Print

Kẻ lãng du

do binh

Đỗ Bình

Montparnasse là một khu phố thuộc Quận 14 của Paris.Từ cuối thế kỷ 19, thành phố Paris trở thành trung tâm nghệ thuật của toàn thế giới. Ở hữu ngạn sông Seine, khu phố Montmartre thu hút rất nhiều những họa sĩ. vào đầu thế kỷ 20, nơi đây tập trung rất nhiều nghệ sĩ, nhà văn nổi tiếng. Pablo Picasso trong số những nghệ sĩ danh tiếng đầu tiên tới đây. ở đây có những xưởng vẽ và giá thuê phòng không cao, cùng các quán cà phê bình dân giúp các nghệ sĩ nhanh chóng tìm thấy một không khí cởi mở và tương trợ. Tsuguharu Foujita không biết ai khi từ Nhật Bản tới Paris vào năm 1913, nhưng chỉ một buổi tối đã làm quen với Chaïm Soutine, Amedeo Modigliani, Julius Mordecai Pincas và Fernand Léger. Sau đó vài tuần thì Tsuguharu Foujita trở thành bạn của Juan Gris, Pablo Picasso Henri Matisse. Trong thập niên 1920 - «Những năm tháng điên loạn » - Montparnasse đạt tới thời kỳ hoàng kim, tập trung rất nhiều họa sĩ lớn. Có thể kể tới: Pablo Picasso, Guillaume Apollinaire, Douanier Rousseau, Ossip Zadkine, Moïse Kisling, Marc Chagall, Nina Hamnett, Fernand Léger, Jacques Lipchitz, Max Jacob, Blaise Cendrars, Chaïm Soutine, Michel Kikoine, Pinchus Kremegne, Amedeo Modigli

Ford Madox Ford, Ezra Pound,Marcel Duchamp, Suzanne Duchamp-Crotti, Constantin Brancusi, Paul Fort, Man Ray, Juan Gris, Diego Rivera, Tsuguharu Fujita, Marie Vassilieff, Grégoire Krug, Léonide Ouspensky, Léon-Paul Fargue, René Iché, Alberto Giacometti, André Breton, Pascin, Salvador Dali, Jean-Paul Sartre, Henry Miller, Django Reinhardt, Joan MiróEdgar Degas trong những năm cuối đời.Như đã thu hút những họa sĩ nước ngoài, Montparnasse cũng được rất nhiều nhà văn tìm đến. James Joyce từ Ireland, Morley Callagha từ Canada... Và đặc biệt từ Mỹ với Gertrude Stein, Peggy Guggenheim, Edith Wharton, Ernest Hemingway, F. Scott Fitzgerald... Các quán cà phê Dôme, Closerie des Lilas, Rotonde, Sélect, Coupole, Le Boeuf sur le Toit là nơi các nghệ sĩ tụ tập để gặp gỡ và tranh luận. Không chỉ là khu phố nghệ sĩ,Montparnasse cũng là nơi trú ngụ của một số chính trị gia lưu vọng, như Vladimir Ilyich Lenin, Porfirio Díaz, Lev Davidovich Trotsky, Simon Petlioura. Sau thập niên 1930 thì Montparnasse vắng vẻ dần. Thế chiến thứ hai nổi ra kết thúc thời kỳ hoàng kim của khu phố nghệ sĩ Montparnasse.
Theo Cuốn từ điển của nhà xuất bản
Roussard đã thống kê tới 4285 nghệ sĩ, từ danh tiếng đến ít tên tuổi, từng sống tại Montmartre trong hai thế kỷ 19 và 20. Từ khoảng năm 1820, các nghệ sĩ bắt đầu tập trung về đây. Đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khu phố này từng là điểm đến của những họa sĩ nổi tiếng bậc nhất với các trường phái Ấn tượng, Lập thể, Dã thú..Cùng với Montparnasse ở bên tả ngạn, Montmartre trởthành trung tâm nghệ thuật của Paris. Tòa nhà Bateau-Lavoir từng đón tiếp Henri Matisse, Georges Braque, Pablo Picasso, Maurice Utrillo, Guillaume Apollinaire... Vincent van Gogh sống tại số 54, phố Lepic. Camille Pissarr vẽ đại lộ Montmartre. Moulin de la Galette từng là đề tài của Pierre-Auguste Renoir, Pablo Picasso, Vincent van Gogh, Henri de Toulouse-Lautrec, Maurice Utrillo... Các quán cabaretLe Chat noir, Lapin Agile có khách hàng là những nghệ sĩ, nhà thơ tên tuổi. »
(trích Nguồn)
Tôi rất mê hội họa nên hay đi xem triển lãm tranh ở Paris. Nhiều lần đứng trầm ngâm trước một bức tranh rất thích nhưng không thể lý giải được tại sao thích ! Có lần chúng tôi cùng họa sĩ nguyễn Đức Tăng được họa sĩ Vĩnh Ấn mời đến nhà dùng cơm, mục đích ông muốn cho tôi xem những họa phẩm đắc ý của ông và một số sách qúy hiếm của nhiều tác giả nổi danh trên giới mà ông dày công sưu tầm, có những cuốn đã có mặt trên cõi đời này hằng trăm năm. Hẹn với họa sĩ NguyễnĐức Tăng ở quán cà phê gần nhà họa sĩ VĩnhẤn để cùng đến. Khi gặp Nguyễn Đức Tăng tôi thấy anh mặc veste nhưng không đeo cà vạt, tôi hơi ngạc nhiên vì thói quen của người họa sĩcó một thời làm ngoại giao này lúc nào quần áo cũng tươm tất. Tôi hỏi họa sĩ Nguyễn Đức Tăng :«Sao hôm nay anh không thắt cà vạt ?»NguyễnĐức tăng trả lời : «Anh Vĩnh Ấn không thích cà vạt !». Nghe vậy, tôi liền liên tưởng đến những lần anh VĩnhẤn và chúng tôi gặp nhau dù ở sinh hoạt văn học nghệ thuật hay ở những quán cà phê Paris nghe anh đọc thơ của Paul Valéry(1871-1945), Jacques Prévert(1900-1977) Appollinaire Guillaum e (1880-1918)…, hay nói chuyện văn chương Pháp ; tôi vẫn thấy anh mang cà vạt. Tuy nghĩt hế tôi vẫn gỡchiếc cà vạt, anh Nguyễn Đức Tăng thấy vậy ngăn, nhưng tôi vẫn tháo ra,và nói:«Lần đầu tiên anh Vĩnh Ấn mời đến nhà, tôi muốn như anh được tự nhiên, có lẽanh ấy vui hơn khi tiếp mình», họa sĩ Nguyễn Đức Tăng cười, không nói thêm. Tôi kể cho anh nghe hôm dự buổi lễ tưởng niệm nhà biên khảo Phạm Trọng Nhân, lúc về chung với Gs Tôn Thất Thảo, anh Thảo kể cho tôi nghe về anh Vĩnh Ấn, anh nói: «Anh Vĩnh Ấn qua Pháp 1951 lúc còn trẻ. Đến Pháp anh vừa đi học vừa đi làm, những năm sau đó anh gặp chúng tôi ở Paris tuy thời gian có khác nhau, nhưng anh nhận chúng tôi là anh em, trong đó có: họa sĩ Võ Đình, nhà văn Phạm Công Thiện, nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái, và tôi Tôn Thất Thảo ít tuổi nhất. Các anh kia đều là văn nghệ sĩ trừ tôi đi dạy học, thỉnh thoảng có làm thơ, viết biên khảo.» Tôi ồ lên và nói:«Toàn là những cây văn nghệ độcđáo!» Đây là lần đầu tôi đến nhà anh chị Vĩnh Ấn, cảm giác làm tôi rất ngạc nhiên về cách sống của anh chị,một lối sống thanh bạch thật giản dị dù qua Pháp đã quá lâu nhưng vẫn giữ được nếp sống rất Việt Nam. Tôi cứ ngỡ dưới con mắt họa sĩ cách trang hoàng nhà của anh phải lộng lẫy kiểu tây phương, phù hợp với những câu chuyện về văn chương Pháp mỗi khi gặp anh. Nhưng không ! Căn phòng với ngọn đèn trần không chụp tỏa, ánh sáng vừa đủ rọi vào một tủ kính lớn, mặt tủ được dán kín một lớp giấy báo tôi không biết trong tủ đựng gì ! Cách bày biện rất đơn sơ, giấy dán tường màu nhạt làm tăng sự mộc mạc của chiếc bàn gỗloại nhỏ đặt giữa phòng, cách đó là chiếc kệtrên có chiếc radio thời thập niên 50. Tôi không thấy TV, có lẽ TV được để trong phòng ngủ. Trên tường Không một bức tranh, nhưng nếu nhìn tổng thể căn phòng, bố cục như một bức tranh ấn tượng mà họa sĩ VĩnhẤn cố tình sắp xếp. Anh chịVĩnh Ấn rất vui đón chúng tôi, anh nói : «Để chuẩn bị đón các bạn văn nghệ, chúng tôi sẽ mời các bạn dùng món quê hương, món Huế do chính chúng tôi làm.» Sau khi dùng cơm xong họa sĩVĩnh Ấn mới mở tủ lấy những sách qúy ra giới thiệu, lúc đó tôi mới biết anh sưu tầm sách qúy của VN và thế giới, tủ sách của anh là một thư viện nhỏ, cuốn nào cũng đóng hộp cứng. Anh cho tôi xem những tập thơ cổ của Pháp, ý…vv ...sách không đóng bìa, rời từng trang được viết tay hoặc in trên giấy đẹp, khổ lớn. Anh say sưa đọc những bài thơ Pháp. Anh hứa sẽ vẽ bìa cho tập thơ tôi. Anh nói :«Muốn thực hiện hình bìa thì họa sĩ phải đọc tất cả bài thơ nhiều lần đểcảm hồn thơ, tìm xem tác giả muốn gởi gấm gì qua thi tập, sau đó mới hòa cảm xúc mình với thi tập đểthực hiện chủ đề. Về tranh phụ bản nếu không do họa sĩ minh họa từ bài thơtrong thi tập thì thà để trống, chứ đừng đem một bức tranh có sẵn của một tác giả nào rồi nhét bừa vào tập thơ, bảo là phụ bản, ép duyên thơvà tranh thật là tội nghiệp !»
Sau khi đọc thơ xong, họa sĩ Vĩnh Ấn mời chúng tôi vào một phòng bên cạnh, phòng này chứa toàn tranh, những bức tranh khổ lớn 1m20 không treo, nhiều bức chưa khung. Anh đem từng bức ra cho chúng tôi xem. Khi xem đến bức tranh hình thể không rõ nét, màu sắc ảo, nủa phần trên dùng những gam buồn ánh sáng nhạt hắt vào mảng màu xanh đen tạo một khoảng không gian xoáy ốc sâu thẳm và tĩnh lặng. Bỗng họa sĩ Nguyễn Đức Tăng hỏi: «Bức tranh này khó hiểu, anh muốn nói gì?».Họa sĩ Vĩnh Ấn không ngước mặt về phía anh Nguyễn Đức Tăng, mắt vẫn chăm chú vào tấm tranh tiếp tụcđưa bức tranh khác cho chúng tôi xem, và trả lời :
«Xem tranh thì xem bằng mắt và cảm nhận bằng tâm hồn, đừng nghe bằng tai.»
Họa sĩ Nguyễn Đức Tăng chỉ đua mắt nhìn tôi chẳng tỏ ý phiền về câu trả lời đó. Tôi biết họa sĩ Nguyễn Đức Tăng nhà văn hóa xã hội nổi tiếng ở Paris rất cảm phục họa sĩ Vĩnh Ấn, họ hiểu nhau. Riêng tôi, quả thật tôi cũng chẳng hiểu bức tranh đó họa sĩ muốn nói gì, dù thời trẻ có thời cầm cọ chơi sơn dầu ! Tôi chợt liên tưởng đến câu chuyện trong tác phẩm La Seconde Chance của Virgil Gheorghiu viết năm 1952: «Một ngươì kháchđến thăm một xưởng vẽ của một họa sĩ,nhìn bức tranh vẽ một con chim bay, người khách thấy lạ lùng hỏi họa sĩ:Thưa họa sĩ,ông vẽ một con chim đương bay sao tôi nhận không ra ?! Họa sĩvẫn cắm cúi vào vẽ, không ngẩng đầu lên trảlời : Tôi không vẽ con chim đương bay, mà vẽcái bay của con chim».Họa sĩ Vĩnh Ấn từng đoạt những giải thưởng quốc tế :Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha..vv. Giải thưởng Lá CọVàngHội phê bình nghệ thuật Paris(1980, 1982). Giải thưởng Huy chương Vàng Viện Hàn lâm nghệ thuật văn hóa Âu châu và Mỹ châu(1982). Huy chương Vàng Viện Hàn lâm Quốc tế Lutèce(1982). Giải thưởng cuộc thi quốc tế Mỹ thuật lần thứ 17, năm 1985(ngày trao giải 22.3.1986).
Họa sĩ Vĩnh Ấn con người và tác phẩm như nhau, tâm hồn luôn say mê văn học nghệ thuật nên không nặng phần hình thức, sống đơn giản, thầm lặng nhưng rất tha thiết cuộc đời. Vì kín đáo, tranh lại khó hiểu nên tác phẩm của anh ít được công chúng VN hải ngoại biết đến. Nhưng may thay những nhà làm nghệ thuật quốc tế có con mắt chuyên nghiệp đã trân trọng anh qua những giải thưởng cao qúy. Cả đời anh Vĩnh Ấn say mê văn học Pháp, làm thơ rất nhiều nhưng không là thi sĩ, anh để hồn thơ gởi trọn vào sắc màu hội họa tìm con đường riêng lãng du mà người đời không sao hiểu hết ! Người họa sĩ đó đã vĩnh viễn ra đi ngày 5.5.2008 tìm cõi khác phiêu du.


ÁNH MẮT VÀ NỤ CƯỜI

Họa sĩ Heri Moinard sanh vào thập niên đầu thế kỷ 20 tại Bretagne, miền tây nước Pháp. Ông là một nhà giáo, một họa sĩ ấn tượng, từng đoạt giải thưởng. Với giải thưởng đó ông cảm thấy rất mãn nguyện ; vì đối với hội họa rất hiếm họa sĩ thành danh lúc còn sống, họ chỉ được công chúng biết đến khi đã lìa đời ! Chúng tôi có cái may là quen biết với họa Moinard lúc ông còn sanh thời. Nhân dịp có mấy người bạn ở Mỹ sang Pháp chơi lại rất thích hội họa, nhất là trường phái ấn tượng nên chúng tôi đã đưa các bạn đi xem các viện bảo tàng về hội họa ởParis. Thăm khu phố Montmartre, viện bảo tàng của danh họa Claude Monet người thày vĩ đại của truưòng phái ấn tượng ở Giverny, nhưng có lẽ các bạn còn vấn vương màu sắc nên có người đề nghị muốn gặp một họa sĩ Pháp còn sống, chúng liền phôn cho họa sĩ Moinard ngỏ ý muốn đến thăm xưởng vẽcủa cụ. Họa sĩ Moinard rất vui và hẹn ngày mời chúng tôi đến. Hôm đi thăm xưởng, cùng đi với chúng tôi còn có một số bạn người Pháp. sau khi xem tất cả những số tranh, cụ bỗng ngẫu hứng tặng chúng tôi mỗi người một bức sơn dầu. Họa sĩ lấy cọ đề nghị vẽ tặng hai người đàn bà Việt đi chung mỗi người một bức chân dung, cả nhóm rất hoan hỷ đón nhận tặng phẩm tinh thần bất ngờ này. Khoảng nửa giờ họa sĩ vẽ xong hai bức chân dung và trao cho hai chị. Chúng tôi vây quanh ngắm hai bức chân dung, điều thật ngỡ ngàng hai bức chân dung chẳng giống người thật ! Chúng tôi cả Việt lẫn Phápđều nhìn nhau biểu lộ sự thắc mắc trong im lặng. Họa sĩ Moinard hiểu được sự ngạc nhiên đó, nhưng lại dẫn cả nhóm ra vườn xem hoa. Trước khi tiễn chúng tôi ra về cụ mỉm cười giải thích:

«Tôi đã vẽ bà thứ nhất ở cặp mắt, bà thứ hai ở nụcười.» Họa sĩ nói tiếp:«Nhiều năm sau, thời gian có thể làm thay đổi dáng vóc, và khuôn mặt hai bà, nhưng ánh mắt và nụ cười đó sẽ còn mãi với thời gian.»
Chúng tôi ra về mang theo hình ảnh người họa sĩ cặm cụi say mê nghệ thuật, dù tuổi đời đã quá chín mươi. Không biết các bạn của tôi nghĩ sao, riêng tôi lòng cảm thấy thẹn những điều mình biết quá ít về nghệ thuật như giọt nước giữa đại dương ! Hội họa là một thế giới mênh mông, riêng biệt, dù trong những khoảng sắc màu tĩnh lặng không âm thanh đó, lại chất chứa nỗi sâu thẳm từ đáy hồn của họa sĩ một tiếng vọng mãnh liêt. Nhưng có những họa phẩm thật độc đáo: ý tưởng, màu sắc đường nét đầy sáng tạo của họa sĩ, vẫn thiếu người đồng cảm về lòng say mê đó !
Họa sĩ Moinar đã giã từ màu sắc của thế giới này từ một phần tư của thế kỷtrước.Tranh của ông vẫn treo trong phòng khách nhà tôi cùng với nhiều bức tranh khác của các bạn tặng, mỗi ngày tôi ngắm nó để nhớ người.
Đỗ Bình

 

Đăng ngày 12 tháng 08.2015