Tạp ghi sau 40 năm

Ngộ Không Phi Ngọc Hùng

tap ghi

Nếu bạn bắn súng lục vào quá khứ, tương lai sẽ bắn đại bác vào bạn.
Rasul Gamzatov

Bạn có thể từ bỏ được mọi thứ nhưng bạn không thể từ bỏ được quá khứ.
Abraham Lincoln


Kỳ 17


Ai đã gây ra biến cố 30-4-1975
Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái.
Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy Sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội cho họ dựng lại đất nước vào ngày 14-5-1948 sau gần 2.000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó tổng thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này. Hoa Kỳ hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ. Từ đó mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái nữa. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.
Tướng độc nhãn Moshe Dayan, bộ trưởng quốc phòng của Do Thái, đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (25 tới 27 tháng 7 năm 1966). Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được, lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến. Tiếc thay sau này vẫn còn có những bình luận gia ca ngợi những phân tích và đề nghị của Moshe Dayan mà không hiểu đó chính là một trong những người đã góp phần "khai tử" miền Nam!
(…)

Bắt đầu của một kết thúc
Trong hai năm 1973 và 1974, Bắc Việt không chiếm được một tỉnh hay phần đất nào của VNCH. Có lúc họ nghĩ đến chuyện đánh Tây Ninh hay Kontum, nhưng phòng thủ của hai tỉnh đó nằm ngoài khả năng quân sự của họ. Không còn mục tiêu nào, Bắc Việt chuyển hướng về Phước Long, một tỉnh lỵ nằm cực bắc của Vùng 3.
Tháng 10-1974, qua tình báo, phản gián, hồi chánh viên và tù binh, bộ Tổng tham mưu biết được kế hoạch Bắc Việt chuẩn bị đánh chiếm Phước Long. Tin tức được bộ Tổng tham mưu chuyển đến bộ tư lệnh Quân đoàn III, và bộ chỉ huy tiểu khu Phước Long.
Một buổi họp khẩn cấp được triệu tập tại dinh Độc Lập. Tổng thống Thiệu chủ toạ như thường lệ, với sự tham dự của Phó tổng thống Trần Văn Hương, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Phụ tá an ninh quốc phòng Đặng Văn Quang, Tư lệnh không quân Trần Văn Minh, Tư lệnh Quân đoàn III Dư Quốc Đống, Trung tướng Đồng Văn Khuyên, và tác giả (Cao Văn Viên). Đề tài của buổi họp là có nên tăng viện cho Phước Long hay không.
Bộ Tổng tham mưu không còn quân tổng trừ bị: Hai sư đoàn Dù và TQLC đang được xử dụng cho Vùng 1 và tình hình không cho phép hai đơn vị rời khỏi mặt trận. Tình hình chiến sự ở hai Vùng 2 và 4 cũng không cho phép giảm thiểu quân số nếu muốn cán cân quân sự được quân bình và an ninh được bảo đảm. Riêng tại Vùng 3, hai sư đoàn cơ hữu của quân đoàn là Sư đoàn 18 và 25 BB được dùng án ngữ khu vực Tây Ninh, cản áp lực của Công trường (sư đoàn) 5 và 9 Bắc Việt đang hướng về Sài Gòn.
(…)
: - Theo William E. Le Gro trong Vietnam from Cease-Fire to Capitulation, trang 133, Phước Long là căn cứ của nhiều bộ chỉ huy chiến thuật, tiếp liệu của Bắc Việt ở đồn điền Bù Đốp-Bố Đức chỉ cách phi trường Sông Bé 45 cây số. Phước Long là đoạn cuốicủa bốn đường xâm nhập bắc nam tụ về.
: - Lực lượng đánh vào mặt trận Phước Long là Quân đoàn 4, (Thiếu tướng Hoàng Cầm, tư lệnh). Các trung đoàn tham dự là 3 Trung đoàn 141, 209, 165 của Sư đoàn 7, ba trung đoàn 201, 271, 16, và hai trung đoàn cao xạ. (Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập II, Quyển 2).

Ai đã gây ra biến cố 30-4-1975
Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự vào trong guồng máy cầm quyền Hoa Kỳ. Đáng kể là Bộ trưởng quốc phòng James Schlesinger, cố vấn đặc trách nội vụ John Ehrlichmann. Với những chức vụ then chốt này, họ đã thúc đẩy Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam hóa chiến tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam. Năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Cộng tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.
Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho John Ehrlichman như sau: "Tôi nghĩ rằng nếu họ (chính phủ miền Nam) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất". Tương tự, Kissinger đã trấn an Nixon: “Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì…chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt Nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng”. Bởi vậy biến cố 30-4-1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.
Chỉ sau Hiệp định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6-10-1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều (sau đó Tướng độc nhãn Moshe Dayan phải từ chức bộ trưởng quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận). Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.
Bởi vậy mới xảy ra biến cố 30-4-1975.
(…)

Bắt đầu của một kết thúc
Trong khi đó Bắc Việt chuẩn bị tấn công Pleiku: Tụ quân đông hơn và che giấu kế hoạch chuyển quân về Ban Mê Thuột qua nhiều cách: Sư đoàn 316 bị cấm liên lạc qua máy truyền tin trong suốt thời gian chuyển quân. Sư đoàn 320 đánh lừa đối phương bằng cách để ban truyền tin sư đoàn ở lại Đức Cơ. Sư đoàn F-10 tránh đụng độ với các toán thám sát để bảo toàn mục tiêu di chuyển.
Khi tấn công Ban Mê Thuột vào rạng sáng 10-3, lực lượng chính quy địch dồn mọi nỗ lực đánh vào bộ chỉ huy tiểu khu, và bộ chỉ huy tiền phương Sư đoàn 23. Bị tấn công mãnh liệt ngay từ phút đầu, bộ chỉ huy tiểu khu không còn kiểm soát và điều khiển được các lực lượng dưới quyền. Cảnh sát, địa phương quân chiến đấu một cách rời rạc và hỗn loạn. Tình trạng của bộ tư lệnh Sư đoàn 23 cũng tương tự: bị áp lực mạnh và dồn dập từ phút đầu. Phòng tuyến tử thủ của bộ tư lệnh nằm trong tình trạng hiểm nghèo khi xe tăng địch bắn trực xạ từ ngoài vòng rào. Không quân bỏ bom yểm trợ nhưng một trái bom rớt vào phòng truyền tin, cắt đứt mọi liên lạc với mặt trận và quân khu.
Sự phản công và kế hoạch giải vây của quân ta đã không được thực hiện hữu hiệu ngay từ phút đầu. Hai Trung đoàn 44 và 45 thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh được thả xuống Phước An, dùng nơi đó làm bàn đạp tiến về Ban Mê Thuột. Nhưng Phước An vào thời điểm đó là một trung tâm tạm cư của tất cả ai chạy thoát từ Ban Mê Thuột. Ở đây, nhiều binh sĩ gặp lại gia đình đã bỏ đơn vị và một số binh sĩ khác đã tự động rời hàng ngũ đi tìm thân nhân mất tích. Một đạo quân đi giải vây không thể hoạt động hữu hiệu trong tình trạng như vậy. Bốn ngày sau, sư đoàn F10 chiếm được Phước An và hy vọng giải vây Ban Mê Thuột tan vỡ.
(…)
: - Theo đại tá Lê Khắc Lý, tham mưu trưởng quân đoàn, chỉ có năm ngàn quân trong số 20 ngàn quân nhân trong các đơn vị yểm trợ, tiếp liệu về được Tuy Hòa. Chỉ có 900 trong số năm liên đoàn BĐQ về trình diện ở Nha Trang.

Ai đã gây ra biến cố 30-4-1975
Động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam được che dấu không đưa ra dư luận nổi, bởi vì phần lớn hệ thống truyền thông báo chí nằm trong tay thế lực Do Thái. Điển hình, vẫn còn có những học giả (Tiến sĩ Stephen Randolph trong "Việt Nam, 35 năm nhìn lại" (Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference tại Washington D.C.) cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam vì đang câu con cá to hơn “has bigger fish to fry”. Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kissinger vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam hóa chiến tranh.
Về phía miền Bắc, họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng…"Đồng Minh tháo chạy". Thực tế, nếu không có thế lực Do Thái qua Kissinger thì chưa chắc gì miền Bắc sớm thắng trận. Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi tổng thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo cương quyết của ông chắc chắn miền Nam sẽ không thể dể dàng sụp đỗ như đã xảy ra trong ngày 30-4-1975.
(…)

Bắt đầu của một kết thúc
Hai ngày sau lần gặp lịch sử để bàn thảo về chiến lược tái phối trí ở dinh Độc Lập, tổng thống Thiệu tỏ ý muốn gặp Tư lệnh quân đoàn II Phạm Văn Phú tại bộ tư lệnh quân đoàn ở Pleiku. Thời gian này, Ban Mê Thuột đã hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của địch. Pleiku đang bị áp lực mạnh; pháo của địch bắn dọa dẫm vào thành phố từng hồi. Pleiku quá nguy hiểm để họp, tướng Phú đề nghị một địa điểm khác, Cam Ranh được chọn cho cuộc họp vào ngày 14-3-1975. Địa điểm được chọn phù hợp với ý nghĩa lịch sử vì là một tòa nhà do quân đội Hoa Kỳ xây năm 1966, dùng làm nơi tạm nghỉ ngơi cho chuyến viếng thăm Việt Nam của tổng thống Johnson. Cả ba nhân vật nhóm họp với tổng thống Thiệu ba ngày trước cũng đi theo trong buổi họp ở Cam Ranh: thủ tướng Khiêm, trung tướng Quang, và tác giả (tướng Cao Văn Viên).
Như thông lệ của buổi họp về quân sự, vị tư lệnh quân đoàn mở đầu buổi họp với tường trình về tình hình: Tất cả các thông lộ của Vùng 2 như Quốc lộ 14, 19, 21 đều bị địch quân cắt đứt. Con đường quan trọng nhất là quốc lộ 19, nối liền Pleiku và Qui Nhơn, bị Sư đoàn 3 Bắc quân chận ở Bình Khê. Sau khi tướng Phú chấm dứt tường trình của ông, tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu duy nhất: Tướng Phú có thể nào chiếm lại được Ban Mê Thuột không?. Sau đó tổng thống Thiệu hỏi tướng Phú dùng đường nào để đem quân trở lại Ban Mê Thuột. Tướng Phú không có chọn lựa nào khác hơn là đường 7B đã bị bỏ phế từ lâu.
Cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên là một thất bại chiến lược. 75 phần trăm lực lượng của Quân đoàn II bị hao tổn chỉ trong 10 ngày. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột cũng thất bại vì quân đoàn không còn quân. Bắc quân chiếm được Kontum và Pleiku không tốn một viên đạn.
(…)
: - Khi trở lại Saigon tác giả gọi Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, phụ tá tổng tham mưu trưởng về hành quân, nói cho biết nội dung buổi họp. Tác giả ra lệnh cho tướng Thọ theo dõi cuộc rút quân tái phối trí: giúp tướng Phú khi cần nhưng trong vòng kín đáo.
Vì đây là quân lệnh tối mật của tổng thống ra lệnh cho tư lệnh chiến trường, bộ Tổng tham mưu không có thẩm quyền ra lệnh cho các đơn vị liên hệ trong cuộc rút quân.
: - Đây là lệnh trực tiếp của tổng thống Thiệu ra lệnh trực tiếp cho tướng Phú tái chiếm Ban Mê Thuột. Do đó không có lý do gì bộ Tổng tham mưu gọi tướng Phú để thảo luận việc rút lui. Tư lệnh quân đoàn và bộ tham mưu phải có khả năng làm việc đó. Vì vậy tướng Phú chỉ xin bộ Tổng tham mưu cung cấp phương tiện qua sông (cầu trên sông Ba đã bị phá hủy từ lâu).
: - Theo đại tá Nguyễn Thu Lương, tư lệnh Lữ đoàn 2 Dù, sau khi Ban Mê Thuột mất, đơn vị ông được lệnh chuẩn bị chiếm lại thành phố, rồi giữ mục tiêu trong 10 ngày, chờ quân của Vùng 2 lên tiếp viện. Nhưng vì một lý do nào đó, lệnh trên bị hủy bỏ.

Ai đã gây ra biến cố 30-4-1975
Năm 1954: Từ nhiều ngày trước Hiệp định Genève, “Chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp”. Hội nghị trung ương đảng lần thứ 6 nhóm họp từ ngày 15 đến ngày 18-7-1954. Hồ Chí Minh báo cáo chính trị về tình hình mới và nhiệm vụ mới với chủ trương “Đế Quốc Mỹ là một trở lực chính ngăn cản việc lập lại hòa bình ở Đông Dương” từ đó hội nghị đưa ra phương châm: “Chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp…” tr. 7.
Năm 1955: Những người cầm quyền Trung Quốc khuyên ta “trường kỳ mai phục”. Đặng Tiểu Bình, Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 7, 55: “Dùng lực lượng vũ trang để thống nhất đất nước sẽ có hai khả năng: một là thắng và một khả năng nữa là mất cả miền Bắc”.
Năm 1956: Phải đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Mỹ Diệm bằng con đường cách mạng. Nghị quyết của bộ chính trị:… lần này đã đặt vấn đề “đấu tranh vũ trang, xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa”, tr.28-29.
Mao Trạch Đông, tháng 11, 56: “Việc chia cắt nước Việt Nam không thể giải quyết trong một thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ…Nếu mười năm chưa được thì phải trăm năm.”
Năm 1957: Xứ ủy Nam Bộ lập 37 đại đội vũ trang và đơn vị 250 cấp tiểu đoàn. Tháng 10, “Chấp hành Nghị quyết tháng 6/56, Nghị quyết tháng 12/56 của Xứ ủy Nam Bộ lập 37 đại đội vũ trang và đơn vị 250, cấp tiểu đoàn ở miền đông Nam Bộ.
Năm 1959: thành lập các Đoàn 559 xâm nhập miền Nam bằng đường bộ. Ngày 5-1959: Quân ủy trung ương ra nghị quyết thành lập Đoàn 559 còn gọi là Bộ đội Trường Sơn tiếp tế người, vũ khí vô Nam bằng đường bộ, sau là đường mòn HCM.
(…)

Bắt đầu của một kết thúc
Đối đầu với năm sư đoàn và nhiều trung đoàn độc lập của Bắc Việt (1), Quân đoàn I chỉ có ba sư đoàn bộ binh, sư đoàn TQLC, bốn liên đoàn BĐQ và một thiết đoàn kỵ binh. Bắc Việt còn vài sư đoàn tổng trừ bị vẫn còn nằm ở miền Bắc. Như vậy, họ vẫn thượng phong về quân số. Vì nằm sát ranh giới, Vùng 1 có thể bị tấn công bất cứ lúc nào.
Ngày 13-3-1975 tại dinh Đôc Lập. Tổng thống Thiệu chủ tọa buổi họp có mặt của thủ tướng Khiêm, tác giả, tướng Đặng Văn Quang. Sau khi tướng Trưởng chấm dứt tường trình về tình hình Vùng 1, đến lượt tổng thống Thiệu phân tích những khó khăn VNCH đối đầu về vấn đề quân viện. Trong hoàn cảnh như vậy, ông cho biết nếu phải bỏ một số rừng núi cho họ để giữ lại lãnh địa mầu mỡ, thì chúng ta cũng chấp nhận (2). Vùng đất mà ông nói đến là Đà Nẵng.
Ngày 19-3 dinh Độc Lập gọi tướng Trưởng về Saigon họp thêm lần nữa. Tướng Trưởng trình bày hai kế hoạch triệt thoái. Kế hoạch Một: xử dụng Quốc lộ 1 làm trục chính và cùng lúc rút quân từ Huế và Chu Lai về Đà Nẵng. Kế Hoạch Hai: giả định Bắc quân cắt đứt Quốc lộ 1. Các lực lượng ta sẽ rút vào ba cứ điểm Chu Lai, Huế, và Đà Nẵng. Tuy nhiên Huế và Chu Lai chỉ là hai nơi tập trung quân. Đà Nẵng sẽ là điểm phòng thủ chính.
Để kết thúc tướng Trưởng cho tổng thống Thiệu biết "chúng ta chỉ có một chọn lựa. Và chúng ta phải thi hành ngay trước khi quá trể.". Tổng thống Thiệu nằm trong tình trạng khó xử vì ông là người nghĩ ra kế hoạch triệt thoái và ra lệnh tướng Phú thi hành kế hoạch. Cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên thất bại. Chúng ta có thể hiểu được thái độ của tổng thống Thiệu khi phải trả lời trực tiếp cho tư lệnh chiến trường. Ông không nhắc gì đến chuyện di tản, vấn đề triệt thoái và tái bố trí quân đã không được đề cập đến.
(…)
(1) Chín trung đoàn độc lập của Bắc Việt là trung đoàn 4, 5, 6, 27, 31, 48, 51, 271, và 271. Ngoài ra còn có ba trung đoàn đặc công 5, 45, 126, ba trung đoàn thiết giáp 202, 203, 573, mười hai trung đoàn phòng không và tám trung đoàn pháo binh.
(2) Quyết định của tổng thống Thiệu rất hợp lý trong tình thế đang xảy ra. Nếu phải chỉ trích quyết định đó, chúng ta chỉ có thể hỏi là tại sao tổng thống Thiệu phải chờ lâu như vậy để áp dụng kế hoạch tái phối trí. Chỉ hai năm sau ngày ngưng bắn, tình trạng quân sự phía VNCH xuống dốc một cách thê thảm.(Nguyễn Kỳ Phong)
: -Buổi họp ở Cam Ranh ngày 14-3 xảy ra sau khi Ban Mê Thuột mất, và tại Cam Ranh TT Thiệu ra lệnh tái phối trí lực lượng của Quân đoàn II để chiếm lại Ban Mê Thuột.

Ai đã gây ra biến cố 30-4-1975
Năm 1960: Thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
Cũng 1960, tháng 5, những người cầm quyền Trung Quốc (Mao Trạch Đông): “Không nên nói đấu tranh quân sự hay đấu tranh chính trị là chính. Đấu tranh chính trị hay đấu tranh quân sự không phải là cướp chính quyền ngay mà cuộc đấu tranh trường kỳ…Dù Diệm có đổ cũng không thể thống nhất ngay được vì đế quốc Mỹ không chịu để như vậy đâu…”.
Và:
“Miền Bắc có thể ủng hộ chính trị cho miền Nam, giúp miền Nam đẻ ra các chính sách nhưng chủ yếu là bồi dưỡng tinh thần tự lực cánh sinh cho anh em miền Nam. Khi chắc ăn, miền Bắc có thể giúp quân sự cho miền Nam, nghĩa là khi chắc chắn không xảy ra chuyện gì, có thể cung cấp một số vũ trang mà không cho ai biết. Nhưng nói chung là không giúp”, tr. 72-73.
Kết luận:Những ghi chú kể trên cho ta thấy cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam là xuất phát từ Hà Nội, ngay từ trước khi Hiệp định Genève được chính họ chấp nhận, chứ không phải mãi sau này khi quân đội Mỹ vào Việt Nam mới bắt đầu.
Vì Hội nghị trung ương lần thứ 6 nhóm họp từ ngày 15 đến ngày 18-7-1954 về chuyện này.
Xin lưu ý: ngày 18-7 tức 2 ngày trước ngày Hiệp định đình chiến Genève được các bên chấp nhận lúc này người Mỹ chưa vào và người Pháp đang tìm cách rút khỏi Việt Nam.
(Chiến tranh phát xuất từ đâu và từ bao giờ? - Phạm Cao Dương)
: - Những dữ kiện trên do sử gia Phạm Cao Dương trích từ tập tài liệu nhan đề: "Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, những sự kiện quân sự", do nhà xuất bản Quân đội nhân dân, ban tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, ấn hành ở Hà Nội năm 1980.

Bắt đầu của một kết thúc
Đêm 19 tháng 3 Quảng Trị mất vào tay địch. Các lực lượng của ta rút về bên này bờ sông Mỹ Chánh. Tại đây quân ta lập một phòng tuyến mới. Sáng ngày 20, tướng Trưởng bay ra bộ chỉ huy của sư đoàn TQLC đóng cách tuyến phòng thủ Mỹ Chánh khoảng bảy cây số. Tại đây ông họp tất cả các cấp chỉ huy để bàn kế hoạch phòng thủ Huế như tổng thống Thiệu đã ra lệnh phải giữ bằng mọi giá.
Buổi chiều, vừa trở về Đà Nẵng, tướng Trưởng nhận một quân lệnh mật của dinh Độc Lập gửi khẩn cấp qua bộ Tổng Tham mưu. Trái ngược với những lời hứa của tổng thống Thiệu đọc trong lời hiệu triệu vào lúc trưa là giữ Huế cho đến cùng, ông ra lệnh tướng Trưởng, nếu tình hình bắt buộc, chỉ cần bảo vệ Đà Nẵng mà thôi. Cũng trong quân lệnh tổng thống Thiệu ra lệnh sư đoàn nhảy dù phải về Saigon lập tức. Sư đoàn nhảy dù rời Đà Nẵng ngay đêm đó.
Kế hoạch di tản lực lượng khỏi Huế bắt đầu bằng cách cho Sư đoàn 1 BB rút ra cửa Tư Hiền. Từ đó, hải quân và công binh sẽ bắt một đoạn cầu để quân di tản đi ngược vào đất liền, rồi dùng đường bộ về Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC sẽ triệt thoái bằng tàu hải quân.
Sáng ngày 26, biển có sóng to làm đình trệ cuộc vận chuyển và cầu nối giữa Tư Hiền và đường bộ vẫn chưa hoàn tất. Đến trưa, thủy triều dâng lên quá cao để có thể vượt biển. Đến lúc đó Bắc quân đã đoán được ý định triệt thoái của quân ta, và bắt đầu nã pháo vào Tư Hiền và các địa điểm tập trung quân để di tản. Hỗn loạn xảy ra; quân kỷ không còn kiềm giữ được. Vừa đến thành phố, nhiều binh sĩ tản hàng để đi tìm thân nhân của họ đang thất lạc.
(…)
: - Trước cuộc họp, thủ tướng Khiêm có nói chuyện riêng với tướng Trưởng về tình hình quân sự. Thủ tướng Khiêm giật mình khi nghe những gì tướng Trưởng trình bày. Ông không ngờ tình hình thay đổi nhanh như vậy.
: -Cuộc triệt thoái chỉ đem về Đà Nẵng 1 phần 3 tổng số quân qủa Quân đoàn I.

Chuyện thời hậu chiến
Nhà có hai chị em. Năm 1954, chị ở lại với gia đình ngoài Bắc, em theo chồng vào Nam.
Chiến tranh. Thằng con người chị trúng nghĩa vụ quân sự đi bộ đội. Và đi B vào Nam chiến đấu. Thằng con người em dù trốn chui, trốn lủi, cuối cùng số phận cũng bắt phải cầm lấy khẩu súng, và là người lính của phía bên kia. Cả hai đều tử trận vào ngày 30-4-1975!
Đất nước thống nhất. Hai chị em (lúc này đã là hai bà lão) đều sống trong cảnh cô đơn. Em đón chị vào Nam ở, để chị em sớm tối có nhau.
Từ đó, hàng năm, cứ đến ngày 30 tháng Tư, người em lại vắng nhà...
(Website Tiền Vệ - Truyện cực ngắn hay Truyện chớp)

Bắt đầu của một kết thúc
Trưa hôm đó Phòng 2 bộ Tổng tham mưu báo cho Quân đoàn I biết cộng quân có thể tấn công Đà Nẵng trong đêm. Tướng Trưởng gọi cho tổng thống Thiệu xin di tản bằng đường biển. Nhưng trong cuộc điện đàm, tổng thống Thiệu không cho tướng Trưởng lệnh rõ ràng. Tổng thống Thiệu không nói thẳng là ông muốn tướng Trưởng rút quân hay nằm lại tử thủ. Sau cuộc điện đàm, mọi liên lạc giữa Saigon và Quân đoàn I bị cắt đứt vì pháo kích của địch. Tướng Trưởng lập tức ra lệnh triệt thoái quân khỏi Đà Nẵng khi thấy tình hình không còn hy vọng. Tướng Trưởng họp với Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tư lệnh hải quân Vùng 1, và các chỉ huy trưởng để hẹn địa điểm rút quân.
Rạng sáng ngày 29, sương mù bao phủ dọc theo bờ biển, ngoài khơi tàu hải quân có mặt ở điểm hẹn. Nhưng thủy triều thấp nên tàu không đi vào gần bờ được. Binh lính phải lội ra để lên tàu. Cuộc di tản không gặp trở ngại cho đến khi cộng quân thấy được quân ta đang rút lui và bắn vào điểm tụ quân trên bờ biển và vào tàu đang đậu ngoài khơi. Lính chết vì đạn và chìm ngoài biển rất nhiều.

***

Những Ngày cuối của VNCH được soạn thảo trong năm 1976-1978. Trong thời gian đó những tài liệu về cuộc chiến Việt Nam chưa được giải mật nhiều, sách của đại tướng Viên bị giới hạn chỉ có thể đề cập một cách tổng quát. Sau đó rất nhiều sách biên khảo, hồi ký ra đời, làm sáng tỏ thêm những bí mật của lịch sử và cuộc chiến Việt Nam hơn sách của tướng Viên. Ở điểm đó chúng ta thông cảm được cho tác giả Cao Văn Viên: có nhiều sự kiện không được đề cập đến trong sách vì không có tài liệu hay nhân chứng. Như chuyện Quân đoàn I bị thất thủ một cách nhanh chóng, và cuộc rút quân ở Quân đoàn II trở nên rối loạn là trách nhiệm hoàn toàn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, theo những gì cựu Phó thủ tướng Nguyễn Lưu Viên kể lại.
Một số tài liệu khác cho thấy sự rối loạn của các lệnh hành quân gởi ra mặt trận từ dinh Độc Lập làm cho cuộc sụp đổ của QLVNCH sụp đổ nhanh hơn.
(Những ngày cuối của VNCH, nguyên tác “The Final Collapse” của cựu Đại tướng Cao Văn Viên – Dịch giả: Nguyễn Kỳ Phong)
: - Huế bỏ ngỏ ngày 25-3. Đà Nẵng di tản tối 29. Tam Kỳ mất ngày 24. Chu Lai di tản ngày 26.
: -Đoàn tàu di tản được 6.000 TQLC, 3.000 lính Sư đoàn 3, và nhiều đơn vị khác.

30-4-1975, ký ức một người Hà Nội
Trưa ngày 30-4-1975, tôi đang ngồi trong căng-tin của nhà máy Việt Trì thì tai nghe những tiếng la hét ầm ĩ từ phòng thông tin của nhà máy: "Thắng rồi...Ta thắng rồi...Dương Văn Minh đầu hàng rồi". Tôi bỏ dở cốc nước chè chạy vội ra xem chuyện gì. Một công nhân cho biết tin vừa nhận được qua đài Tiếng nói Việt Nam là quân ta đã chiếm được dinh Độc Lập, bắt Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng. Những ngày trước đây, kể từ sau trận đánh vào Buôn Mê Thuột, nhà máy đã làm một áp phích lớn vẽ bản đồ của 44 tỉnh miền Nam và dựng nó gần cổng ra vào. Trên tấm áp phích đó, cứ mỗi khi được tin quân ta giải phóng thêm tỉnh nào thì lập tức tỉnh đó được vẽ một lá cờ đỏ sao vàng ngay. Tôi đã thấy càng lúc càng nhiều lá cờ đỏ xuất hiện trên tấm áp phích chỉ trong một thời gian ngắn đến nỗi phải hoài nghi, dù không nói ra mặt. Bây giờ, điều nghi ngờ đó đã thật rồi. Thôi từ nay là hết chiến tranh và những thanh niên miền Bắc sẽ không còn phải xuôi Nam chiến đấu trong chiến trường B nữa. Và điều quan trọng tôi sẽ gặp lại người cha ruột đã xa cách gia đình tới 21 năm rồi. Tôi phóng nhanh xe đạp về nhà báo tin cho mẹ tôi biết ngay tin vui này.
Về đến nhà, dắt xe vào trong, chưa kịp khoe tin thì mẹ tôi đã nói: Sao nay con về sớm vậy? Bộ đội vào tới Sài Gòn rồi con biết chưa?. Mẹ tôi ngồi ở bàn sát cửa sổ như đang suy nghĩ điều gì. Tôi cởi áo đi ra giếng nước sau nhà múc nước tắm sau đó quay trở vào mà vẫn thấy mẹ tôi ngồi yên tại chỗ. Tôi bước lại bên bà, hỏi: U sao vậy? Và tôi tiếp: U cảm hay sao nói cho con biết với. Nhưng bà nhìn tôi, miệng cười mỉm, trả lời: Không con. Mẹ khoẻ mà... có điều mẹ đang nghĩ về thầy con thôi. Không biết thầy con bây giờ trong đó đang như thể nào?
Nghe thế, tôi đi mở cái tủ gỗ gụ cũ, lục lọi rồi lấy ra tấm ảnh đen trắng chụp chân dung cha tôi đã cũ, ố vàng. Trong ảnh, một người đàn ông mặc bộ đồ trận rằn ri, ánh mắt nghiêm nghị, đứng cạnh lề đường một khu nào đó trong thành phố Sài Gòn của miền Nam. Tấm ảnh này là tấm duy nhất, gia đình nhận được từ cha tôi, khi hai miền Nam-Bắc còn liên lạc được bằng thư từ.
(Viết để nhớ lại ngày 30-4-1975 - Phạm Thắng Vũ)

Góp nhặt…ghi chép…
Về con số tử vong của hai miền Nam Bắc có quá nhiều sai biệt qua những nguồn khác nhau. Năm 2015, một nhà báo người Đức tên Uwe Siemon Netto với 53 năm kinh nghiệm phóng viên. Ông viết một quyển sách có tựa đê: A reporter’s love for the abandoned soldier of Viet Nam.
Phần dẫn nhập ông viết: Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, mọi người sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 ngày “30-4-1975”. Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này. Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách kinh điển của nhà báo, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam quá nhiều đau thương….
(…) Sau trận Xuân Lộc, tôi về nước nên không có mặt lúc Sài Gòn thất thủ, sau khi toàn bộ các đơn vị quân lực VNCH đã chiến đấu một cách mãnh liệt và quả cảm, mặc dù họ biết rằng họ không thể thắng hay sống sót sau trận đánh cuối cùng này. (…)
(…) Về con số tử vong, ông đưa ra rất nhiều tác giả mọi giới, nhưng theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc…(…)
(…) Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đáng lý họ phải thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927). (…)
(Uwe Siemon-Netto)
Uwe Siemon-Netto sinh năm 1936 tại Leipzig, Germany. M.A. thần học hệ Lutheran tại Chicago. Ph.D. thần học và xã hội học về tôn giáo tại đại học Boston.

30-4-1975, ký ức một người Hà Nội
Cha tôi, một chiến binh trong lực lượng Dù thuộc quân đội Liên Hiệp Pháp. Những ngày cuối cuộc chiến năm 1954, đơn vị ông được máy bay thả xuống tiếp sức cho căn cứ Điện Biên Phủ đang bị vây hãm để không lâu sau đó, căn cứ này lọt vào tay bộ đội Việt Minh. May mắn thoát chết, bị bắt làm tù binh rồi ông được trả tự do và theo đơn vị quay về Hà Nội. Những ngày cuối của Hiệp định Geneva, ông đã cho người về quê Sơn Tây đón mẹ con tôi lên để cùng ông vào miền Nam nhưng chuyện không thành, ông phải theo đơn vị vào Sài Gòn trước. Thực ra thì chuyến đi ra Hà Nội khi đó, đoàn người làng có hai mẹ con tôi đã bị cán bộ Việt Minh lừa đưa vào tạm trú trong khu rừng vắng. Khi đoàn người được phép ra khỏi rừng thì thời hạn di cư đã qua, gia đình bị chia cắt từ đó lúc tôi mới được gần một tuổi.
Lúc đó, tôi cũng không hiểu tại sao? Có khi về hỏi mẹ thì bà chỉ nói: Thôi con, họ không cho thì về nhà với mẹ. Rồi những năm chiến tranh lan ra miền Bắc. Máy bay Mỹ ném bom nhiều nơi và ngay ở cả Hà Nội nữa. Những đợt bom chùm tuốt từ trên mây rải xuống đã phá huỷ nhiều khu phố lớn. Cảnh người chết mất xác trong các đống gạch vụn cùng lửa khói cháy nghi ngút khiến ai cũng sợ. Đành phải kéo nhau đi sơ tán về quê nội ở tỉnh Sơn Tây cũ. Trong làng có nhiều đứa thiếu niên trạc tuổi tôi và tôi rất muốn làm bạn chơi với chúng nhưng chúng không thích tôi ra mặt. Trẻ em đã vậy mà người lớn cũng nói xấu, dèm sau lưng mẹ tôi mỗi khi họ gặp mặt nhau trên đường hoặc trong phiên chợ. Tôi đành kết bạn với mẹ thôi, không ai khác.
(…)

Giã từ vũ khí
- Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ (1933-1975), tư lệnh Sư đoàn 5 BB. Sau khi nghe kêu gọi buông súng của ông Minh. Vào lúc 12 giờ 30 trưa ngày 30-4, ông dùng khẩu Beretta 6.35 bắn từ phía dưới cằm lên đầu tự sát tại trailer (phòng lưu động của quân đội) dùng làm phòng ngủ riêng cho tư lệnh tạibộ tư lệnh ở Lai Khê (Bến Cát, Bình Dương).
Thi thể ông được an táng trong rừng cao su gần doanh trại bộ tư lệnh. Ngày 2-5-1975 được thân nhân bốc đem về cải táng ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp. Năm 1987, nghĩa trang Hạnh Thông Tây có lệnh giải toả. Hài cốt ông được thân mẫu (đã ngoài 80 tuổi) cùng với người em là Lê Nguyên Quốc từ miền Bắc vào, đến nghĩa trang Hạnh Thông Tây bốc mộ và hỏa thiêu, đem về thờ ở nhà từ đường họ Lê Nguyên tại nguyên quán số nhà 151 đường Lê Lợi, thị xã Sơn Tây. Sau đó, tái cải táng xây lăng mộ tại nghĩa trang của gia tộc ở đây.
- Chuẩn tướng Trần Văn Hai (1927-1975), tư lệnh Sư đoàn 7 BB. Trước sự kiện 30-4 khoảng hơn mười ngày, ông Thiệu cho máy bay riêng xuống rước chuẩn tướng Hai di tản nhưng ông từ chối.Chiều ngày 30-4 sau khi cho binh sĩ rời quân ngũ theo lệnh của ông Minh, nửa đêm về sáng ngày 1-5-1975, ông đã dùng thuốc Optalidon (uống nguyên ống 20 viên) tự vẫn trong phòng làm việc tại căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Thi thể ông được thân mẫu và bào đệ đem về mai táng tại nghĩa trang chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn ngày 2-5-975.
Buổi chiều trong ngày, trước khi uống thuốc tự vẫn, ông trao cho sĩ quan tuỳ viên số tiền 70.000 đồng nhờ đưa cho người mẹ già của mình. Đây cũng là tháng lương cuối cùng của một người lính suốt đời liêm chính.
- Chuẩn tướng Lê Văn Hưng (1933-1975), tư lệnh phó Quân đoàn IV tự sát tại tư dinh ở trại Lê Lợi, Cần Thơ 8 giơ 45 tối ngày 30-4.
- Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam (1927-1975), tư lệnh Quân đoàn IV tự sát bằng súng Colt trong trailer ở bộ chỉ huy quân đoàn, trước bàn thờ Phật khoảng 7 giờ 30 sáng ngày 1-5.
- :Trước đó, Thiếu tướng Phạm Văn Phú tự sát tại Sài Gòn trưa ngày 29-4.

30-4-1975, ký ức một người Hà Nội
Hai tháng sau cái ngày chiến thắng, mẹ tôi về lại Hà Nội để dò hỏi tung tích cha tôi. Trong họ hàng bên nội, có người vào miền Nam công tác và qua đó đã tìm được các thân nhân theo các địa chỉ cũ năm xưa. Khi quay trở lại miền Bắc, người bà con này gặp bà và cho biết các tin tức về cha tôi. Theo đó, ông là một sĩ quan quân đội cao cấp của chính quyền miền Nam và đã phải bị học tập cải tạo. Quay về nhà mẹ tôi cho biết tin và khi kể chuyện, không hiểu vì nghĩ đến việc học tập cải tạo rồi liên tưởng những cảnh tù tội của cha tôi năm xưa lúc bị bắt làm tù binh hay vì cám cảnh thân phận mà mẹ tôi khóc nhiều. Tôi dỗ mẹ đừng khóc rồi tôi cũng khóc theo mẹ.
Mẹ tôi rất muốn đi vào miền Nam ngay để biết thêm các tin tức về thầy tôi nhưng khi đó giao thông hai miền còn khó khăn lắm, vẫn còn hạn chế chỉ ưu tiên cho những cán bộ đi công tác. Đường xuyên Việt nhiều nơi phải sửa chữa và đường sắt nhiều vùng đã mất hẳn từ lâu. Chiến tranh bao năm trời đâu phải một sớm một chiều thông đường ngay được. Tôi vẫn tiếp tục đi làm, cũng không hề nghĩ là có ngày mình đặt chân vào miền Nam và thành phố Sài Gòn.
Tin về miền Nam đói nghèo, lạc hậu do chính miệng những bộ đội miền Bắc từ chiến trường miền Nam trở về kể lại trong các tháng trước đã làm con số người xung phong chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ai cũng sợ khổ, sợ phải xa gia đình để đến công tác trong vùng đất đói nghèo đến nỗi cả bát ăn cơm cũng không có mà ăn. Kết quả, nhà máy phải họp và xét hoàn cảnh từng người một để chỉ định bắt buộc. Tên tôi đã được họ chọn, đành phải chuẩn bị hành lý để theo đoàn vào Nam dù tôi không muốn.
(…)

Tàn cuộc binh đao
- Thiếu tướng Đoàn Văn Quảng, tư lệnh lực lượng đặc biêt, chỉ huy trưởng trung tâm huấn luyện Quang Trung chết trong tù ở trại khổ sai Nam Hà ngày 6-3-1984.
9 ngày sau…
- Chuẩn tướng Bùi Văn Nhu, tư lệnh phó tổng nha cảnh sát quốc gia bị đưa đi tập trung khổ sai và chết tại trại tù Nam Hà, ngày 15-3-1984.

30-4-1975, ký ức một người Hà Nội
Đường sắt vẫn chưa sửa xong, chúng tôi 18 người ngồi ngồi chung với hành lý trong chiếc xe tải molotova cũ kỹ của đoàn xe vào miền Nam. Trên xe tuy mệt nhưng có cái thú ngồi ngắm cảnh hai bên dọc đường. Chúng tôi qua nhiều vùng, địa danh trước giờ chỉ nghe tên trên báo. Hố bom, cầu sập, đường bị bóc từng tảng nhựa, các khu dân cư, chợ... xuất hiện đây đó dọc theo các đoạn đường xe qua. Ở các vùng xa thủ đô, người dân lam lũ, nghèo khổ, thiếu thốn lộ rõ trên ánh mắt, quần áo và khung cảnh sống. Miền Bắc quê hương xã hội chủ nghĩa còn như vậy thì miền Nam chắc chắn phải nghèo, thiếu thốn ghê gớm lắm. Tất cả cũng do chiến tranh, do đế quốc Mỹ reo rắc mà ra...,Một người đi chung trên xe nói vậy.
Xe vừa vào địa giới miền Nam, chúng tôi đã bấm tay nhau nhìn khung cảnh mới. Nhà cửa của người dân cùng các công trình đô thị như cầu, đường gần các trục lộ giao thông trông đẹp và văn minh hơn hẳn miền Bắc nhiều. Ngay từ lúc còn ngồi trên xe nhìn cảnh vật dọc theo đường và khu phố dẫn vào Sài Gòn, tôi đã thấy vượt trội nhiều lần so với thủ đô Hà Nội. Một vẻ bề ngoài sáng sủa, văn minh lộ ra từ cách phục sức, sinh hoạt của người dân miền Nam.
Giờ đây đi bộ trên các con đường trong khu trung tâm thành phố mới thấy bản thân tôi, một người dân miền Bắc quá sức lạc hậu, nghèo nàn... từ bộ cánh (quần áo) trên người. Bên vệ đường và trong các cửa hiệu sang trọng, đầy ắp hàng hoá thật đẹp và mới lạ lần đầu chúng tôi được thấy. khác hẳn với cảnh chen chúc để chờ được tới lượt mua số hàng ít ỏi, như cảnh thường thấy ở các khu phố ngoài miền Bắc trong thời bao cấp. Phố xá thì thôi, những tòa nhà to đẹp thấp thoáng sau dòng xe gắn máy chạy hối hả trên đường. Khung cảnh y như ở nước ngoài, một người trong đoàn chúng tôi nói nhỏ cho nhau cùng nghe.
Tôi bối rối ngắm nhìn các cô gái miền Nam, nói chính xác là cô gái Sài Gòn đang dạo bước trên đường. Họ đẹp quá sức, như tiên... từ dáng điệu, mái tóc, y phục mặc trên người và nhất là khuôn mặt của họ lộ rõ vẻ sung túc đài các so với những nữ cán bộ trẻ trong đoàn chúng tôi.
(…)

Bên bờ tử sinh
Có tiếng súng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8 giờ 45 tối ngày 30-4-1975. Ngày kết liễu cuộc đời của nhà tôi. Chú Giêng chạy vào phụ chú Nghĩa (sĩ quan tuỳ viên) đỡ lưng và chân, máu đỏ nhuộm thắm áo trận. Tôi đỡ đầu nhà tôi. Tôi đưa tay vuốt mắt cho nhà tôi.
(…) 9 giờ 30, chuông điện thoại reo vang. Tôi áp chặt ống điện thoại. Mím môi, nhìn xác nhà tôi rồi nhìn sang Nghĩa, tôi hỏi: Đại Tá Cẩn đòi gặp thiếu tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?.
Nghĩa lúng túng: Cô nói thiếu tướng tự sát rồi - Không thể nói như vậy được. Đại tá Cẩn đang cự chiến với Việt cộng. (…). Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra,
(…) 11 giờ đêm ngày 30-4-1975. Điện thoại lại reo. Lần này, chính giọng của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam: Alô, chị Hưng!. Giọng tướng Nam buồn bã: Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng.
(Phạm Thị Kim Hoàng)
Bà Phạm Thị Kim Hoàng là quả phụ của cố Thiếu tướng Lê Văn Hưng.

30-4-1975, ký ức một người Hà Nội
Một ngày, tôi đi rảo qua nhiều con phố Sài Gòn rồi thấy mỏi chân, tôi lấy hết sức can đảm bước vào một hàng nước thật đẹp gần một giao lộ lớn, có tên là Cafe Minirex. Chọn một bàn sát khung cửa kính trong suốt có thể nhìn rõ người đi bên ngoài, tôi quan sát chung quanh. Bàn ghế, các bình hoa, quầy thu ngân, khách cùng vách tường trang trí cảnh một rừng cây thật đẹp... thật không khác một tiệm ở nước ngoài trong phim ảnh. Chợt một người hầu bàn bước đến, gật đầu chào tôi rồi hỏi: Thưa ông, ông dùng chi?
Người hầu bàn này quá lịch sự khi tiếp xúc với khách hàng thật khác hẳn với cung cách của mậu dịch viên các tiệm ăn miền Bắc. Tôi lại nghĩ, hay ông ta biết tôi là cán bộ chế độ mới qua quần áo mặc trên người nên xưng hô như vậy? Tôi gọi nước uống và ngầm để ý xem sao. Nhưng không, bất cứ có khách nào vào quán, người hầu bàn này cũng một cách tiếp đón như vậy. Rất tự nhiên, lịch sự mà không khúm núm hoặc hách dịch như ở Hà Nội.
Một thay đổi đã đến trong lòng tôi mà tôi biết điều này cũng sẽ đến với bất kỳ người nào từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa khi đặt chân vào miền Nam ở thời kỳ đó. Sài Gòn hay nói rộng ra cả miền Nam không lạc hậu, nghèo nàn, đói khổ, đầy rẫy cảnh người bóc lột người như bao lâu nay người dân miền Bắc được (hay bị) báo chí, đài phát thanh Hà Nội...mô tả về chế độ Ngụy quyền tay sai đế quốc Mỹ. Đây là mô hình của một xã hội văn minh và người nào được sống trong xã hội này quả thật may mắn hơn sống ở xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc.
Tiếc thay! Một xã hội như vậy lại vừa bị cướp mất đi.
(Viết để nhớ lại ngày 30-4-1975 - Phạm Thắng Vũ)

Bên bờ tử sinh
Không kể những người đã tháo chạy, không kể những người còn kẹt lại trong gọng kìm lịch sử oan nghiệt. Còn có những người cất lên tiếng nói cuối cùng: Đó là những cái chết.
Người chết cuối cùng vẫn là người có lý lẽ của họ. Tự sát bao giờ cũng cần được hiểu là một sự hy sinh cuối cùng (Ultimate sacrifice) đáng được trân trọng. Không có cái chết vô ích mà chỉ có những cái sống vô ích. Đó là số phận những người đã tự chọn cái chết: Tự sát.
Những cái chết đó giá trị bằng bằng vạn tiếng nói.
(Nguyễn Văn Lục)

30 tháng 4 ngồi trên đỉnh đèo Trường Sơn
Talawas: Anh tình nguyện đi B? Cầm súng?
Nhật Tuấn: Năm 1973 vào B. Cơ quan cử đi thôi. Hồi đó anh em gọi đùa lính miền Nam là "lính bà Định", lính miền Bắc là "lính xã hội", còn những người làm công tác kĩ thuật như tôi được biệt phái sang Tiểu đoàn 976, trinh sát công binh được gọi là "lính gia công", hoạt động chủ yếu trên các tuyến vận chuyển thuộc tỉnh Quảng Đà (cũ). Từ 8-1964, sau khi Mĩ ném bom miền Bắc, công việc chính của tôi là khảo sát thiết kế giao thông các tuyến đường khu 4 cũ, đường tràn, đường tránh, đường giả, đường nghi trang…đại loại thế. cũng được nhận quân trang quân dụng nhưng không có quân hàm nên không phải là sĩ quan quân đội.
Tôi có cầm súng nhưng chỉ để bắn… heo rừng. (Phạm Thị Hoài phỏng vấn Nhật Tuấn)

Bên bờ tử sinh
Lúc này khoảng 11 giờ đêm 30-4-1975, cứ khoảng 15 phút tôi vào trailer một lần, thấy tư lệnh nằm nghỉ nhưng giày trận vẫn còn mang. Lần khác, tư lệnh ngồi dậy đi về hướng tôi và hỏi:
- Sao em không đi ngủ đi! khuya rồi.
- Trình thiếu tướng, nếu họ vào dinh tụi em đánh không thiếu tướng? Tôi hỏi.
- Thôi đừng đánh nhau, họ vào để tôi ra nói chuyện.
Khoảng sau 1 giờ sáng, anh lính hơ hải chạy vào gặp tôi:
- Tụi nó tự động mở cửa vào dinh.
Tôi vội vã vào trailer để gặp tư lệnh, tôi thấy tư lệnh nằm nghỉ. Tôi trình:
- Trình thiếu tướng, bọn họ đang vào dinh.
- Bảo họ chờ tôi ra nói chuyện.
Trong suốt đêm 30-4, tư lệnh và tôi hầu như không ngủ, khoảng 3 giờ sáng, tôi vào phòng lần nữa, thấy tư lệnh đang nằm yên không biết ngủ hay thức. Tôi cũng quá mệt ra phòng làm việc ngả lưng trên sofa một chút. Trong lúc nửa tỉnh nửa mê bổng nghe tiếng chuông “boong, boong, boong”, tôi bật mình ngồi dậy, nhìn đồng hồ thấy hơn 6 giờ. Qua đến bàn Phật, tôi thấy 3 cây nhang đã đốt và cắm sẵn trên lư hương khói bay nghi ngút. Tư lệnh đang nghiêng mình xá Phật. Tôi ra ngoài một lát, trở lại từ ngoài nhìn, tư lệnh ngồi trên ghế sofa, mắt đăm chiêu nhìn lên bàn thờ. Tư lệnh đứng dậy đến bàn thờ lấy ba cây nhang đốt, xá ba xá cắm vào lư hương, gõ ba tiếng chuông “boong, boong, boong” xong xá 3 xá tiếp, xong tư lệnh về ngồi nơi cũ, hai tay để trên thành gỗ sofa nhịp nhịp như không có chuyện gì sắp xảy ra.
Tôi đẩy nhẹ cánh cửa bước ra sân hướng về phòng trung úy Việt. Vừa đi khỏi cột cờ một chút nghe tiếng nổ “đùng” phát ra từ hướng bàn thờ Phật. Tôi chạy nhanh vào thấy cảnh tượng hãi hùng chưa bao giờ gặp. Tư lệnh ngả ngửa hơi lệch về phía sau sofa, đầu hơi nghiêng về bên trái, khẩu Colt45 vẫn còn trong tay, đầu đạn xuyên qua màng tang phải qua trái, ngước mắt nhìn lên trần nhà. Tư lệnh chưa chết, nhưng nói không được, giật run rẩy người, miệng há hốc, từ trong cổ họng nấc lên tiếng “khọc, khọc, khọc” từng chập và từ từ nhỏ dần.
Trong lúc bối rối tôi đâu có tâm trí đi xem đồng hồ, khoảng 7 giờ 30 ngày 1-5-1975.
(Lê Ngọc Danh)
Lê Ngọc Danh, sĩ quan tùy viên của Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam.

30 tháng 4 ngồi trên đỉnh đèo Trường Sơn
Talawas: Sau chiến tranh, anh người gốc Hà Nội vào Sài Gòn và ở lại đó cho đến nay. Là người của phía chiến thắng giữa những người chiến bại. Sống với cảm giác ấy có dễ không?
Nhật Tuấn: Tháng 6-1975, trên đường phố Đà Nẵng tôi thấy một cô gái nhìn theo một xe tải chở đầy ti vi, tủ lạnh chạy ra Bắc với ánh mắt ác cảm, tôi nghĩ cũng còn may cô ta không được thấy những đoàn xe bịt vải bạt chạy trên đường Trường Sơn cũng ra Bắc.
Nhưng đó là chuyện buồn khó tránh khỏi sau chiến tranh, còn nhiều chuyện vui khác, những cuộc trùng phùng chẳng hạn. Tháng 10-1975 tôi vào Sài Gòn gặp ông anh ruột là nhà văn Nhật Tiến, đang là giáo viên trường trung học Hưng Đạo. Ông ấy kể, công đoàn trường vừa chia mỗi người được 10 điếu thuốc Tam Đảo, ông không nhận và hỏi sao không để nguyên bao, sao lại xé ra? Rồi ông ấy khóc vì sự "xúc phạm con người".
Tôi bảo: Thôi ông ra nước ngoài đi, người như ông không sống ở đây được đâu!
Tôi không có cảm giác mình là "phe chiến thắng" mà chỉ là dân "ngụ cư", dân "Bắc Kì 75". "Những người chiến thắng" chính là những những nhà văn tập kết như Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng… và cả những người Cách mạng 30 tháng Tư như các nhà văn nhà thơ Nguyễn Thị Minh Ngọc, Đỗ Trung Quân, mà tác phẩm của họ chiếm lĩnh đầy các trang báo ở Sài Gòn.
(…)

A Farewell to Arms
Trong chiến tranh, anh thắng hay thua, sống hay chết - và sự khác biệt chỉ là một chớp mắt.
In war, you win or lose, live or die - and the difference is just an eyelash.
(Douglas MacArthur)
The abandoned soldier of Viet Nam
(Trận địa Xuân Lộc
Uwe Siemon-Netto)
- :Tựa đề A Farewell to Arms (Giã từ vũ khí) của Ernest Hemingway.

30 tháng 4 ngồi trên đỉnh đèo Trường Sơn
Talawas: Anh tìm thấy bài học gì còn lại sau chiến tranh, dù chiến thắng hay chiến bại. Nhật Tuấn: Đó chính là những cái mỗi người được trải qua để chứng kiến. Tôi nhớ tết năm 1974, tại một đỉnh đèo trên Trường Sơn, tôi thấy một anh lính lái xe trong đơn vị, quăng xuống cái bi đông nước rồi nhảy xuống đường, chửi đổng:
- "Mẹ kiếp, thằng miền Bắc cứ ở ngoài Bắc, thằng miền Nam cứ ở trong Nam, đánh nhau làm chó gì cho bố mày khổ thế này?".
Lúc đó chúng tôi cười ồ cả lên, vậy nhưng sau đó tất cả lại ai về việc nấy và tôi thấy ở đơn vị tôi tuyệt đối không ai muốn làm "B quay" cả. Đó là một sự thật "trong mắt tôi", và tất nhiên còn những sự thực khác về ý thức trách nhiệm, tinh thần hy sinh rất sẵn ở những người lính cả hai bên chiến tuyến. Đó là sự cảm thông, bởi lẽ chiến tranh là cả một quá trình lịch sử.
Cha ông chúng ta đã từng "mang gươm đi mở nước" (1), bởi vậy với tôi, chiến tranh là một cái gì đó giống như là "thiên mệnh" trong "gọng kìm của lịch sử" (chữ này tôi mượn), mỗi con người bình thường hình như đều trở nên bé nhỏ trước bàn tế của thần chết.
(…)
(1)
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời nam thương nhớ đất Thăng Long
(Huỳnh Văn Nghệ)

***
Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện. Ngày 30-4-1975, mặc dù ông Dương Văn Minh kêu gọi buông súng, ông vẫn tiếp tục chiến đấu với lực lượng địch quân vào tiếp quản. Ông cuối cùng cũng bị bắt và bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14-8-1975.
Xem báo Paris Match của đầu thập niên 80 sẽ thấy hình ảnh ngày xử bắn và bài viết có viết:
(…) Người dân Cần Thơ lén đưa thi thể Đại tá Hồ Ngọc Cẩn về và phủ lá cờ Việt Nam Cộng Hòa lên thi hài ông. (…)

30 tháng 4 ngồi trên đỉnh đèo Trường Sơn
Talawas: Hiện tại của chúng ta hôm nay có xứng đáng với lí tưởng của những người đã cống hiến một phần của đời mình cho cuộc chiến tranh ấy không?
Nhật Tuấn: Tôi chỉ xin nói về những người gần gũi, những đồng đội của tôi, họ chẳng lí tưởng gì hết. Tôi còn nhớ một tối giữa Trường Sơn, chúng tôi ngồi lại hỏi nhau: Mai mốt được về nhà, việc đầu tiên chúng mày sẽ làm cái gì?. Thằng thì "lôi ngay vợ vào buồng trong, khỏi rửa ráy", thằng thì "mang ngay khăn voan, ví nháy, đã gom được chật ba lô để phân phát cho mọi người"..., còn tôi: Tao sẽ chạy ngay ra phố Lí Quốc Sư ăn một bát phở chín dừ.
Bây giờ, hầu hết họ đã nằm xuống, người bị bom bi ở cầu Cà Tang (Quảng Bình), người chết sốt rét ở sông A Vương, tôi có làm gì đi chăng nữa cũng chẳng có ý nghĩa gì với họ...
(…)

Chào tạm biệt
Khi tôi tuyên thệ trên vũ đình trường West Point. Tôi vẫn còn nhớ một bài hát quen thuộc trong doanh trại của thời ấy: “Người lính già không bao giờ chết, họ chỉ tàn phai với năm tháng”.
Tạm biệt!

Since I took the oath on the plain at West Point, I still remember the refrain of one of the most popular barrack ballads of that day: ”Old soldiers never die, they just fade aways“.
Goodbye!
(Douglas Mac Arthur)

30 tháng 4 ngồi trên đỉnh đèo Trường Sơn
Talawas: Thưa anh Nhật Tuấn, ngày 30-4-1975 anh đang ở đâu?
Nhật Tuấn: Tôi đang ở cuối đường 14 cũ và đầu đường Trường Sơn mới, tức sông A Vương, tỉnh Quảng Đà (cũ). Lúc đó tôi nghe BBC kể về một bức tranh vẽ đăng trên báo Mĩ, vẽ ngôi mộ có bia khắc dòng chữ "VNCH" (Việt Nam Cộng Hoà) và: Nơi đây yên nghỉ một quốc gia vừa chết trong tức tưởi. Khi nghe đài Sài Gòn đọc tuyên bố buông súng, giao lại chính quyền của ông Dương Văn Minh, rồi có tiếng người đọc: Đây là tiếng nói của Quân giải phóng khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn.
Và tôi nghĩ: Chiến tranh đã kết thúc.
(Phạm Thị Hoài phỏng vấn Nhật Tuấn)

Kết
Vì là bài văn sử đi tìm thời gian đã mất với cảm tính, cầm bút loay hoay với chữ nghĩa, người viết đứng bên lề cuộc chiến không thể tránh khỏi những cảm hoài với những người cầm súng của một thời một thuở đã giã từ vũ khí hiện đang nằm ở đâu đó…đằng sau những trận chiến.
Lính Cộng Hoà
Trần Văn Nam
Sinh: 22-9-1942
Tử: 30-4-1975
ghi chép 15-6-2015
hoàn tất 3-5-2016

Bạt
(với…thì, mà, là)
Như lời “Tựa” đã bộc bạch ở trang đầu mà các cụ ta xưa đã dạy là ngôn bất tuyệt ý bất tuyệt thì ngộ chữ tôi hiểu chữ tác đánh chữ tộ, chữ ngộ đánh chữ quá là không có gì…quá đáng với sai hay đúng hoặc thừa với thiếu trong Tạp ghi sau 40 năm này. Vì cái sai, cái thừa của hôm nay, với nhân sinh bách tuế vi kỳ có thể là cái đúng, cái thiếu của…100 năm sau.
Chợt nhớ ra năm thỉnh mười thoảng sách của thiên hạ sự có phần lời “Bạt” ở trang cuối. Thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào nhưng rất ngay tình thưa với bạn đọc, ngộ chữ tôi chả hiểu bạt là lý sự gì. Bèn tra tự điển: “Phần chưa viết rõ ở lời tựa. Bạt là phần viết ở cuối sách để giải bày thêm một số ý tưởng có liên quan đến nội dung của tác phẩm mà chưa viết”.
Qua nội dung của tác phẩm…, tâm viên ý mã ngộ chữ tôi với tâm trạng của một kẻ táo bón kinh niên chữ nghĩa cũng muốn giải bày những điều chưa viết là:
Là ngộ chữ tôi mới trích ra có một phần rất nhỏ. Cho nên chữ nghĩa chỉ phản ảnh được cái nền của một câu chuyện. Và chuyện là lăn theo vòng xích sắt của chiếc xe tăng đã hoen rỉ, lăn theo bánh xe lịch sử với những chữ “Nếu”. Nếu công binh lập xong cầu sông Ba trong một, hai ngày thì…Nếu hải quân hoàn tất những cầu phao nổi ponto hay kế hoạch Alfa gì đó ở biển Thụy An thì… Nếu ta biết tại Xuân Lộc, Quân đoàn 4 Bắc quân mà pháo chỉ còn hai trái, tăng đã hết xăng thì… Nếu ta đã biết Bắc Việt chỉ còn vỏn vẹn một sư đoàn tổng trừ bị (Sư đoàn 308)ở Hà Nội…(thì…mới có “Thất thủ Ninh Bình: 33 năm nhìn lại…” và “Lịch sử nhìn từ âm bản” ở trên).
Trở lại cụ tướng hải quân đã viết dùm ngộ chữ tôi qua Can trường trong chiến bại với ai đó:
(…) Ông tường thuật ngắn gọn, mạch lạc, loại bỏ được cảm tính của chính ông đối với các sự kiện, theo lối ghi nhận của ông. Ông để cho người đọc tự tìm lấy kết luận của họ. (…)
Nhẽ này có nhà phê bình chữ nghiã đã lực đực rồi. Nhà phê bình thở ra chữ để…giải thích:
(…) Rất tiếc, không ít người đem thói quen diễn giảng vào bài viết. Trong bài viết của họ, mỗi câu văn phải cõng trên lưng nó năm bảy câu giải thích. Chuyện mới, giải thích đã đành. Ngay cả những chuyện xưa như trái đất cũng vẫn giải thích. Lặp lại những kiến thức sơ đẳng và cũ rích, cách viết như thế là một sự xúc phạm đến sự hiểu biết của người đọc. Theo tôi, nhà văn phải viết trong giả thiết là người đọc của mình là những người cực kỳ thông minh và uyên bác: Hắn không cần phải viết những gì độc giả có thể đã biết rồi. Với những người đọc thông minh và uyên bác ấy, hắn phải viết những điều thông minh và uyên bác tương xứng, nghĩa là, ít nhất phải thông minh và uyên bác hơn chính bản thân hắn. Thay vì giải thích làm nhàm và lảm nhảm, cách viết như thế là một sự coi thường bạn đọc (…).
Quay quả lại với “cụ tướng” già Old soldiers never die, they just fade aways cảm khái:
“Dù thắng hay bại, trong cuộc một cuộc chiến, tất cả những người cầm súng hai bên đều làm nhiệm vụ của mình theo lý tưởng khác nhau. Sau cuộc chiến, những chiến binh dù hy sinh cho một lý tưởng nào đó, khi chết trong bộ quân phục đều là những người hùng thì khi đã nằm xuống phải được sự kính nể của những thế hệ sau. Hai trăm năm nữa, con cháu chúng ta khi học lịch sử sẽ không khen người thắng, không chê kẻ bại, nhưng sẽ ghi nhận sự can trường hay hèn mạt của những người tham chiến. Vì thế, những thế hệ mai sau sẽ không quên những người cầm súng trên chiến trường của cả hai bên”.
Với cả hai bên, kẻ thắng, kẻ bại nói gì nằm ở khúc sau. Bởi bại binh chi tướng bất khả ngôn dũng, vong quốc chi đại phu bất khả ngôn trí, hay nói chữ theo người xưa thì:
Sau một ván cờ
Tất cả các con cờ,
Vua, tướng, sĩ, tốt,
Đều vào năm trong hộp
Tiếp nữa với chữ là nghĩa qua cuộc Nội chiến Nam-Bắc Hoa Kỳ chấm dứt ngày 2-4-1865 và trước khi bị ám sát hai ngày, Tổng thống Abraham Lincoln đã nói: “Người ta có thể từ bỏ mọi thứ, nhưng không ai từ bỏ được lịch sử. Trước sau gì, lịch sử của những bậc anh hùng của cả hai bên sẽ phải được dựng lại ở chính nơi mà những người anh hùng đã ngã xuống”.
150 sau…với ngày 30-4-1975 để có thêm bài học chiến tranh với hành xử của người chiến thắng phải biết tôn trọng kẻ chiến bại.

***
Rằng vậy là co cỏm xong, ngộ chữ tôi về lại sông Ba với Where The Domino Fell:
(…) Đại pháo của Bắc quân đã cắt đoàn người và xe di tản thành nhiều khúc…và hơn 100 nghìn dân và 15 nghìn quân miền Nam trong cuộc rút lui này (…). Những nhà báo ngoại quốc từ trên UH1 nhìn xuống cho hay: (…) Đoàn xe di tản (quân xa, xe dân sự, xe gắn máy) giống như một giòng sông, và mỗi khi khi có đạn đại bác rơi xuống “giòng sông” thì họ thấy, nước văng lên (giống như khi ta ném đá xuống nước) - (đó là xác người tung lên theo đất bay bay). Những nhà báo này đã gọi liên tỉnh lộ 7 là con đường của máu và nước mắt. Vì chưa bao giờ có một cuộc lui binh mà tổn thất về quân và dân lại khủng khiếp như vậy. (…)
Cái đầu đất ngộ chữ tôi được thể tha mộ địa tới ông bạn hiện đang ở thành phố mà cả hai đang…tạm dung. Ông bạn là thiếu tá thủy quân lục chiến thuộc thể loại hồ trường dục phá thành sầu dụng tửu binh. Năm 74, ông được lệnh dẫn binh lính tới trấn ở cửa rừng. Ông đợi bại quân của Công truờng 7 rút về biên giới Việt-Miên để ngắm từ lỗ chiếu môn qua đỉnh đầu ruồi bắn mấy anh nón cối như…bắn bia ở xạ trường quân trường Thủ Đức. Cứ theo ông bạn thì:
(…) Qua ống nhòm, dưới những lùm cây, một đám bại quân đông như ruồi, quần áo lếch thếch, máu me đầy người, đứa chống gậy, đứa đi cà nhắc, thằng này dìu thằng kia, rên la khóc lóc. Áng chừng gần năm chục thước, sát hơn một chút nữa, lố nhố những người là người. Tụi nó trẻ măng, thằng băng đầu, thằng băng tay, vừa cõng vừa cáng…Ngay lúc ấy, không hiểu tại sao tao liên tưởng đến cảnh rút quân của Hồng Quân trong phim Chiến tranh và hòa bình rõ mồn một từng nét, ngay trước mắt tao. Đám Bắc quân, hàng một lê lết qua mặt tao…Tao nghe được cả những tiếng chân dẫm trên lá xào xạc…như con nai vàng đạp trên lá vàng khô…(…)
Mồi điếu thuốc, thở ra khói, mắt lãng đãng nhìn…mặt ngộ chữ tôi.
(…) Ấy đấy, thế là từ cái đầu ruồi tao nhắm y chóc ngay giữa trán thằng nón cối. Bây giờ chỉ cần nín thở, nhè nhẹ bóp một cái tách thật ngọt là rồi. Là…tử sĩ. Thế nhưng giữa cái lúc chết người này, đầu tao dở chứng bật ra câu thơ của thằng lính địa phương quân ở xứ nước mắm Phan Thiết:Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo - Xem cuộc chiến như tai trời ách nước - Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước - Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi…(…)
Thế là ông bạn hồ trường tha tào đám nón cối từ Trường Sơn vác xác tới đây. Chuyện có hậu là…hậu sự thằng hồ trường gặp thằng…tử sĩ ở quán nhậu tại Sài Gòn và kết bạn đời với nhau.
Để rồi móc nối như cái móc xích của chiếc xe tăng với ông nón cối khác chỉ bắn…heo rừng:
(…) Tôi nhớ tết năm 1974, molotova chạy trên Trường Sơn vừa ngừng, tôi thấy một anh lính lái xe trong đơn vị, quăng xuống cái bi đông nước rồi nhảy xuống đường, vừa đái vừa chửi đổng:
- Mẹ kiếp, thằng miền Bắc cứ ở ngoài Bắc, thằng miền Nam cứ ở trong Nam, đánh nhau làm chó gì cho bố mày khổ thế này?.
Tôi còn nhớ một tối giữa Trường Sơn, chúng tôi ngồi lại hỏi nhau: "Mai mốt được về nhà, việc đầu tiên chúng mày sẽ làm cái gì?". Thằng thì "lôi ngay vợ vào buồng trong, khỏi rửa ráy", còn tôi, "tao sẽ chạy ngay ra phố Lí Quốc Sư ăn một bát phở chín dừ".
Bây giờ, hầu hết họ đã nằm xuống, người bị bom bi ở cầu Cà Tang (Quảng Bình), người chết sốt rét ở sông A Vương, tôi có làm gì đi chăng nữa cũng chẳng có ý nghĩa gì với họ. (…)

Tum húm với kẻ thắng nói gì? Ông “chỉ bắn heo rừng” nói rằng:
(…) Đó là một sự thật "trong mắt tôi", và tất nhiên còn những sự thực khác về ý thức rất sẵn ở những người lính cả hai bên chiến tuyến. Đó là sự cảm thông, bởi lẽ chiến tranh là cả một quá trình lịch sử. Cha ông chúng ta đã từng "mang gươm đi mở nước", bởi vậy với tôi, chiến tranh là một cái gì đó giống như là "thiên mệnh" trong "gọng kìm của lịch sử" (chữ này tôi mượn), mỗi con người bình thường hình như đều trở nên bé nhỏ trước bàn tế của thần chết. (…)

Với bên bờ chiến sử, kẻ bại nói năng như thể như thế này đây:
(…) Có thể nói những ai đã từng trực tiếp tham dự vào chiến tranh sẽ không bao giờ thoát khỏi cuộc chiến tranh ấy. Những người lính từng “giã từ vũ khí” gần bốn mươi năm về trước vẫn tiếp tục sống trong tâm thế lính tráng cho đến tận bây giờ. Người ta tiếp tục đánh nhau trong ký ức. Ðiều này phần nào giải thích tại sao người ta cứ viết về chiến tranh mãi. Kẻ thắng viết, đã đành. Kẻ thua cũng viết, thậm chí, còn viết nhiều và viết hăng hơn những kẻ chiến thắng nữa. (…)

Đang hung hăng vậy lại ngại ngùng bạn đọc nào đấy khó tính như ngự sử văn đàn kheo khảy ngộ chữ tôi chỉ ngôn giả bất tri. Nói cho ngay ngộ chữ tôi có… ”nói” gì đâu với chữ nghĩa dày đặc như ruồi bu qua những trang giấy trên, trăm sự ở cụ Bùi Giáng mà ra. Cụ đã ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ, tạm hiểu là ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai nên cụ đã búi bấn…
sử lịch sai trang
chạy quàng
là lịch sử…
Là thế đấy, thưa bạn đọc! Nay xin thưa.

Thạch trúc gia trang
Lập đông, Bính Thân 2016
Ngộ Không Phi Ngọc Hùng

 

Đăng ngày 02 tháng 06.2018