Việt Nam đã bị "Phần Lan hóa"
qua mật ước Thành Đô
Trần Trung Đạo
“Phần Lan hóa” (Finlandization) là gì?
Một cách vắn tắt, “Phần Lan hóa” (Finlandization), có nghĩa “để trở nên Phần Lan”, là một thuật ngữ chính trị để chỉ ảnh hưởng của một cường quốc trên các chính sách đối nội, đối ngoại và quốc phòng của một quốc gia láng giềng nhỏ, bị cô lập, không phải là thành viên của một liên minh quân sự và không nhận được sự bảo vệ của các cường quốc. Thuật ngữ này bắt nguồn từ chính sách của chính phủ Phần Lan chấp nhận các yêu sách của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh từ năm 1947 đến năm 1990 để đáp ứng với thực tế chính trị thời bấy giờ.
Phiên bản 1 của bài viết này có tựa là “Thời Trump, Việt Nam Có Thể Nhanh Chóng Bị ‘Phần Lan Hóa’” đăng lần đầu trên Dân Làm Báo tháng 11 2016 tức thời nhiệm kỳ đầu của TT Trump. Phiên bản 2 này với một số chi tiết mới mặc dù cơ sở lý luận không thay đổi. Chín năm sau, các diễn biến mới nhất cho thấy Việt Nam còn bị lệ thuộc vào Trung Cộng (TC) sâu hơn nhiều so với 2016.
Đường lối “ngoại giao cây tre” của CSVN chỉ là cách nói tuyên truyền. Nguyên tắc đầu tiên của “ngoại giao cây tre”, trong vật lý cũng như trong chính trị, là thế đứng độc lập, thăng bằng và cân đối giữa hai lực, trong thực tế, CSVN nghiêng quá xa về phía TC.
Tập Cận Bình xem thường CSVN tới mức theo Global Times, một tờ báo bán chính thức của đảng CSTQ, hôm kia 25 tháng 4, 2025 khi họ Tập vừa rời Việt Nam hơn một tuần lễ, cảnh sát biển TC đã đổ bộ và cắm cờ chủ quyền lên vùng san hô Hòai Ân (Sandy Cay), thuộc cụm Thị Tứ của quần đảo Trường Sa. (Chinese coastguard claims ‘sovereign jurisdiction’ of Sandy Cay in South China Sea, SCMP, 25 Apr 2025)
Tại sao TC chọn thời điểm rất tế nhị về ngoại giao để cắm cờ ?
Đảng CSTQ với bản chất nước lớn nhưng rất ti tiện và tính toán từng chi tiết rất ư là nhỏ. Việc cắm cờ là một cách “gạch đít tô màu” cho những câu nói riêng của Tập với giới lãnh đạo CSVN.
Một điều ai cũng hiểu ngoại trừ những người não bị tẩy, sau khi LX sụp đổ, mối quan tâm hàng đầu của các thời kỳ lãnh đạo đảng CS là quyền cai trị dân tộc Việt và muốn duy trì quyền cai trị thì phải bám lấy chiếc phao TC. Quyền lợi của dân tộc là ưu tiên hai. Tập Cận Bình biết rõ điều đó nên không cần nể mặt các lãnh đạo CSVN, người mà ông ta vừa mới bắt tay từ giã.
Chính sách toàn cầu hóa kinh tế trong giai đoạn phát triển từ năm 1972 đang được điều chỉnh. Thế giới đang điều chỉnh bằng cách trở lại thời kỳ bảo vệ (protectionism) dù vẫn phải bảo vệ trong nội dung toàn cầu hóa. Các mối tương quan và phụ thuộc về kinh tế quốc tế đã phát triển đến mức khó có thể hoàn toàn trở lại như thời kỳ trước Thế Chiến Thứ Hai.
Dù dưới mức độ nào, đối với các nước đang phát triển đây là một khó khăn vì sự phát triển của các nước này phụ thuộc vào toàn cầu hóa và toàn cầu hóa đem lại cho họ nhiều mối lợi hơn các nước tiên tiến. Riêng với Việt Nam, ngoài lý do kinh tế còn có lý do chính trị vì Việt Nam giống như TC đều đặt dưới sự cai trị bởi đảng CS độc tài.
Ngoài người viết, nhiều tác giả nước ngoài cũng từng nhấn mạnh đến việc Việt Nam sẽ bị “Phần Lan hóa”.
Tháng 9 năm 2010, trong một bài viết trên tờ Wall Street, Andrew Krepinevich, Chủ tịch Trung tâm Định ước Ngân sách và Chiến lược (The Center for Strategic and Budgetary Assessments) cũng cảnh báo TC đang tiến hành “Phần Lan hóa” Thái Bình Dương: “Liên Xô chưa bao giờ thành công “Phần Lan hóa” Châu Âu. Nhưng sự đe dọa vừa trở lại từ phía TC, quốc gia này đang cố gắng “Phần Lan hóa” Tây Thái Bình Dương. Cách phát triển quân sự của một quốc gia mở ra cánh cửa cho thấy ý định của nó, và TC rõ ràng đang tìm kiếm để gây hiệu quả tuần tự nhưng quyết định vào cán cân quân sự Mỹ-Trung. Mục đích của TC là ngăn chặn Mỹ trong việc bảo vệ các quyền lợi lâu dài trong khu vực – và để lôi kéo các đồng minh dân chủ của Mỹ vào quỹ đạo của nó.”
Trong bài viết Việt Nam đối diện với việc “Phần Lan hóa” từ Trung Quốc (Vietnam Faces "Finlandization" from China) cuối tháng 5, 2014 trên báo Asiasentinel, David Brown, một cựu nhân viên ngoại giao Mỹ, viết: “Như vậy, trong khi Washington dường như đã sẵn sàng vẽ một lằn ranh quanh Nhật Bản, Hàn Quốc và cũng có thể Singapore và eo biển Malacca, Hải quân Hoa Kỳ đang từ bỏ việc đương đầu tại một khoảng xa cách từ bờ biển Việt Nam.” Tác giả viết tiếp “Điều đó có thể được hiểu rằng, Mỹ đang dự định chấp nhận nhìn Việt Nam bị “Phần Lan hóa”.
Trong chính luận “Tranh chấp Mỹ-Trung, một cảnh giác cho lòng yêu nước”đăng trên talawas năm 2010, người viết cũng có bàn tổng quát về trường hợp các quốc gia độn như Thổ Nhĩ Kỳ và Phần Lan. Để có thể tồn tại trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh các nước này đã phải áp dụng nhiều chiến lược đối ngoại và đối nội khác nhau. Trong lúc Thổ Nhĩ Kỳ chủ trương cứng rắn chống Liên Xô, đứng hẳn về phía Tây phương, Phần Lan chủ trương các chính sách đối ngoại và đối nội nhượng bộ Liên Xô. Người viết cũng đã phân tích chọn lựa của Thổ Nhĩ Kỳ trong chính luận “Hiểm họa Trung Cộng và bài học Thổ Nhĩ Kỳ” và lần này bàn riêng đến trường hợp Phần Lan.
Với chủ trương bành trướng kiểu Nga Hoàng của Vladimir Putin và ngọn lửa chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán của Tập Cận Bình đang cháy rộng, khái niệm “Phần Lan hóa” lại lần nữa được nhắc nhở khá nhiều: “Phần Lan hóa” Ukraine, “Phần Lan hóa” Đài Loan và “Phần Lan hóa” Việt Nam.
Trước khi bàn đến việc liệu Việt Nam có thể sẽ bị “Phần Lan hóa” với sự thỏa thuận ngầm của Mỹ như David Brown phân tích hay thực tế đã bị “Phần Lan hóa” sau mật ước Thành Đô, cần tìm hiểu các điều kiện địa chính trị, lịch sử và quốc phòng của Phần Lan trong quan hệ với Liên Xô trước và sau Thế Chiến Thứ Hai cũng như sự ra đời của khái niệm này.
Phần Lan trước Thế Chiến Thứ Hai
Giống Việt Nam, suốt nhiều trăm năm, Phần Lan bị Thụy Điển đô hộ. Các viên chức Thụy Điển được cử đến cai trị Phần Lan. Dù đương đầu với hiểm họa bị đồng hóa, Phần Lan vẫn giữ được bản sắc văn hóa, ngôn ngữ và tiếng nói riêng. Khi phong trào cải cách tôn giáo của Martin Luther lan rộng đến Thụy Điển và Phần Lan, Tân Ước được dịch sang tiếng Phần Lan và đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân. Sau chiến tranh giữa Nga và Thụy Điển vào cuối thế kỷ 17, Nga chiếm Phần Lan.
Năm 1912, vua Nga, Alexander I nâng cấp Phần Lan từ hàng tự trị lên cấp quốc gia đặt thủ đô tại Helsinki. Cũng vào thời điểm đó tinh thần quốc gia Phần Lan do Tiến sĩ Johan Vilhelm Snellman nuôi dưỡng, bắt đầu phát triển mạnh. Để chống lại chính sách đồng hóa của Nga Hoàng, Johan Vilhelm Snellman kêu gọi người dân Phần Lan tuyệt đối không dùng tiếng Nga.
Khi “Cách mạng tháng mười” bùng nổ, Phần Lan tuyên bố độc lập. Tuy nhiên bị ảnh hưởng chính trị Nga, cánh tả trong chính phủ Phần Lan rất mạnh và thực hiện một cuộc đảo chánh. Quân chính phủ do tướng Gustaf Mannerheim chỉ huy phản công và đánh bại quân phiến loạn. Phần Lan chính thức trở thành nước Cộng Hòa năm 1919 với K.J. Ståhlberg là tổng thống đầu tiên. Biên giới giữa Nga và Phần Lan được công nhận theo hiệp ước biên giới Tartu ký kết năm 1920. Quan hệ giữa Phần Lan và Liên Xô rất căng thẳng, và quan hệ giữa Phần Lan và Đức cũng không tốt đẹp gì hơn.
Tháng Tám, 1939, Hitler và Stalin ký thỏa hiệp không xâm phạm nhau trong đó có điều khoản Hitler đồng ý nhường Phần Lan cho Stalin. Khi Phần Lan từ chối việc cho phép Liên Xô xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Phần Lan, Stalin tấn công Phần Lan vào tháng 11, 1939. Chiến tranh Mùa Đông (Winter War) bùng nổ. Tuy Phần Lan thua nhưng đã gây thiệt hại trầm trọng cho phía Liên Xô. Sau Chiến tranh Mùa Đông (1939) là Chiến tranh Tiếp Tục (Continuation War) (1941-1944). Trong thời gian này Phần Lan đứng về phía Đức và đem quân tấn công Liên Xô để chiếm lại các phần đất bị mất trong Chiến tranh Mùa Đông và nhiều phần đất khác của Liên Xô. Chính Anh Quốc cũng đã tuyên chiến với Phần Lan năm 1941. Năm 1944, Phần Lan ký hiệp ước đình chiến với Liên Xô.
Phần Lan sau Thế Chiến Thứ Hai
Tại hội nghị Paris năm 1946, Đồng Minh ân xá cho Phần Lan và các nước đã đứng về phía phe Trục như Romania, Bulgaria, Hungary và cho phép các nước này trở thành hội viên Liên Hiệp Quốc. Phần Lan và Liên Xô ký các hiệp ước hòa bình lần nữa vào những năm 1947 và 1948. Trong giai đoạn này Phần Lan quá yếu về khả năng quân sự so với Liên Xô nên đã buộc phải nhường vùng đất phía nam cho Liên Xô. Đứng trước sự phân cực đang hình thành trong sinh hoạt chính trị thế giới, Phần Lan đối diện với một thực tế chính trị thế giới hoàn toàn bất lợi. Đức Quốc Xã, đối trọng với Liên Xô sụp đổ, không có đồng minh quân sự, bị cô lập về địa lý chính trị, các quốc gia trong vùng Đông Âu lần lượt trở thành chư hầu CS của Liên Xô, các quốc gia vùng Baltic như Estonia, Latvia, Lithuania đều bị sáp nhập hẳn vào Liên Xô. Ưu tiên hàng đầu của chính phủ Phần Lan, vì thế, bằng mọi giá để khỏi bị trở thành một “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa” trong Liên Bang Xô Viết.
Quá sợ Liên Xô nuốt sống như trường hợp các nước vùng Balkan, Phần Lan lấy lòng Liên Xô bằng cách từ chối viện trợ Mỹ trong kế hoạch viện trợ kinh tế Marshall. Tuy vậy, Phần Lan ngấm ngầm thiết lập quan hệ kinh tế với Anh, Mỹ và các chính phủ Anh, Mỹ cũng tìm cách yểm trợ Phần Lan để hy vọng nuôi dưỡng chế độ dân chủ non trẻ tại quốc gia nhỏ ở Bắc Âu này. Chính sách “Phần Lan hóa” ra đời.
Nội dung của “Phần Lan hóa ”
- Về đối ngoại. Phần Lan theo đuổi một chính sách đối ngoại rất mềm dẻo, nhân nhượng, không làm mất lòng Liên Xô, trung lập. Liên Xô trong thực tế không xem Phần Lan như là một nước trung lập đúng nghĩa mà luôn xem quốc gia này phụ thuộc vào các chính sách đối ngoại phát xuất từ điện Kremlin. Chẳng hạn, khi đại sứ Phần Lan Max Jakobson được đề cử vào chức vụ Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, Liên Xô chẳng những không ủng hộ mà còn dùng quyền phủ quyết để bác bỏ vì không muốn thấy một chính khách Phần Lan đóng vai trò quan trọng trong tổ chức chính trị thế giới.
- Về đối nội. Loại trừ các thành phần lãnh đạo quốc gia có khuynh hướng chống Liên Xô và ủng hộ các thành phần thân Liên Xô. Theo tài liệu của CIA, Liên Xô duy trì mối quan hệ mật thiết với các chính khách thân Liên Xô đứng đầu là Tổng thống Juho Kusti Paasikivi (1870-1956) và sau đó là Tổng thống Urho Kekkonen (1900-1986). Liên Xô có quyền phủ quyết các chính sách của Phần Lan và can dự vào nội bộ Phần Lan qua trung gian đảng CS Phần Lan, Liên Đoàn Dân Chủ Nhân Dân, Quốc Hội Phần Lan với đa số thuộc cánh tả.
- Về văn hóa giáo dục. Để vừa lòng Liên Xô, Phần Lan áp dụng chính sách tự kiểm duyệt, tự kiểm soát và thân Liên Xô. Chính phủ Phần Lan ngăn chặn các phương tiện truyền thông có cái nhìn tiêu cực về Liên Xô. Trên 1700 cuốn sách có nội dung chống Liên Xô trước đó bị xếp vào thể loại “sách bị cấm”. Các phim ảnh không có lợi cho Liên Xô như The Manchurian Candidate, One Day in the Life of Ivan Denisovich v.v. đều không được phép chiếu.
- Về quốc phòng. Hiệp ước Hữu Nghị Hợp Tác Phần Lan-Liên Xô năm 1948 (Finno-Soviet Pact of Friendship, Cooperation and Mutual Assistance) quy định Phần Lan phải có trách nhiệm chống lại các lực lượng thù địch của Liên Xô khi các lực lượng này tấn công Liên Xô ngang qua ngả Phần Lan và nếu cần sẽ kêu gọi sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô. Phần Lan không được liên minh quân sự với một quốc gia thứ ba. Điều này do Liên Xô đặt ra để giới hạn Phần Lan gia nhập NATO giống như trường hợp Đan Mạch và Na Uy. Trước đó, trong hiệp ước ký kết giữa hai nước, Phần Lan đã nhường 10 phần trăm lãnh thổ cho Liên Xô.
Nếu thay danh từ Liên Xô thành TC và thay danh từ Phần Lan bằng Việt Nam trong bốn đoạn văn trên, độc giả có thể suy ra ra sự lệ thuộc của Việt Nam vào TC.
Nhắc đến “Phần Lan hóa” không thể bỏ qua vai trò của Tổng thống Phần Lan Urho Kekkonen, người lèo lái chính sách này trong suốt 26 năm làm tổng thống. Những người phê bình Urho Kekkonen cho rằng ông ta là con cờ của Liên Xô trong khi những người ủng hộ xem ông như là một trong những anh hùng của Phần Lan vì đã bảo vệ được chủ quyền Phần Lan trong một hoàn cảnh chính trị thế giới vô cùng khó khăn.
Điểm khác nhau giữa Urho Kekkonen và Tô Lâm là Urho Kekkonen bảo vệ nền Cộng Hòa Phần Lan trong khi Tô Lâm bảo vệ chế độ CS Việt Nam.
Công tâm mà nói, trong suốt dòng lịch sử, lãnh thổ Phần Lan là bãi chiến trường cho các tham vọng bành trướng của Thụy Điển và sau đó là Nga Hoàng. Sau Thế Chiến Thứ Hai, hầu hết các quốc gia vùng Baltic và Balkan đều nằm trong quỹ đạo Liên Xô. Lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ của quốc gia này đều bị xóa bỏ.
Ý thức được điều đó, mục tiêu hàng đầu của Kekkonen là bảo vệ chủ quyền Phần Lan, bảo vệ nền Cộng Hòa Phần Lan bằng mọi giá, không thể để Phần Lan trở thành một xứ tự trị như thời Nga Hoàng hay một “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa” của Stalin.
Sự sụp đổ của Liên Xô đã gây ra những suy thoái kinh tế trầm trọng tại Phần Lan. Sau giai đoạn phục hồi, Phần Lan đã phát triển một cách vượt bực. Ngày nay Phần Lan hội nhập cao vào nền kinh tế thế giới và là một trong những quốc gia phát triển nhanh nhất thế giới.
Trở lại với quan hệ TC và CS Việt Nam trong cái nhìn so sánh giữa Liên Xô và Phần Lan.
Đường lối đối ngoại của TC sau Thiên An Môn
Chính sách đối ngoại của Trung Cộng trong thời gian năm 1990 nhằm mục đích thoát khỏi sự cô lập quốc tế và ổn định chính trị nội bộ sau biến cố Thiên An Môn. Những thành tựu kinh tế của chính sách bốn hiện đại hóa từ đầu thập niên 1980 đã đạt một số thành tích đáng kể nhưng tất cả đều rất mong manh, yếu kém. Các cường quốc dân chủ vẫn còn trừng phạt kinh tế sau khi Đặng Tiểu Bình ra lệnh tàn sát nhiều ngàn sinh viên Trung Quốc yêu dân chủ tại Thiên An Môn đầu tháng 6, 1989.
Như hầu hết các quốc gia CS, kế hoạch chung của cả nước luôn chế ngự và đồng thời duy trì tính cân đối của các chính sách đối ngoại cũng như đối nội trong mỗi thời kỳ. Để thoát khỏi sự cô lập và phục hồi vị trí của TC trong bang giao quốc tế, Đặng Tiểu Bình theo đuổi chính sách đối ngoại mềm dẻo trong đàm phán biên giới với hàng loạt các nước lân bang trong đó có Việt Nam. Chính sách của họ Đặng được gọi là chính sách 20 nét chữ “bình tĩnh quan sát, giữ vững trận địa, bình tĩnh ứng phó, giấu mình chờ thời” (lengjing guancha, chenzhuo yingfu, wenzhu zhenjiao, taoguang yanghui, yousuo zuowei).
Sự sụp đổ của hệ thống Liên Xô làm TC không còn lo ngại vòng vây Liên Xô từ hướng Việt Nam nhưng lại có mối lo mới nguy hiểm và hùng mạnh hơn nhiều, đó là Mỹ. Như người viết đã trình bày trong các bài trước, thời điểm năm 1990 đối tượng cạnh tranh của TC là Mỹ và Nhật chứ không phải Liên Xô hay chư hầu cũ của nó là CSVN và mục tiêu bành trướng của họ Đặng không chỉ giới hạn ở các cù lao trên biển, vài ngọn núi đất ở Hà Giang mà cả Thái Bình Dương. Và để giới hạn sự đe dọa của Mỹ, TC đã làm hòa với CSVN. Hai bên đã mở các cuộc đàm phán vào năm 1991 và đạt đến thỏa hiệp vào năm 1993 sau mật ước Thành Đô.
Việt Nam sau Liên Xô
Sau khi hệ thống CS tại châu Âu sụp đổ, nền kinh tế của các nước CS còn lại của khối COMECON trong đó có Lào, Cu Ba và CSVN trở thành đàn gà mất mẹ. Trong bài bình luận nhân dịp kỷ niệm 20 năm bức tường Bá Linh đổ, tạp chí The Economist nhận xét chung rằng khi chế độ thực dân ra đi, các nước cựu thuộc địa ít ra còn hưởng được các phương pháp quản trị, hệ thống tư pháp và nhiều trường hợp cả ngôn ngữ nhưng chế độ CS ra đi không để lại gì ngoài nghèo đói, ngục tù và lạc hậu.
Số phận của đảng CSVN như chỉ mành treo chuông. Trong giờ phút sinh tử đó, lãnh đạo CSVN xem dấu hiệu hòa hoãn của Đặng Tiểu Bình như chiếc phao giữa biển. Họ vui mừng bám lấy. Dĩ nhiên, với bản chất thâm độc, đầu óc tính toán của lãnh đạo TC, món lễ vật của đàn em CSVN dâng lên trong ngày quy phục thiên triều lần nữa phải là một lễ vật đắt giá. Món nợ máu xương từ năm 1979 trở về trước hẳn được Đặng Tiểu Bình đòi cả vốn lẫn lời.
Hội nghị bí mật tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên diễn ra trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 giữa phía Việt Nam gồm Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh và phía Trung Quốc gồm Giang Trạch Dân và Lý Bằng thực chất là lễ cam kết một loại “công hàm” khác, trầm trọng hơn nhiều so với “công hàm Phạm Văn Đồng”.
TC muốn gì và CSVN hứa gì trong hội nghị Thành Đô?
Chiều ngày 7 tháng 11 năm 1991 tại Nhà khách Chính phủ Điếu Ngư Đài Bắc Kinh, Giang Trạch Dân tuyên bố “Nhưng chúng tôi hy vọng giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể khôi phục mối quan hệ mật thiết giữa hai Đảng và hai nước do những người lãnh đạo thuộc thế hệ lão thành xây dựng nên."
Họ Giang muốn nhắc nhở lãnh đạo CSVN về thời kỳ mà đảng CSVN thở bằng bình oxygen TC trong các thập niên 1950, 1960.
TC muốn Việt Nam những gì Liên Xô muốn Phần Lan và nhiều hơn nữa:
- Giống như Liên Xô áp dụng với Phần Lan, Việt Nam phải “trung lập” trên danh nghĩa. Phần Lan luôn tuyên bố trung lập và Liên Xô ủng hộ vị trí trung lập của Phần Lan nhưng thực chất có quyền phủ quyết hầu hết các chính sách đối ngoại của Phần Lan. CSVN cũng thế. Họ luôn tuyên bố “quan hệ hợp tác bình đẳng cùng có lợi” với mọi quốc gia trên thế giới nhưng thực chất chỉ “hợp tác” với sự đồng ý của TC. Bất cứ khi nào có dấu hiệu làm trái ý, TC sẽ dùng mọi biện pháp hèn hạ nhất để trừng phạt như trường hợp giàn khoan HD981, bất chấp dư luận thế giới khinh khi.
- Giống như Liên Xô áp dụng với Phần Lan, các chính sách an ninh quốc phòng của Việt Nam không được đi ngược với chính sách quốc phòng của TC, không được độc lập trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của TC. Để thỏa mãn yêu sách của TC, Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “bốn không” được xác định trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019: “Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.
Các điều khoản này tương tự các điều khoản của hiệp ước mà Phần Lan phải ký với Liên Xô năm 1948.
- Giống như Liên Xô đã cướp đất của Phần Lan, CSVN đã chấp nhận vị trí đặc quyền, đặc lợi của TC trong Biển Đông. Bằng chứng, khi thỏa hiệp Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện TC thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, TC ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài ra, TC còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa.
- Giống như Liên Xô đã áp lực với lãnh đạo Phần Lan, Việt Nam cũng thực hiện các chính sách tự kiểm duyệt các tin tức gây mất lòng TC, giới hạn các phim ảnh, sách báo có nội dung tiêu cực về chế độ CS tại Trung Quốc, ngăn chặn mọi ý kiến, phản ứng dù rất ôn hòa của người dân trước các hành động gây hấn, xâm lược lộ liễu của TC. Tháng Sáu 2016, các báo VnExpress, Thanh Niên, Người Lao Động, Tiền Phong, Giáo Dục đã phải đồng loạt lấy xuống các hình ảnh và tin tức liên quan đến ngày kỷ niệm Tàn Sát Thiên An Môn. TS Nguyễn Quang A, một trong những thành viên chủ trương Diễn đàn Xã hội Dân sự phát biểu với RFA: “Điều đó chứng tỏ rằng những thế lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam còn gắn rất chặt với Trung Quốc. Tôi tin chắc chắn là họ nghe theo lệnh của Bắc Kinh để họ làm như vậy.”
- Bên cạnh các điểm giống nhau nêu trên, một điểm khác biệt có tính quyết định đối với tương lai của dân tộc Việt Nam: TC quyết tâm bảo vệ đảng CSVN. Làm gì thì làm, nói gì thì nói, lãnh đạo CSTQ cũng biết hiện nay chỉ còn năm đảng cầm quyền mang nhãn hiệu búa liềm. Nắm giữ Việt Nam về mặt lý luận tư tưởng không chỉ để bảo vệ cơ chế mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong trường hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Và do đó, bị “Phần Lan hóa” trong quỹ đạo TC cũng có nghĩa ngày nào TC còn do đảng CS cai trị ngày đó nhân dân Việt Nam lại cũng sẽ tiếp tục chịu đựng dưới ách chủ nghĩa độc tài toàn trị Lênin không có Mác.
Tổng thống Phần Lan Urho Kekkonen phải khuất phục Liên Xô chỉ vì để bảo vệ chế độ cộng hòa và chủ quyền đất nước, lãnh đạo CSVN bám vào chiếc phao TC chỉ vì quyền lực và quyền lợi riêng của đảng CS.
Những phân tích trên cho thấy có xác suất cao Việt Nam đã bị “Phần Lan hóa” qua mật ước Thành Đô.
Giống như sự kiện 320 ngàn quân TC có mặt trên đất Bắc, thế giới đã biết điều này từ 1989. Nhiều người, trong đó có người viết, đã nhiều lần đề cập nhưng suốt 36 năm nay đảng CSVN và thành phần bị tẩy não vẫn vỗ ngực khoe khoang “Cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước thần thánh hoàn toàn do xương máu của người Việt Nam.” Chủ trương của đảng là chối cho tới khi nào không còn chối được nữa.
Số liệu 320 ngàn quân trong đó đã có hơn 4,000 người bị giết là do đảng CSTQ tiết lộ ngày 16 tháng 5, 1989. Nhân dân Việt Nam chỉ mới được chính thức biết tuần rồi. TC còn giữ rất nhiều bí mật khác của CSVN trong suốt thế kỷ quan hệ giữa hai đảng và tùy theo thời tiết ngoại giao nóng hay lạnh, giới lãnh đạo TC sẽ tiết lộ vài bí mật có lợi cho họ. Do đó đừng ngạc nhiên nếu một ngày nào đó TC tuyên bố “Việt Nam đã vi phạm văn bản cam kết tại Hội Nghị Thành Đô mà Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh đã ký”.
Trần Trung Đạo
26/4/2025
Tham khảo:
- Mart Laar,The Power of Freedom - Central and Eastern Europe After 1945, Unitas Foundation, 2010
- Challenges for the U.S.(,) Robert S. Ross, Allen S. Whiting and Harry Harding, The NBR Analysis, 1990
- Regime Insecurity and International Cooperation, M. Taylor Fravel, International Security, Vol. 30, No. 2 (Fall 2005), pp. 46–83 © by the President and Fellows of Harvard College
- Korean Reunification Would Cast Off China’s Shadow , Mark P. Barry, World Policy
- Chính Luận Trần Trung Đạo, Cổ Loa và Hoa Đàm xuất bản, Hoa Kỳ 2025
https://www.facebook.com/trantrungdao
_________
Tựa CHÍNH LUẬN I
Trần Trung Đạo
Trong tác phẩm Three Days in Moscow, ký giả Bret Baier kể lại khi vừa đến Moscow sau chuyến bay dài vào cuối tháng 5, 1988, TT Ronald Reagan thay vì nghỉ ngơi, đã cùng phu nhân dành thời gian ngoài nghị trình viếng thăm chính thức để ra phố thăm những người dân Nga bình thường.
TT Ronald Reagan có thể là vị tổng thống Mỹ đã bị bộ máy tuyên truyền Liên Xô bôi đen hơn nhiều tổng thống khác vì chính ông năm năm trước đã gọi chế độ CS Liên Xô là “đế quốc tội ác” (The evil empire). Thông tấn xã TASS qua nhiều bài bình luận sau đó đã tố cáo tổng thống Reagan là người “chống Cộng điên cuồng”.
Nhưng thay vì bị khinh thường, sỉ vả hay thờ ơ, chiều 31 tháng 5, 1988, vị tổng thống thứ bốn mươi của Mỹ đã được dân chúng Moscow hoan hô nồng nhiệt. Sau bảy mươi năm tranh đấu trong âm thầm, trong chịu đựng, nhận thức của người dân Nga cuối cùng đã thắng bộ máy tuyên truyền CS. Trước mặt họ không phải là người “chống Cộng điên cuồng” mà lãnh đạo của một cường quốc tự do, dân chủ.
Ánh sáng tự do đã thắng bóng tối độc tài và cuộc cách mạng dân chủ đang đến. Thật vậy, chỉ một năm sau, hệ thống toàn trị CS rạn nứt và ba năm sau, chế độ CS chính thức cáo chung.
Chế độ CS có hai cánh tay: tuyên truyền và khủng bố. Trong lúc người dân không thể nhất thời chống lại được bạo lực khủng bố CS, họ có khả năng thắng trong trận chiến tuyên truyền. Đúng như họa sĩ Ý Maurizio Nannucci viết “Thay đổi nơi chốn, thay đổi thời gian, thay đổi nhận thức, thay đổi tương lai” (Changing place, changing time, changing thoughts, changing future).
Sự sụp đổ của Liên Xô được giải thích, biện luận, phân tích từ các góc độ kinh tế, chính trị, quân sự khác nhau nhưng đều là những góc bên ngoài. Reagan, Thatcher đều là người ngoại quốc. Chính góc bên trong nơi gần 300 triệu nạn nhân của chế độ CS đã kiên trì chống đỡ và vượt qua mới là điểm bắt đầu quyết định. Đó là góc nhận thức.
Một anh bán rượu kể chuyện cười mỉa mai chế độ, các nhà văn, nhà thơ âm thầm phổ biến các tác phẩm cổ xúy quyền tự do, chị bán hàng rong một mình chống chính sách thuế đánh vào giới tiểu thương, các bạn thanh niên sinh viên phát động phong trào mặc quần jeans xanh theo lối Mỹ trong thập niên 1960,v.v... đã góp phần tẩy chay chế độ CS. Chế độ dù ba đầu sáu tay trăm con mắt cũng không thể chống cự hay ngăn cản được đội quân phản kháng hữu hình nhưng cũng rất vô hình, vô dạng kia.
Những nỗ lực của họ không được thấy và có khi còn không được ghi nhận nhưng chính những mạch nước chảy ngầm đó mới thật sự xói mòn chế độ.
Các lực tác động từ bên ngoài sẽ không thể nào làm sụp bức tường dày CS nếu cơ chế CS đã không bị đục rỗng từ trước bằng những bàn tay nhỏ, bàn chân yếu, bằng những chịu đựng, hy sinh, tranh đấu của bao thế hệ người dân 15 nước thuộc Liên bang Xô Viết từ năm 1917.
Tối ngày 25 tháng 12, 1991, hàng triệu người khắp năm châu hồi hộp chờ đợi trước máy truyền hình để xem Mikhail Gorbachev đọc diễn văn từ chức Chủ tịch Liên Xô. Quả là một biến cố vượt sự tưởng tượng của con người.
Làm thế nào một cường quốc với dân số gần 300 triệu sống trên một phần sáu quả địa cầu được trang bị với 45 ngàn đầu đạn nguyên tử và được bảo vệ bởi một đạo quân vào khoảng 5 triệu người, đã phải sụp đổ?
Không ít người vẫn khó mà tin vào mắt mình ngay cả khi nhìn Gorbachev đọc diễn văn từ chức.
Nhưng đa số người dân Liên Xô thì không.
Họ rất lạnh lùng và bàng quan. Ngoài phố, không một cuộc biểu tình phản đối hay ủng hộ Gorbachev và cũng không có pháo bông mừng cách mạng dân chủ thành công. Không. Cách mạng dân chủ đã diễn ra trước đó rồi. Không phải diễn ra trên đất nước mà diễn ra trong nhận thức của người dân.
Liên Xô quá lớn, hãy chọn một quốc gia thật nhỏ để chứng minh sức mạnh vô biên của nhận thức.
Lithuania là một trong ba quốc gia nhỏ bên bờ biển Baltic. Năm 1990 dân số cả nước chỉ vào 3.7 triệu người và là một trong 15 nước “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa” của Liên Xô.
Hôm đó là ngày 3 tháng 6, 1988. Một nhóm 35 người tập trung tại Viện Hàn Lâm Khoa Học Lithuanian để bàn chuyện giành độc lập Lithuania khỏi khối CS Liên Xô. Trong số 35 người này có 17 người cựu đảng viên CS và 18 người không CS.
Những người gốc CS như bà Kazimira Prunskiene và những người không CS đến từ nhiều thành phần khác nhau như ca sĩ nhạc Rock Algirdas Kauspedas, diễn viên sân khấu Regimantas Adomaitis v.v… Họ thành lập phong trào có tên là Sajudis (phong trào cải cách) và bầu Vytautas Landsbergis, một giáo sư âm nhạc không CS, làm lãnh đạo.
Từ con số 35 người đó, chỉ trong vòng hai năm, phong trào đã thu hút sự tham gia của hàng trăm ngàn người và cuộc vận động độc lập cho Lithuania đã dẫn tới thành công. Lithuania tuyên bố độc lập khỏi Liên Xô ngày 3 tháng 11, 1990, một năm trước khi Liên Xô chính thức sụp đổ.
Dư luận quốc tế thường chú tâm vào tên tuổi, biểu tượng thời đại nhưng trong số họ không có ai lỗi lạc, tên tuổi hay tầm vóc thế giới.
Trước ngày 3 tháng 6, 1988 không ai biết đến Vytautas Landsbergis, ngoại trừ những người sinh hoạt trong ngành nhạc và học trò âm nhạc của ông ta. Cuộc đấu tranh của nhóm 35 người này lúc đầu cũng chẳng được quốc tế quan tâm mấy.
Dù dân ít, thế cô, họ không ngồi chờ dư luận thế giới hay các cường quốc quan tâm. Họ đã chọn con đường đúng để đi và cuối cùng đã đến.
Đừng quên, Mỹ không phải là một trong những quốc gia đầu tiên công nhận Cộng hòa Lithuania mà là nước thứ 45. Moldavia là nước CS đầu tiên công nhận Cộng hòa Lithuania vào tháng 5, 1990 và Iceland là nước dân chủ đầu tiên công nhận Cộng hòa Lithuania vào tháng 2, 1991. Cả hai đều là nước nhỏ. Mỹ, trong vai trò tế nhị một cường quốc và để bảo vệ quan hệ với Gorbachev, đã chờ tới tháng 9, 1991 mới công nhận Cộng hòa Lithuania.
So sánh tiến trình dân chủ hóa của hai dân tộc Nga với dân số 149 triệu người vào năm 1991 và Lithuania với dân số 3.7 triệu người, chúng ta thấy dù lớn hay nhỏ cũng đều đã phát xuất cùng những nguyên nhân: (1) thôi thúc bởi truyền thống độc lập tự chủ dân tộc, (2) có thái độ chính trị dứt khoát chống CS, (3) có mục đích cụ thể trong mỗi thời kỳ.
Từ những bài học đó, Việt Nam như một dân tộc đang đứng trước ba thách thức chính, hai khách quan và một chủ quan: (1) ngoại xâm Trung Cộng, (2) nội thù Cộng Sản và (3) phân hóa trong nội bộ những người quan tâm đến tiền đồ đất nước. Các thành phần vô cảm, xu thời, cơ hội không cần thiết phải bàn ở đây.
Trong ba thách thức, thách thức thứ ba nguy hiểm nhất, mang đặc tính chủ quan nhưng không khó khăn lắm để nhận diện. Nếu thắng được thách thức thứ ba, dân tộc Việt sẽ thắng thách thức thứ hai một cách dễ dàng và có khả năng cao sẽ thắng được thách thức thứ nhất.
Để nhận diện ra thách thức thứ ba, mỗi người chỉ cần tự trả lời cho mình một câu hỏi:
“Anh (chị) thật sự muốn gì cho đất nước?”
Câu hỏi thoạt có vẻ rất đơn giản, ngô nghê nhưng ít ai có thể trả lời cho chính mình một cách thông suốt.
Hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả đều đồng ý, con đường duy nhất hiện nay là tập trung sức mạnh dân tộc, gạt bỏ mọi bất đồng, vận dụng các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh cuộc vận động dân chủ tại Việt Nam đến thành công, xóa bỏ chế độ độc tài toàn trị CS, thiết lập một chế độ dân chủ pháp trị, hiện đại hóa đất nước toàn diện làm nền tảng cho việc phục hồi chủ quyền đất nước, mở đường cho một Việt Nam thăng tiến lâu dài.
“Đúng thế. Không có con đường nào khác”, nhiều người có thể thét to lên.
Tuy nhiên, không phải ai cũng sống và hành xử ngoài cộng đồng, ngoài xã hội đúng với tinh thần của câu trả lời mình đồng ý. Không ít người vẫn thích nguyền rủa hơn khuyên răn, thích dạy khôn hơn học hỏi lẫn nhau, thích kết án vội vàng hơn tìm hiểu lý do.
Nhận thức đúng không chỉ dành riêng những người có kiến thức rộng, đọc nhiều biết nhiều, đi nhiều hay ngay cả ở tù CS nhiều mà từ những người biết vượt qua hay luôn tìm cách vượt qua những tiêu cực, tị hiềm, hẹp hòi để sống vì cái chung của đất nước.
Cuộc chiến dài và hành trình tị nạn đầy hiểm nguy gian khổ đã để lại những vết thương, những vết hằn cá nhân sâu đậm trên thân thể và trong nhận thức của nhiều người, nhưng phải cố gắng vượt qua. Sinh mệnh của dân tộc lớn hơn, quan trọng hơn nỗi đau nhức riêng tư.
Tiền đề của cách mạng dân chủ
Thách thức thứ ba này cũng chính là tiền đề cách mạng dân chủ, và do đó, chưa thể có cách mạng dân chủ nếu những người đang tranh đấu không đồng thuận được ở những bước tiền đề.
Phong trào đối đầu với đảng CS Nga nói riêng và đảng CS Liên Xô nói chung trước 1991 cũng chứa đựng nhiều phân hóa, hận thù, nghi kỵ với đủ loại người từ một cựu ủy viên Bộ Chính trị Boris Yeltsin cho tới nhà vật lý nguyên tử Andrei Sakharov. Tuy nhiên, họ đã đoàn kết dựa trên những mục tiêu cụ thể, giới hạn, rõ ràng và dứt khoát.
Phong trào dân chủ Nga biết muốn thắng đảng CS Liên Xô họ không thể đấu tranh bí mật, lén lút mà cần phải có cần một “sân chơi dân chủ” công khai và muốn có “sân chơi dân chủ” công khai họ phải đẩy đảng CS Nga vào chỗ chấp nhận “trò chơi dân chủ”.
Điểm bắt đầu của mục tiêu tranh đấu của họ, do đó, là “xóa bỏ điều sáu hiến pháp” trong đó quy định “đảng Cộng sản Liên Xô là lực lượng lãnh đạo và dẫn dắt xã hội Xô Viết, là hạt nhân của hệ thống chính trị, của nhà nước và các tổ chức xã hội” mở đường cho bầu cử quốc hội tự do. Kết quả, phong trào dân chủ Nga thắng.
Các tiền đề cách mạng dựa trên các điều kiện tương tự cũng đã được áp dụng tại ba nước vùng Baltic trong cuộc vận động “thoát Liên Xô” trước 1990 qua ngã bầu cử quốc hội dân chủ và các quốc gia đó đã “thoát Liên Xô”.
Điều kiện lịch sử của thế giới tại mỗi thời điểm mỗi khác nhưng khát vọng tự do như hơi thở của con người, dù Nga, Mông Cổ, Latvia, Miến Điện hay Việt Nam cũng giống nhau.
Đất nước Việt Nam không gì khác hơn là một tập hợp của những con người có cùng lịch sử, cùng địa lý, cùng văn hóa và hôm nay đang cần có cùng một ước mơ tự do dân chủ. Nếu mỗi người Việt quan tâm, trả lời đúng và nỗ lực theo đuổi mơ ước tự do dân chủ của mình một cách chân thành, rồi đất nước sẽ đổi thay.
Đối diện Việt Nam, vì thế, là đối diện với cuộc chiến tranh mới, những thách thức mới, khó khăn và tế nhị hơn nhiều so với cuộc chiến bằng súng đạn trước đây. Cuộc chiến ngày nay không giới hạn bởi lằn ranh, vĩ tuyến, hiệp định; kẻ thù của nhân dân Việt Nam không phải ở bên này hay bên kia sông Bến Hải, mà ở bất cứ nơi nào.
Đối diện Việt Nam, vì thế, là đối diện với một cuộc chiến tranh giữa trí tuệ và tăm tối, giữa lòng bao dung dân tộc và tính bảo thủ hẹp hòi, giữa tình thương và thù hận, giữa khai phóng và lạc hậu, giữa nghèo nàn và thịnh vượng, giữa tự do dân chủ và CS độc tài, giữa các giá trị truyền thống dân tộc nhân bản và ý thức hệ ngoại lai vong bản nô dịch.
Con người Việt Nam trong thời đại mới, ngoài đầu mình, tay chân và các bộ phận cần thiết, còn phải có thêm đôi cánh để bay qua các vực thẳm của hoài nghi, thù hận, chia rẽ trong lòng dân tộc, cũng như bay qua những ao tù nước đọng của tính ganh tị, tự ái và mặc cảm cá nhân.
Mỗi chúng ta tuy có hoàn cảnh sống khác nhau, quá khứ khác nhau, tôn giáo khác nhau và có thể mang trên thân thể những thương tích khác nhau nhưng đất nước chỉ có một tương lai. Không ai có quyền bắt đất nước phải đau giống cái đau của cá nhân mình hay bắt cả dân tộc phải chịu đựng, phải hy sinh từ đời này sang đời khác cho quyền lợi của đảng phái mình. Sinh mệnh của dân tộc Việt Nam không nằm trong tay thiểu số người, dù là đảng CS hay là ai, mà phải do chính nhân dân Việt Nam quyết định.
Trần Trung Đạo