phương Nam.

Đột nhiên nhiên ông Tây ngoắc tay gọi hai chai Heineken nữa. Gã chắc mẩm ông ta muốn đối ẩm với mình chi đây thì khi không ông lẳng lặng tu một chai. Còn chai kia ông buồn tình bỏ vào… cái túi dết. Thế mới quái…
Vẫn ung dung nhàn hạ, ông Tây chỉ gã bức tranh thứ ba tên “Một nhóm người Cochinchina” nhưng không ghi chú gì. Gã thấy một nhóm người Chàm đứng chung quanh một người đàn bà quý phái. Ngồi xa gần đấy là một ông quan người Chàm đầu quấn khăn, đeo gươm cong. Đứng cạnh người đàn bà là một ông quan An Nam cầm lọng, ngực đeo thẻ ngà, đầu đội nón chóp. Riêng bà quý phái đầu đội nón quai thao trấn Kinh Bắc, tay cầm quạt và mặc áo choàng dài ba lớp mầu sắc khác nhau. Gã định hỏi xem có phải là Hoàng hậu Akaran-Ngọc Khoa không?.

Ông mải mê ực bia không trả lời, gã đành “sưu khảo” tiếp:
“…Nói đến Hội An thì phải nói đến cầu Nhật Bản (11) là một biểu tượng của Hội An, chùa được xây khoảng năm 1617 thuộc kiểu “thượng gia hạ kiều”. Cầu rộng 3 thước, dài 18 thước, trên có mái âm dương thường vẫn thấy ở đồng quê bên Nhật, dưới có lối đi cho khách qua cầu. Trong thờ tượng Bắc Đế Trấn Võ cưỡi long câu. Hai đầu cầu có tượng hai con chó ở phía đông, hai con khỉ ở phía tây bằng gỗ đầu đội bát nhang. Theo truyền thuyết người Nhật đặt 2 linh vật ở đầu cầu để thờ “Linh phù thủy khấu” là vị thần biển phù hộ cho người đi biển tránh bị…cướp biển tức con Câu Long theo tiếng Hoa hay con Cù theo tiếng Việt…”.

Gã định viết tiếp có một thuyết khác cho rằng có khỉ và chó vì cầu xây từ năm Thân, xong năm Tuất. Vừa lúc gã thấy ông cười tủm: “Tiên sinh biết nhiều quá nên chẳng…biết gì cả”. Gã ớ ra vì nghĩ ông…say. Thế nhưng ông lại cắc cớ thêm: “Xin đợi hồi sau với con thủy quái Mamazu sẽ rõ”. Gã vẫn chưa thông, ông nhồi thuốc vào cái ống vố cả một hồi lâu, bỗng đổi đề tài: “Xin mạo muội hỏi tiên sinh chứ con Cù là con gì?”. Không đợi gã trả lời, ông nhì nhằng: “Con Cù là con rồng đất, thưa tiên sinh”.
Được thể gã lại gò lưng với…cái câu: ”…Năm 1831, Minh Mạng 12 đặt tên là Lai Viễn Kiều…”. Thấy vậy, ông Tây tháo cái kính tròn vo ra lau lau và nhì nhằng: “Xin trình với tiên sinh rằng năm 1719 chúa Nguyễn Phước Chu ghé Hội An, đặt tên cầu là Lai Viễn Kiều, chiếc cầu của những người từ phương xa tới...và bút tích vẫn còn đấy. Thưa tiên sinh“.
Tiếp, ông đeo kính lại và khật khừ với “tác phẩm” của gã:
“…Hội An được hình thành, người Hải Nam lập chùa Hải Nam, người Quảng Đông có chùa Ông, người Phúc Kiến với chùa Hoa. Chùa Ông Bổn tức ông Bổn Đầu Công Trịnh Hòa, người có công giúp người Hoa di dân ra nước ngoài. Với người Việt, đặc thù với dấu ấn là nhà từ đường qua kiến trúc cổ xưa đà ngang, đà dọc đều được trạm múc chìm và múc tròn. Và dấu ấn của “con Cù” của Nhật trở thành hình tượng trên kèo chống và được kêu là “kèo cù”. Biểu tượng là nhà hình ống có khi thông qua cả hai phố. Những mái âm dương “thừa lưu” chồm ra sân sau và gần như nhà nào cũng có giếng cổ từ mấy thế kỷ trước…”

“Tác phẩm” vừa hoàn tất, gã hâm hâm hỏi ông John Barrow và cũng bắt chước ông nói chữ: “Tiên sinh thưởng lãm văn bài sao? Có hợp tôn ý chăng”. Ông nheo mắt trả lời cụt ngủn: “Được”. Gã nhủ thầm: Quái, phải nói là hay mới đúng nên hỏi gặng: “Vậy “hay” với “được” khác nhau thế nào, xin tiên sinh chỉ giáo cho”. Ông Tây gục gặc đầu: “Tiên sinh viết được. Nhưng không viết thì… hay hơn”. Ngỡ nghe lộn, thế nhưng không, ông nấc cục một cái rồi gật gù: “Giả sử tiên sinh là bạn đọc. Tiên sinh ngẫm xem, bài vở gì toàn tên nhân vật, địa danh, niên kỷ, đọc trước quên sau thì ông cố nội ai mà nhớ nổi”. Nốc hết chai bia, ông Tây lè nhè: “Ấy là chưa kể tiên sinh kê khai thổ sản Hội An như kê thang thuốc Bắc ấy với chương não, kỳ nam, hắc đàn thì có… ma nó đọc”. Gã thầm lầu bầu là ông này say thật! Hay là… ma cũng nên?

***
Thế nhưng gã vẫn buồn… bâng khuâng. Buồn thì gã nhìn ra ngoài trời u ám và hoài cảm đến âm hưởng một dòng nhạc… "mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ, mưa vẫn mưa bay cho đời biển động..." Lại lãng đãng với mưa Hà Nội, mưa Sài Gòn, ngước mắt nhìn bức tranh “Nhìn Xuống Phố Cổ” với những bức tường loang lổ, mái âm dương rêu phong ẩm ướt… Bất chợt ngừng lại ở cái cột đèn, đằng sau là một mảng mầu xám nặng chĩu với những ký ức xa gần… Gã vấn vương về những căn nhà không số ngõ không tên ở đầu đường cuối phố nào đó.

Thấy ông John Barrow gục đầu xuống bàn ngủ vùi từ lúc nào. Buồn tình gã lại đẩy đưa thêm chữ nghĩa vào bài viết với lịch sử là cuộc tái diễn không ngừng:
“…Nhà Tây Sơn đánh nhau với nhà Nguyễn, tướng của nhà Nguyễn là người Minh Hương nên nhà Tây Sơn tàn phá Hội An. Vì vậy có nghi án cho rằng nhà Tây Sơn “thù” người Minh Hương, nên khi nhà Tây Sơn đánh chiếm chợ Cù Lao Phố, họ giết 3000 người xác thả trôi sông. Vì vậy người Minh Hương kéo nhau về đất Sài Côn lánh nạn và lập nên phố chợ Đề Ngạn. Hai chữ Đề Ngạn, giọng Quảng Đông phát âm là Thầy Gòn. Từ Sài Côn, Thầy Gòn mới có tên Sài Gòn. Vô hình chung Sài Gòn phát sinh từ chợ Cù Lao Phố xưa kia ở Biên Hòa, hay nói một cách khác đi, Sài Gòn đã mang dấu ấn của Hội An với sài thị và sài giang mà ra...”
Gã định gọi ông dậy xem khúc cái tên Sài Gòn “dầu do tiếng nào phiên âm ra chăng nữa” thì bây giờ cũng đã đi vào… cổ sử rồi. Thì thấy ông John Barrow đã bỏ đi lúc nào chẳng hay, gã nhìn ra ngoài cửa kính thấy một đoàn tăng lữ già đi về phía chùa Cầu. Họ mang guốc mộc quai rơm, mặc áo bào trắng dầy bên trong, bên ngoài lớp the nâu đen mỏng. Trái áo có thắt miếng vải nhỏ bắt chéo và buông thõng. Gã nghe hơi nồi chõ ấy là đoàn người từ Nhật mới qua để thăm phần mộ tổ tiên và trấn huyệt cho cả xứ Nhật vì khe nhánh sông Thu Bồn (12) ngay tại chùa Cầu chính là cái đuôi con thủy quái Mamazu và cái đầu nằm ở nước Nhật. Các nhà sư đến Hội An hôm nay để trấn huyệt con thủy quái đỡ vẫy đuôi, nước Nhật đỡ bị động đất này nọ.

Ngó quanh ngó quất thấy cái túi dết ông John Barrow để quên lại, gã xếp chồng bản thảo bỏ vào túi và rời quán Phố Xưa định ra chùa Cầu xem trấn yểm nhưng đoàn sư Nhật lại ra thăm phần mộ tổ tiên của họ trước. Ngày mai gã rời phố thị, thế nên gã theo dấu họ tới khu di tích mộ chum đất của người Chàm xưa xem một lần cho biết. Trên đường đi gã nghe thấy tiếng trẻ con reo hò “ Có dị nhân xuất hiện ở nghĩa địa”. Gã làm như không nghe vì gã ngán ngẫm ông Tây già này quá đỗi, vì ông ta chỉ được cái nết khoa trương cái “kiến thức đóng hộp” của ông ta và bắt bẻ chê bai là không ai bằng.
Sờ bên ngoài cái túi “dết”.Gã thấy chai bia u lên cồm cộm… Thế là gã cắm cúi bước dọc theo bờ biển tới khu di tích cổ xưa trong một chiều trên bến vắng nhưng chẳng thấy… cái chum nào, rải rác đâu đây chỉ là những nấm mộ chơ vơ. Nhìn quanh, gã bắt gặp những thương nhân người Nhật xưa kia chọn mảnh đất này làm quê hương thứ hai với tên Việt là Mặn, Nước, và vợ Việt là Lan, Huê... Riêng hai ngôi mộ ông Hanjiro và Banjiro với kiến trúc hoàn toàn đặc thù Nhật nằm dưới lùm cây xanh tươi. Nơi chốn an nghỉ của người Nhật cũng khác lạ, mộ bia chỉ có tên và quê hương bản quán, mộ chí u lên tròn tròn như cái mai rùa và cái bia nhô ra ở đầu như cái… đầu rùa. Hay chi tiết hơn với ông Ngô Văn Văn và Ngô Văn Công, con của ông Shichirobei và bà Nguyễn thị Diệu qua hàng chữ: “Hiếu nam Văn, Công đồng phụng tự”. Gã hoài đồng vọng đến bên kia biển vắng, đất khách quê người nơi chốn gã “tạm dung”: Mai này sẽ có những nấm mồ hoang lạnh như thế kia ở nghĩa địa thành phố với những bia đá lưu danh ẩn tích cử đầu vọng minh nguyệt, đê đầu tư cố hương bằng vào những cái tên “Micheal Nguyễn”, “Tony Trịnh”…

***
Định quay về để sửa soạn hành lý, ngày mai rời phố thị thì đập chát vào mắt gã là cái bia đá sần sùi cao hơn gã. Buồn tình gã đứng ngay thuỗn và rất thành kính, gã ngửng mặt lên lẩm bẩm đọc bút tích của người đi vào thiên cổ để lại nhắn nhủ cho kẻ hậu sinh gì đây. Đọc xong gã chẳng hiểu gì sất cả…
Vì giời ạ, ông giời có mắt xuống đây mà xem, người quá cố đã dựng bia và gửi gấm dòng chữ như thế này đây:
- Khi xưa tôi cũng đứng ở đây như bạn. Mai này bạn cũng…đứng ở đây như…tôi.
Chẳng cần ông giời xuống xem dùm, gã cũng có mắt vậy. Và gã nhòm xuống mộ bia một chút nữa và thấy họ tên của người quá vãng thật thân quen và quen lắm:
- John Barrow.

Thạch trúc gia trang
Xuân phân, Mậu Tý 2008
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng


Nguồn: Trần Gia Phụng, Phan Khoang, Nguyễn Đình Vượng, Nguyễn Khắc Hoạch, Vương Hồng Sển, Sơn Nam, Lê Văn Hảo, Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Nguyễn Tường Bách.

Phụ chú:

1 – Thăng Bình, đất của người Chiêm Thành do Hồ Hán Thương chiếm được. Gia Long đổi tên là Quảng Nam với “Quảng” là rộng rãi và “Nam” hiểu theo nghĩa là phát triển đất đai về phía nam.
2 – Tên Việt là Trà Bàn, Hán tự là Đồ Bàn. Hồ Hán Thương đánh chiếm phủ Thăng Bình, quân dân Chiêm Thành chạy về đây lập thành Đồ Bàn. Sau Nguyễn Hoàng tiến chiếm Đồ Bàn một lần nữa. Tiếp đến Gia Long đổi tên Đồ Bàn là Bình Định với nghĩa “bình định” được đất đai của hai miền Nam Bắc từ năm 1802.
3 – Chúa Hiền Vương cho người Tàu vào Cù Lao Phố (Biên Hòa) họ lập lên vùng đất tên Sài Thị . Gia Long đổi Sài Thị là Sài Côn . Năm 1861, từ “ Sài Côn”, người Pháp đặt tên là “Thành phố Sài Gòn ”. 1954, Bảo Đại đặt tên là “Đô thành Sài Gòn-Chợ Lớn”.
4 - Tên gọi “khách trú” từ Trịnh Hoài Đức (1765-1825) mà ra. Ông là người Việt gốc Hoa làm quan nhà Nguyễn, đi sứ nhà Thanh hai lần trong Gia Định thành thông chí , ông viết: “Sĩ tắc Bắc trào thần, cang thường trịnh trọng - Ninh vi Nam khách trú , trước bạch chiêu thủy”. Nghĩa là không nhận chức quan nơi đất Bắc giữ trọn đạo cương thường, thà làm khách nước Nam, lưu danh sử sách.
Trong Gia Định phú , Trịnh Hoài Đức viết thêm:
Ngói lợp vẩy lên, phố khách trú tòa ngang tòa dọc
Hiên che cánh én nhà quan dân hàng vắn hàng dài
5 – Đời Hậu Lê, Lê Quý Đôn (1726-1784) qua Kiến Văn Kiểu Lục ghi: “Thời Vua Lê Cảnh Hưng thứ 13, người Trung hoa qua nước ta cả mất chục nghìn người bằng tàu nên được gọi là người Tàu”.
6 - Thiệu Trị 1841, người Quảng Đông lập thêm đường Tân Lộ. Tự Đức 1864, sát nhập làng đánh cá Cổ Trai vào Hội An.
7- “Giao Chỉ Quốc Mậu Dịch Độ Hải Đồ” của Chaya Shinkoru lưu trữ ở đền Jomyo, khu đất này được gọi là Nhật Bản Dinh vẽ 3 ngôi nhà cao 3 tầng của dòng họ Chaya ở Owari-Nagasaki.
“Dinh” theo tiếng Nhật là “Phố xá”.
8 - Theo Voyage from France to Cochi-China của Captain Rey, người Pháp vào năm 1819 viết: “Vịnh Tourane đã được ghi lại trong chuyến Hải trình đến Trung Hoa năm 1972 của Lord Macartney. Nay tôi vẽ lại chính xác hơn và thêm một bờ biển từ đến đảo Tiger gân Huế. Fai-Fo giống như một hải cảng ở Ấn Độ”.
Như vậy tên Fai-Fo đã có từ năm 1802 thời vua Gia Long. Khi Captain Rey đến Việt Nam vào thời vua Gia Long chỉ có duy nhất 2 (hai) người Pháp làm quan cho triều đình nhà Nguyễn thời ấy là ông Jean-Baptist Chaigneau (tên Việt là Thắng) và ông Vanier.
9 – Với ý định tìm đồng minh chống Xiêm La, Chey Chetta II đến đất Thuận Hóa xin cầu hôn quận chúa Ngọc Vạn, con Chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Miên vương tặng nhà Chúa đất Mỏ Xoài (tên Miên là Mô-xúi, tên Việt sau là Bà Rịa) làm quà cưới. Chúa Nguyễn khuyến khích dân Thuận Hóa vào Mỏ Xoài khẩn hoang, lập ấp. Sau nhà chúa cho những lớp di dân khác, trong đó có một số đông là tội đồ lưu xứ vào Đồng Nai khai khẩn đất hoang. Tiếp đến, nhà Nguyễn lấn chiếm miền đất phía đông của Miên quốc lập nên Đông Phố (Gia Định). Với Trịnh Hoài Đức địa danh này phiên âm từ tiếng Miên là “Giản Phố” rồi sau chép sai thành Đông Phố. Thời chúa Nguyễn Phúc Lan, quan lại nhà Minh chống nhà Thanh bị thất bại nên sang tị nạn. Chúa Nguyễn cho họ vào Cù Lao Phố (Biên Hòa) để khai thác đất đai, buôn bán để đóng thuế.
10 – Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên khi trấn nhậm Quảng Nam có 4 công nương theo thứ tự là Ngọc Liên, Ngọc Vạn, Ngọc Khoa, Ngọc Đảnh. Sử ta không chép, nhưng theo sách sử Cao Miên do các nhà học giả Pháp biên sọan có ghi sự tích chồng con như năm 1929, Chúa Nguyễn gả con gái út Ngọc Đảnh cho Mạc Cảnh Vinh sau được đổi qua quốc tính Nguyễn Phúc Vinh, con Mạc Cảnh Huống, để mở rộng đất Trấn Biên. Rồi đến Ngọc Liên...Riêng Ngọc Vạn, Ngọc Khoa , sử ta chép là “khuyết truyện”, là không rõ tiểu truyện chồng con thế nào. Năm 1995 qua gia phả Nguyễn Phước Tộc, sử gia Trần Gia Phụng dành một chương “Ai đưa công chúa sang sông” việc lấy chồng của họ.
11 - Năm 1695, sư Thích Đại Sán tới đây nhận chúa Nguyễn Phước Châu làm đệ tử và viết sách Hải Ngoại Ký Sự, gọi Hội An là Quảng Nam Quốc và cầu là Nhật Bản Kiều.
12 - Thu Bồn là tên một nữ thần Chàm. Người Việt thờ cúng bà vào ngày 12 tháng Chạp mỗi năm và gọi là Bồ Bồ phu nhân.

Blog "Quán Thằng Bờm" (http://ongvove.wordpress.com)