Tổng số quân Thanh trong trận Kỷ Dậu
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
Về trận chiến Việt Thanh cuối năm Mậu Thân (1788), đầu năm Kỷ Dậu (1789) tuy đã có nhiều tài liệu đầu tay (primary sources) của Thanh triều được công bố các sử gia vẫn còn thắc mắc: Số quân Thanh thực sự tham chiến ở nước ta là bao nhiêu?
Những con số 20 vạn, 29 vạn tuy có thoả mãn một chút tự hào dân tộc nhưng không thể chấp nhận một cách dễ dãi nếu chúng ta đi sâu vào cơ cấu tổ chức quân sự của Thanh triều để biết họ phân phối, bố trí và điều động binh lính như thế nào?
Về lực lượng chiến đấu, nhà Thanh đưa sang hai đạo quân dưới quyền tiết chế của tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị, một đạo đi theo đường Quảng Tây do đề đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy, một đạo đi theo đường Vân Nam do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy.
Trong hai cánh quân mà sử nhà Thanh gọi là chính binh và kỳ binh [quân trực tiếp và quân yểm trợ] tạo thành hai gọng kềm cùng tiến xuống Thăng Long, chỉ có quân từ Quảng Tây giao chiến với quân Nam, cánh quân Vân Nam khi xuống đến Hưng Hoá thì dừng lại và lập tức rút về khi thấy đoàn quân của Tôn Sĩ Nghị đang đóng ở Thăng Long bị đánh bại, không dám tiến xuống giải vây hay tiếp viện cho chủ tướng. Do đó, sử Trung Hoa cũng như sử nước ta thường chỉ đề cập đến toán quân Thanh đi theo đường Nam Quan là lực lượng chính yếu đã tham dự vào cuộc động binh này.
Những khó khăn trong việc tìm hiểu các con số
Tuy chỉ là một chiến dịch tương đối ngắn ngủi, số lượng quân Thanh tham chiến không cố định vì có thể ước tính theo nhiều cách:
1. Tập hợp của cả hai đoàn quân Lưỡng Quảng – Vân Quí của nhà Thanh: Con số này ngoài binh sĩ còn có hàng chục vạn dân phu, hàng nghìn bò ngựa để chuyên chở lương thực, súng ống và quân trang nên nếu nói theo ước lượng của nước ta là 20 vạn quân Thanh [thực ra trong hịch của nhà Thanh họ thổi phồng lên đến 50 vạn] thì cũng không phải là quá xa sự thực vì ngoài đôi chút phô trương, số dân phu tải lương theo lối “cổn vận” đi theo từng đoàn, đến địa điểm rồi lại quay về liên tục như mắt xích nên lúc nào cũng lũ lượt không dứt.
2. Chỉ tính riêng đoàn quân Quảng Tây do đích thân Tôn Sĩ Nghị điều động: Nếu chỉ tính quân sĩ thực sự do Tôn Sĩ Nghị, Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng chỉ huy, con số này ít hơn nhiều nhưng lại có thêm cờ xí chiêng trống, diệu võ dương oai, cũng tạo nên một bề ngoài hùng tráng khiến dân chúng miền Bắc phải hoảng sợ.
3. Tính tập hợp mọi lực lượng chính qui, phụ trội và yểm trợ: Bao gồm cả quân chính qui, quân địa phương, quân thiểu số ở biên giới đi theo quân Thanh và quân nhà Lê, thổ hào … cùng tiến xuống rồi sau đó chia ra trấn giữ khắp nơi. Ngoài các đạo quân thiểu số Thái, Thổ, Miêu…, còn có xưởng dân là những người Trung Hoa lén lút trốn sang nước ta khai khẩn mỏ đồng, mỏ thiếc [mà theo báo cáo của Tôn Sĩ Nghị thì đông đến mấy vạn người].
Cũng nên thêm mấy năm đó mùa màng thất bát, loạn lạc nên nhiều nơi không đủ lương thực. Khi vua Càn Long ra lệnh cung cấp nuôi ăn những ai đi theo cần vương, số người hưởng ứng rất đông. Nếu tính chung mọi thành phần, tuy nhà Thanh chỉ đưa chừng 1 đến 2 vạn quân chính qui lực lượng hậu cần và phụ trợ có thể to lớn hơn đưa đến những con số ảo mà người nghiên cứu phải cân nhắc.
Trong biên khảo ngắn này, chúng tôi chỉ tập trung vào điểm thứ 2 là đoàn quân do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy. Tuy nhiên tính riêng cánh quân Lưỡng Quảng cũng không dễ dàng vì đoàn quân mà Tôn Sĩ Nghị tế cờ mở cửa tiến sang nước ta chỉ là một bộ phận ban đầu, sau đó được bổ sung nhiều đợt (cả quân lính lẫn phu dịch) vừa gia nhập vào đại quân, vừa chia ra bảo vệ những lương đài [đài trạm] tất cả 17 chỗ dọc từ Lạng Sơn xuống đến Thăng Long. Ngoài ra, ở những nơi hiểm yếu, quân Thanh cũng lập những đồn bót [hoặc chiếm được của Tây Sơn] và đóng quân tại đó để đề phòng quân địch tấn công ngang hông cắt đường rút lui. Đó là bố trí rất cơ bản mà trong bất cứ cuộc tiến quân nào quân Thanh đều áp dụng.
(…)
Bộ phận tham mưu
Theo tổ chức hành chánh và quân đội của Thanh triều, đội quân viễn chinh sang đánh nước Nam được đặt sắp xếp như sau:
- Chỉ huy tối cao: Tôn Sĩ Nghị, tổng đốc Lưỡng Quảng
- Chỉ huy yểm trợ: Phú Cương, tổng đốc Vân Quí
Chỉ huy quân đội (cánh quân mặt đông): đề đốc Quảng Tây Hứa Thế Hanh.
Đề đốc Quảng Tây có hai phụ tá:
- Tổng binh Quảng Tây Thượng Duy Thăng, phó tướng Tôn Khánh Thành
- Tổng binh Quảng Ðông Trương Triều Long (張朝龍), phó tướng Lý Hóa Long
Chỉ huy quân đội (cánh quân mặt tây): đề đốc Vân Nam Ô Ðại Kinh, có hai phụ tá:
- Tổng binh Thọ Xuân Ðịnh Trụ
- Tổng binh Khai Hóa Tôn Khởi Giao
* Quân chính quy
Quảng Ðông:
Năm ngàn (5,000) quân điều động từ tỉnh Quảng Ðông gồm có quân địa phương và đề tiêu (quân trực thuộc đề đốc) mỗi đội 1,500 người, cánh tả, cánh hữu mỗi cánh 1,000 người, do hai tổng binh Trương Triều Long, và Lý Hóa Long chỉ huy, chia từng đội 500 người tổng cộng là mười đội lần lượt kéo đến biên cảnh Quảng Tây. Về sau, Tôn Sĩ Nghị lại điều động thêm 3,000 quân Quảng Đông nữa nhưng chưa đến kịp thì đại quân đã thua chạy về.
Quảng Tây:
Về tỉnh Quảng Tây, ngoài 5,000 quân bản bộ, Tôn Sĩ Nghị cũng điều động 4,000 quân đang trấn giữ ở Nam Quan và các cửa ải, lại tuyển thêm 1,000 quân bổ sung thành 5,000 người nâng quân số của tỉnh Quảng Tây lên tổng cộng 10,000 người.[10] Ngoài lính ra, Quảng Tây còn mang theo 423 con ngựa, về sau tăng viện 3,500 binh sĩ, tổng cộng 13,500 quân và 423 ngựa.
Tính như thế tổng cộng số quân hai tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây được điều động là 21,500 quân. Trong số này, Tôn Sĩ Nghị để lại 4,000 quân đóng giữ các quan ải dọc theo biên giới, 5,000 không theo đại quân chia thành ba toán, 2,000 người ở lại phòng thủ Lạng Sơn, 1,300 người chia ra canh gác 17 kho lương thực được thành lập dọc theo tuyến đường từ Lạng Sơn đến Thăng Long, 1,700 người khác chia ra canh phòng các nơi hiểm yếu. Con số do Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh đưa xuống Thăng Long khoảng chừng 12,500 người.
* Quân phụ trợ
. Thổ binh
Các trấn, hiệp, doanh tại đốc phủ đề lân cận cũng được lệnh chuẩn bị thêm vài nghìn quân để điều động sau, tính ra riêng tỉnh Vân Nam cũng dự bị cả thảy hơn một vạn quân. Thổ quan châu Bảo Lạc là Nông Phúc Tấn (農福縉) đem 2,000 quân, Thổ ti Ðiền châu (田洲) là Sầm Nghi Ðống (岑宜棟) cũng dẫn 2,000 thổ binh Ngoài ra còn thổ quan Ðô Long (都龍) là Hoàng Văn Trăn (黃文溱) và thổ quan Bảo Thắng (保勝) là Hoàng Văn Thao (黃文韜) cũng đem quân đi theo. Riêng mạc hữu xưởng Ba Bồng (波篷) là Lâm Tế Thanh (林際清) được nhà Thanh đặc thưởng hàm tri huyện, thống suất những người trong xưởng đi theo quân Thanh. Cánh quân Vân Quí, nhà Thanh cũng điều động 1,500 thổ binh vùng biên giới Hoa – Việt để dẫn đường.
. Mã phu
Tỉnh Quảng Ðông điều động 328 con ngựa, Quảng Tây điều động 423 con ngựa tổng cộng 751 con. Theo tiêu chuẩn mỗi con ngựa là 2 người phu thì họ phải điều động thêm khoảng 1,500 dân phu để phục dịch cho 751 con ngựa. Cũng nên nói rõ là ngựa mà quân Thanh dùng trong chiến dịch không phải là loại ngựa chiến mà là loại ngựa bản địa, nhỏ nhưng dai sức để dùng cho quan quân cưỡi và chở đồ đạc, súng đạn.[12]
. Dân phu
Ngoài thành phần lính chính qui, quân Thanh còn có thêm những đoàn dân phu đi theo để chăn ngựa, khuân vác nhưng không rõ rệt là bao nhiêu. Số lượng dân phu làm công tác vận tải súng ống, quân dụng, canh giữ và chuyển vận lương thảo… đóng rải rác dọc theo trục lộ tiến quân hay phục dịch tại mặt trận tính ra còn cao hơn cả binh sĩ.
Số phu dịch này phần lớn là dân chúng vùng nam Trung Hoa bị bắt đi làm công không lương (được cơm ăn trong số gạo họ mang vác) và cả một số người Việt tại các vùng biên giới. Riêng tỉnh Quảng Tây, nhà Thanh đã điều động số dân phu đi theo đoàn quân lên đến 54,000 người, không tính số ở các tỉnh lân cận được sử dụng vào hệ thống hậu cần để chuyên chở gạo thóc, vũ khí, quân trang, quân dụng … từ nơi này đến nơi khác.
Trong số binh lính đưa sang nước ta, số quân của hai tỉnh Vân – Quí là 8,000 người không đụng trận nên rút về được an toàn, số quân từ Quảng Tây ra khỏi Nam Quan là 17,500 người có lẽ là số gần đúng mặc dù không phải ai ai cũng tham chiến.
Tổn thât quân Thanh
Khi đối chiếu con số Tôn Sĩ Nghị (1) đưa qua Nam Quan chừng 17,500 trừ đi con số 5,000 mà họ báo cáo chạy được về thì con số tử trận, mất tích [hay ở lại nước ta sinh sống] phải hơn 1 vạn. Con số này phần lớn đóng ở Thăng Long do Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh (1) trực tiếp chỉ huy nhưng cũng có những toán quân khác lập thành đồn luỹ ở phía nam để bảo vệ đại doanh.
(1) Đến chuyện nhất tướng công thành vạn cốt khô trên, tới cổ lai chinh chiến địa, kỷ kiến hữu nhân hồi…Mụ sử tôi học theo Leopold von Ranke, sử gia Đức thế kỷ XIX: “Lịch sử thể hiện những gì đã thực sự diễn ra” (Wie es eigentlich gewes).
Một là: Trong chuyến đem quân sang nước ta, Tôn Sĩ Nghị cũng ra lệnh cắt tai binh lính Tây Sơn bị họ giết (trong những trận đánh từ Lạng Sơn tới Thăng Long) để làm bằng chứng “báo tiệp” nhưng không được bao nhiêu.
Hai là: Dựa vào “Lời bạt” của Càn Long trong bộ tranh “Bình định An Nam chiến đồ”.
“…Nếu như Tôn Sĩ Nghị vâng chỉ rút quân về sớm, thì tuy không đến nỗi phải thiệt mạng bọn Hứa Thế Hanh và ba tướng, còn ba tướng thì (ta) lệnh cho nước phiên thuộc lập miếu thờ (2) để đền đáp lòng trung…”.
(2) Theo người ngọai sử: “…Nhà Thanh đòi hỏi vua Quang Trung phải lập đền thờ cho ba tướng của họ bị tử trận là: đề đốc Hứa Thế Hanh, cùng hai tổng binh là Trương Triều Long và Thượng Duy Thăng (3). Nguyên chú không nhắc gì đến thái thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống, vốn mang chức vụ.thấp hơn so với ba tướng kể trên…”
(3) Theo bảng so sánh của Great Britain: Foundry Books, 1998 với Armies of the Nineteenth Centery: Asia thì chức vụ của đề đốc Hứa Thế Hanh là đại tướng, Tổng binh Thượng Duy Thăng và Tổng binh Trương Triều Long là trung tướng. Nhưng không thấy nói đến chức vụ của Sầm Nghi Đống, vì ông này trấn giữ đồn Hà Hồi vì vậy ông ta có thể là Phó tướng tức thiếu tướng.
Những tài liệu mới đây cho thấy đoàn quân Quảng Tây do đích thân Tôn Sĩ Nghị điều động theo Ngụy Nguyên (Thánh Vũ Ký – Càn Long chinh vũ An Nam tý) thì tòan bộ bộ tham mưu tướng lãnh của Tôn Sĩ Nghị đều thiệt mạng gồm một đại tướng, hai trung tứng và một thiếu tướng.
Cũng theo nguồn hoàn toàn sai sự thực của sử gia Ngụy Nguyên:
- Các tướng Hứa Thế Hanh, Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long bị chết đuối vì bị Tôn Sĩ Nghị bỏ lại phía nam sông Nhĩ Hà không qua được sông.
***
Như có túc duyên, mụ chữ tôi đến với người ngọai sử qua anh bạn cà phê để có Đọc Kim Dung tìm hiểu văn hoá Trung Quốc. Gió nồm rồi lại gió hanh, bể dâu thì đành bể dâu, thuyền ai phiêu bạt ví dầu à ơi, ông cũng đến với làng văn xóm chữ qua bằng hữu từ phương xa với một cơ duyên nào đấy.
Và cứ theo người viết trong nước…
Giới thiệu bộ biên khảo về nhà Tây Sơn
“…Khởi nghĩa Tây Sơn, triều đại Tây Sơn là đề tài thu hút của giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam và đã có nhiều công trình được xuất bản trong vài chục năm gần đây. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân chủ đề lịch sử quan trọng này vẫn còn những khúc mắc chưa được giải đáp thỏa đáng.
Đây là một thời đoạn lịch sử tuy không dài nhưng có khiếm khuyết lớn về nguồn tài liệu. Do triều đại Tây Sơn-Quang Trung để lại tài liệu không nhiều nên người đời sau khó có thể hình dung đầy đủ bộ mặt của một vương triều …
Về sau, sử nhà Nguyễn có khuynh hướng cố tình hạ thấp triều đại Tây Sơn, ghi chép nhiều sự kiện mập mờ, thiếu chính xác. Bên cạnh đó, các tài liệu dã sử, truyền thuyết, tiểu thuyết lịch sử với nhiều chi tiết chưa được kiểm chứng cẩn thận nhưng lại được các tài liệu sau này sử dụng với tần suất cao càng làm cho lịch sử về triều đại Tây Sơn có nhiều sai lạc, nhiều nghi vấn cần được tiếp tục nghiên cứu.
Trong hơn 10 năm nay, Nguyễn Duy Chính khai thác khối tư liệu đồ sộ từ kho tàng thư tịch Trung Hoa như: Thực lục, Thượng dụ, Đáng án,Tấu triệp…, đó là những tư liệu gốc rất quan trọng giúp mở ra những hướng nghiên cứu mới về triều đại Tây Sơn và lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến quan hệ ngoại giao giữa Đại Việt và nhà Thanh. Từ sự khai thác khối tài liệu nói trên một cách cẩn thận có sự đối chiếu với những sử liệu ở trong nước và các tài liệu phương Tây, ông đã xây dựng nên bộ biên khảo đồ sộ về triều đại Tây Sơn.
Vào khoảng năm 2014, được sự giới thiệu của TS. Trần Đức Anh Sơn, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng), Nhà xuất bản Văn hóa-Văn nghệ đã liên hệ với tác giả Nguyễn Duy Chính và nhận bản thảo đầu tiên của ông trong bộ biên khảo này, đó là quyểnThanh – Việt nghị hòa. Tiến trình công nhận triều đại Quang Trung, sách in xong và phát hành vào tháng 9-2015.
Đây là một công trình nghiên cứu công phu, sử dụng nhiều tài liệu nghiên cứu mới giúp làm rõ quá trình đàm phán để nhà Thanh công nhận triều đại Quang Trung và đặt lại quan hệ ngoại giao với Đại Việt sau trận thất bại của Mãn Thanh đầu xuân Kỷ Dậu (1789), sự kiện ngoại giao vốn từ trước tới nay bị lịch sử bỏ qua hoặc chỉ đề cập một cách sai lạc.
Việc nhà Thanh công nhận triều đại Quang Trung “là một tiến trình đàm phán cam go không chỉ thu hẹp trong việc nhà Thanh chấp nhận một An Nam quốc vương mà còn là một cuộc đấu trí để đi đến một ‘win-win solution’ như lối nói ngày nay”. Quá trình tái thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà Thanh vừa giữ được đại cục của một nước nhỏ bên cạnh đế chế Trung Hoa, vừa khẳng định vai trò và vị thế của Đại Việt thời Quang Trung với tư cách là một quốc gia vừa chiến thắng vang dội đầu năm 1789.
Tiếp sau Thanh – Việt nghị hòa, công trình Việt – Thanh chiến dịch đã được xuất bản và phát hành vào những ngày đầu xuân Bính Thân (2016) này. Cũng với những tài liệu mới được khai thác từ phía nhà Thanh và cách tiếp cận khoa học mới mẻ và đầy hấp dẫn, Việt – Thanh chiến dịch đã tái hiện lại bối cảnh lịch sử cuộc xâm lược của quân Thanh và chiến thắng oanh liệt của Đại Việt dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Huệ – Quang Trung. Những tư liệu mới đã làm rõ âm mưu sâu xa của cuộc tiến binh nhằm thôn tính nước Đại Việt dưới chiêu bài “Phù Lê diệt Tây Sơn” của Thanh triều; quá trình chuẩn bị chiến thuật, chiến lược, vũ khí…; diễn tiến của cuộc tiến công Thăng Long, quét sạch ngoại xâm vào Tết Kỷ Dậu (1789).
(…)
Hai cuốn sách này sẽ đi sâu phân tích sự kiện phái đoàn Đại Việt sang Trung Hoa dự lễ thượng thọ 80 tuổi của vua Càn Long (Thanh Cao Tông) vào năm 1790 mà từ trước tới nay vẫn còn là một “nghi án lịch sử” do không ít sử sách và dư luận cho rằng người dẫn đầu phái đoàn đi Trung Hoa là “vua Quang Trung giả”. Qua tư liệu mới, đặc biệt là từ phía Trung Hoa, Nguyễn Duy Chính sẽ tái hiện lại những hoạt động khá chi tiết của phái đoàn Đại Việt trong cuộc đại lễ thượng thọ vua Càn Long và đưa ra những luận chứng để giải đáp nghi vấn về sự kiện được gọi là “Giả vương nhập cận…”.
Trân trọng giới thiệu bộ biên khảo công phu này với quý bạn đọc.
Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ, Bính Thân 2016
***
Cũng năm Bính Thân (2016), mụ chữ tôi phiêu lãng quên mình lãng du ở Sài Gòn.
Một hôm, mò ra đường Hồng Thập Tự bán sách cũ trong cái tâm trạng đi săn đồ cổ với “của đi tìm người”. Sách cũ không còn bày bán bên lề đường nữa mà nằm trong ba bốn tiệm như tiệm tạp hóa, đảo mắt như lạc rang chỉ thấy sách in lại của Sơn Nam, Nguyễn Hiến Lê…Tìm về đường xưa lôi cũ…về lại đường Lê Lợi xưa kia có nhà sách Khai Trí của ông Nguyễn Hùng Trương, trước kia vào đây, mụ chữ tôi ngộp người với sách là sách, nay cũng như tiệm tạp hoá, họ bán sách lẫn lộn với đồ chơi trẻ con. Lần mò vào kệ sách văn học…với số dân gần một trăm triệu, sách vở đếm không quá mười đầu ngón tay với Tô Hoài, Phùng Quán, Bảo Ninh...
Đảo qua kệ sách sử học, những nhà sử học trong nước viết về sử Việt trong những ngày vắng gió chiều hôm. Đất nước cả nghìn năm, lịch sử là cuộc tái diễn không ngừng nay lập lại chỉ có sách in lại từ Tập san Sử địa trước 75. Trong khi sách của sử gia miền Bắc hoàn toàn vắng bóng thì... Thi mụ sử tôi trắng mắt như con tinh dòm thấy lạc nẻo đường trần là hai tác giả ở ngòai nước có ba, bốn cuốn của Tạ Chí Đại Trường như Người lính thuộc địa Nam Ky (1861-1945), Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802. Nguyễn Duy Chính có hai quyển Việt-Thanh chiến dịch và Thanh-Việt nghị hòa.
Về lại đất tạm dung, trong cơn đồng bóng với chữ nghĩa, mụ chữ tôi sàng chữ ra câu, sẩy câu ra chữ để chữ nghĩa bò lổm ngổm dầy đặc như ruồi bu trong bài bút ký Người đi chân đất. Nay tiếp đến “Chuyện người ngọai sử” qua chữ nghĩa ông đồ bát nháo, mụ chữ tôi nho nhe vô nhân bất tri, nôm là không ai không biết mụ chữ tôi ăn mày chữ nghĩa từ Vua Quang Trung cầu phong trong Thanh-Việt nghị hòa.
Qua miền Nam mưa nắng hai mùa, mụ chữ tôi nhớ như in, trong nhà sách Khai Trí cuốn sách này đứng bên cuốn Lịch sử đọc vài quyển của ông họ Tạ.
(còn tiếp)
Trích "Chuyện người ngoại sử" - Tác giả: Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
Đăng ngày 15 tháng 07.2020