Print

Ốc mượn hồn

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

Không có mây sao có mưa, một ngày vì thiếu chân mạt chược, ai đấy vác gã đến. Chủ nhật, gã bắt xe buýt tới đầu đường rồi ghé nhà thờ (Notre Dame Catholic Church) gần nhà tôi. Đi lễ xong, lững thững thả bộ tới phó hội quần hùng. Gã ăn chay trường, tay lúc nào cũng lủng lẳng túi ny lông thủ dăm trái chuối.
Sau mấy lần lui tới, trộm thấy gã chơi mạt chược rất mả, nói chuyện mồm mép như tôi và chửi thề như ai. Thế nên cả hai có đôi chút gần gũi. Hôm nay ế độ, tôi kéo gã ra Trúc gia trang thăm chừng mấy khóm trúc. Vì với bản năng sinh tồn sao đấy, nếu có đọt trúc xanh tươi nhú lên, thế nào cũng có cây lăn quay ra…sinh ký tử quy.
Nghe thủng rồi, gã giọng tàng tàng:     
-  Nói chuyện được chăng? Ông thầy.
Gì mà “ông thầy”. Làm như là lính tráng thứ thật không bằng? Y trang, chưa kịp há họng hỏi, gã vào chuyện với cái tôi của gã bự sự như khẩu trung liên RPD của VC.

***
"Tôi (tức gã) là nhà giáo được gọi nhập ngũ, đụng ngày 30-4. Ra khỏi trại cải tạo nín thở qua sông mấy năm, vì muốn vượt biển, nghe tin khí tượng và hải tặc mãi cũng ỏai, bèn lêu bêu xuống chị Tình xả xui. Về nhà nghe nói nhóm tổ chức vượt biển đổ bãi sớm vì sợ bị lộ. Không kịp tắm táp, quơ túi quần áo xuống Nhà Bè sau đấy qua Mỹ ngon ơ. Tôi vượt biển ngon lành như ngồi xích lô tới chợ Quán ăn bún mọc".
Khi không gã mọc ra chuyện… bún mọc, không hẹn mà gặp, năm 54, nhà tôi ở số 53 đường Trần Bình Trọng, gần xịt chợ Quán nằm bên sông Sài Gòn. Ừ thì hãy để đấy. Vì gã dẫu chuyện như tôi nên với cái nghiệp đắp chữ vá câu cũng ngon cơm. Tuy nhiên viết truyện gã kể, tôi phải nương theo gã với sóng sau dồn sóng trước.
Nhưng không hẳn vậy! Số là thuyền vừa ra lạch gặp một chiếc ghe câu lướt qua trước mũi. Lão tài công lầu bầu “Đủ má” cái một. Vì lão kiêng cử cái vụ bị “ngáng đường” khơi khơi như vậy. Ra đến biển, khi không dàn máy phát tiếng hục hặc ho khan, rồi ì ra lừ đừ, vật vờ. Có người nói cho căng buồm, lão lắc đầu cho biết gặp gió nhẹ, buồm vát không ăn gió, đập phần phật cho… mát mắt thế thôi.
Một hồi lâu, dưới hầm máy, có tiếng chú chệt Chợ Lớn kêu “chết” nhớt. “Hết” nhớt thật, hóa con ốc lâu ngày rớt lúc nào mất tiêu. Lão cho buông neo, khổ nỗi cái neo không cắm sâu vào cát. Thuyền trôi từ từ, kéo cái neo rê rê theo. Trong khi chờ đợi mài dũa con ốc khác. Tôi nằm phơi mình như cá nằm phơi trên cạn, thẫn thờ nhin đàn cá bám theo hông thuyền. Lão đến cạnh bâng quơ: “Đủ má! Cá bơi để tránh sóng, ông thầy”. Lão gọi tôi là “ông thầy”, vì tôi lỡ miệng khoe mẽ với lão tôi dậy vạn vật nên cá, rùa, tôm tôi nằm lòng. Từ đó lão gần gũi với tôi hơn. Qua chú chệt, tôi mới hay lão là bợm già trong nghề sông nước với tên “Xích Thố”. Lão như con ngựa biển, một đời rong ruổi trên đại dương, nhìn màu nước biết thời tiết. Bấm ngón tay tính nước thủy triều. Trông sao trời, sao hôm, sao mai gì ấy đi trong đêm.
Ngoài ra, tôi còn biết thêm: Qua chú chệt Chợ Lớn thì lão tin dị đoan, khi nào lão “Đủ má” trước sau cũng có chuyện. Mà có chuyện thật, bỗng có tiếng máy nổ “cạch… cạch...” rồi tắt ngúm, đồng thời thuyền giựt giựt mấy cái như có gì kéo lại và rung lên bần bật. Lão buông thõng: “Đủ má. Cái chân vịt bị dây cuốn” và mặt thừ ra. Lão kéo tôi ra một góc và nói nhỏ như sợ có ai nghe thấy… Với lão thì dân sông nước ớn nhất việc gỡ dây neo quấn chân vịt. Hình như càng những tay bơi lội như rái cá lại càng hay gặp nạn. Nhất là trên thuyền có ai đấy đeo “ba lô ngược”. Hay ai đó trước khi đi biển lại…đi chơi bời. Lão lôi tôi ra nói nhỏ: ”Hay là ông thầy”. Tôi ớ ra, vì mình vừa mới… xuống xóm thăm chị Tình nên miệng câm như hến.
Lão chuẩn bị đồ lặn, gọi là đồ lặn cho óach, thực ra chỉ có cuộn dây thừng và con dao. Đứng cuối thuyền, lão buộc sợi thừng ngang lưng tôi, dặn dò dăm điều, chúc tôi… ”thuợng lộ bình an”. Bất thình lình lão ẩy tôi ùm xuống biển. Vậy mà tôi vẫn còn nghe câu chúc của lão: “Chớ ham zui ở lại với Hà Bá nghe, ông thầy”. Lão hù vậy thôi, vì với tôi dễ ợt, vì lặn rạch Thị Nghè đã quen thói, mươi phút là xong tất.
Mà số tôi cứ lằng nhằng với dây thừng thì phải? Nhưng ấy là hồi sau.
Thuyền tiếp tục trong sóng yên biển lặng, bạ vào mắt đàn hải âu đảo quanh thuyền thật thấp, cất tiếng kêu lanh lảnh. Thấy lạ bèn hỏi. Lão lụi đụi gần đấy một cái đảo nào đó, vì nhỏ quá, chưa ghé đến. Lát sau cuối chân trời hiện lên một vừng mây tỏa hình nan quạt. Lão nói: “Coi kìa ông thầy, trời ráng ngòai. Sắp có tố đến nơi”. Lão chép miệng: “Năm hết Tết, sao lại có bão lạc dậy cà. Chịu hết biết, hổng hiểu nổi”. Cùng lúc ấy có năm, sáu con cá giống như cá heo bơi ngược chiều với thuyền. Lão nói: “Đủ má, bão thiệt, ông thầy. Bầy cá lạc đang trốn bão”.
Tôi nghĩ trong đầu, thế là bỏ bu rồi, cứ… “đủ” với… “thiếu” mãi đi.
Thuyền đi chậm lại vì ngược gió, ngược nước. Biến chuyển sang màu nước dưa. Sóng mỗi lúc một mạnh, tôi lo ngại nhìn trời. Lão nói: “Tới ba ráng lận, tố to đấy”. Không thấy mấy con hải âu nữa, tôi hỏi lão sao không ghé vào đảo gần đây? Lão ậm ừ đó là một tai họa. Ai chẳng biết phơi lưng giữa biển trong bào tố là nguy hiểm. Trời kêu ai nấy dạ, nhưng chớ bao giờ đưa thuyền vào đảo lạ khi đang có bão. Vì có vô số bãi cát ngầm di động, khiến sau này việc xoay trở như cày, dũi không phải là dễ.
Nghe thì nghe vậy, cái đầu đất tôi xúi dại lão này dám… lờ quờ lắm chứ chẳng chơi. Nhưng tôi biết qua báo bổ, khi tới đảo Phú Quốc, từ An Thới tới mạn đầu cầu Sấu thì an tòan. Nhưng vào vùng vịnh Thái Lan, có mấy hòn đảo nhỏ vật vờ giữa biển, là nơi ẩn náu của đám hải tặc như tôi đã nghe trên đài trước khi vượt biển. Vì tôi tìm được quyển Địa phương chí của đảo Phú Quốc. Những cái tên nghe như từ một thời cổ xưa lập địa với những Hòn Đồi Mồi, Hòn Kiến Vàng, Hòn Khoai, Hòn Thơm, Hòn Nước, Hòn Rùa, Hòn Tre, Hòn Tre Lớn, Hòn Tre Nhỏ, Hòn Thổ Châu và Hòn Hải Tặc...
Đụng hải tặc, tôi hỏi lão về cướp biển. Lão không trả lời, lẳng lặng đứng lên, cúi xuống mở cái nắp hòm gỗ. Tôi thấy một thanh mã tấu, mấy trái lựu đạn chày. Lạ một nhẽ cái hòm gỗ là chồ ngồi, lòi tói ra sợi dây thừng ngắn và cái cột.
Lại dây thừng nữa, tôi rửa óc nghĩ không ra.
Càng về chiều, nước ngùn ngụt chuyển, đưa con thuyền lên cao rồi dìm xuống. Lão chỉ sợi dây thừng ở cái hòm gỗ và bảo tôi buộc hai chân lão vào cái cột. Hai tay lão ghìm chặt bánh lái, cho thuyền dọc theo triền sóng và lão nói bình thường bão nhỏ có thể cưỡi sóng mà đi. Nhưng gặp bão lớn như thế này, đành phải xuôi theo sóng. Có điều nếu muốn giữ cho thuyền đừng lật úp, chớ bao giờ đưa hông thuyền ra hứng đợt sóng lớn đang dập xuống. Lão vuốt nước trên mặt và dàng dênh những gian truân của một đời sông nước cho tôi nghe. Cảnh sông nước triền miên đã làm lão ngán ngẩm, cứ muốn dứt ra lại bị cuốn vào và vẫn chẳng thóat ra khỏi được cái nghiệp.  
Vẫn chuyện sợi dây thừng, nhưng không phải buộc vào cái cột ngắn ngủn…
Lão chấm dứt câu chuyện bằng cách “sai” tôi ra ngòai tháo dây thừng nối mấy can nước, san cho đầy mấy can nước vơi và giữ lại can không làm phao cho bà con. Tiếp, lão dặn dò tôi lấy dây thừng buộc… tôi vào mạn thuyền không thì vỡ mặt. Tôi tháo dây, san nước can này qua can nọ. Đang lúi húi ôm cái can còn hai phân ba nước, tôi quên bu nó chuyện tôi buộc tôi vào mạn thuyền. Như có hẹn trước, đột nhiên có một cột nước khổng lồ như cá nhà táng. Nó như tìm thấy tôi và bổ nhào xuống chụp dính và giận dữ quẳng tôi xuống biển. Tôi buột miệng: “Đủ má” vì biết… sắp có chuyện.
Nhưng không quên can nước còn hai phần ba.

***
Bị quăng xuống biển vô tội vạ, tôi vừa gào tóang lên làm như để ai nghe thấy đến cứu mình, vừa ôm can nước đạp chân lọan xạ. Bơi miết rồi tôi kiệt sức và ngất đi hồi nào không hay. Tôi nằm mơ thấy bị VC vác AK đuổi chạy có cờ trong đầm sình lầy quận Nhà Bè. Chúng làm một tràng “ra phan”. Xui gì đâu, tôi lãnh nguyên con một viên vào bắp chân. Tôi kêu: “Ối mẹ ơi, đau quá” và tỉnh dậy. Mở mắt ra, thấy một thằng nhãi con, tay cầm cái ván thuyền chọc chọc đúng vào chỗ bị Việt Cộng ghim một lỗ. Tôi bật dậy. Đúng ra là tôi gượng đứng lên và chóang người: Vì thấy mình ở trên cái đảo to hó bằng ba, bốn cái chiếu. Vì đứng ở ven bên này, tôi có thể thấy mé bờ bên kia. Tôi ớ ra nhìn nó. Và nhìn… cái đảo. Tôi lắp bắp hỏi nó: “Mày… mày ở đây lâu… lâu chưa”. Nó cười toe cho biết mới “lưu vong” tới đây từ thuyền khác, vì cơn bão vừa rồi.
Tôi lẳng lặng bước qua bờ bên kia để thăm chừng, để thấy mình sống cũng như chết. Vì nếu tôi có chìm lỉm ngòai biển khơi hồi hôm, bất quá dẫy dụa chừng năm, ba phùa và uống nước cho đã là… êm. Còn cái chết ở đây từ từ với chết đói, chết khát. Tôi nghĩ dại nếu sống ở đây mãi trước sau gì cũng sống vô gia cư chết vô địa táng thôi. Dòm đảo hoang rải rác đá lớn nhỏ, phần còn lại san hô phủ kín. Khứa Robinson xưa kia lạc tới đảo còn có rừng rậm, suối nước, con này, thức kia. Bỗng không cấu vào mắt cụm cỏ gà lất phất giống cỏ lau nhưng có hạt như hạt lúa len lỏi giữa mấy khe đá. Hòn đá to đùng có vũng nước mưa nhờ trận bão tối hôm qua. Dòm cây cảnh như cây bon sai, như… bức tranh thủy mặc. Ngữ cảnh vậy đấy, nhưng lúc đó tôi chẳng thấy đẹp khỉ mốc gì. Mặc dù không đói, tôi thò tay tính ngắt nhai đỡ vài hạt, chợt nó nói vọng tới ấy là hạt cỏ ma, vớ lấy mà đớp, thì ngứa cổ họng… và móc họng ra chết ngắc.
Ủa! Mà sao nó biết? Chưa kịp dẫu chuyện vì nó đang lần mò từ ven đảo đi lên. Theo bước chân nó, đây đó ngổn ngang rác rưởi của trận bão dạt về như ván thuyền, giầy, dép... Nó khập khiễng bước từng bước một, cắm đầu xuống mặt cát. Đến chỗ tôi. Nó lúi húi vốc cát. Với cả hai bàn tay khum khum, nó vốc lên dăm cái trứng rùa. Mắt tôi tròn dấu hỏi, nó giảng… “vạn vật sinh học” cho tôi nghe, rằng tối hôm qua rùa mẹ từ biển bò lên đây đẻ trứng. Dòm trứng rùa và cái can nước còn hai phần ba, tôi nhủ thầm cũng may để sống còn. Ngày rộng tháng dài tôi vu vơ tiếp: Có tàu hay thuyền nào ghé đảo này chăng? Nhưng bao giờ? Ngày mai, tuần sau? Mà người ta đến cái đảo thổ tả này làm gì chứ? Chỉ có giời biết. Bữa ăn ảm đạm hôm ấy, chấm dứt một ngày buồn hiu bằng… một quả trứng. Tôi nhắm mắt, nhắm mũi nuốt chửng nguyên con… con rùa con. Định làm  chầu thứ hai, nó lại dậy khôn tôi nữa là để dành mai, mỗi ngày hai trứng. Trưa một trứng, chiều một trứng.     
Khuya về tôi mới thấm cái lạnh của biển, gió thổi thông thốc, gió rít vu vu như… thông reo. Nhớ lại phim câm của khứa tài tử chân đi chữ bát “Sạc-Lô” kẹt trong căn nhà gỗ. Bão tuyết lạnh lùng, nhưng vẫn có củi lửa, cái nồi với đôi giầy và dây buộc giầy chấm mút. Nghĩ đến đây tôi lại thấy cái đói tàn bạo trong cái hoang lạnh của đảo hoang. Tôi lại…hoang tưởng đến những chiếc giầy nằm ngoài bãi biển, nhưng lại không có lửa và cái nồi. Người tôi như co lại và cong như con tôm he. Lại tôm với cá. Tôi vội xua đuổi ý nghĩ ấy ngay đi. Tỉnh dậy thấy biển tối thui, loay hoay không ngủ được, tôi đâm bực mình lây qua cái thằng nhãi mới tí tuổi đầu cứ đòi dậy khôn tôi. Như hôm qua, nó dậy tôi uống nước từng nắp can nước một và phải nhấp từ từ, đừng làm cái ực này kia. Vì vậy can nước vẫn còn đầy. Nhưng nó không biết còn vũng nước mưa ớ hốc đá đằng kia. Nghĩ lan man vậy, thế nhưng vì tù túng quá nên tôi bẳn tính với nó chăng? Đến gần sáng, tôi vẫn trằn trọc cùng những buồn bực không đâu!
Sáng hôm sau, ngồi bó gối cạnh thằng nhãi, tôi thấy nó cắn từng vỏ trứng rùa ngon lành như nhai bánh đa. Như khám phá ra cái chân lý tiên thiên là… trời sinh voi trời sinh cỏ. Thế là tôi bung dậy. Nó nheo mắt dò hỏi. Tôi đành làm lành và nhỏ nhẹ cho nó biết dễ hiểu đến như vậy mà nó… ngu như bò. Nó không biết tôi dậy vạn vật, cá, rùa tôi bắt cóc bỏ đĩa: Vì có trứng rùa thế nào cũng có… rùa.
Thế là ba chân bốn cẳng tôi ào ra ven đảo. Nhào xuống biển tức thì. Mở mắt thao láo như rắn ráo để tức như bò đá khi bắt gặp nguyên một nghĩa địa san hô, vỏ sò, ốc dầy đặc. Ngoi lên lấy hơi. Hụp xuống tìm tiếp. Lần này tôi thấy mấy chú rùa to bằng cái đĩa, bây giờ tôi mới hiểu câu nói chậm như rùa là sai bét. Vì ở dưới nước chúng nhanh như cắt. Vừa đưa tay chộp thì vèo một cái, chúng bơi vù như tên bắn. Lóp ngóp leo lên, chưa kịp kể lể chuyện trên trời dưới biển, nó hỏi: “Chú thấy… đồi mồi?”. Không dằn được, tôi nổi cơn điên: “Sư mày, nói cứ như bố tao ấy”. Nó giọng nhẫn nhục: “Đảo có san hô, bãi cát có rùa, phải có đồi mồi”. Tôi chưa kịp gắt nhặng sị lên để át giọng. Nó tiếp: “Mai kia người ta ghé lưới đồi mồi”. Đến đây không chịu nổi cái thằng con nít hay lên mặt dậy đời, quên tuốt tôi là thầy giáo: “Tiên sư mày! Mày làm như gì cũng biết”. Mặt nó hơi sụ xuống, giọng yếu sìu: “Hồi trước, tía tui dẫn tui ra đảo gòai”.
Tối hôm sau vẫn chỉ hai khỏan “đóí” và “lạnh” làm bạn với tôi rất ư tha thiết. Dường như cái đói, cái lạnh về đêm dễ dàng xâm nhập vào tim, gan, phổi phèo và tàn bạo hơn. Để tôi… tư duy rằng cả hai thứ “môi hở răng lạnh”… ”tập kết” với nhau thì… Thì tiên nhân chúng nó chứ… chứ chúng ác ôn chẳng thua gì VC. Bố khỉ, hay luận theo ngôn từ ngọai sử của quân lực VNCH hào hùng thì… “từ chết đến bị thương”. Luận nho táo theo mấy ông Tàu là… bán tử bất hoại.
Tôi vừa làm một giấc trưa nên tối trắng mắt ra, thấy thằng bé khò khè, hình như nó lên cơn sốt có thể chân nó máu đóng cục, sưng tấy lên làm tôi hơi lo lo. Tôi gợi chuyện gió mạnh như vậy nó ngủ được không. Nó nói: “Tui nhớ má tui”. Và tiếp: “Má tui với tui hổng hạp, gặp là gây, rầu hết sức dậy đó. Riết rồi tui bụi đời, bị nhúm vô trại tế bần bên kia Chợ Qúan. Hồi rày tui mới thương bả, bả đâu có dư săng nhớt cho tui vượt biển”. Theo tôi, trại tế bần này chạy trời không khỏi nắng của ông tướng Lý Tòng Bá vì tôi được ới dậy ở đây ba tháng hè năm nào không nhớ. Sau đấy, tôi hỏi ba nó đâu. Nó giọng mệt mỏi: “Tía tui là lính truyền tin gòai đảo, úynh nhau chết mất tiêu gồi”. Thảo nào nó biết nhiều về biển, nhưng nó còn bé, nó không biết… như tôi biết vì đài truyền tin có từ thời ông Diệm năm 1956. Còn ba nó mất ắt hẳn năm 74, trong trận Hòang Sa thời ông Thiêu. Từ đó tôi tự trách mình hơi nặng lời với nó mấy hôm nay.

***
Trưa hôm nay ngủ dậy, đang ngẫm nguội ở trên đảo không biết làm gì nên ngủ cho quên đời. Bỗng giật mình nghe tiếng động lạ… Tôi hé mắt thấy đàn chim hải âu cánh dang ngang, có con bổ nhào xuống mổ mặt cát. Thấy chẳng có gì, miệng chúng ục ục như gấu ó nhau và vụt lên, nháo nhác vài vòng rồi bay mất.
Sau đấy tôi dòm quanh đảo thấy vẫn vậy vậy, đám hải âu bỏ đi là phải. Còn lại vẫn thằng tôi với một ngày như mọi bữa, trên là trời, dưới là nước. Đột nhiên dòm thấy chiếc tầu từ đằng xa. Tôi nhẩy cẫng lên, chạy vội xuống bãi, vớ cái ván thuyền quơ lia lịa, càng khoa tay vẫy, con tầu càng… từ từ lụi dần và mất hút. Tôi đứng chêt lặng, mắt ngây dại như vừa trông… gà hóa cuốc. Thóang nghe thằng nhô nói có đốt lửa, có khói thì tầu mới thấy. Chưa kịp nghĩ có lửa đâu mà đốt, chợt nghe có tiếng “quéc quéc” trên bầu trời. Dòm lên không phải… con cuốc. Mà là một con hải âu lạc bầy bay trở lại đảo. Trưa biển vắng bóng người, nó đảo hai, ba vòng thăm chừng, sà xuống bãi cát. Thả bộ dăm thước như kiếm mồi, lại vẫn cát với cát. Như mỏi mệt với chuyến bay xa, nó lười biếng dúi mình vào cánh, và… ngủ tỉnh queo.
Bỗng thằng nhỏ gượng dậy, chống cái ván thuyền khập khiễng bước xuống triền bãi. Nhặt nhặn mấy ván thuyền nhỏ tha về để cạnh can nước. Hay là nó dùng mấy thứ ấy để đốt ”làm” khói báo hiệu cho tầu ngòai khơi… quay trở lại. Mà lửa ở đâu ra, chẳng lẽ ở lỗ nẻ chui lên? Hốt nhiên nó ho khan, con chim giật mình tỉnh giấc bay vụt lên và kêu “quéc quéc” như chửi bới vì bị phá giấc ngủ. Thằng nhỏ cười.
Nó cười như mếu nhờ tôi ngắt cho nó mấy hạt cỏ ma, cỏ bồng, ngắt càng nhiều càng tốt. Dòm cụm cây um tùm những hạt là hạt, ngắt bao giờ mới xong. Tôi đành nhổ cả cụm mang về. Mang về rồi, nó ngồi ngắt từng hạt và ném ra xa. Miệng “cục… cục…” như gọi gà. Con hải âu nghiêng cánh đáp xuống mổ cái một, ngửa cổ nuốt. Nhớ lại nó nói: “cứ vớ lấy mà ăn (…) ngứa cổ họng (…) móc họng ra chết ngắc”. Tôi lâm râm cầu Phật Bà Quan Âm cho con chim… chết giấc để tôi… thịt nó. Vậy mà nuốt xong nó không chết cho, nó còn lững thững đi kiếm thêm. Khỏang thời gian có lâu hơn, những hạt cỏ ma… ma mãnh của thằng nhỏ ném ra càng lúc càng gần thằng nhỏ hơn. Con hải âu đầu gục gặc và ục ục liên hồi, ra cái điều sao có người… “tử tế” với mình thế. Thêm mươi giây nữa… Nó lò dò tới cũng gần hơn nữa. Một thước, rồi… nửa thước…
Còn một gang tay… Tôi lụng bụng: “Đủ má…”. Vì động não đến lão Xích Thố: “Đủ má” là có chuyện. Chuyện là con hải âu nhẩy lên đùi nó. Nó miệng vẫn rì rầm, không chụp bắt như tôi nghĩ. Nó nhẹ nhàng vuốt ve cổ con hải âu. Cái thằng quái gì đâu! Và xin lỗi:…“Đủ má” nữa. Vì lóang một cái… cổ con hải âu nằm gọn trong năm ngón tay thần sầu của nó. Bố khỉ, như lấy đồ trong túi vậy. Tôi phục lăn. Riêng nó hay tôi bóp cổ con chim tôi không tiện kể ra đây vì tôi là phật tử kiêng… sát sinh.
Thở ra nhẹ nhõm, mà thở ra thì cái bụng thót lại vì… đói. Trong giây phút khôn nhà dại chợ, tôi ngộ ra môn quang học ấm ớ trước kia. Thế là tôi tháo cái kính cận 5 độ, quơ cụm cỏ ma, cỏ bồng nhét dưới mấy miếng ván thuyền vụn nó mang về. Tôi loay hoay cái kính qua tia nắng mặt trời với điểm sáng hội tụ. Nhưng vì trời âm u, cỏ và gỗ vụn chưa khô. Đợi mãi chẳng có tí lửa để thui con hải âu đang nằm dang cẳng… đợi. Đói quá đói, như người bán khai, tôi lập cập xé tọac làm hai. Tôi đưa cho nó, nó lắc đầu và cuối cùng thì tôi đành nhai sống hai cái đùi cái một… Phần còn lại con hải âu đày đủ lông cánh, học thằng nhỏ, tôi cũng biết để dành cho ngày hôm sau.

***        
Sau đó, tôi bắt gặp nó mấy lần run lên bần bật. Nó bảo tôi nhặt nhạnh thêm ít ván thuyền nữa, ắt đợi nắng lên, đốt lửa để sưởi lạnh. Thế nhưng không. Vì ấy là chuyện hậu sự. Chuyện bây giờ nó kể lể mẹ nó có gánh bún mọc ở chợ Quán. Lần sau lại kể nữa, kể đi kể lại riết rồi tôi thuộc lòng số nhà. Nhà nằm ở cuối đường Trần Bình Trọng sát chợ Quán. Tối nay cũng vậy, nó kể mẹ nó đưa đi lễ nhà thờ gần ngã tư Trần Bình Trọng, Trần Hưng Đạo nên nó tin có Chúa ở trên giời ban cho người dưới thế đời đời bình an. Là phật tử, tôi chỉ biết nghe. Rồi im bặt, thằng bé thiếp ngủ từ hồi nào.
Tôi thao thức canh chừng đến quá nửa đêm, đang miên man với mẹ nó đơn chiếc, vậy mà cũng lo cho nó vượt biển, thóang tôi nghe nó kêu: “Khát… nước… nước”. Tôi lấy nắp nước kê vào miêng thằng bé. Nhưng nó lắc đầu, thều thào: “Anh… anh…” và đẩy tay tôi ra, nắp nước vừa rồi, hình như nó muốn để dành cho tôi. Tôi đóan chừng vậy. Chợt nó cố gượng lên, rồi nằm vật trở lại và thở dốc. Lúc này tôi mới thấy mắt thằng bé như mất thần, môi chuyển màu hơi tai tái, mấp máy. Tôi ghé sát tai nghe tiếng được tiếng không: “Chắc em… em… hổng qua… qua… nổi”.
Thằng bé ngưng lại như lấy sức, giọng khô đặc: “Em chết… chết... Anh lấy thịt… thịt… em mà… mà...”. Như bị cái búa tạ táng vào đầu, tôi choáng người không nói được gì, biết nói gì hơn trong lúc này, không ngòai câm lặng và im ắng. Bỗng thằng bé, tay bấu chặt vào tay tôi, miệng lập bập ”Anh thay… thay...em viết thơ… thơ…”. Nó thở đứt quãng: “Anh ký… ký… tên dấu… dấu… thập… thập…”. Trước khi thở hắt ra, thằng bé thì thào  “Anh… cho má em… hay. Em vẫn khoẻ… khỏe...”. Da ngả sang màu đất. Nó nấc lên một cái, ngọeo đầu sang một bên. Tay đang bấu chặt vào tay tôi, lỏng dần rồi buông thõng, mép trào ra ít máu hồng, đôi mắt mở trừng trừng. Tôi vuốt mắt thằng bé, nó nhắm mắt lại bình thản đi vào giấc ngủ, chẳng bao giờ thức dậy nữa.
Tối hôm ấy, tôi ngồi bó gối nghĩ mông lung. Tôi nghĩ đến chuyện chôn nó. Đến sáng, tôi lấy miếng ván thuyền múc, xới, được hai, ba nhát là thở dốc vì cát, sỏi lẫn san hô cứng như đá. Thêm mươi nhát nữa, phần mộ chẳng sâu thêm chút nào.
Mấy đầu ngón chân bắt đầu tê dại, tôi không hay đó là triệu chứng gì. Như thằng bé chẳng hạn, tôi không biết nó dẵm phải đinh rồi bị phong đòn gánh hay không? Có thể vì tôi đào xới quá sức lại đói nữa! Cảm giác tê tê như kiến cắn bò lên mặt, má bắt đầu ngưa ngứa. Dậy vạn vật ba con tôm, con cá với sinh vật học tôi thuộc như cháo chảy nhưng con người tôi không hề hay biết. Óc tôi như đặc lại với những ý nghĩ ù lì, với sinh vật học vừa cựa quậy trong đầu, tôi nghĩ dại đến… sinh thì của đạo Công giáo. Sinh thì hình như là sắp về chầu Chúa thì phải, hay là tôi sắp… chết? Tôi lậu bậu khấn cho tôi: “Vinh danh Thiên Chúa trên giời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.    
Vì vậy tôi thầm nghĩ chẳng còn hy vọng nữa, vì da tôi cũng ngả sang màu đất bạc phếch, như con tôm bạc. Như các cụ ta dậy cấm chả sai bao giờ: Ấy là sắp chết. Rồi như nó, rồi cũng “sống vô gia cư chết vô địa táng” ở chỗ nó đang nằm đây. Chợt hồi tưởng lại buổi sáng đầu tiên lạc tới đảo, tôi nghĩ vội cái chết ở đây từ từ với chết đói, chết khát nếu sống ở đây mãi. Ấy vậy mà mới ba ngày hai đêm hay ba đêm bốn ngày tôi cũng chẳng nhớ nữa. Đầu tôi nhẩy múa với lời trối trăng rời rạc của nó: “Anh cứ lấy thịt… thịt… em mà…”. Tôi vội xua đuổi cái âm vọng tha ma mộ địa ấy đi, tôi thầm khấn nếu Chúa ban cho tôi bình an để vào được đất liền. Tôi sẽ theo đạo. Tôi sẽ viết thư cho má nó và ký tên dấu thập.
Tôi gượng dứng dậy, bất thình lình người tôi co lại muốn gục xuống. Cái đầu tôi lúc này cùng những lệch lạc, chẳng biết diễn tả thế nào cho gẫy gọn. Dòm xuống cụm cỏ nhét dưới đám ván thuyền vụn vẫn còn đấy. Giữa trưa, trời đất sáng sủa không một bóng mây. Tôi lom khom như người tiền sử cầm cái kính cận chũng như lòng chảo hướng lên ánh mặt trời, đưa cái tròng kính tới, lui, gần, xa. Ánh nắng xuyên qua mặt kính hội tụ. Chưa đầy mấy phút, cỏ và ván thuyền khô sau một ngày nắng ráo bốc khói. Khói đùn nhiều hơn. Một đốm lửa đỏ xuất hiện, tản ra. Vết cháy lan rộng. Tôi quơ tay thêm mấy miếng ván nữa. Có ngọn gió lạc thổi tới. Ngọn lửa bùng lên…
Tôi trở về một thời hoang sơ là người tiền sử…

***
Gã sửa sọan về, tôi tần ngần đứng trước mấy dóng trúc đang vươn lên hiu hắt trong nắng hanh vàng. Những nhánh lá non đang ngại ngùng ló dạng. Bên cạnh có cây trúc khô đã chết từ cuối mùa. Cụm cỏ gà chồi lên lan ra như cỏ bồng, cỏ ma, đong đưa trước gió hiu hiu lạnh trong một ngày cuối đông.
Gã về, tôi tiễn gã một đọan đường để mua thuốc lá. Đốt một điếu thuốc, thở ra khói. Nhìn theo gã lặng lẽ đi về phía nhà thờ đường Boon, dáng đi gù gù như Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà, chúi người về phía trước, bóng gã xa dần rồi mất hút.
Qua khói thuốc, gã như ốc mượn hồn trôi dạt về khỏen bãi vắng, biển xa.
Trúc gia trang
Đinh Hợi 2007
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
(sửa chữa 2014, 2019, 2021)   
Mặc dù tôi phải nương theo gã với sóng sau dồn sóng trước. Tuy nhiên chuyện nghe kể đã lâu nên rơi rớt theo thời gian, vì vậy có vài chi tiết phải vay mượn từ những tác giả: Ngô Tự Lập, Thái Sinh, Nguyễn Công Khanh v.v…

***
Sau mấy chục năm gã vắng mặt trên bàn mạt chược, mới đây gặp lại gã trong một đám cưới ở nhà hàng Kim Sơn. Tôi nhận ra gã ngay vì gã vẫn một mình, không vợ con và không… ăn vì gã… ăn chay.
Trong buổi gặp gỡ ngắn ngủi ấy, tôi được biết gã từ Sài Gòn về lại Houston. Đồng thời tôi mới hay bà mẹ của thằng bé vừa mới mất. Tôi hỏi gã muốn trải dài truyện này trên giây trắng mực đen để bạn bè tôi đọc. Gã lưỡng lự trong giây lát trả lời… cũng được và ngần ngừ dặn dò tôi nếu có viết cũng nên dè dặt.
Thế nhưng cái khó của người thuật chuyện với biết thế nào là dè dặt…

      

 Đăng ngày 30 tháng 04.2021