banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Người Việt Tự do có nên tự nhận mình là "bên thua cuộc"?

Trần Trung Đạo

Lý luận cần thiết nếu không muốn nói là quyết định. Một người đi lạc trong rừng không có đầu óc lý luận để biết việc gì nên làm trước và việc gì nên làm sau có thể phải chết trong rừng già.
Mục tiêu trước mắt của người đi lạc là tồn tại chứ không phải là ra khỏi khu rừng. Do đó, việc nên làm trước là bình tĩnh đi tìm chung quanh mình một con suối hay ít nhất một khe nước thay vì hoảng sợ chạy tứ tung để tìm một lối thoát cho đến khi tuyệt vọng quỵ xuống và chết trong đói khát.
Một nhận xét tôi thường gặp trên Facebook “Nói hoài, nói mãi, vấn đề là làm gì”. Người viết nhận xét đó thật ra không có ý khinh thường hay nặng lời với các tác giả cặm cụi suốt ngày đọc và viết nhưng chứng tỏ tâm lý thất vọng trước các vấn nạn của đất nước.

Lý luận bắt đầu từ những khái niệm căn bản.
Qua trung gian bạn bè tôi biết đến tác phẩm “Bên Thắng Cuộc” khá sớm. Khi chưa đọc, một người bạn hỏi tôi về cái tựa sách. Tôi nhớ mình đã trả lời “Không thích lắm vì có vẻ hụt hẫng, phải chi có thêm vài chữ để chỉ rõ hơn nội dung mà tác phẩm tập trung vào, “Bên thắng cuộc” thôi tổng quát quá.” Nhưng sau khi sách phát hành, đọc và thấy có thêm hai tiểu đề “giải phóng” và “quyền bính” đánh dấu mốc thời gian và chỉ rõ nội dung hơn, tôi nghĩ khác về tựa sách. Đảng CSVN đúng là “bên thắng cuộc”.
Lịch sử đảng CSVN chứng minh CS hóa miền Nam là cuộc cờ, là canh bạc của đời họ.  Các thế hệ lãnh đạo CS trước chiến tranh, trong chiến tranh và ngay bây giờ đều xem dải đất hình cong chữ S là một bàn cờ. Duy trì quyền lực đảng là tối thượng và tất cả nỗ lực, mọi hoạt động đều nhằm phục vụ cho các mục đích thắng cuộc cờ của đảng.
Từ 1930 đến nay, đảng CS đưa ra nhiều văn bản chỉ đạo từ Luận Cương (10-1930) đến Chính Cương của Đảng Lao Động Việt Nam (2-1951),  Cương Lĩnh Xây Dựng Đất Nước Trong Thời Kỳ Quá Độ Lên  Chủ Nghĩa Xã Hội (6-1991) và các văn bản khác nhưng nội dung vẫn thống nhất. Đảng CS đã, đang và sẽ làm tất cả những gì cần để bảo vệ cho được quyền cai trị của đảng.
Sau hiệp định Geneva, nếu có tổng tuyển cử thì tốt. Họ sẽ chiếm miền Nam không cần súng đạn. Nếu không có tổng tuyển cử cũng không sao. Họ vẫn chiếm miền Nam nhưng bằng xương máu Việt Nam và súng đạn Nga, Tàu. Dù qua phương cách tuyên truyền, gian lận hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn”, mục tiêu toàn trị vẫn không thay đổi.  
Đương đầu với Mỹ, một cường quốc dư thừa bom đạn, các lãnh tụ CS biết  nhiều triệu người Việt sẽ phải chết, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn nhân loại có thể phải xảy ra. Biết thì biết nhưng đảng không hề bận tâm. Không có văn bản nào cho thấy các lãnh đạo CS đặt số phận 20 triệu dân miền Nam lên bàn tính. Khi cần có đàn anh bảo bọc, đảng bán nước không một chút đắn đo. Năm 1958, Mao Trạch Đông chưa chính thức mở miệng đòi Hoàng Sa, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và Bộ Chính Trị CSVN đã biết ý nên tặng trước để lấy lòng.
Trải qua nhiều thời kỳ, có khi đảng phải tự diễn biến để thích nghi với những đổi thay trên thế giới hay làm dịu lòng căm phẫn của người dân nhưng bộ máy công an, nhà tù, các biện pháp đàn áp, trừng phạt, các bản án dành cho những người chống lại các chính sách hà khắc của đảng CS không hề thay đổi.  
Năm 1990, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế bị kết án 20 năm tù vì đòi hỏi CSVN phải tôn trọng nhân quyền. Năm 2017, anh Lê Đình Lượng đòi hỏi CSVN tôn trọng nhân quyền nên bị kết án 20 tù. Hai mươi bảy năm nhưng giá một người Việt Nam yêu chuộng tự do phải trả không bớt được một ngày.

Ba chữ “đảng CS” khắc trong tim, hòa trong máu của các thế hệ lãnh đạo CSVN.
Không ai trong số 13 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng lên đoạn đầu đài ngày 17 tháng 6, 1930 tại Yên Báy đã hô “Việt Nam Quốc Dân Đảng muôn năm”. Ngược lại, không ai trong số các lãnh tụ CS bị xử bắn tại Hóc Môn ngày 28 tháng 8 năm 1941 như Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Hữu Tiến v.v.. đã hô “Việt Nam muôn năm.”
Báo đảng CS viết về cái chết của Võ Văn Tần, Bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ thuộc đảng CS Đông Dương: “Trước lúc hy sinh, tất cả các đồng chí đã giật tung mảnh vải bịt mắt và hô vang khẩu hiệu: “Đảng Cộng Sản Đông Dương muôn năm”, “Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm” (Cách mạng đây là cuộc cờ, canh bạc của đảng CS).
Báo đảng CS viết về cái chết của Nguyễn Thị Minh Khai, Bí thư Thành Ủy Sài Gòn Chợ Lớn: “Sau khi Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, bà bị thực dân Pháp kết án tử hình và bị xử bắn tại Ngã ba Giồng, Hóc Môn ngày 26 tháng 8 năm 1941. Trước khi bị xử tử, bà đã khẳng khái lên án tội ác thực dân Pháp và hô to: "Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm!", thể hiện tinh thần bất khuất, kiên trung của bà.”
Lê Hồng Phong không bị xử bắn. Ông ta bị bịnh và chết ngoài Côn Đảo. Trước khi qua đời, ông Phong không nhờ các bạn tù thắp nén hương trên mộ mẹ hay chào vĩnh biệt nơi chôn nhau cắt rốn, không, theo các báo đảng, ông nhắn nguyên văn thế này: “Xin chào tất cả các đồng chí. Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng: Tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng". (Cách mạng đây là cuộc cờ, canh bạc của đảng CS)
Di chúc Hồ Chí Minh, bản do đảng CSVN công bố có 22 chữ “đảng” và 1 chữ “dân tộc”.
Giống như Võ Văn Tần, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và các lãnh tụ CS khác, Hồ Chí Minh sống là lãnh tụ CS và chết cũng về với các lãnh tụ CS khác: “Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột.”
Tóm lại tất cả lãnh tụ CS chết vì bị xử tử, chết già, chết bịnh đều chỉ nghĩ tới đảng, không ai trong số họ nghĩ tới dân tộc Việt.
Nhưng sau khi tác phẩm “Bên Thắng Cuộc” được phát hành, một phong trào gồm những người dễ dãi bắt đầu dùng chữ “Bên Thua Cuộc” để chỉ phía Việt Nam Cộng Hòa nói riêng và khối người Việt yêu tự do nói chung.

Đảng CS tự đánh cuộc với chính họ.  Người Việt tự do không đánh cuộc nên không “thua cuộc” ai cả.
Dân tộc Việt Nam không ký vào Hiệp Định Geneva 1954. Đây là dây thòng lọng của các cường quốc quấn trên cổ dân tộc Việt. Dân tộc Việt phải chấp nhận để sống cho đến khi đủ lớn mạnh.
Sự phân cực tự do và CS sau Thế chiến Thứ Hai không chỉ diễn ra trong phạm vi ý thức hệ mà còn diễn ra về địa lý tại một số quốc gia, trong đó có Việt Nam. Không một người Việt Nam nào muốn đất nước phải chia đôi và lòng người ly tán, nhưng phải chấp nhận và thuận theo hướng đi của thời đại mà phát triển cho đến một cơ hội thích hợp để đoàn viên dân tộc.
Một lãnh đạo sáng suốt là lãnh đạo biết vận dụng chính sách đối ngoại của các cường quốc và đi theo hướng đi của thời đại.  
Konrad Adenauer của Đức là một chính trị gia yêu nước và thức thời. Mục đích trước mắt của Thủ tướng Adenauer sau 1945 không phải là thống nhất nước Đức mà xây dựng Tây Đức thành một quốc gia độc lập, dân chủ, có chủ quyền và một cường quốc được thế giới công nhận.
Chỉ 10 năm sau Thế Chiến thứ Hai, 1955, Cộng Hòa Liên Bang Đức (Tây Đức) trở thành hội viên của NATO hùng mạnh. Chỉ 12 năm sau Thế Chiến thứ Hai, 1957,  Tây Đức trở thành một trong những quốc gia  lãnh đạo của Cộng Đồng Kinh Tế Châu Âu.
Tương tự, Việt Nam Cộng Hòa không có ý định chiếm đoạt lãnh thổ miền Bắc hay lật đổ cơ chế CS miền Bắc. Chính phủ và nhân dân VNCH hoàn toàn không muốn chiến tranh. Sau một trăm năm chịu đựng không biết bao nhiêu đau khổ dưới ách thực dân, mục đích trước mắt của nhân dân miền Nam là có được cơm no, áo ấm, có được cuộc sống tự do và xây dựng miền Nam thành một nước cộng hòa hiện đại.
Dân chủ là một tiến trình chứ không phải là một cái máy cày hay máy xay lúa được nhập từ nước ngoài và xử dụng giống nhau dù ở Mỹ, Pháp hay Việt Nam.
Trong quá  trình xây dựng nền dân chủ, nước Mỹ đã phải hy sinh trên bảy trăm ngàn thanh niên trong Nội Chiến Hoa Kỳ 1861-1865. Miền Nam Việt Nam cũng có những vấn đề riêng của một quốc gia đang tìm cách vươn lên sau thời kỳ bị lệ thuộc quá dài. Tuy nhiên, đó là chuyện riêng của VNCH, không dính líu hay liên can gì đến chế độ CS ở miền Bắc.
Nhưng đảng CS không tha.
Tháng 5, 1959, Ban Chấp hành Trung ương đảng Lao Động (CS) sau khi biết rằng việc chiếm miền Nam bằng phương tiện chính trị không thành, đã quyết định đánh chiếm miền Nam bằng võ lực dù phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” như Hồ Chí Minh nói. Gần hết đồng bào miền Bắc bị đảng lừa vào cuộc chiến “giải phóng dân tộc” và hàng triệu người đã uống phải viên thuốc độc bọc đường “chống Mỹ cứu nước” nên bỏ thây trên khắp hai miền.
Suốt 20 năm, quân dân miền Nam đã phải chiến đấu trong cuộc chiến tự vệ mà họ không chọn lựa. Miền Nam Việt Nam là nạn nhân của đảng CSVN chứ không “thua cuộc”.
Hàng ngàn người dân vô tội chết ở Huế trong Tết Mậu Thân không “thua cuộc” với ai cả, họ chết vì bị chôn, trong nhiều trường hợp bị chôn sống.
Các em bé chết trong tay mẹ ở nhà hàng Mỹ Cảnh không “thua cuộc” với ai cả, các em bị giết bằng bom của đặc công CS tối 25, tháng 6, 1965.
Những em bé học sinh tuổi mới lên mười ở trường tiểu học Cai Lậy, Định Tường  không “thua cuộc” với ai cả, các em chết oan ức vì đạn pháo kích sáng ngày 9 tháng 3, 1974.
Những bà mẹ che đạn cho con bằng chiếc nón lá và những bà mẹ gánh con chạy giặc trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” 1972 không “thua cuộc” với ai cả, nước mắt của các mẹ là máu chảy nhiều năm.   
Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia bị CS cưỡng chiếm và một ngày sẽ được phục hồi. Ngày phục hồi không chỉ Miền Nam thôi mà cả nước Việt Nam sẽ yên vui dưới chế độ Cộng Hòa.
03 tháng 11/2021
Trần Trung Đạo

https://www.facebook.com/trantrungdao



Từ "Thép đã tôi thế đấy" đến "Nhật ký Đặng Thùy Trâm"

Những ước mơ bị phản bội

Trần Trung Đạo

Giới thiệu: Đây là một trong những bài được đọc nhiều nhất trong thời gian tôi viết trên talawas. Bài nầy đăng trong phần “Notes” của Facebook trước đây. "Notes" đóng nên mang về đây để các bạn nếu chưa đọc có dịp đọc.


Ôi miền Bắc xa xôi bao giờ ta trở lại?"
Đó là dòng chữ hay tiếng nấc cuối cùng của một bác sĩ 28 tuổi ghi lại trong nhật ký của chị ngày 16 tháng 6 năm 1970. Một tuần sau, chị bị một đơn vị lính Mỹ phục kích và bị giết. Cuốn nhật ký của chị được chuyển đến Frederic Whitehurst, gọi tắt là Fred, sĩ quan quân báo Mỹ, để phân tích. Và theo đề nghị của Nguyễn Trung Hiếu, một thượng sĩ quân đội Việt Nam Cộng hòa, Frederic Whitehurst đã giữ lại hai cuốn nhật ký thay vì đốt bỏ sau khi không tìm thấy các dữ kiện liên hệ đến tình báo quân sự. Năm 1972, Fred về nước, trong hành lý của anh có thêm hai kỷ vật chiến tranh: hai cuốn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm.
Mấy chục năm và nhiều lần cố gắng tìm thân nhân của chị Thùy Trâm để hoàn trả không thành công, Frederic Whitehurst đã tặng hai cuốn nhật ký cho viện lưu trữ về Việt Nam Lubblock tại đại học Texas. Trong hội nghị hàng năm về chiến tranh Việt Nam vào trung tuần tháng 3 năm 2005, chính Frederic Whitehurst, chàng sĩ quan quân báo ngày xưa nay trở nên một tiến sĩ hóa học và một luật gia, đã đến dự và lần nữa nhắc đến nhật ký của chị. Cuối cùng, từ phòng họp của Trung tâm Việt Nam thuộc đại học Texas này, một bản sao cuốn nhật ký của chị Đặng Thùy Trâm đã tìm được đường về quê hương sau 35 năm lưu lạc. Ba tháng sau, hai cuốn nhật ký được in chung trong một tác phẩm dưới tựa Nhật ký Đặng Thùy Trâm.
Hành trình của cuốn nhật ký, từ dòng chữ nghiêng nghiêng đầu tiên trên giấy trắng kẻ ô ngả vàng của chị cho đến ngày được in thành sách chẳng khác một cuốn phim truyện với nhiều tình tiết ly kỳ nhưng lại rất thật, rất cảm động và đầy ắp tình người.
Như bụi phong lan sinh ra và dưỡng nuôi bằng những hạt mưa rừng trên nhánh sồi khô giữa rặng Trường Sơn, nhật ký của chị Thùy Trâm sống sót trong khói lửa đạn bom do bàn tay săn sóc của đại diện cho cả ba bên tham dự cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử Việt Nam. Ba yếu tố: những dòng chữ chân thành có một chút mộng mơ của nữ bác sĩ trẻ tuổi, lòng nhân hậu của người lính miền Nam và sự trân trọng của viên sĩ quan quân báo Mỹ, đã gặp nhau như một nhân duyên kỳ diệu để ngày nay Nhật ký Đặng Thùy Trâm, dấu tích của một cuộc chiến tranh tàn khốc, có mặt trong tủ sách chúng ta. Điều đó cho thấy, những ý nghĩ chân thành, những rung động thật từ trái tim bao giờ cũng dễ được cảm thông, không chỉ trong những người cùng thời, cùng chiến tuyến mà ngay cả những người đứng bên kia chiến tuyến.
Trong hai tháng qua, Nhật ký Đặng Thùy Trâm được xem là cuốn sách bán chạy nhất tại Việt Nam. Theo báo Tuổi Trẻ, chỉ trong vòng một tuần lễ, 14.200 cuốn đã được bán ra, riêng trong ngày Chủ nhật 31 tháng 7 đã phát hành 3.800 cuốn. Theo tổng kết mới nhất, Nhật ký Đặng Thùy Trâm đã vượt tất cả kỷ lục sách Việt Nam với hàng trăm ngàn cuốn được in trong một thời gian rất ngắn. Đây không phải là lần đầu tiên một nhật ký chiến tranh được in ra, nhưng chưa nhật ký nào trở nên một hiện tượng trong sinh hoạt văn học và tạo nên một làn sóng tình cảm mạnh mẽ trong nước như nhật ký của chị Thùy Trâm. Tại sao? Ngoài những suy nghĩ chân thành chị viết ra, một phần không nhỏ bởi vì chị là một trí thức trẻ, một người con gái tuổi hai mươi và hành trình khá gian nan của bản thân cuốn nhật ký.
Phản ứng và nhận xét về tác phẩm Nhật ký Đặng Thùy Trâm thì rất nhiều, từ ông cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, ông Thủ tướng Phan Văn Khải đến các nhà văn, nhà thơ, những người bạn cùng chiến đấu với chị trước đây và ngay cả một người như tôi, nhỏ hơn chị hơn một giáp tuổi và sống xa nửa vòng trái đất, cũng muốn viết vài cảm nghĩ về chị.
Đối với các cấp lãnh đạo đảng, đoàn, đây là cơ hội vàng son để đóng khung tô màu lên tấm bảng "Lý tưởng Cộng sản" mà chính họ cũng cảm thấy ngượng ngùng mỗi khi ngó đến. Ông Phan Văn Khải, trong lá thư gởi báo Tuổi Trẻ ngày 4 tháng 8 viết: "Tôi nhớ lại điều đã nêu thành chủ đề của bài phát biểu nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: "Đưa đất nước tiến kịp thời đại với ý chí mãnh liệt như ý chí giành độc lập thống nhất". Tấm gương của Thùy Trâm và Thạc làm cho khát vọng đổi mới và phát triển đất nước càng thấm sâu trong mọi người Việt Nam ở trong nước cũng như nước ngoài, tạo khí thế mới trong lao động học tập và rèn luyện vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc".
Trên báo Tuổi Trẻ ngày 23 tháng 8 năm 2005, ông cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu cũng viết những lời kêu gọi thanh niên như được trích ra từ một nghị quyết nào đó: "Lớp tuổi 20 hiện nay hãy thể hiện lòng biết ơn, sự ngưỡng mộ của mình với những người đi trước, những anh hùng, liệt sĩ bằng hành động và trái tim của tuổi trẻ. Đó là sự cống hiến sức lực, trí tuệ, tài năng của mình cùng cả dân tộc đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới, đưa vinh quang, hạnh phúc cho mọi người, của mọi người. Nối tiếp truyền thống anh hùng của cha anh, góp phần vào thắng lợi của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm cho dân tộc ta bước lên lâu đài hạnh phúc. Đó chính là giá trị đích thực của lẽ sống tuổi trẻ Việt Nam trong thời kỳ mới."
Những khẩu hiệu tuyên truyền thời chiến tưởng đã quên đi chợt bừng bừng sống dậy. Gần hai tháng qua, báo lớn, báo nhỏ, báo già, báo trẻ trong nước, những bài viết nặng mùi tuyên truyền lại được đăng ngay trên trang nhất để ca ngợi chị Đặng Thùy Trâm.

Thế nhưng không phải ai cũng nhắm mắt vỗ tay theo những lời hô hào, ngợi ca sáo rỗng "Đưa đất nước tiến kịp thời đại", "Chủ nghĩa anh hùng cách mạng", "Bước lên lâu đài hạnh phúc"… của ông cựu Tổng Bí thư và ông Thủ tướng, những tiếng nói bộc trực, thẳng thắn của những người cùng thế hệ với chị Thùy Trâm cũng vang lên từ trong nước như những lời cảnh giác dành cho thế hệ trẻ.
Báo Tuổi Trẻ ngày 7 tháng 8 ghi lại câu trả lời của nhà văn Bảo Ninh: "Lần đầu tiên nhìn thấy cuốn nhật ký, tôi đã rất xúc động. Đó là một phần tuổi trẻ của tôi. Đó là những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời tôi. Cái đẹp của sự xả thân. Cái sự xả thân của chị Trâm, anh Thạc hồi ấy sao mà đơn giản thế. Đừng vội gán cho chị Trâm những lý tưởng to tát như vì Đảng, vì dân, cũng đừng cường điệu chị lên, đừng bắt chị phải vác cái huy hiệu "anh hùng". Bởi theo tôi, chị rất đỗi bình thường. Trước cái chết, nếu "không run sợ" tức là đang nói dối! Có lẽ chị Trâm chỉ nghĩ đơn giản là mình nổ súng đánh lạc hướng thì mấy người thương binh sẽ có chút thời gian chạy vào rừng... Phản ứng của độc giả trẻ là hoàn toàn chân thật. Đừng nghĩ thanh niên Việt Nam không thèm quan tâm đến quá khứ mà chẳng qua vì "chúng" không thích những bài giảng sáo rỗng đấy thôi!"
Nhà thơ Bùi Minh Quốc viết trên talawas: "Tôi, người may mắn sống sót sau những hy sinh của Dương Thị Xuân Quý, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Giá, Chu Cẩm Phong cùng hàng triệu đồng bào đồng chí của tôi, từ 1975 trở đi càng ngày càng thấy nhân dân tôi đã lâm vào một bi kịch thê thảm nhất, cay đắng nhất, quái gở nhất: vì độc lập tự do mà cuồng nhiệt tự nguyện dốc cả sông máu núi xương để rồi “tự do” tự nguyện choàng lên cổ mình một cái ách nô lệ “vàng son” mang tên là sự lãnh đạo của Đảng, mà thực chất chỉ là sự cai trị độc đoán của hơn một trăm Ủy viên Trung ương, thậm chí chủ yếu là mười mấy Ủy viên Bộ Chính trị. Nô lệ đến mức người ta bảo bỏ phiếu cho ai là ngoan ngoãn bỏ cho người ấy, chẳng biết người ấy tốt xấu thế nào. Nô lệ đến mức muốn nói điều mình nghĩ, mình thấy, mình biết cũng không báo nào đăng cho, cỡ như cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt trả lời phỏng vấn mà cũng không được đăng trọn vẹn. Nô lệ đến mức người ta áp đặt cái đường lối sai lầm dựa trên một kiểu lý luận nói lấy được (chữ dùng của tướng Trần Độ) là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” cũng không biết mà cãi, hoặc biết mà không dám cãi, hoặc muốn cãi thì cũng không có diễn đàn mà cãi."

Thật vậy, thế hệ trẻ ngày nay hình như không thể tìm thấy chút thành thật nào từ những kẻ đang sống, đang lãnh đạo đất nước nên quay sang lắng nghe tâm sự của những người chết, vì ít ra, người chết không nói dối và không biết sợ.
Giống như nhà văn Bảo Ninh, nhà thơ Bùi Minh Quốc và có lẽ rất nhiều người khác, tôi đọc Nhật ký Đặng Thùy Trâm với một tấm lòng trĩu nặng. Tôi nghĩ về chị như một người thân dù chúng tôi xa cách nhau về mọi mặt. Tôi hình dung căn hầm nhỏ nơi chị ngồi, mái tóc học trò của chị, những giọt mưa rơi trên mái lá, tiếng trực thăng bay trên đầu. Chị trải lòng mình trên trang giấy trong những phút riêng tư và cô đơn tột cùng như thế. Tương tự như nhận xét của anh cựu chiến binh Mỹ Robert Whitehurst, tôi nghĩ chị không viết để gởi lại cho đời sau, và cũng không cần ai thương hại, xót xa hay vinh danh mình.
Ngọai trừ hai chữ Th. và M., viết tắt tên của chị và người yêu, có lẽ những chữ lập lại nhiều nhất trong hai cuốn nhật ký của chị là hai chữ "buồn" và "nhớ". Ngày 4-6-68, chị viết: "Mưa vẫn cứ rơi hoài. Mưa càng thêm buồn thắm thía, và mưa lạnh làm cho người ta thèm khát vô cùng một cảnh sum họp gia đình. Ước gì có cánh bay về căn nhà xinh đẹp để cùng ba má và các em ăn một bữa cơm rau muống và nằm trong tấm chăn bông ấm áp ngủ một giấc ngon lành", và trong nhật ký ngày 18-12-68 chị viết những dòng rất tội, rất đau: "Đêm nay ngồi trực, ngọn đèn mờ trong căn nhà nhỏ, tiếng rên của người bệnh nhân làm mình buồn lạ lùng. Hơn bao giờ hết nỗi nhớ thương trào lên thiết tha cháy bỏng. Hỡi những người thân yêu, đêm nay có ai hiểu hết lòng mình hay không?"

Không giống như chị Sứ trong Hòn Đất của Anh Đức, chị Diệu trong phim Vĩ tuyến 17 ngày và đêm của Hải Ninh được tiểu thuyết hóa đến mức thần thánh và dàn dựng thành phim ảnh chỉ nhằm mục đích tuyên truyền, chị Đặng Thùy Trâm là một người có thật và chính tay mình ghi lại những suy nghĩ rất thật của mình. Nữ bác sĩ 28 tuổi xinh đẹp và hiền từ Đặng Thùy Trâm đã sống và đã chết trên đất nước Việt Nam thân yêu. Nhật ký chị viết dưới những cơn mưa rừng hòa lẫn tiếng mưa bom ở bịnh xá Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, như số phận giọt nước mưa lăn trên mái tóc học trò của chị, trôi xa nhiều ngàn dặm trước khi về lại với quê hương.
Chị dành trang đầu để trang trọng ghi lại câu văn trích từ tác phẩm Thép đã tôi thế đấy của Nikolai Ostrovsky, một nhà văn Sô-Viết qua đời vì bạo bịnh vào tuổi 32: "Cái quí nhất của con người là cuộc sống, đời người ta chỉ sống một lần, phải sống sao cho khỏi phải xót xa ân hận vì những năm tháng sống hoài sống phí, cho khỏi phải hổ thẹn vì những năm tháng sống hoài sống phí, để khi nhắm mắt xuôi tay ta có thể nói rằng: "Cả đời ta, cả sức ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời: Sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người"".

Nhân vật Pavel Korchagin, chiếc bóng của cuộc đời nhà văn Nikolai Ostrovsky, một thời là biểu tượng cho ý chí vươn lên của tuổi trẻ tại nhiều quốc gia cộng sản. Tác phẩm Thép đã tôi thế đấy được xem như là viên đá tảng của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa và là cuốn sách gối đầu giường của thanh niên cộng sản khắp thế giới. Stalin đã tận dụng từng ý, từng câu trong tác phẩm để kích thích các thế hệ thanh niên Sô-Viết lao vào những cuộc chém giết đẫm máu. Nikolai Ostrovsky bịnh nặng rồi chết sớm nên không có dịp chứng kiến tội ác của Stalin đối với dân tộc Balan mùa xuân năm 1940, với đối thủ chính trị của ông ta và với 20 triệu người dân Sô-viết bình thường bị đày ải vào những trại tù xa xôi miền cực Bắc, một nửa số đó đã không bao giờ trở lại.
Không ai trách Nikolai Ostrovsky đã viết nên tác phẩm có tác dụng tiếp tay cho tội ác. Khát vọng bao giờ cũng là một màu xanh vô tội, chỉ có những kẻ lợi dụng khát vọng hồn nhiên của tuổi hai mươi, xô đẩy những mái đầu xanh vào vực thẳm hận thù mới là những kẻ có tội. Ngày nay tác phẩm Thép đã tôi thế đấy, bảng tiếng Anh How The Steel Was Tempered, vẫn còn bày trong nhiều thư viện, vẫn còn được đọc, khác chăng, không phải đọc để hun đúc chí thanh niên mà để học từ những hoang phí đắng cay của một thời thanh xuân lầm lỡ.

Cả Nikolai Ostrovsky và chị Đặng Thùy Trâm đều phấn đấu để trở thành người cộng sản, nhưng cuộc đời của Nikolai Ostrovsky khác nhiều so với đời chị Thùy Trâm. Nikolai Ostrovsky hy sinh cho chủ nghĩa cộng sản, ngoài khát vọng tuổi trẻ mà ông tin, còn là một hình thức trả ơn. Trong lá thư gởi cám ơn Stalin sau khi được trao tặng huân chương Lenin, Nikolai Ostrovsky bày tỏ lòng biết ơn Đảng Cộng sản đã vực ông dậy từ những nghèo nàn và bạc đãi của xã hội và biến một kẻ thiếu học như ông thành một nhà văn Sô-Viết. Chị Thùy Trâm thì khác. Chị sinh ra và lớn lên trong môt gia đình trí thức. Gia đình chị bị xếp vào giai cấp tiểu tư sản, thành phần xã hội mà Friedrich Engels trong tác phẩm Cách mạng và phản cách mạng ở Đức định nghĩa là những kẻ chỉ biết: "khoe khoang, không có khả năng hành động và lẩn tránh một cách nhút nhát khi cần phải làm một cái gì nguy hiểm."
Đa số các buổi chỉnh huấn đảng được ghi lại trong nhật ký, chị đều bị phê bình: "Tính tiểu tư sản vẫn còn". Chính chị cũng thừa nhận điều đó khi viết cho Thuận, em nuôi của chị, trong nhật ký ngày 18-5-69 những dòng lãng mạn và tinh nghịch: "Em ơi, bao giờ chị cũng thương em vô hạn, nhưng tình thương đâu phải chỉ là những buổi sáng nắng hồng rực rỡ, những buổi chiều êm ả hay những đêm trăng mênh mông trên đồng lúa yên lành. Mà tình thương còn là những cơn giông sau những ngày hè êm ả. Vậy đó, làm bạn với một đứa tiểu tư sản thật là phức tạp".

Dù chế độ có nhào nặn thế nào vẫn không xóa hết được những tình cảm tự nhiên trong tâm hồn người con gái nhiều mơ mộng Đặng Thùy Trâm. Trong nhật ký ngày 1-9-68, mặc dù phần trên chị chép lại một câu văn nặng tính đảng của ai đó: "Hãy giữ vững tinh thần của người cộng sản, tinh thần trong suốt như pha lê, cứng rắn như kim cương và chói lọi muôn ngàn hào quang của lòng tin tưởng", thì ngay trong hàng kế chị lại viết: "Nói vậy mà vẫn thấy xót xa, cay đắng và cô đơn lạ thường".
Chị Thùy Trâm phấn đấu để được vào đảng, vì đơn giản đó là nơi duy nhất chị được dạy để tin vào, để dựa vào, để vươn lên và đó cũng là chiếc thang xã hội mà mọi người, trong đó có chị, phải tìm cách trèo lên chứ chưa hẳn phát xuất từ tình yêu giai cấp. Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy chị viết về tình yêu, tình người, tình chị, tình em tự nhiên, ngọt ngào hơn nhiều khi viết về tình đảng. Cái nhiệt tình, đúng ra là háo hức mang tính thời thượng của một người trẻ mong được trở thành đảng viên cộng sản cũng nguội lạnh dần ngay khi chị đưa tay tuyên thệ làm một đảng viên. Nhật ký của chị trong ngày gia nhập đảng 27-9-68: "Còn niềm vui, sao nhỏ nhoi quá so với ý nghĩa của ngày vui. Vì sao vậy hả Thùy? Phải chăng như hôm nào Thùy đã nói như một đứa con khát sữa mẹ khóc đã mệt rồi, miếng sữa nuốt vào không còn nguyên hương vị thơm ngon và cái thú vị của nó nữa."
Trong những ngày phấn đấu gian nan chị đã cảm thấy đảng không phải là nơi tập trung những kẻ "sống vì mọi người" như chị được dạy trong môi trường giáo dục ở miền Bắc. Ngày 15-6-68, chị viết những dòng đanh thép: "Điều đáng buồn nhất là trong những hy sinh gian khổ ấy, Th. chưa thấy được sự công bằng, sự trung thực. Chưa có sự đấu tranh để thắng được những cái ti tiện, đớn hèn cứ xảy ra làm sứt mẻ danh dự của hai chữ Đảng viên và làm mòn mỏi niềm vui say công tác của mọi người trong bệnh xá. Cả mùa khô ác liệt không một lúc nào mình thấy bi quan, mình luôn cười trong gian khổ vậy mà bây giờ mình đau khổ quá đi. Kẻ thù phi nghĩa mình không sợ, mà sợ những nọc độc của của kẻ thù còn rớt lại trong đồng chí của mình".

Đọc đoạn văn trên tôi chợt nhớ đến câu trả lời của nhà văn Dương Thu Hương với phóng viên Evan Williams của đài truyền hình Úc trước đây. Giống như chị Thùy Trâm, chị Dương Thu Hương cũng nói về những con người ti tiện: "Tôi không thể tin tưởng một chút gì về chính phủ của mình vì đây là những con người cực kỳ hèn hạ và thấp kém. Họ không có một tí nhân cách nào để tôi tin tưởng cả. Tôi hiểu rất rõ về họ. Họ chỉ hoàn toàn là những con người ti tiện. Những lớp người tốt mà ngày xưa còn chút lý tưởng đã chết, chết hết rồi. Bây giờ chỉ còn lại những người thế chân; đấy là những kẻ đê tiện, những kẻ ăn cắp một cách trắng trợn gian manh".
Và tôi chợt tiếc, phải chi chị Đặng Thùy Trâm còn sống đến hôm nay, trong văn giới Việt Nam hẳn có thêm một Dương Thu Hương can đảm khác.
Như hàng triệu thanh niên lớn lên trong một đất nước bị phân chia, ngăn cách, chị Thùy Trâm khao khát một ngày hòa bình. Chị viết trong nhật ký ngày 4-6-68: "Đêm qua mơ thấy Hòa bình lập lại, mình trở về gặp lại mọi người. Ôi, giấc mơ Hòa bình, Độc lập đã cháy bỏng trong lòng cả ba mươi triệu đồng bào ta từ lâu rồi. Vì nền Hòa bình Độc lập ấy mà chúng ta đã hy sinh tất cả."
Vâng, không riêng gì chị Thùy Trâm mà tuyệt đại đa số người Việt Nam đều mơ ước hòa bình. Giọt nước mắt già nua của mẹ đợi chờ bao nhiêu năm chỉ để khóc trong mừng vui cho ngày con trở lại. Tiếc thay, chị Đặng Thùy Trâm chết sớm nên không có dịp chứng kiến một đất nước hòa bình trong máu và nước mắt chứ không phải trong nụ cười đoàn viên dân tộc mà chị hằng mơ ước.
Đất nước không còn tiếng súng nhưng hàng triệu người dắt nhau đi ăn xin trên quê hương vừa thống nhất trong điêu tàn đổ nát. Bóng đêm của nghèo đói phủ trùm lên số phận một dân tộc đã phải chịu đựng hơn một phần tư thế kỷ chiến tranh và tàn phá. Những chuyến đi đày vào những trại tập trung xa xôi đã thay thế cho những giấc mơ hồi hương trong ấm êm hạnh phúc. Những đêm mưa gió bão bùng trên vùng kinh tế mới đã thay cho những giờ phút an vui, quây quần bên bếp lửa gia đình. Là một người có trái tim nhân hậu, nếu còn sống, chị Thùy Trâm sẽ nghĩ sao và làm gì trước những cảnh này?
Không phải chỉ người dân miền Nam thôi mà cả thanh niên miền Bắc cũng là nạn nhân của chế độ. Đọc đoạn nhật ký nói lên ước mơ hòa bình của chị tôi chợt nghĩ đến tâm sự cô đơn, trống vắng của người lính miền Bắc trở về trong bài thơ “Ngày hòa bình đầu tiên” của nhà thơ Phùng Khắc Bắc:
Những sợi nắng xuyên qua nhà mình
Thành những mũi tên
Thành những viên đạn,
Bắn tiếp vào anh không gì che chắn
Phải nhận tất cả,
Van anh.
Hôm qua chưa nhận được một viên đạn
Hôm nay nhận những lỗ thủng
Anh về quê không mang súng
Vũ khí lúc này hai bàn tay
Mẹ giục:
- Ăn cơm, con!
Hòa bình trong canh cua, mồng tơi, cà

Mùi ổ rơm.
Tôi vẫn nhớ ngày đọc xong bài thơ của Phùng Khắc Bắc, tôi dò hỏi về tiểu sử của anh và biết anh đã qua đời sau một thời gian sống trong bịnh hoạn, nghèo nàn, túng quẫn. Đọc tâm sự của một nhà thơ bộ đội trong ngày hòa bình đầu tiên của đất nước để hiểu rằng những xót xa này không phải của riêng ai.

Chị Đặng Thùy Trâm chết trên mảnh đất miền Nam, nơi mà chị cảm thấy "thiết tha gắn bó vô cùng" nhưng chị chưa thực sự sống trong lòng một miền Nam đúng nghĩa. Những công sự tối tăm, những căn lán nhỏ ở Đức Phổ không thể đại diện cho miền Nam. Miền Nam thật sự không có những người "đang rên siết dưới gọng kềm đế quốc", đang thoi thóp chờ "hạt gạo chẻ làm đôi" mang vào từ miền Bắc như giới lãnh đạo Đảng nhồi nhét vào tâm hồn đa cảm của chị. Chị và hàng ngàn thanh niên miền Bắc tình nguyện vào "giải phóng miền Nam" cũng chỉ vì tin như thế.
Miền Nam chị chưa gặp là những cánh đồng bát ngát, những dòng sông nhuộm đỏ phù sa, những vườn cây sai trái, những con người chơn chất hiền hòa. Miền Nam chị chưa đến có những con đường phượng đỏ, hàng me xanh tình tự, những tà áo trắng hồn nhiên, những bài hát đượm tình yêu quê hương và đôi lứa.
Miền Nam có hàng triệu người như anh thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu, những người phải chiến đấu trong một cuộc chiến tự vệ vô cùng khắc nghiệt nhưng lúc nào cũng có trái tim nhân hậu dành cho chị và những người cùng máu mủ dù đang phải đứng đâu trong cuộc chiến đau lòng này. Chị Đặng Thùy Trâm chết sớm nên không có dịp nhìn thấy hàng triệu đồng bào miền Nam thân yêu của chị phải dắt dìu nhau ra biển tìm tự do, và chị không còn sống để có cơ hội hiểu được thực chất của chế độ mà chị đã đem hết tuổi thanh xuân để phục vụ.
Chị căm thù lính Mỹ, những người mà chị có lần hằn học miêu tả trong nhật ký ngày 19-1-69 là "bọn quỷ khát máu vẫn đang giày xéo lên quê hương". Đó cũng là điều dễ hiểu. Là một bác sĩ trẻ, rất dễ buồn và đa cảm, mỗi ngày chứng kiến cái chết của bạn bè, anh em, của Khiêm, của Thuận, những người thân thiết nhất trong ngày tháng xa nhà của chị, lòng thù hận dâng cao trong lòng chị là điều không tránh khỏi.
Thế nhưng, sinh ra và lớn lên trong môt xã hội đóng khung trong bốn bức tường chuyên chính như con chim non trong lồng sắt, làm sao chị biết được ngoài kia trời đang nắng hay mưa.
Suốt 28 năm bị rèn dũa trong một hệ thống giáo dục chỉ trang bị cho chị những câu trả lời mà không cho chị cái quyền được hỏi, làm sao chị hiểu được ai thực sự là những kẻ đang giày xéo quê hương.
Làm sao chị hiểu được rằng năm 1959, khi giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam quyết định mở đường Trường Sơn "giải phóng miền Nam bằng phương tiện võ lực", số lượng "giặc Mỹ xâm lược" tại miền Nam cũng chẳng nhiều hơn so với số cố vấn Trung Quốc, cố vấn Liên Xô ở miền Bắc.
Làm sao chị hiểu được rằng, vào những năm đầu của thập niên 60, võ khí của Mỹ viện trợ cho miền Nam cũng không nhiều hơn so với võ khí của Trung Quốc và Liên Xô đang ào ạt vận chuyển vào cảng Hải Phòng.
Làm sao chị hiểu được rằng khẩu hiệu "Độc lập tự do" chỉ là chiếc bánh vẽ mà dân tộc ta mấy chục năm nay chẳng thể nào ăn được.
Làm sao chị hiểu được rằng dù có Mỹ hay không có Mỹ, dù bằng phương tiện hòa bình hay phải "đốt cháy cả dải Trường Sơn" thì chủ nghĩa cộng sản độc tài chuyên chính vẫn phải được thiết lập trên toàn cõi Việt Nam.
Và chị làm sao hiểu được nỗi đau của đồng chí, bè bạn, anh em chị còn sống sót, những người đã một thời tin vào Đảng như tin vào ánh sao Hôm sẽ dẫn lối về nhà. Ba mươi năm qua họ vẫn thức dậy mỗi đêm nhìn ánh sao Hôm mà thầm trách lấy chính mình. Trên giá sách họ cũng có những cuốn nhật ký dày và chân thật như của chị, dấu tích của những tháng ngày bão lửa chưa phai, nhưng khác chăng những nhật ký như thế sẽ không bao giờ xuất bản.

Cầu xin hương linh chị phò hộ cho đất nước chúng ta sớm qua đi thời đại của độc tài, hận thù, rẽ chia, ghen ghét, xin chị phò hộ cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau được sống trong dân chủ, tự do, no ấm, biết yêu thương nhau và che chở cho nhau.
Nếu giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam còn chút tình nghĩa nào dành cho những người đã chết thay cho họ, xin hãy để chị Thùy Trâm ngủ yên với những ước mơ xanh của chị. Đặng Thùy Trâm đã chết một lần rồi, đừng bắt chị phải chết thêm lần nữa.
03 tháng 06.2021
Trần Trung Đạo

https://www.facebook.com/trantrungdao




PAVLIK MOROZOV, LÔI PHONG, VÕ THỊ SÁU:

NHỮNG NẠN NHÂN CỦA "CHỦ NGHĨA ANH HÙNG"

Nikolai Bukharin, lý thuyết gia Cộng Sản, chủ nhiệm báo Sự Thật, cơ quan ngôn luận chính thức của đảng CS Liên Xô và người bị Stalin thanh trừng năm 1938, viết trong tác phẩm ABC về Chủ nghĩa Cộng Sản: “Tuyên truyền về chủ nghĩa cộng sản, về lâu dài trở thành một phương tiện để xóa bỏ mọi tàn tích cuối cùng của tuyên truyền tư sản bắt nguồn từ chế độ cũ, và là phương tiện mạnh mẽ để tạo ra một hệ lý luận mới, một cách suy nghĩ mới, một tầm nhìn về thế giới mới.”
Nikolai Bukharin thừa nhận và khẳng định mục đích của tuyên truyền là “xóa bỏ mọi tàn tích” của chế độ cũ và xây dựng một con người mới, con người xã hội chủ nghĩa.
Năm phương pháp căn bản để “xóa bỏ”
John A. Saliba trong nghiên cứu Perspectives on New Religious Movements sau khi so sánh phương cách tuyển dụng tín đồ của các tà đạo và tẩy não kiểu Cộng Sản, đã tổng kết năm kỹ thuật căn bản được áp dụng theo thứ tự gồm:
1. Kiểm soát toàn bộ và cô lập đối tượng.
2. Làm suy nhược thân thể đối tượng.
3. Gây rối loạn tinh thần và tạo bất an cho đối tượng.
4. Làm đối tượng cảm thấy tội lỗi và nhục nhã.
5. Làm cho đối tượng cảm thấy thư thái như được cứu rỗi và hồi sinh.

Nhà tâm lý học Robert Jay Lifton nghiên cứu chính sách tẩy não Trung Cộng đã áp dụng với tù binh Mỹ và rút ra mười kết luận, về căn bản không khác nhiều so với năm điểm John A. Saliba tổng kết.
Các nhà nghiên cứu về chủ nghĩa CS trước đây thường nghĩ ý thức hệ CS Trung Quốc được du nhập từ Liên Xô nên các phương pháp tuyên truyền cũng là sản phẩm của Liên Xô. Nhưng sau đó, khi nghiên cứu thêm, phần lớn thừa nhận là không đúng. Tuyên truyền tại Trung Cộng tinh vi và thâm độc hơn CS châu Âu nhiều.
Nhận thức của con người không ở trong trạng thái tĩnh nhưng luôn luôn biến động, thay đổi và đón nhận các nguồn thông tin từ bên ngoài bao gồm xã hội, giáo dục, môi trường thiên nhiên và cả cơ thể của chính con người. Chủ động kiểm soát được nguồn thông tin đi vào ý thức con người là kiểm soát được con người.
Trong chế độ CS, năm phương pháp tẩy não trên đây được thực hiện liên tục, phối hợp chặt chẽ và tác dụng hỗ tương vào nhận thức con người cho đến khi đối tượng hoàn toàn bị đặt trong vòng kiểm soát.

Tuyên truyền CS tập trung vào giới trẻ
Các nguồn thông tin do chế độ CS cung cấp có tính hệ thống, theo từng tuổi, từng giai đoạn trưởng thành thâm nhập, củng cố và đóng đinh trong ý thức. Đối tượng được đảng nhắm đến trước là thế hệ trẻ vì tuổi trẻ ngoài năng lực còn là tuổi của khát vọng xanh tươi, nhiệt tình nồng cháy, chưa có những tham vọng cá nhân.
Để khai thác, bộ máy tuyên truyền của đảng sản xuất các “anh hùng” mang tinh thần dâng hiến, hy sinh và vô vụ lợi. Trung Cộng có Lôi Phong, Liên Xô có Alexey Stakhanov, CSVN có Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu v.v…
Sau khi phong trào CS Châu Âu sụp đổ để lộ nguyên hình những Pavlik Morozov, Alexey Stakhanov chỉ là những câu chuyện ngụy tạo chung quanh con người thật với mục đích đánh lừa nhận thức người dân. Hiện nay, các “anh hùng” này trở thành chuyện cười dân gian như tại Nga, một số khác đi vào các viện bảo tàng tội ác CS như tại Hungary.
Nhưng tại Trung Cộng và Việt Nam, không ít “anh hùng” vẫn còn được tôn thờ và còn tiếp tục gây tác hại.

Liên Xô với Pavlik Morozov
Câu chuyện chủ nghĩa anh hùng của Pavlik Morozov có lẽ là chuyện phổ biến nhất tại Liên Xô. Cậu bé Pavlik Morozov, theo tài liệu tuyên truyền, năm 1932 khi cậu lên 13 tuổi, đã tố cáo cha mình cho chính quyền CS địa phương về tội làm giấy thông hành giả để bán cho các thành phần chống phá chế độ. Cha cậu, Trofim Morozov, bị bắt, bị xử án mười năm lao động khổ sai và sau đó bị xử bắn.
Sau khi tố cáo, Pavlik Morozov bị giết vì một lý do nào đó. Một số lời tố cáo không bằng chứng cho rằng Pavlik Morozov bị bà con giết để trả thù cho Trofim Morozov.
Bộ máy tuyên truyền Liên Xô nhân câu chuyện đó đã biến Pavlik Morozov thành anh hùng, người dù tuổi còn nhỏ đã biết đặt quyền lợi của Xô Viết lên trên tình nghĩa cha con. Những người can vào tội giết Pavlik Morozov đều bị bắt và xử bắn. Pavlik Morozov được vinh danh như là “Thiếu niên Tiền Phong số 1” và ngày cậu bị giết, 3 tháng Chín, 1932 là một ngày lễ mà nhiều triệu thiếu niên Liên Xô phải ghi khắc. Pavlik Morozov được ca ngợi như một học sinh giỏi, yêu nước và kính trọng thầy cô.
Tuy nhiên một thời gian ngắn trước và sau khi Liên Xô sụp đổ nhiều tác giả đã đến tận nơi phỏng vấn những nhân chứng còn sống sót và xem xét tại chỗ nơi cậu đã sinh ra, đi học và bị giết. Các tác giả đồng ý, các chi tiết chung quanh cách chết của Pavlik Morozov chỉ là tưởng tượng nhằm mục đích tuyên truyền.  
Tấm hình duy nhất của Pavlik Morozov còn để lại  là một cậu bé thiếu dinh dưỡng, ốm o, gầy gò không giống tấm hình giả của một Pavlik Morozov phương phi được in trong hàng triệu bích chương, biểu ngữ, sách vở.
Cậu không phải là một học sinh giỏi, chuyên cần nhưng gần như không biết đọc, ngỗ nghịch trong lớp học. Cậu cũng không tố cha để bảo vệ chế độ Xô Viết nhưng do mẹ xúi vì giận cha cậu bỏ rơi bà. Không có bằng chứng cụ thể nào cho thấy ông và chú của Pavlik Morozov đã giết cậu. Cái chết của Pavlik Morozov có thể xảy ra sau khi gây gổ với nhóm trẻ khác về một khẩu súng.
Tatyana Kuznetsova, giám đốc “Viện Bảo Tàng Pavlik Morozov” thời Liên Xô nhìn lại và thừa nhận “Pavlik Morozov có thể không phải là anh hùng mà chỉ là một cậu bé, nhưng thời gian đó chúng tôi cần những anh hùng.”

Trung Cộng với Lôi Phong
Chuyện “anh hùng lao động” Lôi Phong một năm sau khi bị trụ đèn đè chết trở thành anh hùng cũng là một ví dụ rất hề nhưng nhiều triệu người tin.
Lôi Phong có thể là tên của một người có thật. Nhưng sau khi chết vì tai nạn, anh được bộ máy tuyên truyền CSTQ biến thành thần thánh. Một phong trào “noi gương đồng chí Lôi Phong” được Mao phát động trong phạm vi cả nước. Ngoài việc phát hành nhật ký Lôi Phong đầy những lời ca tụng Mao, bộ máy tuyên truyền Trung Cộng còn trưng bày nhiều hình ảnh của Lôi Phong đang “lao động quên mình” khi còn sống.
Susan Sontag, một nhà sản xuất phim ảnh sau khi xem xét bộ ảnh 12 tấm của Lôi Phong đã nhận xét những bức ảnh đó được chụp bằng một điều kiện kỹ thuật tuyệt hảo đến mức khó có một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp nào có thể có mặt bên cạnh Lôi Phong để chụp mà không phải chuẩn bị các điều kiện kỹ thuật và ánh sáng một cách kỹ càng.
Ngoại trừ các bậc tiên tri, không ai có thể biết trước một anh chàng binh nhì Lôi Phong khi anh ta gần như vô danh tiểu tốt, để đi theo và ghi lại “cuộc đời anh hùng”, “một người vì mọi người” của anh ta qua một bộ ảnh chuyên nghiệp.
Các nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp quốc tế đồng ý bộ ảnh chỉ là một sản phẩm tuyên truyền được tạo dựng sau khi Lôi Phong chết. Bây giờ, với một số người Trung Quốc có học, chuyện Lôi Phong là một chuyện cười nhưng đã có một thời người tuyệt đại đa số dân Trung Quốc tin một cách chân thành.
Ran Yunfei, một nhà hoạt động dân chủ Trung Quốc, cho The New York Review of Books, biết về Lôi Phong “Tất cả những gì đảng CS dạy bạn để kính phục đều là những chuyện giả dối. Hiện nay họ lại thúc đẩy học tập Lôi Phong lần nữa nhưng ai cũng biết Lôi Phong là nhân vật giả tưởng do đảng CS nặn ra. Tất cả ‘anh hùng’ đều là giả tạo.”

Việt Nam với Võ Thị Sáu
Trường hợp của Pavlik Morozov, Lôi Phong và Võ Thị Sáu giống nhau vì đều chỉ trở thành “anh hùng” sau khi chết.
Theo sách vở và phim ảnh của đảng, ngày bị xử bắn, bà Võ Thị Sáu còn rảnh rỗi để đi dạo và hái hoa cài lên tóc của mình. Câu chuyện mô tả suy nghĩ của bà Võ Thị Sáu lúc đó giống như một công chúa cao sang đài các chứ không phải tâm trạng một tử tù sắp chết. Một người tỉnh táo, có nhận thức trưởng thành không ai đi “tắm nắng” trong giờ vĩnh biệt cuộc đời. Bao nhiêu việc phải làm đối với đất nước, đồng bào, bạn tù và gia đình còn ở lại.
Nhưng tại sao đã có hàng triệu người tin vào chuyện Lôi Phong hay Võ Thị Sáu?
Phải chăng, bộ máy tuyên truyền gồm những người ngu đến mức bịa những chuyện quá xa với thực tế?
Không phải. Bởi vì, hiệu quả của tuyên truyền không chỉ tùy thuộc đơn thuần vào kỹ thuật dàn dựng tinh vi nhưng quan trọng là đáp ứng đúng mức độ dân trí trong thời điểm đó.
Ngày nay, một người có chút học thức và có khả năng căn bản để đánh giá một sự kiện, đều biết chuyện Võ Thị Sáu là chuyện bịa nhưng trong thập niên 1950 đã có vô số người tin. Bao nhiêu thanh niên miền Bắc đã từng sôi sục máu căm thù khi nghe giọng Bích Liên cất lên thê thiết “Chị Sáu đã hy sinh rồi, giọng hát vẫn như còn vang dội …”
Không phải đợi đến khi nhà thơ Nguyễn Duy kể mà từ nhiều năm trước ở vùng Bà Rịa, người dân địa phương đã truyền miệng nhau câu chuyện thật về bà Võ Thị Sáu bị bịnh khùng.  Không ai ngụy tạo sự kiện này mà ngay trong phim ảnh do đảng thực hiện cũng mô tả một Võ Thị Sáu bất bình thường.
Giống như Pavlik Morozov của Liên Xô, Lôi Phong của Trung Quốc, nhân vật Võ Thị Sáu là một người thật. Đảng Cộng Sản lợi dụng bà trong tuổi vị thành niên và bịnh tật đáng thương để khích động, xúi giục làm một kẻ sát nhân, khủng bố khi chỉ mới 14 tuổi đầu và không chỉ một lần mà nhiều lần.  
Một ngày không xa những Tôn Đức Thắng, Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu v.v... cũng giống như Alexey Stakhanov, Pavlik Morozov của Nga sẽ trở thành chuyện cười dân gian hay rơi vào quên lãng. Vâng, nhưng bên trong những chuyện cười và bóng tối lãng quên đó là dấu tích của một thời tàn phá bất nhân và thâm độc nhất trong lịch sử Việt Nam và sẽ tác hại sâu xa trong văn hóa nhiều đời sau.
27.05.2021
Trần Trung Đạo

https://www.facebook.com/trantrungdao


TẨY NÃO VÀ GIẢI TẨY NÃO

( Võ Nguyên Giáp, một trường hợp nghiên cứu)

Lưu ý: Đây là bài thứ hai về tẩy não đăng trong phần "Notes" của Facebook trước đây. Mời đọc bài "Bàn Về Tẩy Não" trước bài này. Nếu bạn nghĩ không có gì trở ngại lắm xin góp phần phổ biến bài viết bởi vì như George Orwell đã viết “trong xã hội đầy lừa dối, cất lên một tiếng nói thật là một hành động cách mạng” rồi.


Việt Nam có hai ông Võ Nguyên Giáp. Một ông Võ Nguyên Giáp đã chết từ năm 1984 và một ông Võ Nguyên Giáp qua đời năm 2013. Hai ông Võ Nguyên Giáp về thịt xương chỉ là một ông nhưng trong quan điểm của lãnh đạo CS lại là hai. Khi Võ Nguyên Giáp còn sống đảng xem như đã chết nhưng khi Võ Nguyên Giáp tắt thở đảng lại quyết định ông ta phải sống và sống như một “anh hùng dân tộc”.
Ngày ông Giáp qua đời, các trang mạng “lề dân”, các hãng tin quốc tế trong đó có BBC loan tin sớm nhất.
Hai mươi bốn giờ đầu tiên, tờ Nhân Dân và cả Thông Tấn Xã Việt Nam, hai cơ quan ngôn luận chính thức của đảng CSVN không đưa tin ông Giáp từ trần.
Lý do, Bộ Chính trị cần phải họp để quyết định có nên cho phép ông Giáp chết chưa, chết như thế nào, chết ngày nào và an táng ra sao.
Hơn một ngày sau, đảng quyết định Võ Nguyên Giáp “nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Quân ủy Trung ương, nguyên Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ; nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam; Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII…đã từ trần hồi 18 giờ 9 phút, ngày 4-10-2013 (tức ngày 30 tháng 8 năm Quý Tỵ), tại Bệnh viện T.Ư Quân đội 108; hưởng thọ 103 tuổi.”
Thông cáo chỉ dài một trang nhưng cố tình viết sót.
Thông thường trong cáo phó hay tiểu sử, chức vụ cuối cùng là chức vụ chính thức và các chức vụ khác trước đó được viết sau hay bỏ sót cũng không sao.
Chức vụ về mặt nhà nước cuối cùng trước khi nghỉ hưu của ông Giáp không phải là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam mà là Phó Thủ tướng kiêm Chủ tịch Ủy ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ Có Kế hoạch chiếu theo quyết định bổ nhiệm số 58/HĐBT do Phạm Văn Đồng ký ngày 18 tháng 4 năm 1984. Khi đó ông đã rời chức Bộ Trưởng Quốc Phòng đến bốn năm.
Một chức vụ cả thế giới đều biết mà đảng còn giấu được nói chi những chuyện khác. Việc xóa đi chức vụ lo phần sinh đẻ của ông Giáp là một cách thừa nhận chức vụ đó chẳng qua là vết chàm nhục nhã do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đóng lên trán của ông Giáp.
Dù sao ông Võ Nguyên Giáp là một người may mắn.
Khi còn sống ông có nằm mơ cũng không nghĩ mình được ca ngợi, vinh danh và thương tiếc nhiều đến thế. Ngoại trừ Hồ Chí Minh, những lãnh tụ CS cùng thế hệ không ai được ca ngợi như ông.
Việc ông chọn được an táng ở một nơi vắng vẻ thay vì nghĩa trang Mai Dịch cho thấy tâm trạng của Võ Nguyên Giáp là tâm trạng của kẻ thua cuộc và từ lâu đã bị bỏ rơi. Ngoài ra, chắc ông cũng cảm thấy khó chịu khi nghĩ đến việc phải nằm cạnh Lê Duẩn, Văn Tiến Dũng, Trường Chinh.
Nếu Võ Nguyên Giáp chết vào đầu thập niên 1980 khi Lê Duẩn còn sống hay khi Đỗ Mười làm tổng bí thư có lẽ cũng không hơn gì những sĩ quan cấp tướng khác như Lê Trọng Tấn (1914-1986), Hoàng Văn Thái (1915-1986). Trường Chinh so với Võ Nguyên Giáp còn cao hơn cả đảng tịch lẫn chức vụ nhưng khi chết cũng không được tổ chức đình đám hơn.
Dưới chế độ CS, khóc thương, nguyền rủa, ca ngợi hay phê bình kiểm thảo cũng đều có chủ trương, có chính sách chứ không phải là một tình cảm tự nhiên.
Tận diệt kẻ thù còn sống nhưng lợi dụng mọi ảnh hưởng có lợi của kẻ thù đã chết cũng là một trong những đặc điểm trong bộ máy cai trị CS khắp thế giới. Stalin khóc Sergey Kirov, Fidel Castro khóc Ernesto “Che” Guevara, Đặng Tiểu Bình khóc Mao Trạch Đông. Tình đồng chí trong giới lãnh đạo đảng CS chỉ có trong các điếu văn.
Cùng phát xuất một nguồn nên CSVN cũng chẳng tốt hơn Liên Xô, Trung Cộng. Ca tụng kẻ chết không gây tác hại gì. Xác chết không nghe được lời ca tụng, không nếm được mỹ vị cao lương, không sống trong các biệt thự có kẻ hầu người hạ, chỉ có đám độc tài đang thống trị đất nước mới thật sự là những kẻ hưởng thụ quyền lực, sống trong chiếc bóng những người đã chết.
Họ đối xử nhau còn tệ hơn giới giang hồ đâm thuê chém mướn. Danh vọng và quyền lực làm mờ nhân tính trong con người họ. Lê Duẩn liên minh với Lê Đức Thọ để loại Võ Nguyên Giáp, rồi Lê Đức Thọ tính hại Lê Duẩn ngay cả khi y đang nằm trên giường bịnh vì không chịu viết di chúc truyền chức tổng bí thư. Đoàn Duy Thành kể trong hồi ký Làm người là khó, khi Lê Duẩn sắp chết con cái y còn lo cánh Lê Đức Thọ sẽ giết chết hết cả gia đình.
Nhưng tại sao lãnh đạo CSVN lại muốn Võ Nguyên Giáp tiếp tục sống như một “anh hùng dân tộc” trong giai đoạn này?

Lãnh đạo CSVN cố dựng lại tấm bình phong chính danh lịch sử
Như người viết đã trình bày trong bài Cách mạng dân tộc dân chủ trong tình hình mới trên talawas trước đây, một câu hỏi thường được đặt ra, tại sao các nước Cộng Sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ mà Cộng Sản tại các nước Á châu như Trung Cộng, Việt Nam không sụp đổ. Mặc dầu mỗi nhà phân tích chính trị có thể giải thích nguyên nhân một cách khác nhau tùy theo góc độ họ đứng và mục đích nghiên cứu, đa số đã đồng ý rằng các nước Cộng Sản tại Á Châu có một điểm mà các nước Cộng Sản Đông Âu không có, đó là sự liên hệ lịch sử giữa dòng sống của đảng Cộng Sản và dòng sống của đất nước nơi đảng ra đời. Đảng Cộng Sản Trung Quốc được thành lập 1921 trong cuộc kháng chiến chống Nhật, đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời 1930 trong cuộc kháng chiến Pháp. Lãnh đạo Trung Cộng và CSVN đã vận dụng tối đa mối liên hệ này.
Tại Trung Cộng, Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo CS Trung Cộng biết rõ hơn ai hết, cây cột duy nhất có thể giữ chế độ CS khỏi sụp đổ là tính chính danh lãnh đạo của đảng CS. Giáo sư Peter Hays Gries, một chuyên gia về Trung Cộng, viết “Thiếu vắng tính hợp luật dựa theo thủ tục để bầu ra các chính phủ theo các nguyên tắc dân chủ, và đối phó với sự sụp đổ của hệ tư tưởng Cộng Sản, đảng Cộng Sản Trung Hoa gia tăng phụ thuộc vào các tiêu chuẩn dân tộc để cai trị đất nước.”
Lãnh đạo CSVN sao chép toàn bộ lý luận của Đảng Cộng Sản Trung Quốc kể cả việc lợi dụng mối liên hệ lịch sử ngắn ngủi giữa đảng CS và dân tộc để giải thích tính chính danh của đảng trong tương lai lâu dài của dân tộc.
Đừng quên, trong thời điểm chống thực dân Pháp, không phải chỉ có đảng CS mà rất nhiều đảng, nhiều phong trào cách mạng khác ra đời từ nam đến bắc để cùng đánh đuổi thực dân. Tuy nhiên, không có một phong trào nào, một đảng phái nào trong cương lĩnh tự cho rằng vì họ đánh Pháp nên đảng của họ có đặc quyền lãnh đạo cách mạng, đặc quyền lãnh đạo đất nước, không chỉ hôm nay và mãi mãi về sau như đảng CSVN. Đó là lý luận của kẻ cướp nước.
Sau bao nhiêu năm cai trị, chưa bao giờ đảng CSVN bị phải đương đầu với nhiều khó khăn như hôm nay. Ngoài sự phân hóa nội bộ và một nền kinh tế suy sụp, những thành phần từng nhiệt tình ủng hộ đảng, chấp nhận chiến đấu dưới sự lãnh đạo của đảng đang lần lượt ra đi. Nhiều trong số đó đang công khai thách thức quyền cai trị của đảng. Hơn bao giờ hết, đảng cần sự ủng hộ của quần chúng, và muốn vậy, phải hâm nóng lại chiêu bài yêu nước. Võ Nguyên Giáp là những que củi cần thiết để đốt lên lò lửa “chống thực dân và đế quốc” đã nhiều năm nguội lạnh. Giới lãnh đạo CS dùng chiếc khăn chính danh lịch sử để bịt mắt nhân dân và đã nhiều lần chứng tỏ thành công. Giáo sư Archie Brown thuộc đại học Oxford, Anh, cho rằng sở dĩ các chế độ CS tại Việt Nam, Trung Cộng còn tồn tại vì khái niệm tình cảm dân tộc nhiều giai đoạn có lợi cho CS.

Lãnh đạo CSVN đánh giá đúng trình độ của các thành phần bị tẩy não.
Nếu so sánh Việt Nam, Trung Cộng và Bắc Hàn, Việt Nam còn quá nhiều người bị tẩy não, mê muội và lạc hậu hơn cả Trung Cộng và Bắc Hàn. Người dân Trung Hoa ít ra chứng tỏ cho thế giới thấy khát vọng dân chủ của họ qua biến cố Thiên An Môn với một triệu người vùng dậy chiếm cứ khuôn mặt của thủ đô Bắc Kinh suốt gần một tháng. Chế độ Cộng Sản tại Trung Hoa đang đi trên lưỡi dao cạo, chỉ cần mất thăng bằng, mất kiểm soát sẽ bị đứt chân và rơi xuống vực sâu. Khi dựng bức tượng Nữ Thần Tự Do làm biểu tượng cho cuộc đấu tranh, các lãnh đạo của phong trào Thiên An Môn chọn dứt khoát một con đường, đó là con đường tự do dân chủ và không có một con đường nào khác.
Bắc Hàn chìm đắm trong tăm tối, hoàn toàn bị cô lập nhưng từ 1952 đến nay, mỗi năm vẫn có hàng ngàn người dân vượt thoát được khỏi địa ngục Bắc Hàn bằng những cách vô cùng nguy hiểm. Một người Bắc Hàn vượt biên bị bắt, nếu bị bắn ngay tại chỗ, là một may mắn. Không, phần lớn phải trải qua những trận tra tấn vô cùng dã man, bị bỏ đói dần dần cho đến khi thân thể chỉ còn máu và mủ. Hầu hết người bị bắt lại hay bị Trung Cộng trao trả về Bắc Hàn đều bị giết.
Tuy nhiên, những người dân Bắc Hàn đó đã chứng tỏ khát vọng tự do là một quyền bẩm sinh trong mỗi con người từ khi mới chào đời, không ai ban cho và cũng không cần ai chỉ dạy. Harvard International Review phỏng vấn anh Ji Seong-ho, người đã vượt sáu ngàn dặm qua các nước Trung Cộng, Thái Lan, Lào và Đài Loan để tìm tự do năm 2006 và được anh cho biết chế độ CS Bắc Hàn đã đánh mất niềm tin trong lòng dân, và khi tôi còn ở đó người dân đã nghĩ đến sự thay đổi. Họ sợ thảo luận nơi công cộng nhưng trong riêng tư họ đã bàn đến. Áp bức vẫn tiếp tục, nhưng sự yêu chuộng cũng như uy tín của chế độ giảm nhiều.
Việt Nam thì khác. Để tồn tại, từ 1981 đến nay, giới lãnh đạo CS buộc phải hé cửa và tự diễn biến hòa bình qua các chính sách đổi mới kinh tế. Ánh sáng văn minh nhân loại theo những kẽ hở đó lọt vào. So với Bắc Hàn, người Việt Nam có nhiều điều kiện hơn để nhìn ra thế giới. Lẽ ra, người dân, nhất là thành phần trí thức, có cơ hội học hỏi, so sánh các chế độ chính trị, sở hữu một nhận thức chính trị và chọn lựa một lập trường chính trị phù hợp với xu hướng phát triển thời đại, nếu không công khai chống lại chế độ độc tài ít ra cũng biết tự trọng làm im.
Khi còn sống, những lá thư của ông Võ Nguyên Giáp lên tiếng về chủ trương xây dựng Nhà Quốc Hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu hay ít nhất ba lần về Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên cũng bị ném vào sọt rác. Ngoại trừ một số rất nhỏ, không ai binh vực ông.
Thế nhưng, khi đảng cho phép tiếc thương, nhiều bồi bút tận dụng cơ hội để lập công, khẳng định sự trung thành và chứng tỏ mình luôn đi sát với lập trường, quan điểm của đảng. Trên mấy trăm tờ báo đảng, bấm vào là đọc một mẫu chuyện về “cuộc đời”, “sự nghiệp” và “chiến công” của Võ Nguyên Giáp.
Đọc những bài thơ, bài văn tâng bốc Võ Nguyên Giáp mà cảm thấy tội nghiệp cho tiếng Việt. Những cây đinh tuyên truyền tẩy não lại tiếp tục đóng vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam chẳng khác gì thời chiến tranh. Tang lễ của Võ Nguyên Giáp cho thấy nhiều người vẫn còn bị lừa gạt một cách quá dễ dàng và thành phần xu nịnh trong xã hội Việt Nam còn quá đông. Thì ra, dù nhân loại bắt đầu thám hiểm những vì sao xa nhiều triệu dặm, chiếc đồng hồ báo thức tại Việt Nam 60 năm vẫn chưa gõ lên một tiếng nào.
Như đã viết trong bài Bàn về tẩy não,  tầng lớp có học thức, nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà báo không ít người vẫn còn nghĩ rằng nói gì thì nói đảng CS trong suốt dòng lịch sử của đảng đã đồng hành với dân tộc, nói gì thì nói chỉ có đảng CS mới có khả năng đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, nói gì thì nói đảng CS là đảng nắm trong tay ngọn cờ chính nghĩa, nói gì thì nói Việt Nam vẫn cần ổn định để phát triển và mọi thay đổi đột biến sẽ dẫn đến hỗn loạn; nói gì thì nói các lãnh tụ CS vẫn là những người yêu nước, những anh hùng dân tộc và xứng đáng được kính trọng khi họ sống và tôn thờ, tiếc thương, than khóc khi họ chết. Đảng không từ chối đã phạm nhiều sai lầm trong quá khứ nhưng đó là những sai lầm khách quan. Đảng không từ chối đang có nhiều tình trạng tiêu cực xã hội nhưng đó chỉ là hiện tượng không phải bản chất của chế độ. Từ những năm đầu ăn bo bo sau 1975 cho đến gần bốn chục năm, một học sinh cho đến các “tiến sĩ” cũng đều bị tẩy não bằng những lập luận như vậy qua các lớp chính trị.
Đảng biết rất rõ thành phần “nói gì thì nói” là ai và quá khứ xuất thân của từng người trong số họ. Họ yêu nước không? Có. Họ muốn đất nước Việt Nam giàu mạnh không? Có. Họ muốn xã hội Việt Nam trong sạch không? Có. Họ muốn điều kiện chính trị tại Việt Nam được nới rộng nhưng đảng CS vẫn tiếp tục lãnh đạo đất nước không? Cũng có luôn. Nhà tâm lý học Michael Langone mô tả đó tình trạng tâm thần của những người đang trôi giữa hai bờ, bờ đúng và bờ sai, bờ thực và bờ ảo, bờ chánh và bờ tà. Họ thoạt trông như có tinh thần cách mạng nhưng trong thực tế là vật cản cho một cuộc cách mạng xã hội toàn diện và đắp đập để giữ cho cơ chế độc tài tồn tại lâu dài hơn.

Những nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ đó có bao giờ nửa khuya thức dậy pha một bình trà thật đậm, vừa uống và vừa tự hỏi: Những nhận thức chính trị của mình từ đâu mà có? Những kiến thức về lịch sử của mình do ai cấy vào?
Ông Võ Nguyên Giáp thực sự là nạn nhân hay cũng chỉ là kẻ sát nhân thất thế như nhiều lãnh đạo CS khác? Ông Võ Nguyên Giáp là anh hùng dân tộc hay là một trong những người đưa đất nước vào vòng nghèo nàn, độc tài, lạc hậu hôm nay?
Nếu ông Võ Nguyên Giáp là anh hùng dân tộc rồi ai sẽ là người chịu trách nhiệm cho cái chết của hàng triệu đồng bào miền Nam từ 1954 đến 1975, chẳng lẽ những nạn nhân vô tội kia không phải là một bộ phận của dân tộc Việt Nam sao?
Và cứ thế, hãy đặt ra những câu hỏi ngược với những khẳng định và kết luận mà đảng đã trang bị, không chỉ riêng về ông Võ Nguyên Giáp mà cả một giai đoạn lịch sử dài từ khi đảng CSVN có mặt. Phải biết hoài nghi, so sánh và đặt vấn đề một cách khách quan và độc lập để thấy những gì được gọi là “chân lý” và “sự thật” dưới chế độ CS chỉ là những bùa ngải tuyên truyền.

Các phương pháp giải tẩy não
Bác sĩ Robert J. Lifton là nhà nghiên cứu tiên phong về tẩy não dưới chế độ CS. Trong tác phẩm Cải tạo tư tưởng và tâm lý học về chế độ toàn trị: Một nghiên cứu về “Tẩy não” tại Trung Cộng (Thought Reform and the Psychology of Totalism: A Study of “Brainwashing” in China) ông đã đưa ra 8 đặc điểm về cải tạo tư tưởng của CS:
(1) Kiểm soát môi trường (Giới hạn tối đa sự liên lạc giữa nạn nhân và thế giới bên ngoài, giữa nạn nhân và xã hội chung quanh và cả giữa nạn nhân và chính nhận thức cũ của nạn nhân); (2) Vận dụng huyền bí (Vận dụng cá nhân bằng mọi cách và không giới hạn ở một phương tiện nào); (3) Đòi hỏi sự thuần khiết tuyệt đối (Một quá trình phấn đấu liên tục để đạt đến trình độ tự giác); (4) Tự thú công khai (Con người trong xã hội CS phải phô bày mọi suy nghĩ, quan tâm và lo âu một cách công khai, không có riêng tư về thể chất cũng như tinh thần); (5) Chủ thuyết là tuyệt đối đúng (Chủ thuyết CS được đảng lý luận như đồng nghĩa với khoa học và phê bình chủ thuyết CS chẳng những sai lầm về đạo đức mà còn vi phạm các nguyên tắc “khoa học”); (6) Khẩu hiệu chuyên chở ngôn ngữ (Những vấn đề phức tạp, khó hiểu và sâu xa nhất của con người được cô đọng thành những khẩu hiệu có sức cám dỗ cao, dễ giải thích, dễ hiểu và dễ nhớ); (7) Giá trị của chủ thuyết đặt cao hơn giá trị con người (Kinh nghiệm quá khứ của một người sẽ không giá trị gì nếu kinh nghiệm đó mâu thuẫn với chủ thuyết, lịch sử của dân tộc được viết lại, sửa đổi hay cắt xén để phù hợp với chủ thuyết); ( 8 ) Thành phần cần thiết và không cần thiết tồn tại trong xã hội (Có hai hạng người trong xã hội CS, một hạng thuộc giai cấp ưu việt gồm công nhân, nông dân, buôn bán lẻ có quyền tồn tại và thành phần khác gồm tư sản, địa chủ, phản động không cần phải tồn tại).
Các điểm mà Bác sĩ Robert J. Lifton trình bày về chính sách tẩy não tại Trung Cộng, đã và đang được áp dụng tại Việt Nam, cho thấy chính sách tẩy não CS vô cùng thâm độc, tận gốc rễ và có hệ thống tinh vi.

Chính Mikhail Gorbachev cũng gián tiếp thừa nhận mình từng bị tẩy não.
Lần đầu tiên được đi ra nước ngoài vào những năm 1970, xã hội Tây phương đã giúp ông ta sáng mắt. Những chuyến đi trong thập niên 1980, trong tư cách Ủy viên Bộ Chính trị, đã củng cố quyết tâm thực hiện các chính sách đổi mới sau này. Gorbachev kể lại, một lần, khi tháp tùng phái đoàn đảng CS Liên Xô tham dự tang lễ của lãnh đạo CS Ý Enrico Berlinguer, ông ta ngạc nhiên khi thấy hầu hết các chính trị gia thuộc các đảng dân chủ kể cả Tổng thống Ý Alessandro Pertini cũng đến cúi chào tiễn biệt trước quan tài của Enrico Berlinguer. Đảng CS Ý trong thập niên 1980 đóng vai trò tích cực trong đời sống chính trị Ý và có hậu thuẫn rộng lớn trong quần chúng. Gorbachev thán phục tính đa nguyên và cách cư xử văn hóa trong chính trị Tây phương. Ông nghĩ điều đó không thể nào xảy ra với chủ thuyết CS mà ông được đào tạo.
Nhiều người Việt Nam tự hào học cao, hiểu rộng, đọc nhiều sách Anh, sách Mỹ, du học tại các trường đại học nước ngoài, nghĩ rằng mình không bị tẩy não. Không phải. Quan điểm lịch sử và nhận thức chính trị của họ bị tẩy từ trong bào thai cho đến tuổi trưởng thành để chấp nhận những kết luận phản khoa học như là chân lý. Áp dụng ví dụ của Yuri Alexandrovich Bezmenov trong bài trước vào điều kiện Việt Nam, dù có mang những người này ra tận các “trại cải tạo” Suối Máu, Cổng Trời và chỉ họ những nơi CS đã bỏ tù hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức VNCH chưa hẳn họ tin cho đến khi chính họ bị nhốt vào trong các thùng sắt, bỏ đói và chịu rét, lúc đó họ mới tin.
Tiến trình giải tẩy não vì thế là một tiến trình hết sức khó khăn và chỉ có thể thành công nếu nạn nhân can đảm đối diện với sự thật, thừa nhận tình trạng bị tẩy não và giải tẩy não liên tục.

Can đảm đối diện với sự thật
Mọi hành trình bắt đầu từ chính con người. Nếu những người bị tẩy não còn đủ khôn ngoan để hiểu rằng những kiến thức mình đang có là kiến thức một chiều, là thuốc độc được nhỏ từng giọt vào nhận thức và thấm dần qua thời gian, từ thuở còn thơ cất tiếng đầu đời cho đến trường mẫu giáo, tiểu học, trung học, đại học, trường đoàn, trường đảng, hãy đem những kiến thức đó trả lại cho chủ nhân của chúng. Không nên tự kết án vì người bị tẩy não chỉ là nạn nhân chứ không phải là kẻ gây ra tội ác. Hàng ngàn người khóc vật vã trên đường phố trong tang lễ của ông Võ Nguyên Giáp không quan trọng vì ngày mai đảng bảo cười họ cũng sẽ cười, nhưng các nhà văn, nhà thơ, nhà báo thì khác. Họ là những tiếng nói gây ảnh hưởng và được ví như là những phát ngôn nhân của thế hệ và thời đại. Không nên tiếp tục bị nô lệ tri thức. Nô lệ vật chất chỉ thiệt hại bản thân nhưng nô lệ tri thức thiệt hại cho những người chung quanh, người đọc và nhiều thế hệ con cháu sau này. Hãy nhổ mũi tên độc ra khỏi vết thương và tiếp tục cuộc hành trình xây dựng một nhận thức mới, độc lập, khách quan và tự do.

Thừa nhận tình trạng bị tẩy não
Con người thường bất đồng với những điều nghịch lý nhưng khó chống lại những điều rất hiển nhiên và hợp lý. Người bị tẩy não thường không thừa nhận bị tẩy não và luôn sống trong tình trạng từ chối. Tuyên truyền tẩy não CS không kê súng vô đầu một người để buộc người đó phải tin nhưng thuyết phục bằng một lý luận rất hợp với nhân tính. Những tù binh Mỹ bị bắt trong chiến tranh Triều Tiên không bị tra tấn về thể xác và không bị kết án giết người. Các cán bộ tuyên truyền Trung Cộng xác định họ là những người tốt, chỉ vì phải có mặt tại Triều Tiên trong một thời điểm sai để làm một công việc trái với đạo lý con người do chính phủ Mỹ chủ trương. Người tù binh cũng là “nạn nhân” như những người dân Triều Tiên vô tội bị bom đạn Mỹ giết chết. Người tù binh được tiếp đãi tử tế, được cấp các tiêu chuẩn ăn uống cao hơn những tù binh khác. Sau đó, anh ta được có trao cơ hội để giải phóng khỏi niềm tin cũ và xây dựng một niềm tin mới.
Giải tẩy não là một tiến trình liên tục
Tẩy não dưới chế độ CS nhằm thay đổi tận gốc rễ, diễn ra có hệ thống và tập trung vào mục đích thuần hóa con người. “Trăm năm trồng người” là mục tiêu đầu tiên và tối hậu của đảng CS. Tuyên truyền CS diễn ra như sóng vỗ vào bờ, hết đợt này đến đợt khác. Khác với các tù bình Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên bị tẩy não trong một giai đoạn ngắn, phần lớn sau khi khi về lại nhà, thay đổi môi trường giáo dục, thông tin và tình cảm, họ nhanh chóng trở lại bình thường. Những người sống ngay giữa lòng chế độ, việc giải tẩy não khó hơn nhiều. Họ phải chiến đấu liên tục về mặt tư tưởng để chống lại các thông tin tẩy não bằng mọi hình thức và trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội. Chống lại chính sách tẩy não là một nỗ lực vô cùng khó khăn, đòi hỏi ý chí quyết tâm cao và tinh thần bền bỉ.

Sự thật sẽ thắng
Để trả lời câu hỏi tại sao Liên Xô sụp đổ, người viết tin rằng phần lớn người có kiến thức chính trị căn bản sẽ nghĩ ngay đến vai trò của cựu Tổng bí thư đảng CS Liên Xô Mikhail Gorbachev, người đã đưa ra hai chính sách quan trọng Perestroika (cải cách kinh tế) và Glasnost (cải cách văn hóa xã hội); một số người khác sẽ nghĩ đến vai trò của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, người đã tăng cường chạy đua vũ trang đến mức làm nền kinh tế Liên Xô kiệt quệ; một số có thể nghĩ đến vai trò của Đức Giáo Hoàng John Paul II, người với câu nói “Các con đừng sợ hãi” đã là chỗ dựa tinh thần của phong trào Công Nhân Đoàn Kết Ba Lan và phong trào dân chủ tại các nước Đông Âu; một số có thể nghĩ đến cố thủ tướng Anh Margaret Thatcher, người “phụ nữ sắt” như báo chí Liên Xô mô tả và đã được tác giả John O’Sullivan xem như là một trong ba người (Roldnald Reagan và Đức Giáo Hoàng John Paul II) đã góp phần quan trọng vào việc làm sụp đổ phong trào CS châu Âu.
Tất cả những người nêu trên thật sự đã có đóng góp quan trọng vào việc làm tan rã hệ thống CS. Tuy nhiên, họ chỉ là những giọt nước tràn ly và ly nước không thể tràn bằng vài giọt nước. Lý do chính làm tan vỡ các chế độ CS châu Âu phát xuất từ chỗ nhân dân các nước Đông Âu và Liên Xô đã vượt qua được căn bịnh tẩy não. Các chính sách tuyên truyền tẩy não từ thời Lenin, Stalin đã không còn hiệu quả, không thuyết phục và cũng không làm người dân sợ hãi, không còn ai kể cả các lãnh đạo đảng tin tưởng vào chủ nghĩa Cộng Sản. Một khi chính sách tuyên truyền không tác dụng, chế độ độc tài sẽ sụp đổ.
Như một định luật của phát triển xã hội, ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh. Khát vọng tự do trong con người chưa bao giờ chết dù giữa mùa đông tuyết giá trong các trại tập trung Siberia hay trên đường phố Budapest ngập máu trong tuần lễ từ ngày 4 đến ngày 10 tháng 11, 1956. Sau hơn 70 năm đối kháng trong âm thầm nhẫn nhục giữa lừa dối và chân thành, giữa bạo lực trấn áp và khát vọng tự do, giữa độc tài và dân chủ, giữa cổ võ chiến tranh và yêu chuộng hòa bình, giữa hận thù và tình yêu, cuối cùng, sự thật đã thắng tại châu Âu và sẽ thắng ở Việt Nam.
George Orwell viết “trong xã hội đầy lừa dối, cất lên một tiếng nói thật là một hành động cách mạng”, hơn bao giờ hết, Việt Nam đang cần những con người làm cách mạng bằng cách sống thật và nói thật.
Trần Trung Đạo

https://www.facebook.com/trantrungdao

 

Đăng ngày 06 tháng 07.2022