Năm 2020 Việt Nam sẽ là

một tỉnh của Trung Cộng?

Huỳnh Tâm

Tổ chức Wikileaks công bố một tài liệu “tuyệt mật” động trời liên quan đến Việt nam. Đó là biên bản họp kín giữa ông Nguyễn Văn Linh Tổng BT Đảng CSVN, ông Đỗ Mười Chủ tịch HĐBT đại diện cho phía Việt nam và ông Giang Trạch Dân Tổng BT và ông Lý Bằng Thủ tướng Chính phủ đại diện cho phía Trung quốc trong hai ngày 3-4/9/1990 tại Thành đô.
Trong tài liệu tuyệt mật liên quan tới Việt Nam này của mình, Wikileaks khẳng định thông tin dưới đây nằm trong số 3.100 các bức điện đánh đi từ Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh của cơ quan ngoại giao Hoa kỳ tại Việt nam gửi chính phủ Hoa kỳ, tài liệu này có đoạn ghi rõ “… Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công CNCS, Đảng CSVN và nhà nước Việt nam đề nghị phía Trung quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong quá khứ và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung quốc để Việt nam được hưởng quy chế Khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc kinh như Trung quốc đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng tây…. Phía Trung quốc đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong thời hạn 30 năm (1990-2020) để Đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung quốc”.

Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 1)

Huỳnh Tâm (Danlambao) - LTG: Chúng tôi đang tổng hợp tài liệu viết "Hồ Chí Minh, một gián điệp hoàn hảo". Bỗng dưng bức xúc trước lời gọi "Chúng Tôi Muốn Biết" về tình hình của đất nước, cho nên mạn phép vào ngã rẽ đất nước đang điêu linh để viết loạt bài "Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990", loan tải trên mạng Dân Làm Báo, hầu gửi đến toàn thể công luận và đảng viên Cộng sản để cùng nhau biết về sự thật sau lưng của những kẻ phản quốc, bán nước Việt Nam cho Trung Quốc. Nội dung tài liệu này đã đối chiếu rất trung thực từ trong ngăn kéo của BCT/TW đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam.
Tất nhiên, chúng tôi cũng đã đọc qua tập tài liệu bản gốc của Ban Tuyên giáo TW phổ biến liên quan đến Hội nghị bí mật Thành Đô 3-4/9/1990. Nhưng rất tiết tập tài liệu của quý Ban Tuyên giáo TW đã công bố hoàn toàn không đúng sự thật và sai phạm trầm trọng đến tinh thần Hội nghị bí mật Thành Đô. "Chúng tôi muốn biết" sự thật, chứ không thể nào chấp nhận lừa bịp mãi mãi như thế này được! Nhân đây chúng tôi loan tải một chương đầu về Hội nghị bí mật Thành Đô để công luận tìm hiểu, nhận diện một "công thức" tà ngụy của đảng Cộng sản Việt Nam, bán nước cho Trung Cộng.
 
Con đường nào dẫn đến đàm phán bí mật tại Thành Đô Tứ Xuyên 1990
Năm 1974 Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa biển Đông của Việt Nam. 1979 Trung Quốc xua quân xâm lược biên giới Việt Bắc-Đông Bắc Việt Nam. 1984 đánh chiếm 4 đỉnh núi cao nguyên biên giới Việt Bắc, một dải biên thùy chiến lược quan trọng nhất của quốc phòng Việt Nam tại hai tỉnh Lào Cai, Hà Giang giá trị về an ninh cho cả nước. 1988 đánh chiếm đảo Gạc Ma. 1990 đảng Cộng sản Việt Nam thông đồng với Trung Quốc ngồi vào bàn đàm phán bí mật tại thủ phủ Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên, bằng luận điệu mị dân "bình thường hóa quan hệ Việt-Trung", thay vì hội nghị bí mật "Việt Cộng bán nước cho Trung Cộng".
 
Đảng Cộng sản Việt Nam yêu cầu Bắc Kinh mở cửa đàm phán bí mật Thành Đô vào ngày 3-4/9/1990. Quả nhiên thời điểm này đánh dấu ngoặc lớn, lịch sử Việt Nam khởi đầu mất nước. Tại đây, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười và cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng. Phía Trung Quốc có Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng. Trung Quốc nhấn mạnh, cuộc đàm phán này theo chỉ thị của "quân sư" Đặng Tiểu Bình và phía Việt Nam có Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoàng Đích (黄的) đứng trong chính trường tích tực đóng vai trò "Thủ lãnh" đàm phán bí mật tại Thành Đô 1990 [1]. Hai ông, Giang Trạch Dân và Nguyễn Văn Linh đồng ký vào "Kỷ yếu hội nghị đàm phán bí mật bình thường hóa quan hệ song phương Việt Nam-Trung Quốc". Tài liệu này được khẳng định sòng phẳng luật chơi của hai kẻ bán người mua Việt Nam!
 
Từ khi có tên Việt Cộng quan hệ với Trung Cộng, Việt Nam trải qua năm tháng điêu linh, thời gian đọng lại quá nhiều rối bời, dấu vết lịch sử mỗi lúc thêm đen tối, chồng lên nhau khó gỡ nỗi nhục làm tay sai để rồi thi hành mệnh lệnh phi lý, từ lúc Hồ Chí Minh cho đến ngày nay chưa bao giờ xuất hiện bình minh giữa hai dân tộc Việt-Hán.
Năm 1975, sau khi kết thúc chiến tranh, nhà lãnh đạo Việt Nam Lê Duẩn không có thời gian để hàn gắn vết thương đã gây ra bởi chiến tranh, do cơ bản từ khi có Hồ Chí Minh xây dựng chế độ này. Nhất là bộ phận Cộng sản miền Nam sau 1975, bắt buộc phải xóa bỏ để chuyển đổi lên Xã hội Chủ nghĩa.
Phải chăng Việt Nam nặng nợ với đế quốc Cộng sản, nguyên do chính Hồ Chí Minh đã tựa lưng 100% vào viện trợ của Trung Cộng và Liên Xô nhằm thực hiện giấc mơ cướp toàn lãnh thổ Việt Nam và quyền bá chủ khu vực, nối lại ba quốc gia Cộng sản Việt Nam, Campuchia, Lào thành thế lực "Liên Bang Đông Dương". Trong hướng đi ấy Lê Duẩn đã sai tuyến đường sắt không trù liệu trước ngã rẽ, và đứng trước quyết định của Trung Cộng đang hăm he tiêu diệt Việt Nam, bên cạnh đó Lê Duẩn đẩy mạnh kiểm soát Lào và Campuchia, vô ý vận dụng vũ trang có tính xâm lược. Hành động của Lê Duẩn đã dẫn nền kinh tế đến bờ vực thẳm và hoàn toàn sụp đổ, trong khi ấy Việt Nam không có nội lực sản xuất được một cây kim sợi chỉ, tiếp theo tình trạng cô lập của quốc tế chưa từng có đối với lịch sử Việt Nam.
Tháng 7 năm 1986, Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời. Trong tháng 12, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá-lương-tiền, Nguyễn Văn Linh được đắc cử Tổng Bí thư. Trước thập niên 1960-1975, Nguyễn Văn Linh đã từng nhiều lần bí mật sang Trung Quốc, ông trao đổi quan điểm thân thiện, trung thành với Trung Cộng, được Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu đánh giá cao về trình độ vô sản, Mao hứa sẽ đi thăm Việt Nam nếu Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí Thư. Trung Cộng tích cực ủng hộ Nguyễn Văn Linh tạo sự nghiệp, nhưng sau đó thực hiện chính sách sai lầm từ trong-ngoài nước đã nhiều lần bị gạt ra ngoài lề. Một lần nữa Nguyễn Văn Linh khẩn khoản mong muốn xin Trung Cộng sửa sai lầm lỗi đã qua và hứa thực hành đúng khẩu hiệu: "Tất cả các quốc gia là bạn bè". [2]
Đối với Trung Cộng luôn tin rằng Việt Nam có hai điều cấp bách cần phải thực hiện sớm, rút quân ra khỏi Campuchia và cải thiện ban giao quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên Nguyễn Cơ Thạch (阮基石) đem thân cản trở, là một thành viên trong BCT/TW đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, ông tiếp tục thực hiện và hành động theo tư duy của Lê Duẩn truyền lại. Lúc này, Nguyễn Văn Linh có thể can thiệp vào nội bộ, bất cứ mọi hoạt động của BCT/TW đảng, và tránh được bất cứ mọi cản trở từ đâu đến làm thiệt hại chiến lược của Trung Cộng mà đang tin cậy vào Nguyễn Văn Linh. Khi đó Nguyễn Văn Linh mới lên nắm quyền lãnh đạo đảng, gốc rễ chưa cắm sâu vào Bộ Chính Trị gồm những ủy viên chính thức: Phạm Hùng, Võ Chí Công, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh, Nguyễn Đức Tâm, Nguyễn Cơ Thạch, Đồng Sỹ Nguyên, Trần Xuân Bách, Nguyễn Thanh Bình, Đoàn Khuê, Mai Chí Thọ và Đào Duy Tùng, cho nên những đề xuất có tính quyết định và ý tưởng của ông vẫn không được những thành viên trong Bộ Chính Trị đồng thuận và sự hỗ trợ không đủ túc số theo qui định của đảng để thi hành một nghị quyết. Trong trường hợp này Trung Cộng muốn sử dụng Nguyễn Văn Linh làm con rối nắm lấy những mục tiêu chiến lược đã định trước của Trung Cộng qua Nguyễn Văn Linh, tất nhiên nó khó khăn vô cùng bởi trong đảng Cộng sản Việt Nam cũng có những người không đồng tình với Nguyễn Văn Linh, Trung Cộng đau đầu nhưng phải đặt lại vấn đề giải pháp mới cho trường hợp Nguyễn Văn Linh.

Trung Cộng thành hình giải pháp Nguyễn Văn Linh
Bí danh Khải Sơn (Kaysone Phomvihane), tên Việt, Nguyễn Cai Song, tên thứ hai Nguyễn Trí Mưu, ông ta gặp Đặng Tiểu Bình nói đến ba lần "yêu cầu giữ bí mật".
Tháng 10 năm 1989. Tổng Bí thư nhân dân cách mạng Lào kim Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Khải Sơn (Kay Hill) tiếp xúc với Phong Uy Hán (Feng Wei Han) Vụ trưởng Vụ Trung Quốc kiêm Bộ Ngoại giao Châu Á-Ấn Độ trong buổi tham dự tiếp tân. Theo kế hoạch đã được phê duyệt của Thủ tướng Lý Bằng sẽ chủ trì cuộc họp, Giang Trạch Dân chính thức tham dự chiêu đãi buổi tối.
Khải Sơn (Kay Hill) chân thành và hy vọng muốn gặp riêng Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc báo tin rằng, Đặng Tiểu Bình tuổi đã cao, không gặp bất kỳ khách nào của nước ngoài, xin được hiểu biết điều này. Tuy nhiên, Khải Sơn nhấn mạnh "xin Đặng Tiểu Bình, nhớ lấy lời tôi rất bí mật", Khải Sơn đã nói đến ba lần. Trong trường hợp này, sau nhiều ngày nghiên cứu và phối hợp, cuối cùng đã đồng ý thực hiện một cuộc họp ngắn Khải Sơn với Đặng Tiểu Bình. Bộ Ngoại giao Trung Quốc không chuẩn bị chi tiết tham chiếu cho cuộc trò chuyện. Thật bất ngờ, hai nhà lãnh đạo gặp nhau trao đổi 40 phút, chỉ nói một vấn đề quan trọng. Khải Sơn chân thành, thừa nhận rằng trong mười năm (10) qua quan hệ Lào với Trung Quốc trong tình trạng bất thường, chịu sự "ảnh hưởng bên ngoài" (VN), chuyến thăm này Khải Sơn muốn đến gần Trung Quốc hơn Việt Nam, ông đã đánh dấu bền vững qua sự bình thường hóa quan hệ Lào-Trung Quốc. Trong khi đó, Khải Sơn (Kay Hill) cũng chuyển tải những lời chào thân mật đến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Đặng Tiểu Bình, cho biết "tình hình ở Việt Nam đã có một thái độ hiểu biết mới, đối với Trung Quốc cũng đã được thay đổi nhiều, Nguyễn Văn Linh mong muốn tôi mời ông ấy sang thăm Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình cũng yêu cầu Khải Sơn hiểu thêm về Nguyễn Cơ Thạch".
Đặng Tiểu Bình nói tiếp: "Tôi đã biết, đồng chí Nguyễn Văn Linh, ông ấy linh hoạt, làm việc hợp lý, có khả năng, Hồ Chí Minh là người thầy trong lòng của Nguyễn Văn Linh và tôi hy vọng ông ấy hành động dứt khoát với Campuchia, vấn đề ở đây là "con dao cắt đến đâu". Bây giờ tuổi tôi đã lớn, sắp nghỉ hưu, tôi hy vọng sau khi nghỉ hưu hoặc đã nghỉ hưu, trước khi vấn đề Campuchia có thể được giải quyết, quan hệ Trung-Việt trở lại bình thường, là một phần tâm trí của tôi". Đặng Tiểu Bình đặc biệt đẩy ứng lực về phía Việt Nam, ông muốn lấy Campuchia làm sách lược, phải triệt để rút quân. Ông yêu cầu Khải Sơn sẽ truyền đạt những quan điểm này đến Nguyễn Cơ Thạch. Ngoài ra, Đặng Tiểu Bình còn cho biết, mọi sự kiện từ ý nghĩa mà ra: "Nguyễn Cơ Thạch rất thích chơi trò tiểu động tác giả nhân ái" (nguyễn Cơ Thạch giá cá nhân ái cảo tiểu động tác).
Vào thời điểm đó, mặc dù rất khó để nói lên câu này, nhưng trọng lượng lời nói của Đặng Tiểu Bình rất nặng không thể xem thường sự hiểu biết của người bình thường. Sự thực trong câu này chỉ để một Nguyễn Văn Linh tự ý thức hành động. Trước mắt Trung Quốc đã mất bình tĩnh nơi Nguyễn Cơ Thạch, do vấn đề cản trở giải quyết Campuchia, Trung Quốc không thể mong đợi và dựa vào Nguyễn Cơ Thạch cho xúc tiến bình thường hóa quan hệ Trung Quốc-Việt Nam.
Khải Sơn trên đường về nước, dừng chân giữa biên giới Việt-Lào tại A Pa Chải, gần Điện Biên. Theo cách suy nghĩ của Khải Sơn, âm thấm truyền đạt thông điệp của Đặng Tiểu Bình gửi đến cho Việt Nam, hy vọng Nguyễn Văn Linh kịp thời nghiêm túc, và ông cảm nhận được kinh nghiệm cá nhân từ Nguyễn Cơ Thạch làm "tiểu động tác". Khải Sơn nhận ra rằng để cải thiện mối quan hệ, trước tiên phải giải quyết vấn đề giữa Việt Nam-Campuchia, ở đây làm thế nào để giải quyết vấn đề Campuchia, Việt Nam phải tham khảo ý kiến với Trung Quốc. Ông cũng nhận ra rằng, Đặng Tiểu Bình vượt qua quyền song phương của hai quốc gia, nhưng không đưa ra một lời mời nào để phía Việt Nam thăm viếng Trung Quốc. Trong trường hợp này, làm thế nào có thể đạt được hy vọng, tất nhiên họ Đặng cũng lo lắng để giải quyết vấn đề Việt Nam.


Lê Đức Anh đưa cướp vào nhà Việt Nam
Trung Quốc cho xuất hiện bí danh Dã Hảo (Ye) để giải quyết nhiều vấn đề lớn tại Việt Nam. Trong suy nghĩ Nguyễn Văn Linh muốn dứt khoát Campuchia trước khi nghỉ hưu, ông nhờ Dã Hảo tham khảo ý kiến với các nhà lãnh đạo Trung Quốc về quan hệ Việt Nam-Campuchia sẽ được giải quyết.
Trong cuộc họp BCT/TW, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và Nguyễn Văn Linh tranh luận gay gắt, hai người hoàn toàn khác nhau cách tìm phương hướng cho giải pháp xử lý nội vụ Campuchia, và Nguyễn Cơ Thạch vẫn luận điệu cũ chống bình thường hóa Việt Nam-Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh có ý định sắp xếp cùng đi với Nguyễn Cơ Thạch sang Trung Quốc, tạo điều kiện cho Nguyễn Cơ Thạch mặt đối mặt lý giải "giảng liễu ta Thập Ma" (讲了些什么), có lẽ thời gian này vẫn còn một tia hy vọng cho Trung Quốc-Việt Nam, một cơ hội để thay đổi thực tế. Nguyễn Văn Linh không đặt hy vọng hay lời sâu xa tuyệt đối nào với Nguyễn Cơ Thạch. Tất nhiên, có sự hiện diện của Nguyễn Cơ Thạch cũng tạo ra khả năng con dao hai lưỡi về mặt ngoại giao.

Những nhân vật bí ẩn xuất hiện tại Đại sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội, trao đổi bí mật
Buổi sáng ngày 2 tháng 6 năm 1990. Một cán bộ trên tay thẻ Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, bí danh Hoàng Đích (黄的), đến Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội. Ông nói với nhân viên tiếp tân, xin gặp ông Đại sứ Trương Đức Duy và được đồng ý cho ông ta gặp.

Ngày 5 tháng 6 năm 1990. Kẻ phản quốc, bán nước Việt Nam đứng trong chính trường đóng vai trò tuyệt hảo, giật dây đưa đến mật nghị Thành Đô, có bí danh Hoàng Đích (黄的-Lê Đức Anh), Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam, cùng với Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy (Zhang Dewei) thư ký riêng của "Bác Hồ", đã có quá trình hoạt động bí mật cho MSS, thảo luận bí mật, mưu đồ tiến hành đưa đất nước Việt Nam vào khối chư hầu Trung Quốc!
Trương Đức Duy nói thông thạo tiếng Việt, vì vậy Hoàng Đích an tâm, hai ông trò chuyện nội dung bí mật. Hoàng Đích (黄的) cho biết ông Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đang ở gần nhà (tiếng lóng hẹn gặp Nguyễn Văn Linh). Vào buổi sáng ngày 3 tháng 6, Nguyễn Văn Linh cho xe đến đón Hoàng Đích về nhà, sau buổi cơm trưa khoảng một giờ, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh muốn viếng thăm Đại sứ Trương Đức Duy.
Ngày sau Hoàng Đích (黄的) trở lại Đại sứ quán Trung Quốc, nhưng bị chặn lại từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, cho biết không có nhu cầu. Lúc này Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh còn ngồi trên xe để xem tình hình, nhờ vậy biết thêm thân thế Hoàng Đích, tay ông đưa ra một danh thiếp bí mật, một lúc Trương Đức Duy khẩn cấp xuất hiện và nhận tín hiệu, nói rất nhỏ để Hoàng Đích đủ nghe và giải thích rằng cuộc đối thoại giữa tôi và Nguyễn Văn Linh sẽ được ghi âm lại, sau đó ban bí thư Đại sứ quán kiểm tra cho chính xác. Trương Đức Duy cho biết thêm: "Vào tháng 10 năm ngoái đồng chí Khải Sơn (凯山) có gửi lời thăm Hoàng Đích và có chúc sức khỏe đồng chí Đặng Tiểu Bình và muốn thấy sự bình thường hóa quan hệ Trung-Việt, tôi rất hoan nghênh. Tôi cũng chân thành và hy vọng rằng chúng ta sẽ tổ chức được những cuộc trao đổi giữa các cấp lãnh đạo Trung ương Việt Nam-Trung Quốc, chúng ta tiếp tục phối hợp, có thể những phiên họp tiến hành trong nay mai, mối quan hệ lâu dài Trung-Việt Nam qua chuẩn bị của đôi ta, do đó từ nay, sắp tới phải trải qua vài giai đoạn phức tạp trong đàm phán quan hệ song phương.
Trương Đức Duy đề nghị:
− Tốt hơn hết và đẹp cho cả đôi bên, hẹn gặp tại BCT/TW Bộ Quốc phòng của đồng chí Hoàng Đích (黄的). Hoàng Đích hân hoan, đồng ý bố trí bí mật cho Trương Đức Duy và Nguyễn Văn Linh gặp nhau vào ngày 05 tháng 6 năm 1990.

Ngày 05 tháng 6 năm 1990, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy (Zhang Dewei), trong không khí bí mật tại Bộ Quốc Phòng Việt Nam. [3]

Ngày 05 tháng 6 năm 1990, Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trung Quốc bày tỏ tình bạn trung thành.
Đúng hẹn lại đến, dưới nỗ lực tối đa của Bộ Quốc Phòng Việt Nam, ông Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Trương Đức Duy trao đổi trong không khí bí mật.
Lời ngoại giao đầu tiên của Nguyễn Văn Linh:
− Chúc bạn nhiều sức khỏe, thành công trên con đường ngoại giao đem những thắng lợi về cho Trung Quốc, tôi xin kính chuyển lời chào đến đồng chí Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Lý Bằng và các nhà lãnh đạo khác của Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh còn cho biết, trong chiến tranh Việt Nam-Hoa Kỳ, ông đã đến Trung Quốc nhiều lần, từng yết kiến Chủ tịch Mao Trạch Đông, Thủ tướng Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình và các nhà lãnh đạo tương tự. Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình và Hồ Cẩm Đào là đồng nghiệp. Trương Đức Duy nói vào trọng điểm:
− Hôm nay, tôi muốn đưa ra điều này, bởi phải tin tưởng tôi rất xứng đáng làm một công dân Việt Nam. Từ lâu tôi canh cánh trong lòng, tự hỏi tại sao Campuchia cứ trở ngại, tranh cãi lâu không giải quyết được, có phải chăng Nguyễn Cơ Thạch can thiệp làm cho mọi thứ chạy ra khỏi con đường sắt đàm phán, tôi nghĩ rằng bây giờ có một nhu cầu cho hai nhà lãnh đạo trực tiếp thảo luận và loại bỏ tất cả những hiểu lầm, nhân dịp loại trừ Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch trước đã, sau đó tiến hành bảo vệ xã hội chủ nghĩa và khôi phục lại niềm hy vọng mãnh liệt của những nhà lãnh đạo Việt Nam-Trung Quốc, tất nhiên đây là khởi hành cho các cuộc họp tình bạn đơn thuần. Campuchia phải được giải quyết một cách nhanh chóng theo quan điểm và ý muốn của các đồng chí Bắc Kinh, tôi đề nghị đồng chí gửi lời mời gọi là sơ giao "nội bộ", tôi sẽ bí mật về Trung Quốc. Để báo tin cuộc thảo luận hôm nay trên cơ sở vững chắc, tôi cam đoan sẽ có hiệu quả, thuyết phục được tập thể BCT/TW Đảng Trung Quốc.
Nguyễn Văn Linh cho biết tiếp: Đã từng học tư tưởng Mao tại Trung Quốc. Trong chiến tranh cách mạng và nhà tù của địch, tôi luôn luôn học tập và nghiên cứu thảo luận về các cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, như những bài viết của Chủ tịch Mao, đem đến lợi ích cho Việt Nam chống Pháp, và giai đoạn chống Mỹ. Việt Nam đã được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong tất cả các khía cạnh, thậm chí cả cây kim sợi chỉ, dưa chua, bánh quy, cao lương, đường sữa, vũ khí, quân binh, quân dụng, tài chính v.v... tất cả viện trợ này từ Trung Quốc, và hướng dẫn tư tưởng lẫn chiến lược, thậm chí nhân dân Trung Quốc cũng đã giúp đỡ rất nhiều cho Việt Nam, chẳng hạn như cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam, chúng tôi luôn luôn học tập và tìm hiểu những suy nghĩ về chiến tranh nhân dân dưới sự chỉ đạo của Mao Chủ tịch, chúng tôi cũng đã áp dụng vào thực tế tại Việt Nam. Có thể nói, không có sự hỗ trợ của Trung Quốc cho Việt Nam là không thể đánh bại Mỹ.
Nguyễn Văn Linh trình bày theo quan điểm của mình, cho rằng sau khi thống nhất quốc gia, sẽ tập trung và gắn bó trong công cuộc xây dựng kinh tế, nhưng sự xuất hiện của những khó khăn bất ngờ và phức tạp do vụ Campuchia, đưa đến Việt Nam hơn mười năm (10) chiến tranh vất vả, cuộc sống của nhân dân khó khăn hơn trước, đặc biệt mối quan hệ với thế giới đưa đến Việt Nam bế quan tỏa cảng. Có thể nói, Việt Nam-Trung Quốc làm một số điều xấu như độc trị, đàn áp nguyện vọng của nhân dân, tiếng nói nhân quyền và quyền sống của con người hầu như vắng bặt. Trái lại Nguyễn Văn Linh luôn luôn ủng hộ những sai lầm của Trung Quốc cho đến nay không cách nào sửa chữa được. Khía cạnh độc trị tại Việt Nam, cuối cùng đưa đến van lạy, xin Trung Quốc vui lòng hiểu nhau và quên đi quá khứ. Hiện nay quan trọng hơn cả là mối quan hệ song phương lấy lòng tin cải thiện hiện tại để tiến đến tương lai làm một chư hầu tốt. Nguyễn Văn Linh thừa biết tình hình quốc tế đang trải qua những thay đổi mạnh mẽ, khi đó Việt Nam muốn thay đổi, tiến lên phát triển không thể dễ dàng của tình hình ở Đông Âu, đang gặp rất nhiều phức tạp, nhất là tình hình Liên Xô đang trên đà quá ảm đạm".
Phương Tây cũng đã cố gắng can thiệp, muốn thực hiện diễn biến hòa bình, trong chiều hướng "nhất cử phá hủy" phần thế giới ngừng lại giấc mơ chủ nghĩa xã hội. Người ta đã dự liệu rằng "Liên Xô là pháo đài cuối cùng của hòa bình trên thế giới, nhưng bây giờ pháo đài này bị lung lay và nguy cơ phá sản". Nguyễn Văn Linh không am tường cục diện quốc tế ngày nay đã thay đổi nhiều, vẫn cho rằng "Trung Quốc là một nước lớn, có thể cho Việt Nam hưởng thụ một bữa tiệc lớn, và chắc chắn vươn tới ngọn cờ hồng chủ nghĩa xã hội, vẫn cho rằng tình hình hiện nay, vị trí, vai trò đặc biệt của Trung Quốc được xem quan trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam cần Trung Cộng đứng trước biểu ngữ xã hội chủ nghĩa và Việt Nam-Trung Quốc là hai nước láng giềng anh em xã hội chủ nghĩa. Việt Nam sẽ có một bữa tiệc nhỏ do Trung Quốc viện trợ. Việt Nam đã thực sự sống nhờ viện trợ của Trung Quốc, cho nên Nguyễn Văn Linh háo hức cho biết Trung Quốc là trái tim của mình.
Nguyễn Văn Linh còn cho biết thêm: Campuchia luôn luôn là một giải pháp hòa bình cho tương lai của Campuchia không thể thân Phương Tây, không cho Phương Tây và Liên Hợp Quốc can thiệp vào. Hy vọng kết quả, Việt Nam-Campuchia có thể hợp tác, thúc đẩy nội bộ Pol Pot, Ieng Sary và Heng Samrin, do Thủ tướng Hun Sen đứng ra làm hòa giải, theo hướng của các bên (Việt-Trung), hiện nay Việt Nam đang tham vấn cho Campuchia có thể tiến hành theo hướng loại bỏ một vài địch thủ. Khmer Đỏ muốn cai trị, ý tưởng này không thực tế.

Về phía Việt Nam, Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy ngay lập tức tham khảo với Nguyễn Văn Linh, trình bày chi tiết những báo cáo của Bắc Kinh, cùng lúc đưa ra kế hoạch tương lai cho Việt Nam. Trương Đức Duy cho biết: Hiện nay Trung Quốc đã tiến hành những cuộc nghiên cứu cẩn thận, sẽ sớm được Bắc Kinh hồi đáp, tuy nhiên Việt Nam càng sớm càng tốt hãy rút khỏi Campuchia, tất nhiên Việt Nam đứng trên một thế tiến thoái lưỡng nan muốn khai tử phe đối lập Pol Pot là một vấn đề khó bởi Trung Quốc là cha đẻ của Pol Pot, cụ thể chế độ tại Phnom Penh, các lực lượng kháng chiến ba thành phần nhất định ngồi lại trong tình hình chung, sau đó từng bước hai nhà lãnh đạo Việt Nam-Trung Quốc sắp xếp lại cho hợp lý trên bàn cờ Campuchia do ngoại bang làm chủ.
Nói cách khác, Trung Quốc vẫn chưa sẵn sàng để nhanh chóng đáp ứng với những yêu cầu của các nhà lãnh đạo Việt Nam. Trong trường hợp này, làm thế nào để phá vỡ bế tắc và đạt được một hội nghị cấp cao Việt Nam-Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh đang vật lộn với vấn đề Campuchia, ông cho biết. Ông muốn nhìn thấy các nhà lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc thỏa thuận rộng rãi, chuyện anh em (Việt-Trung) có thể dùng đến nghi thức ngoại giao xử lý. Theo kinh nghiệm lịch sử cho thấy đàm phán trực tiếp giữa các nhà lãnh đạo cao nhất, hiểu biết lẫn nhau dễ dàng đưa đến thỏa thuận.
Nguyễn Văn Linh hỏi tiếp, Trương Đức Duy chú ý từng lời:
− Tôi muốn biết điểm khởi đầu chuyến viếng thăm "nội bộ" có nên lắng nghe phát biểu cá nhân của quý đồng chí Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Lý Bằng và các đồng chí khác hay không, riêng tôi cũng muốn các nhà lãnh đạo Trung Quốc lắng nghe những quan điểm để hiểu biết về cá nhân của tôi. Cả hai bên cần thành thực giải đáp một số câu hỏi, đầu tiên là để tìm ra các vấn đề Campuchia, giải pháp nào tốt nhất, đối với tôi, có một số khó khăn, nhưng tôi tự tin. Nếu các đồng chí Trung Quốc tin tưởng nơi tôi có khả năng hỗ trợ đàm phán, tôi sẽ cho Hoàng Đích lên đường đến Bắc Kinh thăm viếng tiền trạm cho những đàm phán sau này, tôi đã hết lòng nuôi dưỡng tình bạn tốt đẹp giữa Việt Nam-Trung Quốc, một cách khác bảo vệ lợi ích chung của cách mạng và xã hội chủ nghĩa, từ đó càng có nhiều thuận lợi và đều kiện để đạt được mục đích của quý đồng chí Bắc Kinh.
Trương Đức Duy đề cập đến cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng, cũng được mời tham dự mật nghị. Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Hoàng Đích đồng ý. Trương Đức Duy giải thích thêm, ông hiểu hết ý của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh hiện nay lo ngại Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch làm vật cản trở, bởi ông ấy chỉ muốn vấn đề khôi phục lại chủ quyền trên quan hệ song phương, nếu cần chúng ta chuẩn bị chặn lại vào lúc này, đừng để lâu sẽ thiệt thòi đến quá trình đàm phán, tôi đề nghị trừ khử Nguyễn Cơ Thạch, bởi vừa qua ông Bộ trưởng Ngoại giao trực tiếp phản đối diễn tiến hai bên đàm phán, có thể đặt ra phương sách thực hiện Bộ Ngoại giao vào lúc này!
Sau khi đôi bên thảo luận, chuẩn bị tạm biệt, Hoàng Đích nói:
− Tôi mong muốn áp dụng đề nghị của Đại sứ Trương Đức Duy.
Ngay lập tức Đại sứ Trương Đức Duy đáp:
− Tôi nhất định truyền đạt kết quả trao đổi hôm nay lên Tổng Bí thư Giang Trạch Dân. Nhưng có một vấn đề cần xem xét lại, nhân viên của Bộ Quốc Phòng hoặc người nào đó lỡ miệng tiết lộ quan điểm của chúng ta thì bạn Hoàng Đích phải bảo đảm tuyệt đối bí mật cuộc đối thoại hôm nay.
Rõ ràng, Nguyễn Văn Linh đang thực hiện giải quyết rút quân ra khỏi Campuchia trước khi dẫn đến sự phản đối trong nội bộ đảng Cộng sản và sau đó sắp xếp một cuộc gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo để nói lên quan điểm của mình muốn đàn áp những đồng nghiệp trong BCT/TW đảng. Trường hợp này đã đề xuất quan điểm cùng lúc với nhiều quốc gia có Đại sứ quán tại Hà Nội, có thể tránh được hiểu lầm là có người phản đối. Để làm điều này, Đại sứ Trương Đức Duy triệu tập Đỗ Mười cùng thảo luận với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh lấy quyết định đối phó thành phần quá khích trong đảng. Sau khi thảo luận, Đại sứ Trương Đức Duy và Đỗ Mười đồng ý không thể để tiết lộ ra ngoài, nhất là đôi mắt của các đại sứ quán công tác tại Trung Quốc và Việt Nam, trách nhiệm này Ủy ban Hội nghị Thành Đô cẩn thận và giữ bí mật dù có ý kiến nhỏ hay câu hỏi nào. Trung Quốc hứa bảo đảm, chắc chắn và chính xác. Nhưng bây giờ có tình hình mới, Nguyễn Văn Linh đã quyết định bỏ qua nghi thức nhà lãnh đạo thẳng thắn thảo luận với Nguyễn Cơ Thạch những vấn đề quan trọng. Đại sứ quán Trung Quốc Trương Đức Duy dựa trên tình hình mới, khuyến cáo mạnh mẽ yêu cầu nội bộ BCT/TW của Nguyễn Văn Linh tích cực xem xét hồ sơ Campuchia và dứt khoát loại trừ mọi cản trở.
Đêm 19 tháng 8, Đại sứ quán Trung Quốc nhận được phúc đáp của BCT/TW Trung Quốc, chấp nhận đề nghị của Trương Đức Duy, ông liền báo tin cho những người đáng tin cậy nhất xung quanh Nguyễn Văn Linh, cá nhân Nguyễn Cơ Thạch đã bị cô lập, không còn nguồn tin (trễ?) nên khó hiểu ý định thực sự của Nguyễn Văn Linh. Không nghi ngờ gì nữa, Đại sứ quán Trung Quốc là nơi thảo kế hoạch cho lộ trình chuyến bay cho BCT/TW Nguyễn Văn Linh đi Thành Đô. Trương Đức Duy có nhiệm vụ trung gian quan trọng gọi là công tác "quan hệ" Việt Nam-Trung Quốc, khó ai tưởng tượng nhân vật này sống tại Việt Nam đã trên 30 năm, là một gián điệp MSS giàu kinh nghiệm, hiểu biết cặn kẽ tình hình Việt Nam.
Lúc 8 giờ sáng, ngày 20, Đại sứ Trương Đức Duy tổ chức một cuộc họp mở rộng chi bộ đảng để nghiên cứu làm thế nào thực hiện chỉ đạo của BCT/TW đảng Trung Quốc. Có những phát biểu sâu xa và cung cấp các sự kiện chính trị cho buổi họp: Chúng ta đều biết, năm 1980, Việt Nam luôn coi Trung Quốc là "kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất", những phương tiện truyền thông nào là đài truyền hình, phát thanh, báo chí phổ biến mọi nội dung chống Trung Quốc, và đưa ra một loạt chiêu bài có tính ngoại giao, bất kỳ quan chức Việt Nam đều tránh né khi tiếp xúc với các nhà ngoại giao Trung Quốc. Trong trường hợp này, không cần phải nói không thể tin tưởng hết những người xung quanh Nguyễn Văn Linh, ngay cả những người đáng tin cậy cũng không biết họ là ai. Chúng tôi luôn nghĩ một điều nên tìm manh mối từng người nếu cần chúng ta thực hiện. Đó là ngày 06 tháng 6, cụ thể Nguyễn Văn Linh, Đại sứ Trương Đức Duy đã gặp trong bí mật, ngày hôm sau các thành viên trong BCT/TW Việt Nam, đem ra thảo luận, chính Bộ trưởng Quốc phòng tướng Lê Đức Anh đã có cuộc họp riêng biệt cùng Đại sứ Trương Đức Duy và tiệc chiêu đãi có giải trí cũng không còn bí mật. Ngoài việc Lê Đức Anh tiếp tục thực hiện 5 lần hội thảo trong Bộ Quốc Phòng, theo giải thích chiều hướng của tinh thần Nguyễn Văn Linh, tất nhiên ca ngợi hết lời tốt đẹp cho Trung Quốc. Vì vậy, Đại sứ Trương Đức Duy quyết định cho phép Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh giới thiệu lên kênh truyền hình Việt Nam. Đại tá Triệu Duệ (Zhao Rui) tùy viên quân sự tại Đại sứ quán cố gắng chỉ thị hành động bảo vệ đại sứ, những việc làm đó rất táo bạo, chưa từng thấy trong ngành ngoại giao.
Lúc 8 giờ ngày 21, lần này, chắc chắn tướng Lê Đức Anh sẽ rất vui vì Đại sứ Trương Đức Duy di chuyển bằng xe hơi không treo cờ của Đại sứ quán Trung Quốc và Bộ Quốc phòng Việt Nam. Lê Đức Anh, Trương Đức Duy gặp nhau bắt tay thân thiện, ôm nhiều lần, ông nói rằng, muốn nhìn thấy kết quả những gì trong thời gian sinh hoạt bí mật với Đại sứ Duy, đến nay ông được chào đón nồng nhiệt với tình bạn thân mật, Đại sứ Trương Đức Duy gợi ý:
− Trước đây Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh có gặp anh Hoàng Nhật Tân (Nhà sử học Wong Yat) nói chuyện gì đó, rất ngắn, nay tôi muốn đích thân nghe tướng Lê Đức Anh cho biết thái độ của Tổng Bí thư đối với Hoàng Nhật Tân, và hy vọng tướng Lê Đức Anh giúp đỡ tôi liên lạc anh ấy.
Lê Đức Anh chưa kịp trả lời, có thông tin cấp bách của Đại tá Triệu Duệ (Zhao Rui): Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ đến Bộ Quốc phòng để gặp Đại sứ Trương Đức Duy tại phòng họp đúng 7 giờ 30 buổi tối ngày 22. Bí mật hai bên không dùng tài xế riêng, đề nghị Đại sứ Trương Đức Duy chuyển sang một chiếc xe khác, không treo cờ. Giám đốc Văn phòng Ngoại giao Ngô Xuân Vinh cho biết vấn đề này, ông vừa nhận tần số của một người không cho biết địa chỉ. Triệu Vũ Quan (Zhao Wuguan), vừa trở về từ trung tâm tình báo MSS tại Hà Nội, lập tức thực hiện một báo cáo trước khi Trương Đức Duy đi đến Bộ Quốc phòng Việt Nam:
− Bộ Quốc phòng Việt Nam vừa gửi đi một giấy mời hai vợ chồng Đại sứ Malaysia, tham dự buổi chiêu đãi tối nay, Đại sứ Trương Đức Duy không muốn cặp vợ chồng ông này. Để không thô lỗ, mà còn đảm bảo đáp ứng kịp thời công việc của Nguyễn Văn Linh, Phu nhân Đại sứ giả vờ bệnh, như vậy vẫn gặp được Nguyễn Văn Linh tại một nơi bí mật được phối trí trong Bộ Quốc Phòng Việt Nam v.v... Trương Đức Dy đáp: Tuy nhiên không thể tránh Đại sứ Malaysia cứ đi, tham dự bình thường.
Đêm đó, hai vợ chồng Đại sứ quán Malaysia đến đúng giờ, đi bộ vào phòng khách, họ nhìn thấy Đại sứ Trương Đức Duy bơ phờ bởi cô tiếp viên bên cạnh phục vụ quá chu đáo, đó chỉ là một bản kịch để tranh né kẻ đối diện, sau này được biết tên tình báo MSS Trương Đức Duy cướp hồ sơ mật của Malaysia bị phát hiện.
Trương Đức Duy chào yếu ớt: "Chào mừng hai bạn mới đến, tôi xin chúc sức khỏe bình an". Nói tiếp: Vợ tôi bị bệnh Meniere lại tái phát, đau đầu, buồn nôn, cho nên không thể ở đây lâu, có thể bạn ngồi tán ngẫu với Lý Tiên Sanh (Lee) giám đốc chính trị Đại sứ quán Trung Quốc. Đại sứ Malaysia nghe qua bệnh tình của phu nhân Trương Đức Duy rất xúc động, ông nói: "Kính thưa Đại sứ, tôi cũng thấy như thế, phu nhân của ngài thể chất không được tốt, hy vọng có dịp sẽ gặp gỡ lại, thực sự xin lỗi, chúng tôi không biết phu nhân của ngài bệnh, tôi đề nghị nên về để nghỉ ngơi, và tôi chúc bà phục hồi sức khỏe sớm.
Nhờ đôi câu nói ngoại giao này của Đại sứ Malaysia giúp Trương Đức Duy nẩy sinh ý, liền đứng dậy và bắt tay tỏ ý thân thiện xin tạm biệt. Đại sứ Trương Đức Duy ra khỏi phòng, ông Đại sứ Malaysia thấy đôi chân của phu nhân Trương Đức Duy sải bước như bay, cũng trong lúc ấy có một xe hơi đen bóng loáng thương hiệu Toyota đi thẳng vào sân Bộ Quốc phòng Việt Nam.

Ngày 12 tháng 5 năm 1993. Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Phạm Văn Đồng gặp Đại sứ quán Trung Quốc Trương Đức Duy (Zhang Dewei), trong không khí bí mật tại Bộ Quốc Phòng Việt Nam.

Nguyễn Văn Linh bí mật gặp gỡ với Đại sứ Trương Đức Duy
Đại sứ Trương Đức Duy vừa ra khỏi phòng khánh tiết của Bộ Quốc phòng Việt Nam, gặp xe của Nguyễn Văn Linh chạy vào, Trương Đức Duy đi theo lối xe Toyota đến thẳng phòng làm việc của tướng Lê Đức Anh, lần gặp này Trương Đức Duy hỏi thăm Hoàng Nhật Tân. Lần đầu tiên Nguyễn Văn Linh tiết lộ: Chính tôi đã chăm sóc rất chu đáo con trai của Hoàng Văn Hoan là Hoàng Nhật Tân. Đại sứ Trương Đức Duy không ngần ngại nói. Tôi cũng tiếp nhận được tin nhắn, nội dung rất chính xác về Hoàng Nhật Tân sống tốt cũng nhờ ngài.
Nguyễn Văn Linh nói vào trọng tâm mục đích.
− Đại sứ Trương Đức Duy có nên tin điều này không, Việt Nam luôn luôn duy trì quan hệ tốt với Trung Quốc. Tất nhiên cũng có những chuyện hiểu lầm vào năm 1976, có 10 tên Việt không đồng ý tự suy thoái niềm tin trong mối quan hệ giữa Việt Nam-Trung Quốc và một số hoạt động bị cáo buộc là "hữu khuynh", rồi đào thoát qua Trung Quốc sống [4].
Đến năm 1982 nhờ chủ trương tốt ở giai đoạn này nên tự nó tồn tại, và một loạt các thành phần kinh tế quốc doanh không đồng ý với chính sách chống Trung Quốc đã bị đẩy ra khỏi Bộ Chính trị. Vào thời điểm đó, Đại sứ làm sao hiểu hết những lý do của nó, mặt khác chúng tôi đã có thái độ tốt với Trung Quốc. Nếu "Bác Hồ" còn sống, sẽ không bao giờ làm mọi điều như vậy. (đây là lối nói mượn Hồ làm bình phong, bất cứ lãnh đạo đảng đều như vậy để chạy tội hay hết đường binh). Nguyễn Văn Linh cho biết. "Trung Quốc thực hiện chính sách Hải ngoại đối với Việt Nam là sai, bởi cách mạng Việt Nam đã có những đóng góp giá trị nhiều nhất cho Trung Quốc. Sau khi Việt Nam chiến thắng 1975, Trung Quốc phân biệt đối xử đẩy chúng tôi vào tuyệt lộ như vậy có quá ngoan cố không". Sau năm 1986, Tôi trở thành tổng thư ký của Việt Nam, tôi quyết tâm vượt qua những trở ngại khác nhau, và dần dần sửa chữa những sai lầm của quá khứ, để khôi phục lại quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Trước hết, thuyết phục BCT/TW Đảng và Quốc hội thông qua Hiến pháp của Trung ương, xóa bỏ tất cả các nội dung có liên quan đến khía cạnh chống Trung Quốc. Sau đó, họ thực hiện công việc này thành công, và cuối cùng đã quyết định rút quân ra khỏi Campuchia.
Nguyễn Văn Linh nói tiếp:
− Trong tình hình quốc tế hiện nay, Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội xem Trung Quốc là trung tâm mạnh mẽ nhất để phát triển tình đoàn kết, hữu nghị và quan hệ hợp tác, nó càng trở nên quan trọng và cấp bách. Vì vậy, mong muốn lớn nhất của tôi là đạt được trước năm 1991 bình thường hóa quan hệ Việt Nam-Trung Quốc. Có như thế thì toàn đảng Cộng sản Việt Nam nhận đó một sự kiện tinh thần thú vị.
Nguyễn Văn Linh thổ lộ tiếp: Tôi biết tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc giải quyết vấn đề Campuchia. Ban đầu, hai bên Việt Nam-Trung Quốc giải quyết thông qua các kênh ngoại giao để thảo luận là tốt nhất hợp lý nhất. Tuy nhiên, nguyên do ông Bộ Trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cố tình làm cho rắc rối, và bây giờ con đường này rất khó khăn đi qua. Vì vậy, tôi rất cần ông ta phải xem xét chuyến thăm Bắc Kinh, để tôi bày tỏ trực tiếp với Chủ tịch Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng, tìm cung cấp điều kiện và giải pháp tốt nhất cho vấn đề Campuchia. BCT/TW của Nguyễn Văn Linh đại đa số quan điểm không đồng nhất, Nguyễn Cơ Thạch luôn luôn làm cho mọi thứ không cùng đi trên một lộ trình, giống như hôm nay gặp Đại sứ Trương Đức Duy một mình không nên quá nhiều người. Chẳng hạn như Chủ tịch Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời tôi, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc, cũng như Đại sứ đã trực tiếp đến Bộ Quốc phòng Việt Nam, gặp Nguyễn Văn Linh và làm việc chung, hiện thời gian này tôi còn một hy vọng nơi Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Đỗ Mười lấy uy tín cá nhân chuyển tải quan điểm của các nhà lãnh đạo Trung Quốc đến công luận Việt Nam, vì vậy một số thành viên trong quốc hội của Đảng sẽ dễ chấp nhận hơn đem đến an toàn cho hội nghị Thành Đô.
Đại sứ Trương Đức Duy cảm ơn cuộc gặp gỡ này rất thú vị, do Nguyễn Văn Linh chủ động đưa ra thẳng thắn quan điểm, Trương Đức Duy cho biết sẽ báo cáo ngay lập tức cuộc trao đổi này về Bắc Kinh.

Ngày 12 tháng 5 năm 1993. Cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh gặp Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy (Zhang Dewei), trong không khí bí mật tại BCT/TW Việt Nam.

Hội nghị bí mật Thành Đô
Buổi chiều ngày 28 tháng 8. Đại sứ quán nhận được tập hồ sơ hướng dẫn chương trình mật nghị Thành Đô gửi từ Bắc Kinh, Đại sứ quán vui mừng chuyển thông báo này cho Nguyễn Văn Linh. Đại sứ Trương Đức Duy thông báo và cho biết thêm: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Hội đồng Chủ tịch Bộ trưởng Đỗ Mười, và gửi lời chào mừng chuyên gia tư vấn Trung ương Đảng Phạm Văn Đồng cùng tham dự đã bổ túc vào danh sách hội nghị cao cấp của hai Đảng. Hiện nay, giải pháp chính trị vấn đề Campuchia đã thành hình, và Việt Nam nên làm việc với Trung Quốc để góp phần giải quyết vấn đề càng sớm càng tốt, thực hiện thuận lợi cho các cuộc đàm phán bí mật tại địa điểm sẽ được bố trí ở Thành Đô, Tứ Xuyên để tạo không gian "bình thường hóa quan hệ Trung-Việt". Mọi chi tiết hội nghị bí mật Thành Đô đều truy cập trong nội bộ ngày 03-ngày 04 tháng 9 năm 1990 tại Thành Đô Trung Quốc.
Đại sứ Trương Đức Duy, lập tức triệu tập các ủy ban để mở rộng hoạt động nội bộ của Đại sứ quán, học tập chuyển thông tin quan trọng và truyền đạt đến Nguyễn Văn Linh và những người có trách nhiện nội bộ Thành Đô. Trước khi đi vào chương trình hoạt động tìm những kinh nghiệm khác bổ túc, tất cả nhân viên Đại sứ quán phải biết làm thế nào tận dụng hết khả năng quan điểm "Phổ Nhân" (Puer). Triệu Vũ Quan (Zhao Wuguan) người phụ trách liên lạc Bộ Quốc phòng Việt Nam quyết định.

Ngày 5 tháng 6 năm 1993. Đại tướng Võ Nguyên Giáp gặp Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy (Zhang Dewei), trong không khí bí mật tại Bộ Quốc Phòng Việt Nam (阮文灵张德维大使会见).

Lúc 8 giờ ngày 29, Đại sứ Trương Đức Duy gặp một lần nữa với Hoàng Đích (黄的-Lê Đức Anh, gián điện MSS), yêu cầu anh ta thông tin quan trọng trước khi đối diện với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và báo cáo từ những hỗ trợ của Bắc Kinh trong việc sắp xếp Đại sứ Trương Đức Duy trước một giờ thời điểm áp chót hành động, Bộ Quốc phòng Việt Nam và Văn phòng Ngoại giao Giám đốc Vũ (Wu) phải gặp tại tần số Triệu Vũ Quan (Zhao Wuguan) để truyền tải thông điệp đến Lê Đức Anh. Dự kiến 16 giờ 00, Đỗ Mười gặp gỡ với Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh cùng với Đại sứ Trương Đức Duy. Để hiển thị cuộc họp và chính thức thông qua kênh bí mật của Đại sứ quán. Hôm nay Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đề nghị Đại sứ quán Trung Quốc phối trí một nơi làm Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam hải ngoại, cho trường hợp khẩn cấp, tôi hy vọng trong hôm nay có một cuộc họp của các nhà lãnh đạo xung quanh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Theo ông Nguyễn Văn Linh đang chuẩn bị đưa ra một sơ đồ "kỳ ý" hành động.
Lúc 01giờ 00 cùng ngày, Đại sứ Trương Đức Duy sẽ gặp Thứ trưởng Trung ương Bộ Hải ngoại Trịnh Ngọc Thái (Zhengyu) thực hiện các yêu cầu vừa rồi.
Sau khi Đảng sắp xếp sinh hoạt bên ngoài, đúng 16 giờ 00, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười gặp lại Đại sứ Trương Đức Duy tại phòng họp Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam hải ngoại.
Một lần nữa trong ngày, Đại sứ Trương Đức Duy truyền đạt đến Nguyễn Văn Linh lời chúc của Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng theo tinh thần nội bộ.
Nguyễn Văn Linh rất vui mừng và chúc lại, phía Trung Quốc đã đồng ý đáp ứng thời điểm và địa chỉ đã đề xuất chuẩn bị nhiều phương tiện cho hội nghị, điều đó được báo cáo ngay cho Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, sau khi danh sách thành phần nhân sự của phái đoàn Việt Nam được xác định có thể bắt đầu chuẩn bị lên đường. Nguyễn Văn Linh cho biết, tình trạng sức khỏe của đồng chí Phạm Văn Đồng rất tốt, tuy nhiên Võ Nguyên Giáp muốn tham gia hội nghị nhưng bị loại, bởi lý do hay lẻo mép ăn nói lung tung! Sau cuộc họp buổi chiều lấy danh sách, Đại sứ Trương Đức Duy ngay lập tức báo cáo vế Bắc Kinh.
Vào ngày 30, Bắc Kinh thông báo cho Đại sứ quán tại Hà Nội theo kế hoạch tổng quát cuộc họp đầu tiên của hai nhà lãnh đạo Việt Nam-Trung Quốc vào buổi chiều ngày 03 tháng 9, sau đó tiếp tục cuộc đàm phán, ngày 04 tháng 9 buổi sáng đàm phán đến chiều bế mạc.

Ngày 5 tháng 6 năm 1993. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười gặp Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy (Zhang Dewei), trong không khí bí mật tại Bộ Quốc Phòng Việt Nam.

Theo lời của Triệu Vũ Quan (Zhao Wuguan) người phụ trách liên lạc Bộ Quốc phòng Việt Nam và Đại sứ Trương Đức Duy:
− Từ sáng ngày 3/9/1990, tôi đến trước vào sân bay quốc tế Nội Bài Hà Nội, phái đoàn Việt Nam đến sau, có 15 người, ngoài Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng, và gồm các quan chức tháp tùng như Chánh Văn phòng Trung ương ông Hồng Hà, Bộ trưởng Hải ngoại Trung ương Đảng ông Hoàng Bích Sơn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao ông Đinh Nho Liêm, và các nhân viên còn lại. Đại sứ Trương Đức Duy cũng đến sân bay vào thời điểm đó, sau khi Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng, Đại sứ Trương Đức Duy và đoàn tùy tùng lên máy bay chuyên cơ Tu-134, cất cánh vào lúc sáng 8 giờ 10 phút, ngày 3 tháng 9/1990.
Theo lời của Đại sứ Trương Đức Duy:
Máy bay chuyên cơ Tu-134 đã cất cánh chở các nhà lãnh đạo tối cao Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chính phủ Đỗ Mười, Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, nguyên Thủ tướng chính phủ Phạm Văn Đồng. Họ lặng lẽ ngồi ủ rũ trong lòng chuyên cơ đang bay, không ai biết trong đầu của họ suy nghĩ những gì, cũng có kẻ cho biết họ băn khoăn một dự đoán trong hành trình, chắc chắn ảnh hưởng hết sức quan trọng đến mối quan hệ Trung-Việt. Chuyên cơ cứ thế mà bay qua khỏi biên giới Việt-Trung, trực chỉ về hướng trước thẳng vào tỉnh Nam Ninh.
Vào lúc 11 giờ 00 cùng ngày, chiếc chuyên cơ hạ cánh xuống phi trường chuyên dụng Nam Ninh Quảng Tây, trong bầu không khí tĩnh mịch, phái đoàn lãnh đạo Việt Nam đi dưới vùng trời mưa u ám, tỏa sương lành lạnh, như thể là khói đạn cay, trái phá của những tay đàn áp người biểu tình Dân Chủ bất bạo động tại Việt Nam, khói còn động lại đâu đây, từ phía trước có những bước chân của những nhà lãnh đạo âm thầm đi trong căn nhà bí mật, đôi chân của họ không rộn rã như những công an hồ Hoàn Kiếm Hà Nội. Những nguyên thủ quốc gia Việt Nam lặng lẽ, lẻo đẽo theo chân Trương Đức Duy đi qua hành lang lạ, vắng bóng người kèn trống khua vang, thiếu cả dàn chào đón tiếp và tiễn đưa theo nghi lễ quốc khách danh dự, lại càng không có cảnh tượng dân chúng tưng bừng phất cờ quạt Việt Nam, nhà báo không háo hức đưa tin, báo chí không loan tải một cột tin "sóc" nào cả, cuối cùng thế giới không biết đoàn người này là ai, mà di chuyển bằng chuyên cơ? Tất cả những điều đó hầu hết vắng lặng bởi chính nó đã tự khoác lên một không gian bí ẩn. Những nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong hội kín bí mật, thanh toán bí mật, ăn bẩn bí mật, lừa đảo bí mật, buôn quyền bán chức bí mật, tham nhũng bí mật, hoạt động bí mật. Vốn "Bác Hồ" nhà kiến trúc hệ thống bí mật, xưa nay vẫn thế và ngày nay tiếp tục bí mật đến Thành Đô đàm phán bán nước.
Tại phi trường Nam Ninh, Đại sứ toàn quyền Trung Quốc tại Việt Nam Trương Đức Duy (Zhang Dewei), hướng dẫn các nhà lãnh đạo Việt Nam xuống máy bay. Phía Trung Quốc có ba cán bộ trung ương thay mặt nhà nước ra sân bay tiếp đón, gồm có Thứ trưởng Bộ ngoại giao Tề Hoài Viễn (Qi Huai xa), Trợ lý Bộ trưởng Từ Đôn Tín (从唐信), Thứ trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Chu Thiện Khanh (Zhutian Thanh). Sinh hoạt ở đây không khác nào thời Việt Minh, muốn vào mật khu phải đi qua nhiều chốt giao liên. Ba cán bộ giao liên đến đón các vị khách đứng trước thang máy bay. Trong kế hoạch bảo mật không cho chính giới địa phương trong vùng Quảng Tây biết trước, trong sân bay bố trí chặt chẽ, các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra khỏi chuyên cơ, lập tức di chuyển nhanh đến chuyên cơ thứ hai, cất cánh bay đến Thành Đô.

Các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra khỏi chuyên cơ tại phi trường chuyên dụng Nam Ninh Quảng Tây (非专业的领域广西南宁). Lập tức di chuyển nhanh đến chuyên cơ thứ hai đang chuẩn bị cất cánh bay đến phi trường quốc tế Song Lưu Thành Đô Tứ Xuyên (双流国际机场四川成都).

Lúc 1 giờ chiều 1990, chiếc chuyên cơ hạ cánh xuống phi trường quốc tế Song Lưu Thành Đô. Họ nhanh chóng đưa đoàn đại biểu tới Nhà khách Tỉnh ủy Tứ Xuyên "Kim Ngưu tân quán" Thành Đô (成都宾馆金牛). Tổng bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng đứng trước cửa đón chào những người khách bí mật. Sau khi chủ và khách đã ngồi vào phòng nhà khách, hai bên hỏi thăm lẫn nhau, đồng thời tiến hành trao đổi thủ tục đơn giản. Tổng bí thư Giang Trạch Dân giải thích: “Đồng chí Đặng Tiểu Bình đi nghỉ ở xa, nên lần này không gặp các vị được”. Cuộc gặp mặt đơn giản kết thúc xong, phái đoàn được hướng dẫn về phòng nghỉ ngơi một lúc.
Đến 3 giờ chiều, hai bên bắt đầu tiến hành chính thức vòng đầu đàm phán. Tổng bí thư Giang Trạch Dân phát biểu ngắn, tiếp theo Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đọc lời mở đầu dài cả cây số đã chuẩn bị trước. Sau đó, Tổng bí thư Giang Trạch Dân trình bày có hệ thống về giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia và mối quan hệ Trung-Việt.
Trong cuộc đàm phán hai nhà lãnh đạo thảo luận về một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia-Việt Nam và khôi phục quan hệ bình thường hóa Trung Quốc-Việt Nam. Hai bên tập trung vào các cuộc đàm phán Hội đồng tối cao của Cơ quan lâm thời tại Campuchia. Trung Quốc đưa ra đề nghị một Ủy ban gồm 13 thành viên, Sihanouk chủ tịch, chế độ Phnom Penh 6 thành viên, các lực lượng kháng chiến Campuchia (Khmer Đỏ), Ranariddh và Son Sann giới thiệu từ 2 đến 3 thành viên, Tổng cộng có 6 thành viên. Thành lập Ủy ban này Trung Quốc chủ động, Nguyễn Văn Linh có thể chấp nhận; Đỗ Mười phát biểu: Chỉ một mình Sihanouk cũng là lực lượng kháng chiến hay sao, tỷ lệ đại diện như vậy cả hai bên 6-7, lực lượng kháng chiến hơn một chỗ ngồi, chia ghế lối này sẽ khó khăn cho việc chấp nhận tại Phnom Penh. Phạm Văn Đồng phát biểu: Kế hoạch của Trung Quốc là không công bằng và cũng không hợp lý. Đến đây, vấn đề Campuchia đã được bàn bạc ổn thỏa. Chỉ còn trở ngại lớn nhất quan hệ Việt Nam-Campuchia, cuối cùng các bên đã nhất trí bởi Trung Quốc đưa ra thuyết phục Phnom Penh thực hiện chính quyền nhiều thành phần.
Về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam, cả hai bên đều phù hợp với thái độ hướng tới tương lai, không cần thiết phải xem xét lại quan điểm và những phát biểu cũ đã được thông qua. Hai nhà lãnh đạo nhất trí cho rằng "kết thúc quá khứ, mở ra tương lai". Tiếp đến, vấn đề khôi phục lại quan hệ giữa hai nước, hai đảng được bàn bạc trao đổi theo chiều hướng khá thuận lợi. Trung Quốc tuyên bố: "Từ nay, ông chủ của túi tiền, vung tay xóa nợ cũ", phái đoàn Việt Nam tự nhiên vỗ tay dài lâu tỏ ý vui mừng, chấp nhận Trung Cộng mua trọn gói BCT/TW đảng Cộng sản Việt Nam tại hội nghị bí mật Thành Đô. Tiếp theo tuyên bố lần thứ hai của Giang Trạch Dân: "Chúng tôi không gợi lại tiền nợ cũ, viện trợ cho chiến tranh Việt Nam". Vấn đề lớn tiền nợ được giải mã. Trong buổi đàm phán bí mật, kích thích đồng lõa đằng sau nhe nụ cười, tiếng vỗ tay đề huề, đưa ra một tín hiệu "dắt díu lòng trôi đến thành quả vô hạn". Tổng Bí thư Giang Trạch Dân tự thấy chiến thắng mở lòng bày tỏ, giữa hai nước chúng ta từ đây có thể "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai". Phía Việt Nam tự mỹ mãn, phấn khởi thành công đàm phán bí mật Thành Đô, đem lại cho đất nước Việt Nam một kỷ nguyên đầy hứa hẹn mở ra gông xiềng mới. Sau khi hội nghị đàm phán bí mật kết thúc, hai nhà lãnh đạo Nguyễn Văn Linh và Giang Trạch Dân đồng ký vào "Kỷ yếu hội nghị đàm phán bí mật Thành Đô" còn gọi là "Kỷ yếu bình thường hóa quan hệ song phương Việt Nam-Trung Quốc".

Giang Trạch Dân vui mừng giở trò ru con ngủ bất tận, trích dẫn bài thơ của Giang Vĩnh (Jiang Yong-诗人江永) vào triều đại nhà Thanh: "Phong ba đã trôi, mỗi tình anh em vẫn còn, gặp nhau lại vui, bỏ qua hết thẩy hận thù" (Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu) hay "Chúng tôi vẫn còn anh em, nụ cười có thể làm tan đi các đồng minh và kẻ thù". (Ngã môn hoàn thị huynh đệ, tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu). Vần thơ này làm lời kết cho cuộc đàm phán "nội bộ". Tặng cho những đứa con ma Việt Nam, các đồng chí BCT/TW đảng "Bác" quá hài lòng. [7]

Trung Quốc thành công mỹ mãn, lập tức đặt bữa tiệc chiêu đãi tưng bừng, phái đoàn Việt Nam hỷ hả. Trước khi đoàn đại biểu Việt Nam rời Thành Đô, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Lý Bằng, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng cùng nhau tạm biệt mang ý nghĩa viết nên một chương bản mệnh thê thảm cho Việt Nam.
Đêm đó, Nguyễn Văn Linh đã đạt được nguyện vọng, viết lên bốn câu thơ Việt Nam trăn trối, gửi tặng Trương Đức Duy: "Anh em ở lại thế hệ trôi qua, sự oán giận tức thời của những đám mây, mỉm cười khi gặp lại mở, bạn vàng và tái thiết".
Để đảm bảo sự thành công cho cuộc hội nghị bí mật, Sở Ngoại vụ tỉnh Tứ Xuyên, thực hiện rất nhiều công việc chuẩn bị và công tác anh ninh cho tổ chức. Người ta nói rằng hai ngày hội nghị bí mật. Kim Ngưu tân quán phải rời đi tất cả những người khách khác cho thật xa khu vực hội nghị và an ninh cô lập trung tâm Kim Ngưu. Theo chỉ thị của Trung Quốc không cho bất kỳ ai gửi tin nhắn đến phái đoàn Việt Nam, bí mật tuyệt đối và phục vụ tối đa chủ yếu làm hài lòng BCT/TW đảng Cộng sản Việt Nam.


Nhà khách Tỉnh ủy Tứ Xuyên "Kim Ngưu tân quán" Thành Đô và hội trường mật nghị Trung Quốc-Việt Nam 3-4/9/1990. Địa chỉ: Đại lộ Kim Tuyền Thành Đô, Tứ Xuyên. Zip 2: 610.036. Điện thoại: 86-28-87306666. Fax: 86-28-87305555. Những lãnh đạo Cộng sản đã từng đến Kim Ngưu tân quán để lại lưu bút gồm Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Đinh Nho Liêm, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng v.v...[8]

Giang Trạch Dân về đến Bắc Kinh dõng dạc tuyên bố: Đã lấy được "Kỷ yếu hội nghị đàm phán bí mật, bình thường hóa quan hệ song phương Việt Nam-Trung Quốc" như thể của "Quý di tích lịch sử". Những anh em đi sau đã có phương tiện tùy phương thức và vô tư tung hoành toàn diện trên đất chư hầu Việt Nam.[9]
Quan hệ hữu nghị Việt Cộng-Trung Cộng đánh dấu một cột mốc mới. Sau đó Việt Cộng chọn địa chỉ nhà khách Tỉnh ủy Tứ Xuyên "Kim Ngưu tân quán" Thành Đô, làm đất thiêng tổ chức những hội nghị v.v... Đảng xem đây là tiêu chuẩn của tình bạn Việt-Trung, ít nhất nơi này đã trải qua nhiều kinh nghiệm hội nghị bí mật "bình thường hóa quan hệ song phương Việt-Trung". Đảng đã ký vào "Kỷ yếu luật chơi mất nước", mở ra một hướng đi mới đem lại khởi sắc vinh dự và tự hào cho toàn đảng.
Những thế hệ Cộng sản đời sau, đến Kim Ngưu để vẽ lên thành tích mới, và nhớ lại thành tích cũ của đảng, Tổng Giám đốc giáo thức của Việt Nam Phạm Quang Anh (Fan Guangying cháu của Phạm Văn Đồng) cũng đến đây mở nhiều cuộc hội họp. Phạm Quang Anh rộng miệng khoe với Trương Đức Duy: "Tôi rất tâm đắc và trân quý Thành Đô, tôi có chụp hai ảnh chung với đồng chí Giang Trạch Dân hiện còn treo ở đấy". Chánh Văn phòng Trung ương ông Hồng Hà đã từng nói với Trương Đức Duy rằng: "Sau này đại hội trung ương đảng cũng nên chọn Kim Ngưu Thành Đô, bởi đó là nơi lịch sử quá tuyệt vời.
Tháng 2 năm 2000, chuyến thăm Thành Đô của BCT/TW Đảng, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, đến nơi đây đề cao ngọn cờ người tiền nhiệm đã làm vẻ vang lịch sử đảng. Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt và Lê Khả Phiêu cũng chạy đua với Nguyễn Văn Linh, nối gót vẽ hùm thêm cánh cho trang sử 16 chữ vàng (4 tốt), rực lửa đảng đốt cháy VN "láng giềng tốt, quan hệ tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, và đối tác tốt ". Kim Ngưu tân quán gắn liền với lịch sử đảng Cộng sản, đồng nghĩa lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam bày tỏ cùng quyết tâm với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, khi cần giải quyết Việt Nam hẹn gặp nhau Thành Đô, tiếp tục quan hệ bí mật bán nước.

Huỳnh Tâm
danlambaovn.blogspot.com
__________________

Chú thích:
[1] (越南黎德英的国防部长站在政治角色密谈在成都,1990年).
[2] (đồng sở hữu quốc gia thành vi bằng hữu-同所有国家成为朋友) chịu dưới sự hướng dẫn của Trung Cộng.
[3] Bộ Quốc Phòng Việt Nam (阮文灵张德维大使会见).
[4] Những người Việt Nam đào thoát qua Trung Quốc bằng máy bay năm 1976 ( ) như sau:
Ngày 28 tháng 9 buổi sáng, Joe Ching lái xe Lu-thời gian của máy bay chung chính trị đến sân bay Bạch Mai.
30 tháng 9 lúc nửa đêm 14:00, Yang Văn Lệ 7 người với đèn pin và la bàn từ tính, đi xe đạp từ thành phố, dọc theo con đường thẳng 4000 mét Sân bay Bạch Mai. Trên đường đi, họ gặp nhau tại một sườn đồi nhỏ với Joe Lu Thanh, nhóm Huang, Li Yushan 3 người.
10 người chia thành ba nhóm, đầu tiên và duy Joe Huang Qing Lu và hai nhóm, chịu trách nhiệm các liên kết sân bay. Nhóm thứ hai là Li Yushan và một phó, họ đã có đèn pin, la bàn từ tính, vv để các nhà để xe sân bay. Trường hợp có một khoảng trống trong hàng rào, chỉ cần băng qua hàng rào kẽm gai tạp dề thẳng. Nhóm thứ ba do Yang Văn Lệ, để biên dịch trực thăng cầu rồng bay thông đồng.
[5] "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, toàn diện tốt" (睦邻友好和全面合作关系不断提高到新的水准).
[6] Chú ý "Trung Việt" đã không còn dấu gạch ngang như xưa Trung-Việt.
[7] (原创): "渡尽劫波兄弟在, 相见一笑泯恩仇". 是清代诗人江永".
http://goldyard.vip.blog.163.com/blog/static/3178579201431402445130/
[8] 地址:四川省成都市金泉路2号 邮编: 610036 电话: 86-28-87306666 传真: 86-28-87305555. http://www.jnhotel.com/p1.asp . Khách sạn Kim Ngưu (金牛) được xây dựng vào năm 1957. Những người đã từng đến đây như Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Lưu Thiếu Kỳ, Zhu De, Giang Trạch Dân, Lý Bằng, Hồ Cẩm Đào, Kim Il Sung, Sihanouk, 胡志明, 阮文灵, 杜梅, 范文同, 黎德英, 乐孟黎冒险, 闳哈, 碧晃子, 亭儒列姆和阮富仲.
Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu Nông Đức Mạnh, Hồng Hà, Hoàng Bích Sơn, Đinh Nho Liêm và Nguyễn Phú Trọng v.v...
[9] 获得 "大会秘密谈判程序正常化的双边关系越中国" 作为 "历史街区" 的. 这些兄弟有办法根据越南公正的综合机动方式去后.


Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 2)

Huỳnh Tâm (Danlambao) - Lịch sử hành tinh này xem Việt Nam là một thành viên góp phần tạo nên sự thành hình của thế giới. Mỗi chúng ta là một thành tố tạo dựng nhân loại, đóng một vai trò ngày càng quan trọng, tất cả đã là người đều được quyền sống có giá trị như nhau, mỗi người sinh ra ở cõi đời này đồng nhận được ưu tú nhân ái. Cho nên khi đất nước bị suy sụp chúng ta có quyền xây dựng, những ai làm vật cản trở sẽ bị sa thải và biết tha thứ những kẻ từng tội lỗi, điều này đạo đức của dân tộc Việt có thừa, và tất yếu bảo vệ chính đáng theo qui luật sinh tồn của dân tộc Việt.
Do đó thời nào cũng thế, chuyện đất nước rất cần những phản ảnh trung thực, và đó là nhu cầu của "Chúng tôi muốn biết" để đi tìm mọi sự thật của đất nước. Một quốc gia mà chính trị, xã hội đen tối hơn 74 năm trôi qua (1940-2014) đã quá đáng lắm rồi. Nay người dân phải muốn biết để chia sẻ hành trình đất nước, đó là yêu chứ không vì ghét bỏ.
Hiện nay, đất nước muốn vươn mình không phải chờ cơ may, mà do biết tập hợp thành khối sức mạnh để giải quyết mọi sự kiện. Muốn xây dựng đất nước, người ta phải nuôi sinh lực tổ chức, nhất định phải có vốn sống tư tưởng dân tộc vượt trội, và biết thôi thúc những thế hệ nối tiếp. Do đó mỗi công dân nên cần biết sinh hoạt và vận hành của đất nước khi lúc thịnh suy. Nếu người dân không cần muốn biết, tương lai quốc gia sẽ mất nước không còn xa. Ví dụ "Chúng tôi muốn biết" Thành Đô 1990 đã mang lại cho đất nước những hậu quả to lớn nào, cay đắng đã thấu xương thấm dày trong cơ thể từ khi nào, nhận thấy nhục nhã làm thân chư hầu chưa, sống dưới chế độ hắc ám buôn dân, bán nước mà ta vẫn ngơ ngẩn hay sao, để rồi hôm nay và mai sau Việt Nam đi về cõi mất nước ư? Tất cả đều những câu hỏi lớn, đặt ra vấn đề cần sức mạnh của trí tuệ cho giải quyết tốt đẹp đất nước, chắc chắn thực hiện được nếu không lãnh đạm đối với đất nước. Chú ý một điều, lần này mất nước không như 1000 năm trước. Hiện tại Bắc Kinh đã tiến hành sách lược đô hộ bằng kiến trúc xã hội "An Nam kinh tự trị" (nhất cá tự trị nam kinh) quá tinh vi và lo ngại mai sau đất nước Việt Nam bị xóa sổ thành viên của thế giới, như chúng ta đã thấy nhiều quốc gia đã biến mất trên bản đồ.

Công ty bán nước có tên "Bí mật Thành Đô 1990", nhà máy xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam, tọa lạc tại địa chỉ BCT/TW đảng CSVN. Sau 24 năm hoạt động mạnh mẽ của nhà máy, chủ đất, nhà thầu, chuyên viên và nhân viên cộng sản thu về vô số "thành tích", lợi nhuận vô hạn định, thành quả này ngoài sức tưởng tượng. Công ty bán nước cho ra lò những sản phẩm, hàng độc: Đất liền Lão Sơn biên giới Trung-Việt, Biển Đông hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa, Vịnh Bắc Bộ vùng đảo Bạch Long Vĩ, lắp ráp luật pháp nhân dân Trung Quốc cho dân tộc Việt Nam, và thành lập quân đội nhân dân Trung Quốc cho đất nước Việt Nam. Hàng độc này duy nhất chỉ có một đối tác tiêu thụ là Bắc Kinh, họ đã ký một giao ước "Kỷ yếu quan hệ song phương Trung Quốc-Việt Nam 1990" theo giấy phép có qui định nguyên tắc 16 ký tự chung sống "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng tốt và hợp tác toàn diện", còn buộc Việt Nam phải trung thành thực hiện đời đời "Chung sống dài hạn, giám sát lẫn nhau, hoàn toàn tận tâm và chấp nhận hướng dẫn nguyên tắc".

Một phân đoạn trong bản "Ký yếu hội nghị bí mật Thành Đô 1990".
Nguồn: CPC.

Ngày 2 tháng 9 năm 2014. Trời bất dung thân, nhà máy bị xì hơi độc ra ngoài, 61 đảng viên CSVN đã kiến nghị đưa ra những yêu cầu đòi bạch hóa Hội nghị Thành Đô, muốn biết cụ thể những hóa chất độc đó là như thế nào và báo động đến nhân dân cùng nhau biết để lên tiếng bảo vệ đất nước Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam yêu cầu họ hãy dời nhà máy bán nước "Bí mật Thành Đô 1990" sang Bắc Kinh. Bên chủ đất BCT/TW CSVN ngoan cố ngậm miệng ăn tiền không thèm hồi đáp theo tinh thần thư ngỏ của 61 người dân, trái lại nhà thầu Trung cộng tức khắc phản ứng dữ dội, còn chối quắt, cho rằng CSVN vạch sẵn con đường thênh thang để Trung cộng bước vào "Kỷ yếu quan hệ song phương Thành Đô 1990" cho phép Trung cộng tự do khai thác toàn diện tài nguyên vô tận trên lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam. Về chủ trương Việt Nam nhất định bước đến ổn vững, nhập vào đại lục theo lịch trình ấn định của thời gian là năm 2020 điều này "Kỷ yếu" đã xác nhận có thực trên giấy trắng mực Tàu hai đảng anh em đã ký, nếu nhân dân Việt Nam muốn biết cho tường tận hãy hỏi thẳng đảng CSVN và xin được quyền xem xét nội dung của "Kỷ yếu". Bằng không chứng tỏ đảng CSVN đã thực sự phản bội dân tộc Việt Nam. 74 năm trôi qua sống dưới chế độ đại lừa, dối trá, đến nay đảng hãy quay đầu hiểu chuyện, không thể lấy thái độ xem thường nhân dân Việt Nam. Chế độ Cộng sản đã làm tổn thương đất nước này quá nhiều, đưa Việt Nam vào tình thế mỗi ngày lún sâu vào mất nước, đến nay đảng Cộng sản đã hoàn toàn mất hướng không còn lối trở lại đất nước Việt Nam.
Thời điểm đã đến, Trung cộng lấy trọn đất nước bằng nhiều thủ thuật tinh vi, trước đó Trung cộng đã soạn thảo một văn bản bán nước, mời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, thay mặt toàn đảng đến Thành Đô ký vào "Kỷ yếu" ngày 4 tháng 9 năm 1990 với Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng chứng giám, khẳng định hợp pháp. Văn bản bán nước được đọc trước hội nghị, ròng rã 2 giờ 32 phút, vỏn vẹn 80.526 từ, kể cả chữ ký của hai ông Giang Trạch Dân và Nguyễn Văn Linh, tổng cộng 54 trang A4.
Để khỏi ngạc nhiên, xin thưa trước quý vị, vào ngày 11 tháng 3 năm 2010 tại Hồng Kông, người viết đã đọc được phiên bản "Kỷ yếu", rất tiếc, người ta cho đọc không cho làm bản sao, lúc ấy không thể tin văn bản "Kỷ yếu" là thật, đến tháng 5 năm 2012 chúng tôi tiếp nhận được nhiều bản thành tích của Trung Cộng thực hiện theo từng bước "Kỷ yếu", vẫn không tin bởi chưa có cơ sở vững chắc để đối chiếu. Đến tháng 9/2014 tiếp nhận được 2 bản cụ thể "Kỷ yếu hội nghị Thành Đô 1990" nhưng nội dung chưa toát hết phần cốt yếu của sự kiện và tiếp theo nhận thêm một bản nữa xuất phát từ BCT/TW Trung Cộng, vừa tỉnh ngộ bản Hồng Kông mới chính là kim chỉ nam của "Kỷ yếu hội nghị Thành Đô 1990".

Giang Trạch Dân ký vào "Quý di tích lịch sử" Thành Đô 1990.
Nguồn: CPC.

Văn bản "nước mất nhà tan" mà 15 nhân vật của CSVN tham dự hội nghị hoàn toàn im lặng không một lời nào đề nghị thảo luận lại. Theo nguyên văn cho thấy "Về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam, cả hai bên đều phù hợp với thái độ hướng tới tương lai, không cần thiết phải xem xét lại quan điểm và những phát biểu cũ đã được thông qua. Hai nhà lãnh đạo nhất trí cho rằng "kết thúc quá khứ, mở ra tương lai". Tiếp đến, vấn đề khôi phục lại quan hệ giữa hai nước, hai đảng được bàn bạc trao đổi theo chiều hướng khá thuận lợi". Kết thúc hội nghị bí mật quá đơn giản. Thảo nào Giang Trạch Dân công bố đã lấy được "Quý di tích lịch sử".
Trong lúc chờ đợi đảng CSVN công bố nội dung "Kỷ yếu", chúng tôi xin phép làm một bản trình bày 3 tiết lộ cụ thể trước đây, theo tinh thần dân chủ bàn luận việc nước công khai:
Sinh hoạt của đảng Cộng sản mọi việc đều thông qua nguyên tắc hội kín "tao viết lệnh mầy cứ thế thi hành", cho nên khó tiết lộ cụ thể vấn đề bí mật Thành Đô, đến nay đã rõ trong BCT/TW đảng CSVN cũng có người kín đáo tiết lộ theo hình thức quen thân làm quà câu chuyện. Cho nên BCT/TW Trung Cộng phản đối, gửi văn thư chất vấn và khuyến cáo CSVN, tìm nguyên nhân hồ sơ bị rò rỉ chảy ra ngoài công chúng. Đặc biệt vào dịp quốc khánh ngày 2 tháng 9 năm 2014, toàn thể đảng viên cao cấp, gồm có 61 người gửi thư ngỏ hỏi tội bán nước của đảng CSVN. Đến nay, chính phủ nhà nước, đảng, quốc hội vẫn không hồi âm, có phải chế độ độc trị quá kinh miệt đảng viên của mình đã từng lấy mạng sống đứng đầu bảo vệ đảng, nay nghỉ hưu đảng xem như không còn tác dụng.
Chúng tôi nghĩ rằng CSVN cần phải lương thiện và thực sự sửa sai, không nên dựa vào bảo kê của Trung cộng, cũng không nên tự ca tụng "đảng còn nước còn" trong khi đảng cộng sản chưa bao giờ là chính đáng trong lòng đất nước. Và nội dung "Kỷ yếu Thành Đô 1990" có nguy cơ đưa đến đổ máu không cần thiết, lúc này đảng phải tự nguyện công bố trước công luận, đảng sẽ tránh nhược điểm tài tình bản lĩnh sợ địch, bằng không cứ thế tiếp nhận thân làm nô tài bảo vệ chủ nghĩa xã hội, phát triển đỉnh cao gian ác, chống lại nhân dân. Tất nhiên xưa nay CSVN tự hào là thành viên của Trung Cộng, cho nên Trung Cộng trực tiếp thò tay can thiệp vào nội bộ của Việt Nam, nhất là về công tác nhân sự tổ chức đảng, khai thác toàn diện địa lục, làm chủ biên giới, biển đảo, kinh tế. Sau 24 năm ký kết mật Hội nghị Thành Đô, đảng CSVN đã đưa đất nước Việt Nam không còn tài nguyên nào cho đời sau, ngày nay chỉ để lại một cái xác vỏ và toàn dân sinh sống bằng nhiều hình thức nô lệ!
Từ đây, những tấm lòng vì đất nước hãy tỉnh dậy, chỉ cho nhau cùng nghe và cùng thấy sai lầm của đảng Cộng sản. Mục đích, ngăn chặn bàn tay 74 năm tàn phá đất nước, mà Cộng sản thường tự hào chung sống "láng giềng bốn tốt", miệng rêu rao "tình đồng chí và tình anh em", luôn to tiếng "16 chữ vàng", rồi ngày nào đó người bạn Trung Cộng ngừng đập trái tim quan hệ với đảng, lúc đó toàn đảng trôi dật dờ, tự diệt hay phải sống với lòng vị tha của nhân dân vốn nhân ái.
Ngày 3-4 tháng 9 năm 1990 Thành Đô. Phương Tây đã chú ý, Trung Cộng trao tặng cho CSVN một ô nhục lịch sử quan hệ song phương. Người ta cho rằng Việt Nam-Trung cộng là một XHCN, đều do một đảng Cộng sản lãnh đạo, bởi trong chương trình Hội nghị Thành Đô cũng đã khẳng định, đây là cuộc họp thưởng đỉnh của "nội bộ", giữ kín "bí mật". Người ngoài cuộc không liên quan "nội bộ", không được lên tiếng bởi hai từ "bí mật".
Bí mật Thành Đô đã xoay tình hình Việt Nam như chong chóng, đất nước đang bị "đổi thay, dời non nước" từng ngày, thế mà lòng dân vẫn im phắc, vẫn chưa nhận được tin báo động, xem ra mọi sự không động gió, hay vì có đảng lo!? Đảng lấy quyền gì ngăn chặn mọi phát xuất thông tin trong khi ấy nhân dân cần biết, nói chung "đảng bác" không cho người dân được quyền biết bất cứ thông tin và hành động, dù lớn hay nhỏ. Đảng tự phong quyền mưu quốc lại thiếu kiến thức, trình độ quản lý quốc gia, thật nguy hiểm đất nước đang đứng trước kẻ lừa đảo mã quốc, thành quả ngoạn mục của họ có được nhờ vào tiểu xảo vặt "bán trời không mời Thiên lôi".

"Kỷ yếu Thành Đô 1990" tự nó phải lộ nội dung, những điều mà 24 năm trôi qua nhân dân Việt Nam chưa hề biết đến. Bí mật lúc nào cũng đến muộn màng, tuy nhiên nó có mang theo hơi thở tình cảm khác nhau nhưng nó là chuyện nóng cháy của 24 năm qua làm đất nước khắc khoải.
Đặc biệt khi "Kỷ yếu Thành Đô 1990" bị lộ, Trung cộng không ngừng phẫn nộ, khuyến cáo CSVN và đặt vấn đề ai tung ra những cụ thể nội dung của "Kỷ yếu Thành Đô 1990", Trung Cộng ra sức kiểm soát nguồn gốc phát xuất sự kiện, không ngờ chính Trung cộng tự bạch hóa, như sau:
Khởi đầu mạng 80, loan tải bốn tin tức cụ thể nội dung của "Kỷ yếu" hội nghị bí mật Thành Đô, qua giao thức 1990, còn được gọi là Hội nghị bí mật Thành Đô 1990. Một loạt 4 bài, tựa đề "Chung nhạc Thành Đô hội ý" (Zhongyuechengduhuiyi).
- Cuối năm 1970, Việt Nam đã gửi quân sang Campuchia.
- Năm 1979, quan hệ Trung-Việt đã chạm đáy.
- Tháng 12 năm 1986. Đại hội đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI. Nguyễn Văn Linh được đắc cử Tổng Bí thư.
- Sau khi Liên Xô sụp đổ, Nguyễn Văn Linh điều chỉnh chính sách, tìm cách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Ý nghĩa của tựa đề "Chung nhạc Thành Đô hội ý" (nhất bàn đích âm nhạc thành đô tư tuân) nói lên tính mỉa mai, chua chát của một hội nghị thượng đỉnh bí mật, chỉ có im lặng, dạ vâng, thưa trình, thiếu sinh động vì không được quyền phát biểu và thảo luận v.v...
Tiếp theo tại Việt Nam bỗng xuất hiện 61 đảng viên đã nghỉ hưu, chủ yếu bật ra một phần sự thật của "đảng" đã thỏa thuận trong hội nghị bí mật Thành Đô năm 1990. Họ loan tải một bức thư ngỏ trên những mạng truyền thông Việt Nam, yêu cầu đảng Cộng sản công bố trước công chúng cụ thể nội dung "Kỷ yếu Thành Đô". Tại Trung Quốc báo đảng tung ra chỉ trích mạnh mẽ và chửi thậm tệ nhân dân Việt Nam. Thư ngỏ muốn hiểu hành động của đảng, bổn phận người dân cần biết là chuyện bình thường, họ đưa ra 5 điểm chính đáng cần nhà nước trả lời tường tận:
- Bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc.
- Hoạch định biên giới trên đất liền gồm Lão Sơn Việt Bắc, và vịnh Bắc Bộ toàn vùng đảo Bạch Long Vĩ.
- Kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
- Chấm dứt hành động sách nhiễu, trấn áp, quy kết tùy tiện đối với người dân yêu nước
- Phải được biết sự thật hội nghị Thành Đô năm 1990.
Ma thuật của đảng Trung cộng là bất chấp sự tồn tại của các quốc gia lân bang, từ xưa nay chiến lược bành trướng tàn bạo không bao giờ dừng lại, và bản chất lừa đảo của Trung Cộng cũng chưa bao giờ thay đổi. Sau 24 năm Trung cộng đã thực hiện được những thành quả đáng kể nhờ "Hội nghị bí mật Thành Đô". Trung cộng đem về cho đại lục một sự nghiệp bành trướng vô tận, đến nay Trung cộng không ngần ngại cho nội bộ BCT/TW học tập thành tích của mình, qua tư liệu cướp nước và chuẩn bị kế hoạch sáp nhập Việt Nam vào Trung Quốc:
- Xác định Biên giới Trung-Việt từ đất liền đến biển đảo theo kế hoạch.
- Laoshan thuộc về lãnh thổ Trung Cộng.
- Kiểm soát vùng trắng đảo Bạch Long Vĩ Vịnh Bắc Bộ.
- Áp đặt luật pháp Trung Quốc vào Việt Nam.
- Kế hoạch đưa quân đội Trung Quốc vào Việt Nam.
Theo nguyên tắc của hội nghị bí mật Thành Đô 1990, Trung cộng-Việt Nam đồng ký thỏa thuận 5 điểm chính, cùng thực thi và cam kết đồng thuận bảo vệ "Kỷ yếu Thành Đô 1990".
Những văn thư của BCT/TW Trung cộng gửi cho CSVN vào tháng 9 năm 2014, cho rằng: 61 đảng viên lão thành Việt Nam công bố thư ngỏ gửi đến BCT/TW CSVN vào ngày 2 tháng 9 năm 2014 có tính cách tiết lộ bí mật "Kỷ yếu Thành Đô 1990". Cáo buộc BCT/TW CSVN tự ý cho chảy hồ sơ để nhân dân Việt Nam rộng đường thảo luận, trái qui ước của hội nghị Thành Đô. Thực chất Trung cộng lộng hành quá đáng, nhờ đến tay CSVN chia rẽ dân tộc Việt Nam. Tất cả chỉ vì một hứa hẹn mai này "đứa con hoang gia nhập đại lục Hán quốc". (hỗn đản gia minh quốc trung quốc đại lục).
BCT/TW Trung Cộng thừa biết nội vụ trên từ đâu xì ra, nhưng vẫn giữ thói xấu, hồ nghi cho rằng CSVN tiết lộ, trong lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam chưa có sự kiện nào tiết lộ bí mật bởi dưới sự giám sát của tình báo, gián điệp của Hoa Nam (MSS) ngay trong lòng đảng. Tại sao BCT/TW Trung Cộng không đặt thẳng góc đến mục tiêu Mật Viện Trung Cộng tiết lộ "Kỷ yếu Thành Đô 1990", phải chăng chấp nhận im lặng, đưa bánh xe vào hướng kẻ nô lệ nghiền tán chúng, chính kẻ nô lệ cũng đã cố gắng hết mình giữa im lặng từ lâu. Có tin cho biết, Trung Cộng đang tìm thỏa thuật mới trên Biển Đông cho nên áp lực CSVN bằng cách đưa ra một kế sách xì những điểm cụ thể trong "Kỷ yếu Thành Đô". Như trước 1979 Đặng Tiểu Bình giở trò đưa ra một giá cả nhất định, như thế này: "Đảng Cộng sản Việt Nam phải thuần phục Trung Cộng Quốc sẽ được hưởng qui chế tự trị Đông Dương (Việt Nam, Campuchia và Lào) bằng không Việt Nam nhận hậu quả trắng tay". [1]
Ngày nay, hội nghị bí mật Thành Đô tự nó đứng dậy tố cáo CSVN và Trung Cộng rất hợp với yếu tố chính đáng của người dân muốn biết. Theo tài liệu trên của ba đầu tự phát lộ, đồng loạt cùng nội dung, cùng một thời điểm tháng 9 năm 2014, đến nay Trung Quốc vẫn kiểm soát hồ sơ này, mặt khác tung ra mồi độc nhử con cá CSVN thấm sâu vào tủy cốt chủ nghĩa yêu đại Hán. Trung Cộng đã thành công tránh được phản đối của nhân dân Việt Nam nhờ có đảng CSVN nhu nhược và trung thành tuyệt đối, mỗi ngày báo cáo vụ việc minh bạch, kiểm soát nhân dân Việt Nam, chận đứng mọi phản ứng.

Trung Cộng đã thực hiện chiến thuật áp chế và khuyến cáo Việt Cộng
Không nên tiết lộ nội dung cụ thể thỏa thuận hội nghị Thành Đô 1990. Gần đây tại Việt Nam có một nhóm 61 tướng lãnh và cán bộ cao cấp đã nghỉ hưu, họ gửi đến chính phủ Việt Nam một bức thư ngỏ muốn biết nội dung cụ thể và công khai những dữ liệu đàm phán đã thỏa thuận những gì vào ngày 03-ngày 04 tháng 9 năm 1990. "Theo qui định bí mật không sử dụng mọi phương tiện truyền thông, nếu thấy cần trao đổi kế hoạch chung phát động chiến dịch kêu gọi nhân dân học tập tìm hiểu quan hệ song phương Trung Quốc và Việt Nam theo thỏa thuận Thành Đô 1990", (án chiếu tiềm quy tắc bất sử dụng nhậm hà môi thể, như quả nhất cá cộng đồng đích kế hoa, tất yếu đích giao lưu, phát khởi nhất hạng vận động, hô hu nhân môn học tập học tập Trung quốc đích song biên quan hệ hòa Việt Nam đồng ý 1990 Thành Đô).
CSVN gửi báo cáo về Bắc Kinh có đính kèm danh sách 61 đảng viên đã nghỉ hưu, ký vào thư ngỏ, ngày 2 tháng 9 năm 2014: Nguyễn Trọng Vĩnh, Đào Xuân Sâm, Trần Đức Nguyên, Nguyễn Văn Tuyến, Lê Duy Mật, Tạ Đình Du (Cao Sơn), Vũ Quốc Tuấn, Nguyễn Hữu Côn, Hoàng Hiển, Đỗ Gia Khoa, Hà Tuân Trung, Nguyễn Thị Ngọc Toản, Phạm Xuân Phương, Tô Hòa, Võ Văn Hiếu, Hoàng Tụy, Huỳnh Thúc Tấn, Tạ Đình Thính, Nguyên Ngọc, Tương Lai, Nguyễn Khắc Mai, Đào Công Tiến, Vũ Linh, Nguyễn Kiến Phước, Nguyễn Thị Ngọc Trai, Võ Văn Thôn, Nguyễn Trung, Huỳnh Kim Báu, Hạ Đình Nguyên, Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), Lê Công Giàu, Kha Lương Ngãi, Tô Nhuận Vỹ, Phạm Đức Nguyên, Bùi Đức Lại, Lữ Phương, Nguyễn Lê Thu An, Nguyễn Đăng Quang, Trần Văn Long, Nguyễn Thị Kim Chi, Huỳnh Tấn Mẫm, Võ Thị Ngọc Lan, Hà Quang Vinh, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Đăng Doanh, Chu Hảo, Nguyễn Xuân Hoa, Nguyễn Vi Khải, Cao Lập, Lê Thân, Ngô Minh, Trần Kinh Nghị, Hồ An, Đoàn Văn Phương, Hồ Uy Liêm, Trần Đình Sử, Lê Văn Luyến, Nguyễn Gia Hảo, Phạm Chi Lan, Đào Tiến Thi, Nguyễn Nguyên Bình.

Nhật báo Thái Bình Dương loan tin:
CSVN tiết lộ hội nghị bí mật năm 1990 Chengdu, có ý định gì.
Tại hội nghi đã qui định không được phép tiết lộ các nội dung cụ thể của Thành Đô 1990. Gần đây Forum 80 cho loan tải bốn hồ sơ cơ bản của hội nghị. Theo tin cho biết người bí mật tiết lộ có tham dự vào buổi ký kết thỏa thuận giữa các nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc-Việt Nam, nghi ngờ rằng, chính phía Việt Nam phát tán hồ sơ này? [2]
Tháng 5 năm 2014, sau khi có những cuộc đối đầu nhiều hơn ở vùng biển Tây Sa, báo đảng CSVN loan tải lời kêu gọi của chính phủ xem xét lại các chiến lược ngoại giao để tăng cường hợp tác với Hoa Kỳ và Nhật Bản, để đối phó với mối đe dọa từ Trung cộng. Như vậy, nội dung cụ thể của thỏa thuận năm 1990 đã được bật ra, CSVN phải chịu trách nhiệm trước qui định của hội nghị Thành Đô.
Ngày 2 tháng 9, những cựu quân nhân Việt Nam đã nghỉ hưu thăm viếng với nhau, được mạng 80 phỏng vấn Trung tướng Lê Hữu Đức: Ông yêu cầu chính phủ Việt Nam tiếp nhận bức thư ngỏ và cho công chúng biết về tình trạng quan hệ song phương của Trung Quốc và Việt Nam, những thỏa thuận về lãnh thổ, lãnh hải. Đặc biệt yêu cầu chính phủ Việt Nam nên giải thích cho người dân biết, trước khi bình thường hóa quan hệ Trung-Việt, đã thỏa thuận những gì hãy cụ thể nội dung của hội nghị bí mật Thành Đô năm 1990? [3]

Mạng 80 phỏng vấn Trung tướng Lê Hữu Đức.
Nguồn: 80.

Trung Cộng khai thác điểm yếu và nhu nhược của từng tên lãnh đạo CSVN
Viên Lực Phong giám đốc nhà khách Tỉnh ủy Tứ Xuyên (Kim Ngưu tân quán) cho biết:
- Chúng tôi đã bố trí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng, mỗi vị ở riêng một biệt thự, nơi đó họ được hưởng thụ những làn da thu thủy nét xuân xanh, phục vụ nào là tẩm thất, thực đơn hảo hạng hợp khẩu vị, được hầu tận miệng, ăn ít bổ nhiều, thư giãn bằng tẩm quất toàn thân và xem một vài video có tính kích dục, hầu như ba vị không từ chối cách phục vụ này, tất nhiên họ sống không khác nào hoàng đế phong kiến. 48 giờ trôi qua vừa họp mệt nhoài cho nên họ chú ý hưởng thụ, cũng vừa có lý do để cách ly ba vị ấy không còn thời gian để hội ý trước khi Hội nghị [4].
Những tên lãnh đạo CSVN ngã vào chảo dầu khờ khạo, non yếu không thấy hết những "mưu ma chước quỷ" của kẻ mà đến tận bấy giờ vẫn còn có không ít ngưòi lầm tưởng Trung Cộng là "tình đồng chí và tình anh em". Trong hội nghị, CSVN chưa hề đặt lại cuộc chiến tranh biên giới của tháng 2 năm 1979 do Trung cộng chủ động xâm lược. Trái lại Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình phớt lờ bỏ qua, tình hình chung tại hội nghị Thành Đô. CSVN đã nhượng bộ vô nguyên tắc, tạo điều kiện cho Trung cộng giành được vị trí chính nghĩa, nhất là nhân dân Trung cộng hình dung viện binh 60 vạn quân chính quy của con em họ giúp Việt Nam, trên thực tế Trung cộng xâm lược, thế nhưng CSVN nói không nên lời. Trong chiến tranh Trung cộng đã giết hại đồng bào Việt Nam vô tội, tàn phá vật chất vô số kể, và tài nguyên của nhân dân tại biên giới sáu tỉnh Việt Nam. Cuộc chiến tranh tàn ác và hành động phi nghĩa của Trung cộng, lúc này ngồi vào hội nghị không có một lời nào "xin lỗi" hay ít nhất họ mở miệng "đáng tiếc"? Những điều kiện tiên quyết để bình thường hoá quan hệ hai nước phải thông báo cho nhân dân Việt Nam biết và thế giới cùng biết, lý do gì đàm phán bí mật lại không được phát biểu dù chỉ một lời lịch sự với phía Trung cộng. Thế mà Lý Bằng ngang nhiên lên tiếng kẻ cả "thẳng thừng" nêu ra nhiều vấn đề Việt Nam còn nợ Trung cộng và nạn bài Hoa 1976 v.v... cho thấy Lý Bằng thể hiện bản chất thiếu lương thiện, còn đe dọa không tha thứ Việt Nam, Hội nghị Thành Đô tất yếu sẽ đem đến hậu quả khủng khiếp và lâu dài cho Việt Nam, mọi tiềm ẩn nguy hại to lớn đó không thể định lượng trước và bao giờ sẽ kết thúc.
Ngoài ra còn hiện thực hơn, trong đời sống không thể tưởng tượng nổi tâm địa độc ác của Trung Cộng, vu cáo "Việt Nam bài Hoa" và "Việt Nam xâm lược Campuchia"... Theo tin tức chúng tôi có được, người Hoa hồi hương Đại lục bị tổ quốc của họ lừa bịp, trấn lột toàn bộ tài sản của người dân đem về quê hương lập lại sự nghiệp. Đại lục đưa họ vào luồng chính trị không được hưởng qui chế "Tỵ nạn", lợi dụng Hoa kiều mặc cả với Việt Nam, thực chất người Hoa không muốn hồi hương vì họ chẳng còn gì liên hệ với cố quốc, nếu có chăng chỉ trên hai bàn tay là cùng, chính bọn gián điệp Trung Cộng kích động, mời họ hồi hương, mua chuộc phân hoá cộng đồng, đôi khi gián điêp còn dùng đến bạo lực, trấn áp, cô lập, gần 1 triệu người khốn đốn tại biên giới Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Châu Trung cộng. Sau này đảng CSVN cũng học lối này áp dụng cho Việt kiều yêu nước.
Về việc thế giới lên án Việt Nam, cũng do Trung cộng phóng đại tuyên truyền cho rằng "Việt Nam bài Hoa", "Việt Nam xâm lược Campuchia". Tiếp theo Trung cộng "cho Việt Nam một bài học" đích đáng... Mọi hiểu lầm của nhiều người, do nhà nước Trung Cộng mà ra, từ đó có những ác cảm què quặt thiếu sáng suốt bị nhà nước Trung cộng bung xung.

Phóng viên BRK, phỏng vấn Cung Huy Vũ người lãnh đạo "súng chửi" của Trung Cộng.
Nguồn: Huỳnh Tâm.

Trung cộng còn tung ra những tuyên truyền lừa đảo người Hoa thiếu nhận thức, thành lập lực lượng súng miệng, chuyên bắn đạn chửi liên tục và túi bụi mà không phân biệt nhà nước CSVN hay nhân dân Việt Nam. Họ cứ chửi tới tấp trên mạng Internet, báo chí địa phương, báo đảng và gần đây nhất trên các mạng xã hội, Linkedin, Tumblr, Netlog, Twitter, Newsvine, About, Wordpress, Blogspot, Facebook, Google+ v.v... Hội nghị bí mật Thành Đô 1990 là thủ phạm của súng chửi cho đến nay 2014. Rất tiếc cho những giới trẻ có vốn kiến thức rộng lại tham gia ồn ào và nông nỗi, họ được nhà nước khuyến khích không hề bị kỹ luật hay cấm đoán, họ ra rã liên tục chửi bất kể ngày đêm, mạ lỵ, xuyên tạc, bóp méo sự thật trên mọi đề tài không hạn chế, tìm hết cách để hạ uy tín Việt Nam, đến nỗi phần lớn người dân bình thường tại Trung cộng cũng biết chửi. Dân tộc Trung Hoa vô tình sáng tạo văn hóa chửi bừa bãi như "Việt Nam vô ơn bội nghĩa, hay "kẻ ăn cháo đá bát" v.v... Theo thống kê mới nhất trong tháng qua Tân Hoa Xã cho biết "85% dân mạng Trung Quốc, có trên 350 triệu người đầu quân lính chửi, đôi khi họ là những lá phiếu tán thành nhà nước Trung cộng dùng biện pháp vũ lực tại Biển Đông và biên giới, kêu gọi trừng trị Việt Nam bài học thứ hai! Kết quả Việt Nam không thể hiện được chủ quyền của mình tại Hội nghị bí mật Thành Đô, Trung Cộng lấy cớ đó xây dựng cho mình một mưu đồ mới chà đạp Việt Nam.
Ngày nay, sự thật của Thành Đô đang trên đà hé lộ cái bộ dạng của nó, dù hai đảng Cộng sản bao phủ bí mật cho đến đâu chăng nữa, hay bảo vệ đến cùng cái "nội mạc" của hội nghị bí mật cũng phải đến lúc bung ra trước lịch sử, không thể mãi mãi khai thác bí mật Thành Đô trên lưng của dân tộc Việt Nam. Trung cộng thừa biết đất nước Việt Nam đứng trước đen tối, khởi đầu vào năm 1940 cho đến ngày nay 2014, bởi chính Trung cộng là thủ phạm can thiệp vào nội bộ Việt Nam, đôi lúc trầm bổng tùy theo chính trị Trung cộng hướng dẫn, thế nhưng CSVN chưa hề lên án ngoại bang, chưa hề đem họ ra tòa án. Đây là hậu hoạn khôn lường lớn nhất của tình trạng đất nước Việt Nam hôm nay. CSVN lạnh nhạt với nhân dân, buôn trôi đất nước không nắm bắt những sự kiện trọng đại của quốc gia vào những thời điểm đối đầu với Trung cộng, phải nói đảng CSVN có quá nhiều ân oán với Trung cộng, chính Hồ Chí Minh đưa đất nước Việt Nam đến tình trạng đảng "Bác" không trung thành chủ quyền quốc gia và xa rời phẩm giá quốc gia, bởi tinh thần hướng ngoại bài nội, quốc gia phải chết.
Đảng Cộng sản buộc người dân phải yêu đảng trước, mới được quyền yêu nước, cánh cửa đảng đã khép kín, người dân không thể vào nhà Việt Nam, một cách khác Cộng sản đánh sập tinh thần yêu nước, thực hiện xã hội vô đạo đức, đẩy người dân ra ngoài lề xã hội và cướp tình tự dân tộc, đảng độc trị hành động vô nguyên tắc, chưa hề biết kết hợp nghệ thuật lãnh đạo, đưa đất nước lên thịnh vượng.
Chính vì thế người dân không biết những hành động bán nước của hội nghị Thành Đô, vì sao, để làm gì? Đảng CSVN đã mở cửa mời Trung cộng bành trướng vào đất nước Việt Nam và đã thành công trong quá trình bí mật Thành Đô 1990, những xương sống của Việt Nam đã bị đảng Cộng sản bẻ gãy tại Thành Đô. CSVN đã phối hợp chính trị, quân sự, kinh tế, quyền lực, sau đó đang áp dụng luật pháp Trung cộng vào Việt Nam, như mọi người đã thấy CSVN đã chủ động thực hiện luật pháp Trung cộng đàn áp nhân dân Việt Nam.

Ngày nay giang sơn Việt Nam là một thứ phòng thủ Đông Dương của Trung cộng, cũng là nơi thử nghiệm ly tâm cho 14 quốc gia lân bang. Mặt khác Trung cộng còn chủ động xây dựng một lực lượng quyền lực mạnh cai trị Việt Nam, chúng nó đối phó với bất cứ những ai có suy nghĩ yêu nước và phản đối Trung cộng đều bị đàn áp thô bạo!
Chúng ta phải đồng lòng cùng nhau giở cục đá bí mật Thành Đô lên sẽ tìm được những loài côn trùng giun dế, chính nó phá hoại đất nước của chúng ta. Nó đang ăn mòn tận gốc, cũng như chuẩn bị bứng văn hiến Việt Nam ra khỏi môi trường để thay vào đó một thứ văn hoá Hán gian. Đảng Cộng sản Việt Nam không thể chạy trốn 74 năm độc trị đã làm tan tác dân tộc Việt Nam, phải có trách nhiệm từ bây giờ và chấp nhận mọi sự phê phán.
Nhân dân Việt Nam cần phải biết những hiệp ước lãnh thổ, lãnh hải do Việt-Trung Cộng mua bán với nhau: Năm 1965, Hồ Chi Minh ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký với Chu Ân Lai một hiệp ước bán nước có tên là "Vạn Lịch vùng đảo Bạch Long Vĩ", để tiếp tục được nhận viện trợ chiến tranh chống miền Nam Việt Nam. Vùng đảo Bạch Long Vĩ có khả năng kiểm soát dễ dàng toàn bộ phía bắc và Nam Hải của Trung Quốc.
Đau buồn nhất, Việt Cộng đã ký vào "Hiệp ước phân định biên giới đất liền", tại Vân Nam và Quảng Tây vào ngày 30 tháng 12 năm 1999. Như trong "Kỷ yếu hội nghị Thành Đô 1990" đã qui định cụ thể tại mục lục "Xác định Biên giới Trung-Việt từ đất liền đến biển đảo theo kế hoạch".

Huỳnh Tâm
danlambaovn.blogspot.com


Chú thích:
[1] "越南共产党的驯服中国国家享有印度支那(越南, 柬埔寨和老挝), 越南共产党的自主调控不白的手的后果".
[2] http://bbs.qianyan001.com/bbs/thread_55488_1.html
[3]
http://www.80121.cn
[4] (Nguyễn Văn Linh,阮文灵享受按摩室放松四川省委招待所. Đỗ Mười, 杜梅享受按摩室放松四川省委招待所. Phạm Văn Đồng, 范文同室享受放松按摩服务四川省委招待所).


Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990  (Kỳ 3)

Huỳnh Tâm (Danlambao)

Nguyễn Cơ Thạch: "Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu!".
Giang Trạch Dân cần một bản văn kiện đàm phán bí mật, đề nghị Nguyễn Văn Linh cùng ký vào "Kỷ yếu", Trung Cộng đã có chủ ý bày ra một âm mưu sâu xa, Nguyễn Văn Linh không nề hà việc bán nước này, ông rất vui vẻ xắn tay áo đóng ký, từ đó Thành Đô Tứ Xuyên chính thức chào đời bản lịch sử "Kỷ yếu Thành Đô 1990", nội dung chuyên chở toàn bộ lộ trình Việt Nam đi về hướng bành trướng Đại lục.

Buổi chiều trước khi đoàn Việt Nam rời Thành Đô, Giang Trạch Dân, Lý Bằng, Hoài Nam Tử (Qi), Chu Sơn Thanh (Chu Shanqing), Tằng (Zeng)... hát bài ly ca, tạm biệt Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng và đoàn tùy tùng về đất dung thân chư hầu. Máy bay cất cánh từ phi trường quốc tế Song Lưu Thành Đô Tứ Xuyên, trở lại phi trường chuyên dụng Nam Ninh Quảng Tây, và sau đó về phi trường Nội Bài Hà Nội. Lúc này bầu không khí bên trong lòng cabin của máy bay, mọi người hãnh diện, lòng trào hưng khởi, vui nhộn rộn rã hơn trước. Các nhà lãnh đạo Việt Nam trao đổi liên tục quan điểm. Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Hồng Hà hào hứng nói: "Hội nghị đã thành công, rất tốt", Nguyễn Văn Linh nói: Trong hội nghị tôi đã tuyên bố 3 quyết tâm đem đến lòng tin cho Bắc Kinh. Đỗ Mười bày tỏ sự hài lòng kết quả đàm phán, lòng hân hoan dâng trào hạnh phúc. Phạm Văn Đồng gật gù mấy lần với nụ cười đắc ý. Quan điểm của Đinh Nho Liêm: Từ nay chúng ta yên tâm một khi đã có quan hệ song phương với Trung Quốc! Những bí danh Bích Sơn (Bishan) và Hoàng Trung cũng phụ họa quan điểm: Chúng tôi thấy rất vui vẻ việc làm của quý đồng chí thực hiện nguyện vọng của nhân dân!
Sau khi về đến Hà Nội, Đại sứ quán Trung Quốc mở một buổi liên hoan, giải trí lành mạnh, thiết đãi phái đoàn tham dự hội nghị bí mật Thành Đô. Thưởng thức những thực đơn "hương nhục" (Xiangrou) nổi tiếng của Tứ Xuyên, còn ấm áp "Kim Ngưu tân quán" trong lòng, nó vẫn mãi mãi quanh quẩn với mọi người. Trong buổi chiêu đãi đang vui bỗng Đỗ Mười há hốc đọc lại bài thơ của Nguyễn Văn Linh, tiếp theo Trương Đức Duy cũng đọc lại bài thơ của Giang Vĩnh mà hôm trước Giang Trạch Dân mượn nó làm môi giới kết thúc hội nghị bí mật Thành Đô, hôm nay cả hai ông cùng nhại lại để đáp lễ buổi liên hoan nội bộ bí mật Thành Đô. Tất cả đồng ca tụng cho nhau hết lời bởi thành quả lịch sử quan hệ song phương Việt Nam-Trung Quốc có một không hai.
Sau những ngày chén thề, ly bôi hẹn cụng nhau tưng bừng, tiếng cười hỉ hả cũng đã bay vào không gian, cửa phòng hội nghị Kim Ngưu sang tay khách, bí mật vẫn còn đó muôn đời sử sách ghi, những chữ ký cam kết của Giang Trạch Dân và Nguyễn Văn Linh, cũng phải đúng lúc vùng lên thực hiện những thỏa thuận đàm phán Thành Đô. Tiếp theo "Kỷ yếu" thúc giục Đỗ Mười đã hai lần liên tục gặp Thứ trưởng Ngoại giao Đinh Nho Liêm, hối thúc tăng cường sức mạnh cho ông Hun Sen buộc chấp nhận thỏa thuận giữa các bên, tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, quá trình giải quyết chính trị của Campuchia vẫn trì hoãn kéo dài thời gian, thực hiện "Kỷ yếu" không được như ý, dẫn đến một số tác động Bắc Kinh phiền muộn, Trung Quốc muốn Việt Nam sớm tiến hành phân định lại biên giới lãnh thổ và lãnh hải như mưu đồ đã định trước.

Những cán bộ đắc lực nhất phụ họa bán nước như Hồng Hà, đầy quyền lực đứng trên Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương chịu ảnh hưởng bởi tên gián điệp Hoàng Đích (黄的-Lê Đức Anh), Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam. Thứ trưởng Ngoại giao Đinh Nho Liêm người thừa lệnh của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chính phủ Đỗ Mười.

Hiệp ước biên giới đất liền Việt-Trung 1991
(条约土地越南接壤,中国)
1 - Tiến hành phân định biên giới Trung-Việt
Tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt chiếu theo trát lệnh triều đình của Giang Trạch Dân, đến Bắc Kinh báo cáo tình hình giải quyết biên giới giữa hai nước. Đồng lúc, công bố bình thường hóa "Quan hệ song phương Việt-Trung". Thỏa thuận tạm thời về việc xử lý các vấn đề biên giới. Còn gọi là "Hiệp định tạm thời". Hai bên quyết định thực hiện phân định biên giới mới. Theo nội dung Hiệp định chung Trung Quốc và Việt Nam có chung đường biên giới đất liền dài 1300 km!
Trung Quốc đưa ra một mặc cả, giá được xem rất thỏa đáng, và công nhận Việt Nam phát triển quan hệ láng giềng tốt, đối mặt và giải quyết vấn đề biên giới tốt. Hai nhà lãnh đạo TQ-VN đồng hiểu nhau tránh những từ ngữ nhạy cảm "xâm lược vào lãnh thổ biên giới Việt Nam".
Tháng 3 năm 1993, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, phụ trách Trung Quốc với các nước láng giềng Châu Á Tiền Kỳ Tham (钱其琛). Xúc tiến mối quan hệ song phương vào trọng điểm Đông Dương, cho phép Trung Quốc chiếu cố nhiều hơn vào đất nước Việt Nam. Trung Quốc dùng quan hệ song phương Việt Nam làm vùng đất nhạy cảm cho công cuộc bành trướng, đặc biệt mở biên giới tràn vào Việt Nam. Quá trình này gây ra khó khăn cho Việt Nam. Lần này Trung Cộng báo cáo thi hành công tác theo từng chi tiết trong "Kỷ yếu của hội nghị bí mật Thành Đô 1990". Qui định lịch trình tiến hành kế hoạch cắm cột mốc biến giới Việt-Trung. Khởi đầu hoạt động của hiệp ước, Trung Cộng đã có những thành quả đáng kể và tiến hành những thỏa thuận đang xác định đất liền biên giới và Biển Đông.
Trước đó Nguyễn Văn Linh cho rằng lần này đồng thuận là một "bước ngoặt của lịch sử trong mối quan hệ song phương Trung-Việt". Còn ông Giang Trạch Dân chơi chữ "kết thúc của quá khứ, tạo ra tương lai". Người Cộng sản Việt Nam không thể nào đo lường được sự tài tình sử dụng "mỹ từ pháp" đẹp nhất để che khuất những âm mưu đang chờ thực hiện. Trung Quốc đưa ra đề nghị với "đảng bác": Cung cấp phương tiện cho Việt Cộng vung tay đàn áp nhân dân và hướng dẫn dư luận đến mục đích "người dân không muốn biết" (nhân môn bất tưởng tri đạo) và làm mềm mại xã hội không còn ý chí đấu tranh, đẩy người dân Việt Nam đến suy nghĩ khác không phản đối những việc làm bất chính của người Cộng sản. Người dân Việt không có thời gian suy nghĩ, tìm hiểu hành động của chúng ta, nếu họ không phân biệt được "kết thúc của quá khứ, tạo ra tương lai", chỉ cần 20 năm sao mọi việc đã theo ý "Bác" chúng ta đã có kết quả khả quan "đổi non dời biển và cả lịch sử của Việt Nam". Khi đó người dân Việt Nam muốn đấu tranh lấy lại chủ quyền đã quá muộn màng. [1]
Chu Ân Lai đã từng giảng giải kinh cướp lân bang cho hậu duệ: "Đối phó với các vấn đề biên giới, cần nghiên cứu lịch sử và hiểu toàn bộ vấn đề của Việt Nam, phân biệt lịch sử và làm sai lịch sử của đối phương, sau đó tìm một giải pháp đối phó". Tiền Kỳ Tham một trong những đệ tử của Chu cho rằng: Tôi đã đọc rất nhiều tài liệu cho vấn đề hiểu biết xử lý "êm thắm" quan hệ Việt Nam, chủ yếu liên quan đến ba (3) khía cạnh rất cụ thể của những vấn đề phân định lãnh thổ và lãnh hải.


“Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu!”
(Nguyễn Cơ Thạch)
Giang Trạch Dân cần một bản văn kiện đàm phán bí mật, đề nghị Nguyễn Văn Linh cùng ký vào “Kỷ yếu”, Trung Cộng đã có chủ ý bày ra một âm mưu sâu xa, Nguyễn Văn Linh không nề hà việc bán nước này, ông rất vui vẻ xắn tay áo đóng ký, từ đó Thành Đô Tứ Xuyên chính thức chào đời bản lịch sử “Kỷ yếu Thành Đô 1990“, nội dung chuyên chở toàn bộ lộ trình Việt Nam đi về hướng bành trướng Đại lục.

Buổi chiều trước khi đoàn Việt Nam rời Thành Đô, Giang Trạch Dân, Lý Bằng, Hoài Nam Tử (Qi), Chu Sơn Thanh (Chu Shanqing), Tằng (Zeng)… hát bài ly ca, tạm biệt Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng và đoàn tùy tùng về đất dung thân chư hầu. Máy bay cất cánh từ phi trường quốc tế Song Lưu Thành Đô Tứ Xuyên, trở lại phi trường chuyên dụng Nam Ninh Quảng Tây, và sau đó về phi trường Nội Bài Hà Nội. Lúc này bầu không khí bên trong lòng cabin của máy bay, mọi người hãnh diện, lòng trào hưng khởi, vui nhộn rộn rã hơn trước. Các nhà lãnh đạo Việt Nam trao đổi liên tục quan điểm. Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Hồng Hà hào hứng nói: “Hội nghị đã thành công, rất tốt“, Nguyễn Văn Linh nói: Trong hội nghị tôi đã tuyên bố 3 quyết tâm đem đến lòng tin cho Bắc Kinh. Đỗ Mười bày tỏ sự hài lòng kết quả đàm phán, lòng hân hoan dâng trào hạnh phúc. Phạm Văn Đồng gật gù mấy lần với nụ cười đắc ý. Quan điểm của Đinh Nho Liêm: Từ nay chúng ta yên tâm một khi đã có quan hệ song phương với Trung Quốc! Những bí danh Bích Sơn (Bishan) và Hoàng Trung cũng phụ họa quan điểm: Chúng tôi thấy rất vui vẻ việc làm của quý đồng chí thực hiện nguyện vọng của nhân dân!
Sau khi về đến Hà Nội, Đại sứ quán Trung Quốc mở một buổi liên hoan, giải trí lành mạnh, thiết đãi phái đoàn tham dự hội nghị bí mật Thành Đô. Thưởng thức những thực đơn “hương nhục” (Xiangrou) nổi tiếng của Tứ Xuyên, còn ấm áp “Kim Ngưu tân quán” trong lòng, nó vẫn mãi mãi quanh quẩn với mọi người. Trong buổi chiêu đãi đang vui bỗng Đỗ Mười há hốc đọc lại bài thơ của Nguyễn Văn Linh, tiếp theo Trương Đức Duy cũng đọc lại bài thơ của Giang Vĩnh mà hôm trước Giang Trạch Dân mượn nó làm môi giới kết thúc hội nghị bí mật Thành Đô, hôm nay cả hai ông cùng nhại lại để đáp lễ buổi liên hoan nội bộ bí mật Thành Đô. Tất cả đồng ca tụng cho nhau hết lời bởi thành quả lịch sử quan hệ song phương Việt Nam-Trung Quốc có một không hai.
Sau những ngày chén thề, ly bôi hẹn cụng nhau tưng bừng, tiếng cười hỉ hả cũng đã bay vào không gian, cửa phòng hội nghị Kim Ngưu sang tay khách, bí mật vẫn còn đó muôn đời sử sách ghi, những chữ ký cam kết của Giang Trạch Dân và Nguyễn Văn Linh, cũng phải đúng lúc vùng lên thực hiện những thỏa thuận đàm phán Thành Đô. Tiếp theo “Kỷ yếu” thúc giục Đỗ Mười đã hai lần liên tục gặp Thứ trưởng Ngoại giao Đinh Nho Liêm, hối thúc tăng cường sức mạnh cho ông Hun Sen buộc chấp nhận thỏa thuận giữa các bên, tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, quá trình giải quyết chính trị của Campuchia vẫn trì hoãn kéo dài thời gian, thực hiện “Kỷ yếu” không được như ý, dẫn đến một số tác động Bắc Kinh phiền muộn, Trung Quốc muốn Việt Nam sớm tiến hành phân định lại biên giới lãnh thổ và lãnh hải như mưu đồ đã định trước.

Hiệp ước biên giới đất liền Việt-Trung 1991

1 – Tiến hành phân định biên giới Trung-Việt “Kỷ yếu Thành Đô 1990”, như thế nào?
Tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt chiếu theo trát lệnh triều đình của Giang Trạch Dân, đến Bắc Kinh báo cáo tình hình giải quyết biên giới giữa hai nước. Đồng lúc, công bố bình thường hóa “Quan hệ song phương Việt-Trung”. Thỏa thuận tạm thời về việc xử lý các vấn đề biên giới. Còn gọi là “Hiệp định tạm thời”. Hai bên quyết định thực hiện phân định biên giới mới. Theo nội dung Hiệp định chung Trung Quốc và Việt Nam có chung đường biên giới đất liền dài 1300 km!
Trung Quốc đưa ra một mặc cả, giá được xem rất thỏa đáng, và công nhận Việt Nam phát triển quan hệ láng giềng tốt, đối mặt và giải quyết vấn đề biên giới tốt. Hai nhà lãnh đạo TQ-VN đồng hiểu nhau tránh những từ ngữ nhạy cảm “xâm lược vào lãnh thổ biên giới Việt Nam”.
Tháng 3 năm 1993, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, phụ trách Trung Quốc với các nước láng giềng Châu Á Tiền Kỳ Tham. Xúc tiến mối quan hệ song phương vào trọng điểm Đông Dương, cho phép Trung Quốc chiếu cố nhiều hơn vào đất nước Việt Nam. Trung Quốc dùng quan hệ song phương Việt Nam làm vùng đất nhạy cảm cho công cuộc bành trướng, đặc biệt mở biên giới tràn vào Việt Nam. Quá trình này gây ra khó khăn cho Việt Nam. Lần này Trung Cộng báo cáo thi hành công tác theo từng chi tiết trong “Kỷ yếu của hội nghị bí mật Thành Đô 1990”. Qui định lịch trình tiến hành kế hoạch cắm cột mốc biến giới Việt-Trung. Khởi đầu hoạt động của hiệp ước, Trung Cộng đã có những thành quả đáng kể và tiến hành những thỏa thuận đang xác định đất liền biên giới và Biển Đông.
Trước đó Nguyễn Văn Linh cho rằng lần này đồng thuận là một “bước ngoặt của lịch sử trong mối quan hệ song phương Trung-Việt”. Còn ông Giang Trạch Dân chơi chữ “kết thúc của quá khứ, tạo ra tương lai”. Người Cộng sản Việt Nam không thể nào đo lường được sự tài tình sử dụng “mỹ từ pháp” đẹp nhất để che khuất những âm mưu đang chờ thực hiện. Trung Quốc đưa ra đề nghị với “đảng bác”: Cung cấp phương tiện cho Việt Cộng vung tay đàn áp nhân dân và hướng dẫn dư luận đến mục đích “người dân không muốn biết” (nhân môn bất tưởng tri đạo) và làm mềm mại xã hội không còn ý chí đấu tranh, đẩy người dân Việt Nam đến suy nghĩ khác không phản đối những việc làm bất chính của người Cộng sản. Người dân Việt không có thời gian suy nghĩ, tìm hiểu hành động của chúng ta, nếu họ không phân biệt được “kết thúc của quá khứ, tạo ra tương lai”, chỉ cần 20 năm sao mọi việc đã theo ý “Bác” chúng ta đã có kết quả khả quan “đổi non dời biển và cả lịch sử của Việt Nam”. Khi đó người dân Việt Nam muốn đấu tranh lấy lại chủ quyền đã quá muộn màng. [1]
Chu Ân Lai đã từng giảng giải kinh cướp lân bang cho hậu duệ: “Đối phó với các vấn đề biên giới, cần nghiên cứu lịch sử và hiểu toàn bộ vấn đề của Việt Nam, phân biệt lịch sử và làm sai lịch sử của đối phương, sau đó tìm một giải pháp đối phó”. Tiền Kỳ Tham một trong những đệ tử của Chu cho rằng: Tôi đã đọc rất nhiều tài liệu cho vấn đề hiểu biết xử lý “êm thắm” quan hệ Việt Nam, chủ yếu liên quan đến ba (3) khía cạnh rất cụ thể của những vấn đề phân định lãnh thổ và lãnh hải.
– Đất liền lãnh thổ biên giới Trung-Việt Nam.
– Vịnh Bắc Bộ vùng đảo Bạch Long Vĩ.
– Biển Đông quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

2 – Trung Quốc tự thay đổi lịch sử và địa lý của Việt Nam
Đất biên giới Việt Nam kể từ mười lớp núi ở ngã ba của ba nước cũ (Trung Quốc, Việt Nam, Lào) từ phía Tây Bắc gió Đông Nam, Vân Nam, Quảng Tây và dòng sông Ka Long chảy vào Việt Nam có chiều dài 48,73 km, nối vào sông Bắc Luân 11,77 km. Từ đó chảy ra vịnh Bắc Bộ Việt Nam.
Đối với cách phân định biên giới này đã thông qua các điều ước riêng của Trung Quốc và Việt Nam (ngoài qui định quốc tế), sau đó được công nhận bởi những chính phủ kế tiếp. Trên cơ sở căn bản biên giới của Việt Nam đã quá rõ ràng. Thế nhưng Trung Quốc viện dẫn nhiều lý do để làm sai vị trí phân định đường biên giới và do đó liên tục tranh chấp một số điểm nóng trong khu vực. Trung Quốc thúc giục Việt Nam thực hiện những thỏa thuận qua tiêu chuẩn “Kỷ yếu”, và phân định lại Vịnh Bắc Bộ, thi hành đúng pháp luật hiện đại của biển? chủ quyền mở rộng ven biển Trung Quốc và Việt Nam ra các đại dương, quyền và lợi ích hàng hải phát sinh từ các yêu sách chồng lấn lên nhau của Ngoại giao.
Vịnh Bắc Bộ thiên nhiên nửa kín, nằm về phía Tây Bắc của Biển Đông, phía Đông Bắc và phía Tây của hai bên được bao quanh bởi lãnh thổ của Trung Quốc và Việt Nam, điểm rộng nhất của nó có 184 hải lý, điểm hẹp nhất là 112 hải lý. Trước những năm 1970, Trung Quốc và Việt Nam không có tranh chấp tại Vịnh Bắc Bộ. Mỗi bên tham gia vào vận chuyển, thủy sản và các hoạt động nghiên cứu khoa học biển, không bao giờ có một cuộc xung đột?

3 – “Kỷ yếu 1990” công nhận chủ quyền Biển Đông của Trung Quốc
Hồ Chí Minh đã ký ba lần liên tục thỏa thuận “Hiệp ước Vạn Lịch nhượng hải và Vịnh Bắc Bộ” của những năm 1957, năm 1961 và 1963. Liên quan đến khai thác thủy sản, tương ứng thẩm quyền 3-12 dặm lãnh hải của Việt Nam, cũng như các bên thực hiện quy định về hợp tác nghề cá. 3-12 hải lý cho vùng biển bên ngoài khoảng cách đường cơ sở lãnh hải giữa hai nước, ba “Hiệp ước” trên, ngư dân giữa hai nước tại khu vực được hành nghề đánh cá chung “Tự do ra biển”, tôn trọng sinh hoạt thói quen của ngư dân đã sống hai thế hệ, có thể liên hiệp tự do hoạt động khai thác biển, do đó tạo thành hai cộng đồng ngư dân ở phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ và ngư trường truyền thống quyền đánh bắt cá.
Nhưng đến năm 1970, luật pháp về biển của Trung Quốc phát triển hiện đại, quan trọng mở rộng chủ quyền quốc gia tại ven bờ biển của lãnh thổ ra đến lãnh hải, dần dần thiết lập một chế độ pháp lý của thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế. Theo đó, Trung Quốc và Việt Nam đã nêu lên chủ quyền của đất nước mình theo chiều dài ven Vịnh Bắc Bộ, vì quyền và lợi ích khai thác mỗi bên không nhận khiếu nại hàng hải của nước ngoài, tránh cho cả hai bên chồng chéo và xung đột để phù hợp cho vị trí của Trung Quốc tại Vịnh Bắc Bộ, hai bên nên tham khảo luật thực tiễn quốc tế, và được giải quyết thông qua đàm phán.
Quần đảo Nam Sa (Hoàng Sa) là lãnh hải của Trung Quốc từ thời cổ đại, một phần không thể thiếu? và những vùng biển lân cận có chủ quyền không thể chối cãi. Người Trung Quốc đầu tiên phát hiện ra quần đảo Nam Sa, sau khi chính phủ Trung Quốc đã thực hiện thẩm quyền đối với quần đảo Nam Sa và quần đảo Trường Sa được xem một phần lãnh thổ của Trung Quốc. Trong lịch sử, quần đảo Trường Sa đã từng bị Nhật Bản chiếm đóng. Vào cuối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, sau đó, chính phủ Trung Quốc phục hồi quần đảo Nam Sa. Do đó, đến những năm 1970, Trung Quốc không còn tranh chấp chủ quyền tại quần đảo Trường Sa, không còn nhắc đến sự tồn tại trên trường quốc tế. Năm 1983, trên cơ sở của chính phủ Trung Quốc việc đặt lại tên cho 189 hòn đảo, bãi cát và rạn nhóm san hô, mà trước đây cá nhân đã đổi tên đảo, một lần nữa tuyên bố rằng quần đảo Trường Sa chủ quyền của Trung Quốc.
Vế vùng đảo Trường Sa theo phân định quốc tế giữa 3 độ 37 phút vĩ độ Bắc và 12 độ 40 phút kinh độ Đông 108 độ 10 phút đến 119 độ, là nhóm lớn nhất của những rạn san hô ở Biển Đông, bao gồm khoảng hơn 230 đảo, đá ngầm, bãi cát ngầm, bãi cát thành phần, bao gồm 25 hòn đảo, 128 đảo nhỏ ẩn dưới nước theo dạng đá, và 77 đảo nhỏ trên mặt nước ẩn trong cát biển.

4 – Đàm phán biên giới Trung-Việt
Từ năm 1975, Việt Nam muốn đặt vấn đề chủ quyền lãnh hải trên Biển Đông, chủ yếu hai vùng đảo Nam Sa (Nansha) và Hoàng Sa (Xisha Islands).
Đối với vấn đề này, vị trí của chính phủ Trung Quốc đã rõ ràng, rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Nam Sa, chủ quyền không thể tranh cãi không thể thương lượng. Đồng thời, chúng ta có thể khám phá những ý tưởng để đạt được “gác tranh chấp và tìm kiếm phát triển chung”, để tạo điều kiện và cùng nhau bảo vệ hòa bình, ổn định tại vùng biển Nam Trung Quốc và không cần thiết tranh chấp Biển Đông.
Bộ Trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham phát biểu: Xu hướng cơ bản của các vấn đề biên giới Trung-Việt, không cần thiết Việt Nam đặt lại các vấn đề này trên bàn đàm phán Châu Á.
Những cuộc đàm phán giải quyết lãnh thổ và lãnh hải
Năm 1970, Việt Nam đã hai lần tổ chức các cuộc đàm phán biên giới, chủ yếu thảo luận về vấn đề biên giới đất liền và phân định lãnh hải phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ, vấn đề này không liên quan đến quần đảo Trường Sa?
Trung Quốc cho rằng, vào thời điểm đó, vì nhiều lý do, cho nên đàm phán theo từng phần giữa hai quốc gia, chưa ý định đặt ra đàm phán toàn diện, trên thực tế khi tranh luận, Việt Nam nói lý do của bạn, Trung Quốc nói sự thật của tôi. Thời đại đó, hai bên giải quyết thông qua thương lượng đất liền biên giới và Vịnh Bắc Bộ, bởi thời gian đó chưa phải đúng lúc đưa ra điều kiện phân định biên giới, vì vậy Việt Nam-Trung Quốc đã có hai cuộc đàm phán không đưa ra kết quả.
Kể từ đó, Trung Quốc và Việt Nam tranh chấp đất liền vùng biên giới và Vịnh Bắc Bộ, đã có các cuộc tranh chấp và tranh cãi quần đảo Trường Sa, kết quả đã có 4 lần chiến tranh 1974, 1979, 1984, 1988, đưa đến tổng thể suy giảm quan hệ song phương. Vấn đề biên giới, Trung Quốc và Việt Nam vì vậy đã có những bài học đẫm máu trong chiến tranh. Trong thực tế, việc thực hiện bình thường quan hệ Trung-Việt, còn trở ngại suy nghĩ thù địch giữ cán bộ và hai cộng đồng Việt-Hoa, nói chung không vì điều đó làm biến mất hoàn toàn quan hệ song phương, tranh chấp phát sinh giữa hai vùng biên giới, Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông rất khó duy trì bình tĩnh và ổn định.
Trung Quốc đã nắm được then chốt của từng đảng viên Cộng sản Việt Nam; như trước năm 1962, Hồ Chí Minh đã từng dâng cho Trung Quốc 459,561 km biên giới và vùng đảo Bạch Long Vĩ để đổi lấy vũ khí, ngày nay Nguyễn Văn Linh nối gót theo lời “Bác” để “đảng tồn tại”. Việt Nam lại thêm một lẫn nữa mất máu phần đất liền biên giới từ Việt Bắc đến Đông Bắc, Vịnh Bắc Bộ và những mâu thuẫn Biển Đông vẫn duy trì sẽ còn hứa hẹn xung đột, chắc chắn sẽ tác động tiêu cực đến quan hệ song phương. Trung Quốc muốn phục hồi hoàn toàn quan hệ giữa hai nước trong khía cạnh Việt Nam tự trị. Nhân dịp bình thường hóa quan hệ song phương các nhà lãnh đạo Việt Nam cần phải thực hiện sự đồng thuận, thông qua đàm phán để giải quyết những vấn đề biên giới, và đưa vào chương trình nghị sự ngoại giao.
Tháng 12 năm 1992 Thủ tướng Lý Bằng đã đến thăm Việt Nam, hội đàm với các nhà lãnh đạo Việt Nam, hai bên giải quyết vấn đề biên giới đã trao đổi sâu sắc quan điểm và đạt đến một sự đồng thuận trong các cuộc đàm phán song phương, nhất trí tiếp tục tổ chức các cuộc đàm phán cấp chính phủ hay cấp chuyên viên Ngoại giao càng sớm càng tốt; cho phù hợp với luật pháp quốc tế, chấp nhận một nguyên tắc cơ bản theo hướng dẫn “Kỷ yếu” để giải quyết vấn đề biên giới là tranh chấp lãnh thổ cho phù hợp, thúc đẩy tiến trình đàm phán với những nguyên tắc chung, phù hợp cho những giải quyết hàng hải và vấn đề tranh chấp đất liền lãnh thổ. Ở phía trước đang thương thuyết hòa giải, hai bên không được hành động phức tạp hay tranh chấp thực hiện cắm mốc biên giới v.v…
Cho đến nay, Trung Quốc và Việt Nam đã thành lập kịp thời cơ chế hoạt động song phương đàm phán biên giới theo cấp Chính phủ đã đạt được nhiều đồng thuận. Trên thực tế, chuyến thăm của Lý bằng đến Việt Nam vào tháng 10 năm 1992, để thôi thúc những chuyên gia Trung Quốc và Việt Nam đến Bắc Kinh để đàm phán, trực tiếp chương trình nghị sự biên giới trong vòng đầu, sau đó hai nhà lãnh đạo Việt Nam-Trung Quốc ký vào văn kiện thỏa thuận hiệp ước biên giới.
Vào tháng 2 năm 1993, tại Hà Nội hai bên đã tổ chức một vòng đàm phán mới về biên giới. Hai bên chuyên gia điều khiển chương trình thảo luận về song phương đất liền biên giới phía Bắc và vấn đề phân định biển Vịnh Bắc Bộ, cùng đề nghị việc duy trì các khu vực biên giới và Vịnh Bắc Bộ nhằm ổn định trong khu vực, thông qua liên lạc của hai bên có một số hiểu biết về giá trị của nhau. Theo hai nhà lãnh đạo cấp chính phủ cho biết: Còn tùy thuộc thời điểm thích hợp tổ chức đàm phán “thống nhất” biên giới, cùng kết hợp tiếp xúc danh sách chuyên gia điều khiển từng vòng họp.
Bộ Trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham phát biểu và nhấn mạnh: Tôi được bổ nhiệm làm người đứng đầu thành lập Bộ Ngoại giao của chính phủ Trung Quốc, và các cơ quan khác có liên quan đến chính phủ. Tôi đã tổ chức một số cơ quan cấp tỉnh, khu tự trị, và Bộ Ngoại giao, mời các chuyên gia kinh nghiệm về quan hệ song phương Trung-Việt đánh giá lại khả năng và nghiên cứu mọi giải pháp, thương lượng các vấn đề biên giới. Trên cơ sở phân tích sâu sắc của Trung Quốc sau khi được phê duyệt.

5 – Thiết lập các cơ chế theo nguyên tắc
Tiền Kỳ Tham bước vào công việc chuẩn bị cho cuộc đàm phán. Trên cơ sở đã nghiên cứu đầy đủ về vị trí trước đây của Việt Nam. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc và Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã soạn thảo nghị sự giải quyết đất liền ranh giới và sự phân chia phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ theo nguyên tắc cơ bản của vấn đề giao thức, gọi tắt là “nguyên tắc cơ bản Hiệp định”. Dự thảo nội dung, Trung Quốc tham gia vào các cơ chế đàm phán, cũng như thúc đẩy chính trị, ngoại giao và các nguyên tắc trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Với dự thảo này, Tiền Kỳ Tham hy vọng sẽ chuyển tải một thông điệp quan trọng đến phía Việt Nam, thái độ của Trung Quốc đối với các cuộc đàm phán là tích cực, thiết thực và mang tính xây dựng, hai bên có thể đặt một nền tảng tốt cho việc giải quyết cuối cùng của vụ tranh chấp. Để thúc đẩy thỏa thuận ngay khi Tiền Kỳ Tham đưa ra dự thảo “Hiệp định nguyên tắc cơ bản”. Việt Nam phải thực hiện theo giao thức trước thời hạn, để cung cấp cho các bên có đủ thời gian tiến hành nghiên cứu và thông tin phản hồi.
Vòng đầu tiên, các cấp cao chính phủ tổ chức đàm phán biên giới trước khi chính thức, Việt Nam và Trung Quốc thực hiện các dự thảo gồm có phản ứng tích cực. Ngày 22 tháng 7 năm 1993, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Tiền Kỳ Tham gặp Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm tại Singapore. Tiền Kỳ Tham bày tỏ hy vọng rằng các nỗ lực chung của hai bên để đạt tiến bộ trong các cuộc đàm phán cấp chính phủ, để đạt được sự đồng thuận về một số vấn đề, như là kết quả ban đầu của cuộc đàm phán, hai bên có thể ký một văn bản nguyên tắc về việc giải quyết vấn đề biên giới, được gọi là “Các nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận.
1
Tiền Kỳ Tham Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, phụ trách Trung Quốc với các nước láng giềng Châu Á. Nguyễn Mạnh Cầm Phó Thủ tướng Việt Nam. Vũ Khoan, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam.

6 – Nguyễn Mạnh Cầm chưa thấy chuyển động cơ bản mất nước
Ngày 24 đến 29 tháng 8 năm 1993, trong vòng đầu tiên đàm phán cấp chính phủ về biên giới được tổ chức tại Bắc Kinh. Tiền Kỳ Tham đứng đầu phái đoàn Trung Quốc, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Vũ Khoan là người đứng đầu phái đoàn chính phủ Việt Nam.
Trong 5 ngày đàm phán, hai bên đã tổ chức ba phiên họp chung toàn diện và hai cuộc họp riêng biệt, các chuyên gia của cả hai bên báo cáo, trình bày tham luận, hội thảo trong cuộc họp.
Tiền Kỳ Tham chủ trì phiên họp chung toàn diện, đầu tiên đề nghị phía Việt Nam đưa ra những cụ thể và cho phù hợp sự thay đổi tình hình quốc tế. Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được bình thường hóa quan hệ theo tình hình mới, hai bên đã tổ chức cấp chính phủ đàm phán biên giới được đánh giá quan trọng nhất.
Sau đó, Tiền Kỳ Tham giải thích chi tiết toàn diện tầm nhìn của Trung Quốc để các cuộc đàm phán dễ chấp nhận. Đôi lúc Tiền Kỳ Tham thẳng thắn đưa ra các giải pháp của vấn đề biên giới dựa trên nguyên tắc dễ dàng thỏa hiệp. Hai bên tập trung vào giải quyết theo Pháp luật đã ấn định trong “Kỷ yếu” ? và công bố cơ bản biên giới đất liền theo luật pháp quốc tế, phù hợp với các nguyên tắc công bằng phân định Vịnh Bắc Bộ. Tiền Kỳ Tham thực hiện các khuyến nghị cụ thể, bao gồm nguyên tắc và thủ tục cơ bản để sau đó lập lại đàm phán tương tự. Và ông đã kết nối nhiều sự kiện, gộp vào một qui tắc ứng xử quá ngoạn mục làm cho người ta liên tưởng đến biên giới Việt Nam đã xử lý từ lâu.
Về vấn đề quần đảo Trường Sa, Tiền Kỳ Tham đã nói trong bài phát biểu của ông, đưa ra một công thức có quá nhiều phức tạp, cuối cùng đúc kết chỉ là một yếu tố Trung Quốc muốn hai bên thảo luận không tranh chấp ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) tuy nhiên phía Việt Nam phải “gác bỏ tranh chấp và tìm kiếm phát triển chung”, cùng nhau bảo vệ hòa bình, an ninh và ổn định ở Biển Đông.
Ngoài ra, Tiền Kỳ Tham phát biểu một số ý kiến, giảm bớt tranh chấp của các bên trong đó nỗ lực chung để ổn định Biển Đông, tạm thời tránh không thể giải quyết các quần đảo Trường Sa đang tranh chấp có ảnh hưởng đến sự phát triển của quan hệ song phương.
Tiền Kỳ Tham có ý khuyên Vũ Khoan, nên đóng vai tuồng phản ứng tích cực và sau đó hướng phía Việt Nam đồng ý ngồi vào bàn tròn của Trung Quốc, chấp thuận dự thảo “nguyên tắc cơ bản thỏa thuận”, về đất liền biên giới và Vịnh Bắc Bộ phân định đúng nội dung “Kỷ yếu” đã định, hai bên giải quyết qua cơ sở của pháp luật đất liền với mức độ cao của sự đồng thuận biên giới. Vũ Khoan cho rằng, phía Việt Nam đồng ý làm mọi việc với Trung Quốc để đàm phán phân chia Vịnh Bắc Bộ, mà tự nó phản ánh mức độ cao nhất có tính linh hoạt của Việt Nam.
Bắc Kinh giới thiệu Vũ Khoan, như là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, khuôn mặt trí thức hàng đầu của Việt Nam, có cá tính tốt, lịch sự, cách cư xử tinh tế. Thuở trẻ học tại Quế Lâm, Quảng Tây Trung Quốc (khóa 45 gián điệp Quảng Tây), hiểu biết nhiều về lịch sử Trung Quốc. Sau năm 1955, ông vào Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông đã có nhiều chuyến thăm Liên Xô với các nhà lãnh đạo Việt Nam, kinh nghiệm ngoại giao khá phong phú.
Vũ Khoan tính kín đáo thường không tiết lộ, nhưng ở vòng đàm phán đầu tiên, ông phát biếu sôi nổi về biên giới phía Bắc và Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, ông cho rằng nó có tầm quan trọng quốc phòng. Ông nói tiếp: Việt Nam và Vịnh Bắc Bộ giống như mẹ và đứa con trai, nay tại Vịnh Bắc Bộ dân số tăng lên 150 ngàn người, tương đương một trong 10 tỉnh ở Việt Nam. Việt Nam khó chấp nhận nguyên tắc phân chia theo cổ phần tại Bắc Việt và Vịnh Bắc Bộ nếu không phù hợp của phía Trung Quốc.
Tiếp theo, Vũ Khoan đề nghị “Quần đảo Trường Sa” và “vấn đề đảo cát”, đòi hỏi cả hai bên viết văn bản của dự thảo “các nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận”, “Trường Sa- Hoàng Sa” và “hòn đảo cát” phổ biến qua truyền thông. Vũ Khoan nói tỏ vẻ chống lại ý của Trung Quốc.
Tiền Kỳ Tham dựa trên sự đồng thuận, tóm tắt thảo luận đất liền biên giới, ông khẳng định và giải thích chi tiết phía Bắc Vịnh Bắc Bộ của Trung Quốc để thuyết phục mọi người chấp nhận hoàn toàn.
Lúc này Tiền Kỳ Tham cũng hơi vui mừng để nói rằng Vịnh Bắc Bộ được chia sẻ bởi Trung Quốc và Việt Nam, nó rất quan trọng không chỉ đối với Việt Nam, cũng là điều cần thiết đối với Trung Quốc, đó là khu tự trị tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam 450.000 km vuông đất bao quanh, nâng cao các tỉnh 110 triệu người, và nó cũng là một vùng quan trọng biển Quảng Tây, Hải Nam. Vịnh Bắc Bộ không chỉ là địa lý chặt chẽ với Việt Nam, nó là phần mở rộng của cảnh quan Trung Quốc. Vì vậy, theo nguyên tắc phân chia cổ phần của Vịnh Bắc Bộ cho nhân dân hai nước.
Sau đó, Tiền Kỳ Tham trình bày quan điểm của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa cho nó rõ ràng trong đàm phán về Biển Đông, riêng biên giới Việt Nam không liên quan đến vấn đề quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa, lập trường của Trung Quốc về vấn đề chủ quyền lãnh thổ không thể thay đổi, điều này là thực tế.
Tiền Kỳ Tham nói rằng, sự khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam tại quần đảo Trường Sa là vấn đề Việt Nam muốn hoàn toàn chủ quyền, chống lại chủ quyền của Trung Quốc. Về vấn đề quần đảo Trường Sa, cho thấy Trung Quốc đã hạn chế tranh chấp, tuy nhiên, Trung Quốc sẽ không đồng ý văn bản dự thảo Nam Sa và “các nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận”.

Cộng sản mật nghị âm mưu bán nước
Trung Quốc đã đơn phương trả giá với Việt Cộng, định lại lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam, tất nhiên Trung Cộng và Việt Cộng phủ nhận (Hòa ước Thiên Tân 1885 Pháp-Thanh).
Ít nhất trong lúc này công pháp quốc tế đã công nhận biên giới Việt Nam trên cơ sở giá trị của (Hòa ước Thiên Tân 1885 Pháp-Thanh), biên giới Việt Nam đã có chiều dài 1850,637 km. Giữa hai chính phủ Pháp-Thanh đã thỏa thuận ký kết Hòa ước ngày 9 tháng 6 năm 1885 và công bố biên giới hiện thời của Pháp-Thanh nhằm tranh giành ảnh hưởng ở Việt Nam. Hòa ước này chấm dứt chiến tranh Pháp-Thanh, buộc quân Thanh phải rút khỏi Bắc Kỳ, và công nhận nền bảo hộ của Pháp tại Việt Nam.
Công ước Pháp-Thanh 1887, còn có tên là “Công ước Constans 1887”, được thực hiện giữa Pháp và nhà Thanh nhằm thi hành Điều khoản 3 của Hòa ước Thiên Tân 1885, hai bên đã ký năm 1885. Nội dung của công ước này nhằm phân chia lại đường biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc. Trong quá trình hai bên tiến hành phân chia đường biên giới; đô đốc Pháp Rieunier đã nhân nhượng cắt một số đất đai ở Hà Giang và Quảng Yên của Việt Nam giao cho Lý Hồng Chương đại diện nhà Thanh.
1
Vào năm 1888, trên bản đồ Vịnh Bắc Bộ có vùng đảo Bạch Long Vĩ thuộc chủ quyền lãnh hải của Việt Nam, Pháp chỉ cắt Mũi Bạch Long cho nhà Thanh. (Cap Paklung có dấu chấm đỏ).

Hòa ước Pháp-Thanh 1895 hay còn có tên gọi “Công ước Gérard 1895”, nội dung của bản Hòa ước được ký giữa Pháp và Trung Hoa năm 1895 nhằm phân chia lại đường biên giới giữa Bắc Kỳ và Vân Nam, nhằm bổ túc cho Công ước Pháp-Thanh 1887. Việc ký kết này được thực hiện vào ngày 20 tháng 06 năm 1895 tại Bắc Kinh bởi đại diện của Pháp ở Trung Hoa là Đại sứ Gérard và đại diện Trung Hoa là Khánh Thân Vương (Dịch Khuông), Đại thần Tổng lý nha môn nhà Thanh.
Bản đồ địa giới Bắc Kỳ năm 1879, tức tám năm trước Hòa ước Pháp-Thanh lấy sông Dương Hà (sông An Nam Giang) làm biên giới giữa tỉnh Quảng Yên và tỉnh Quảng Đông. Sau năm 1887, biên giới chuyển xuống phía nam, lấy cửa sông Bắc Luân ở Hải Ninh (Móng Cái) làm địa giới, dó đó huyện Đông Hưng của Việt Nam không cùng ở với đất Mẹ.
1
Sau khi phân định ranh giới giữa Trung Quốc và Pháp có khoản 1850,637 km phân đoạn dài từ Quảng Tây đến núi cao Lĩnh Thạch, và phần đất Vân Nam đã được thành lập điểm cắm cột mốc đánh dấu ranh giới, chủ yếu lấy sườn núi đá vôi Ni và trên 34 sông, rạch, suối thiên nhiên làm ranh phân định biên giới. Pháp đã thiết lập một ranh giới cắm 240 cột mốc và 24 huyện dọc theo đường đánh dấu phân định biên giới Trung-Việt.

Biên giới đã định luật thiên nhiên sông, suối, rạch, theo cơ sở “tục truyền thống”. Phân định “ranh giới nước” có 383,914 km, giữa hai quốc gia Trung Quốc-Việt Nam.
– Tỉnh Điện Biên, có 3 con sông: Nậm Náp chiều dài 13,212 km, Sông Đà chiều dài 3,601 km và Nậm Là chiều dài 14,97 km.
– Tỉnh Lai Châu, có 7 con sông, Sông Nậm Lè 10, 01 km, suối Nậm Na 0,138 km, sông Nậm Cúm 14,403 km, suối Phin Ho 4,074 km, sông Lũng Pô 39,65 km, Sông Hồng 29,65 km và sông Nậm Thi 9,184 km.
– Tỉnh Lào Cai, có 6 sông ngòi, sông Bát Kết 14,10 km, Sông Xanh 10,94 km, Sông Chảy 9,075 km, suối Hồ Phả 0,633 km, Suối Đỏ 7,991 km và Nậm Cư 6,062 km.
– Tỉnh Hà Giang có 3 sông-suối, suối Nà La, 2,11 km, sông Nho Quê 13,601 km và suối Cửa Sóc Giang 0,239 km.
– Tỉnh Cao Bằng có 7 sông-suối, sông Quây Sơn 14,99 km, Suối Bản Kiềng 0,25 km, sông Bắc Vọng 18,03, Suối Mo 0,49 km, Suối Thâm Coỏng 0,86, Suối Bản Có 0,834 km và Suối Khuổi Lạn 1,451 km.
– Tỉnh Lạng Sơn có 7 sông-suối, sông Kỳ Cùng 3,752 km, suối Tài Văn 2,459 km, sông Nà Sa 5,053 km, sông Đồng Mô 7,023 km, sông Bí Lao 7,638 km, sông Ka Long 48,73 km và sông Bắc Luôn 11,77 km, (33 con sông-suối), sông Dương Hà (An Nam Giang) 74, 524 km.
Chiếu theo biên giới giữa lịch sử hình thành thời nhà Thanh Trung Quốc và Chính phủ Pháp tại Việt Nam cuối thế kỷ 19. Pháp đã thông qua “vòng tròn thảo luận biên giới Việt Nam” và tiếp tục thảo luận “ranh giới theo diễn giải” đã phân định và phân giới cắm cột mốc trên cơ sở 15 tập tư liệu gọi là mô tả “Hòa ước Thiên Tân 1885”. Trong qui định đó, chủ yếu đường biên giới thiên nhiên từ núi cao Lĩnh Thạch, và lưu vực sông ngòi, suối làm phân giới. Trong Hiệp ước Pháp-Thanh (Thiên Tân 1885)
Thế nhưng, trước năm 1940, theo Hòa ước Pháp-Thanh, Việt Nam có chiều dài cùng biên giới với Trung Quốc là 1850,637 km. Từ khi Hồ Chí Minh xuất hiện 1945-1969. Việt Nam liên tục mất 149,566 km lãnh thổ và lãnh hải, chưa kể Phạm Văn Đồng và Chu Ân Lai đã ký 3 lần Hiệp ước “Vạn Lịch White Dragon Tail Island” (Loan lí đích bạch long vĩ đảo) dâng hiến cho Trung Quốc.[2]
Sau thời “Bác”, Việt Nam còn lại 1701.071 km chiều dài đường biên giới chung với Trung Quốc, Việt Nam bị thu hẹp trên đất liền chỉ còn 1465,650 km, và phân định biên giới theo thiên nhiên sông, rạch, suối có 385,914km. Phần thứ hai trong Hòa ước 1885: Đường biên giới ven Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam có chiều dài 70.623 km, giáp với Quảng Tây Trung Quốc.
Thế nhưng tại “mật nghị Thành Đô” phía Trung Quốc cho rằng Việt Nam chỉ có 1300 km chiều dài theo biên giới tuyến thống.
1
Trung Cộng-Việt Cộng chung đường cùng cướp lịch sử và địa lý Việt Nam. Đường biên giới đất liền màu xanh dài 1850,637 km đã mất từ năm 1945 đến 1965, và mất 70.623 km đường ven Vịnh Bắc Bộ. Đường biên giới đất liền hiện tại màu vàng dài 1300 km. Trung Quốc hứa hẹn tiếp tục lấy tất chia phần. Nguồn: Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham.

Trong “Hiệp định nguyên tắc cơ bản 1993” giữa Trung Cộng-Việt Cộng đã cưỡng cướp của Việt Nam trên 480.014 km biên giới đất liền, 383,714 km đường biên giới sông, suối và chuẩn bị tranh chấp 227 km² đất khai thác. Việt Cộng tổ chức một chuyến cướp lớn nhất lịch sử Việt Nam, chưa từng có là tự ý phủ nhận đường biên giới đất liền lãnh thổ của Hiệp ước Pháp-Thanh (Thiên Tân 1885). Như vậy trước sau cuộc chiến và đàm phán với Trung Quốc đang ở giai đoạn đầu mất nước theo chiến thuật Việt Nam từ từ teo lại, chưa kể sau khi hết chiến tranh năm 1990, Việt Nam đã mất 968 km² đất sinh cư tại biên giới.
Trong hội nghị của BCT/TW đảng Cộng sản VN với Trung Cộng chưa có súng tiếng đã để mất từng ấy Km tại biên giới. Chưa kể trong hai cuộc chiến ngày 17/2/1979 tháng 4/1984, và vùng đảo Gạc Ma 1988. Việt Nam đã để mất đất liền tài nguyên và rừng núi bạt ngàn. Ngày nay Việt Nam đã chính thức mất thêm chiều dài đường biên giới 863,728 km.
Cho thấy Việt Nam và Trung Quốc đã phân định lại địa lý biên giới của hai Quốc gia theo đơn giản không thông qua đàm phán Ngoại giao hay Công Pháp Quốc tế. Đồng nghĩa Việt Nam tự âm thầm chết dưới tay Trung Quốc, không thể tưởng tượng cả dân tộc Việt Nam “không thấy không biết” hành động của Việt Cộng sau 74 cầm quyền độc trị.
Nguyễn Văn Linh và Giang Trạch Dân trước khi ký chung vào bản “Kỷ yếu 1990” đã thỏa thuận trước công thức bán tháo tài sản quốc gia Việt Nam, đàm phán chỉ là cách chơi chính trị của người Cộng sản. Chứng tỏ Cộng sản đã quá xem thường dân tộc Việt Nam. 74 năm độc trị chưa bao giờ Cộng sản nghiêm chỉnh, quản trị đất nước vô nguyên tắc, sĩ nhục cho dân tộc Việt Nam nhận phải “Kỷ yếu đàm phán ngày 3-4/9/1990”. Tiếp theo “Hiệp ước biên giới đất liền Việt-Trung vào ngày 30 tháng 12 năm 1999”. Xử lý quá đáng, họ hành động theo lối giày đinh của kẻ chiến thắng đạp lên xác dân tộc Việt Nam.
Cho đến nay đã gần 1/4 thế kỷ 21, Việt Nam vẫn còn ngẩn ngơ trước sự tình đất nước quá bi đát thế này? Hỡi loài “Câm như miệng hến”, hãy đối thoại trước nhân dân về Hội nghị bí mật Thành Đô 1990 để tìm lối thoát nghèo hèn, bằng không bỏ hến vào nồi luộc, luật sống thiên nhiên đã bày ra sinh tồn như thế.
Huỳnh Tâm


Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 4)

Huỳnh Tâm (Danlambao) - Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, Nguyễn Văn Linh tuyên bố "3 quyết tâm" khẳng định trung thành với "Bác" đảng Trung Cộng:
- Chúng tôi quyết tâm sửa chữa những sai lầm về chính sách trong quá khứ và không bao giờ quên ơn đảng BCT/TW Trung Cộng. "Ngã môn hữu quyết tâm giải quyết quá khứ chánh sách đích thất ngộ hòa vĩnh viễn bất hội vong kí cảm tạ song phương BCT/ Trung quốc trung bộ".
- Chúng tôi quyết tâm khôi phục lại chính sách Trung Cộng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm xưa đã quan hệ hữu nghị truyền thống giữa hai đảng và hai nước. "Ngã môn quyết tâm khôi phục hồ chí minh chủ tịch đích trung quốc quốc gia chánh sách, tại quá khứ đích nhất niên lí nhất trực thị lưỡng đảng, lưỡng quốc chi gian đích truyền thống hữu hảo quan hệ".
- Việt Nam quyết tâm dựa vào quan hệ tốt đẹp với Trung Cộng là điểm khởi đầu cơ bản của thời kỳ này, xem Hoa Kỳ là kẻ thù, đối đầu trực tiếp với Trung Cộng Quốc. "cơ vu dữ trung quốc quốc gia trọng điểm cơ sở lương hảo quan hệ việt xác định đích xuất phát điểm thị giá nhất thì kì, khán đáo mĩ quốc thị vi địch nhân, dữ trung quốc trực tiếp đối kháng".

"Kỷ yếu" ấn định đàm phán biên giới Trung-Việt
Sau khi Bắc Kính lặp đi lặp lại, phải tiến hành nhanh thỏa thuận về dự thảo văn bản "Thỏa thuận nguyên tắc cơ bản về việc giải quyết vấn đề biên giới của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam". (Quan vu giải quyết trung hoa nhân dân cộng hòa quốc hòa Việt Nam xã hội chủ nghĩa cộng hòa quốc biên giới lĩnh thổ vấn đề đích cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị) để rồi còn ký kết những bản "tóm tắt" đàm phán khác. [1]
Ngày 18 tháng 10 năm 1993, Trưởng phái đoàn chính phủ Trung Quốc Tiền Kỳ Tham đã thực hiện một chuyến đi đặc biệt đến Hà Nội, với người đứng đầu phái đoàn chính phủ Việt Nam Vũ Khoan, chuẩn bị định ngày ký kết "Thỏa thuận nguyên tắc cơ bản về việc giải quyết vấn đề biên giới nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam".
Trong "Thỏa thuận các nguyên tắc cơ bản" (cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị) hai bên khẳng định trên cơ sở "chung sống tồn tại" (hòa bình cộng xử), thông qua tham vấn giữa hai nước, bao gồm Biển Đông và biên giới đất liền, cả hai đều thực tế thiết lập chủ quyền biên giới mới của hai quốc gia Trung-Việt. "Trọng tâm hiện hành về giải quyết vấn đề biên giới đất liền và Vịnh Bắc Bộ. Đồng thời, tiếp tục đàm phán về các vấn đề hàng hải để đạt được một giải pháp cơ bản và lâu dài", (mục tiền tập trung giải quyết lục địa biên giới hòa bắc bộ loan vấn đề, dữ thử đồng thì, kế tục tựu hải thượng đích vấn đề tiến hành đàm phán, dĩ tiện thủ đắc nhất hạng cơ bổn hòa trường cửu đích giải quyết bạn pháp). Về vấn đề biên giới đất liền cần có "các nguyên tắc cơ bản" (cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị) còn quy định rằng "Thỏa thuận cả hai bên đồng ý trên cơ sở một góc cạnh cung về Hòa ước Pháp-Thanh ngày 26 tháng 6 năm 1887", tiếp tục thảo luận Hòa ước Pháp-Thanh ngày 20 tháng 6 năm 1895". Sau đó thảo luận vòng tròn chương trình cô đọng hơn (song phương đồng ý dĩ trung pháp 1887 niên 6 nguyệt 26 nhật thiêm đính đích "tục nghị giới vụ chuyên điều"). Hòa ước ngày 20 tháng 6 năm 1895 (tục nghị giới vụ chuyên điều phụ chương). Nếu công nhận Hòa ước Pháp-Thanh hay phủ nhận cũng nhắm vào mục đích phát triển cho phù hợp hiện tình chủ quyền và phân định biên giới theo quy định "Kỷ yếu 1990", nó như một tài liệu xây dựng đàm phán chủ quyền của hai quốc gia. Những bản đồ biên giới đất liền được vẽ theo quy định của (pháp luật?) cho phù hợp những điểm đánh dấu ranh giới, như là cơ sở của tất cả các đường biên giới đã được phê duyệt đối với Trung Quốc-Việt Nam", và giải quyết tranh chấp những vấn đề khu vực. Ân định cuối cùng hai bên ký hiệp ước biên giới. ("1990 niên luận văn tập" tha thị giá dạng nhất cá kết cấu tài liệu, biên giới địa đồ tương án chiếu giới bi đích pháp luật chế định, nhân vi sở hữu đích biên giới đô bị phê chuẩn vi y cư Trung quốc - Việt Nam). [2]
Hai bên lấy quyết định rằng: "Hai bên nhất trí thi hành pháp luật quốc tế cho phù hợp với luật biển thông lệ của quốc tế, thông qua các cuộc đàm phán phân chia Vịnh Bắc Bộ. "Để kết thúc, cả hai bên cần thực hiện những nguyên tắc công bằng và xem xét tất cả các trường hợp có liên quan Vịnh Bắc Bộ, bảo đảm giải pháp công bằng". [3]
Hai bên cũng đồng ý thành lập Nhóm công tác chung trên thực địa biên giới đất liền, theo quy định thực tế phân biệt lập hồ sơ, bản đồ, khảo sát thực địa, so sánh bản đồ với thực địa v.v... và Nhóm chuyên viên đàm phán, sau khi hai Nhóm thực hiện thành công một đoạn công tác, trình lên đoàn đại biểu Chính phủ xem xét và hướng dẫn, mọi phân chia do hai Nhóm làm việc chung từ biên giới đất liền đến Vịnh Bắc Bộ, luôn luôn thảo luận những điểm tranh chấp giữa hai nước để giải quyết vấn đề, cần thiết việc soạn thảo hiệp ước biên giới và các thỏa thuận phân chia Vịnh Bắc Bộ, lập hồ sơ đầy đủ sau khi ký thay mặt Chính phủ. "Những nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận", (cơ bổn nguyên tắc hiệp nghị). Đối với việc giải quyết cuối cùng của biên giới giữa hai nước phải đặt nền tảng pháp lý vững chắc.


Ngày 07 tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân (江泽民), Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng (李鹏) và Tổng Bí thư Đỗ Mười (杜梅), Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng của Việt Nam Võ Văn Kiệt (在北京) tham dự buổi lễ giao dịch "điếu ngư thái quốc tân quán" (Diaoyutai State Guesthouse) tại Bắc Kinh Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam đã ký kết "Hiệp định biên giới tạm thời". Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Tiền Kỳ Tham hội đàm với Vũ Khoan (武宽) để thảo luận về các cuộc đàm phán biên giới và các vấn đề quan hệ song phương. Ông ta cũng đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm (阮孟琴). Đạt được những đồng thuận quan trọng trong đàm phán giữa hai Chính phủ rất cụ thể:
- Thứ nhất, đàm phán giải quyết biên giới đất liền, Vịnh Bắc Bộ và vấn đề phân giới cắm mốc. Trong tinh thần khó khăn lúc đầu đến hôm nay Việt Nam cho trôi qua, quá dễ dàng chấp nhận mọi chủ động đề nghị từ phía Trung Cộng và xem thường chủ quyền quốc gia.
- Thứ hai, trong quá trình giải quyết, Việt Nam thiếu năng động không có dấu hiệu nào nỗ lực vì chủ quyền, trong khi đó phía Trung Cộng cố gắng duy trì bình tĩnh, tránh tối đa một số điều khó chịu bởi không lấy được trọn vẹn ý theo bản đồ biên giới đã định, Trung Cộng chủ động ngoại giao mềm (hành sử theo luật giang hồ thay cho súng đạn, mua chuộc trao đổi quyền lợi sai khiến thành phần có trách nhiệm đàm phán) tránh được mọi tranh chấp biên giới đất liền lẫn Biển Đông.


Ngày 30 tháng 11 năm 1992, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng chính thức thăm thiện chí Việt Nam. Đây là việc bất bình thường quan hệ song phương, các nhà lãnh đạo Trung Quốc lần đầu tiên đến thăm Việt Nam sau khi chiến tranh biên giới 17-2-1979 và 1984. Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng tổ chức các cuộc đàm phán cấp Chính phủ. Lý Bằng lấy quyết định thông cáo chung, Võ Văn Kiệt thực hiện: Nay chính thức hai Chính phủ Trung Quốc-Việt Nam dựa trên cơ sở "Năm nguyên tắc" (hòa bình, thân thiện, ổn định, công bằng và hợp lý trật tự quốc tế mới).[4]

Hai bên đã quyết tâm và nhất trí bắt đầu tiến hành đàm phán càng sớm càng tốt theo quy định của Trung Quốc, những cấp Chính quyền thi hành đúng quy tắc định mức và thừa nhận luật pháp quốc tế, việc giải quyết ưu tiên về lãnh thổ và lãnh hải những vấn đề gây tranh cãi không còn mang quyết định đàm phán, hai bên không được thực hiện tự lập riêng biên giới hay hành động đưa đến phức tạp tranh chấp. Lý Bằng thành lập công thức On/Off cho phép đèn xanh Võ Văn Kiệt theo tiêu chuẩn (Năm nguyên tắc) bước vào trò chơi nhượng lãnh thổ, lãnh hải vừa mới ra đời trong hoàn cảnh bi đát nhất tại thủ đô Hà Nội Việt Nam. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

7. Cơ chế đàm phán bán biên giới Việt Nam
Trong "Kỷ yếu", qui định soạn thảo cơ chế đàm phán theo cấp Chính phủ, thành phần đại biểu của hai bên tương ứng, các cuộc đàm phán được tổ chức luân phiên tại hai nước. Trưởng phái đoàn của cả hai bên luân phiên chủ trì đàm phán. Cơ chế đàm phán cấp Chính phủ, chủ yếu thực hiện liên quan đến biên giới lãnh thổ và lãnh hải, nhiệm vụ soạn thảo nghị sự cho những cuộc đàm phán chính thức của Chính phủ, và hướng dẫn công tác cho hai nhóm chuyên gia để xem xét và xác nhận kết quả sau những cuộc đàm phán, hai bên sinh hoạt chung trong Nhóm công tác và các Nhóm chuyên gia.
Ngày 30 tháng 12 năm 1999. Tiền Kỳ Tham và Nguyễn Mạnh Cầm chính thức ký vào "Hiệp ước biên giới đất liền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam". Sau đó, ấn định vào ngày 25 tháng 12 năm 2000 ký "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Hợp tác lãnh hải vùng Vịnh Bắc Bộ, và vùng đặc quyền kinh tế được thỏa thuận trên phân định ranh giới thềm lục địa". Cơ chế này đã được kế thừa theo ý của "Bác" đã ba lần ký liên tục thỏa thuận "Hiệp ước Vạn Lịch nhượng hải và Vịnh Bắc Bộ" (Hiệp ước 1000 năm) của những năm 1957, năm 1961 và 1963, nhượng lãnh hải cho Trung Quốc, "Bác" thành công vĩ đại, cho đến nay toàn dân Việt Nam hầu hết bị ám lệnh che khuất không biết sự kiện này! Do đó "Bác" được nhân dân Việt Nam công nhận thánh nhân và "Cha già dân tộc" người sáng lập của chủ nghĩa xã hội.
Trung Quốc chủ động thiết lập mức độ 1: Khái quát theo cơ chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới đất liền, liên quan với Nhóm phân chia Vịnh Bắc Bộ, và phần cơ chế đàm phán của các Nhóm công tác và các Nhóm chuyên gia. Mức độ 2: Khởi động tiến hành đàm phán hàng hải. Hai Nhóm công tác và Nhóm chuyên gia là một phần của các đoàn đại biểu Chính phủ của hai nước. Mức độ 3: Phân chia biên giới đất liền do các Nhóm làm việc chung tại miền Bắc và Vịnh Bắc Bộ, Nhóm chuyên gia được thành lập hổ trợ cho các Nhóm công tác, bao gồm biên giới đất liền, các vùng đất liền tại biên giới, mỗi Nhóm lập bản đồ theo hướng dẫn của các chuyên gia kỹ thuật, các tập đoàn chuyên gia thiết lập bản đồ điều chỉnh Vịnh Bắc Bộ.


Ngày 19 tháng 10 năm 1993, Trưởng phái đoàn Trung Quốc, Thứ trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền và Trưởng phái đoàn chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, Thứ trưởng Vũ Khoan tại Hà Nội, Việt Nam đã ký Hiệp ước "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, về việc giải quyết biên giới theo nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận", vấn đề giải quyết biên giới lãnh thổ và lãnh hải giữa hai nước đặt trên nền móng công bằng và hợp lý, để củng cố và phát triển tình hữu nghị láng giềng tốt và hợp tác cùng có lợi giữa hai nước, ý nghĩa này rất quan trọng bởi chính phủ Trung Quốc chủ động đấy Việt Nam đi đến ý muốn của mình. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Cuối cùng đã có kết quả của các cuộc đàm phán biên giới đất liền
Từ những ngày 22 tháng 2 năm 1994 đến ngày 22-ngày 25 tháng 3. Trung-Việt phân chia biên giới đất liền, hai Nhóm công các chung miền Bắc và Vịnh Bắc Bộ, tổ chức vòng đàm phán đầu tiên tại Hà Nội Việt Nam. Kể từ đó, Trung-Việt đàm phán biên giới đất liền bước vào giai đoạn giải quyết cụ thể các vấn đề biên giới.
Việt Nam thường thực hiện phân định biên giới đất liền theo cảm tính đơn giản như đã được phân định theo hiệp ước cơ sở? (VN dâng hiến biên giới). Trung Quốc vẫn chưa hài lòng thường cho rằng những nguồn thông tin về văn bản có con số không được ước tính đúng mức, còn thiếu sót. Dẫn đến một số khác biệt giữa hai nước trên các đường biên giới sẽ có tranh cãi chưa phải lúc kết quả.
Trong thực tế nó phản ánh những sự xung đột và tranh chấp quyền lợi ích giữa hai quốc gia, họ chưa bao giờ nghĩ đến liên quan đời sống của nhân dân biên giới. Tại biên giới có những làng dân cư sinh sống xem mảnh đất nhỏ một khiêm tốn tài sản, tự cho là đất hoang khai phá làm của riêng, thường là nguồn gốc khẩu phần sống của một hộ gia đình.
Lộ trình đàm phán trong nội địa biên giới đất liền của Việt Nam đang dẫn đến vòng hai đàm phán, hai bên thông qua việc trao đổi đất liền tại ranh giới, căn cứ trên đường phân định của bản đồ, trái lại Trung Quốc không xác nhận khu vực tổng số 289, cho rằng chưa phù hợp theo đường biên giới, theo bao phủ diện tích khoảng 233 km², Trung Quốc khiếu nại vì lý do kỹ thuật vẽ bản đồ tổng cộng có 125 km² trong khu vực liên quan đến mâu thuẫn, chênh lệch khoảng 6 km², hai bên tranh chấp trong khu vực 164 km². Liên quan đến tổng diện tích 227 km². Hầu hết các khu vực tranh chấp biên giới lợi ích thực sự, nó rất khó khăn cho việc thương lượng và giải quyết bởi vì khu vực này nằm sâu trong lãnh thổ của Việt Nam.


Tháng 7 năm 1997, Tổng Bí thư Đỗ Mười đến Trung Quốc, Giang Trạch Dân đưa ra những yêu cầu đối thoại về biên giới và đề nghị tích cực phấn đấu cho năm 2000. Đỗ Mười vì "đảng sống nước tan" đồng ý ký "Hiệp ước biên giới đất liền". Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Nguyễn Mạnh Cầm tuyên bố ba điều:
- Trong đường biên giới đối với tiến trình hòa giải, chúng tôi thực hiện ba đề nghị cho phía Việt Nam.
Đầu tiên, Pháp-Thanh đã xác nhận về sự phát triển theo quy định và phù hợp riêng của thời ấy, nay khoanh định lại những văn bản mới, vẽ lại bản đồ, cho phù hợp xây dựng, và theo quy định của pháp luật dựa trên cơ sở "Kỷ yếu Thành Đô 1990" đánh dấu lại ranh giới, cho tất cả đối với đường biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Thứ hai, sau khi kiểm tra chéo vẫn không thể thống nhất về đường biên giới và vị trí đánh dấu ranh giới, nay đã nhận ra rất nhiều sai sự thật, hai bên sẽ cùng nhau tiến hành điều tra thực địa, xem xét sự tồn tại của một loạt các tình huống trong khu vực, phù hợp với tinh thần hiểu biết lẫn nhau và vùng đất định cư của dân. Hiệp thương hữu nghị, tìm kiếm giải pháp công bằng và hợp lý.
Thứ ba, sau khi đường biên giới đã được phê duyệt, khu vực biên giới thuộc thẩm quyền nhiều hơn bên (TQ), bên kia sẽ được trả lại một số lĩnh vực vô điều kiện theo nguyên tắc, (nói mà không trả lại). Quản lý biên giới để tạo thuận lợi cho sự chấp nhận ra đi (đất bị mất), bởi hai bên thông qua tham vấn thân thiện, hiểu biết lẫn nhau, là tinh thần công bằng và hợp lý điều chỉnh thích hợp. Kể từ đó, Nhóm làm việc chung phân chia biên giới đất liền đã dành hơn hai năm, kiểm tra 164 km², về phía đường biên giới trong khu vực tranh chấp.
Tháng 2 năm 1999, Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam bổ nhiệm Tổng bí thư Lê Khả Phiêu và ông ta đến Trung Quốc báo cáo thành tích của đảng "Bác". Lê Khả Phiêu trình báo để Chủ tịch Giang Trạch Dân hiểu tình hình Việt Nam:
− BCT/TW Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, từ nay thực hiện các nguyên tắc "16 ký tự" cho sự phát triển quan hệ song phương Trung Quốc-Việt Nam, cụ thể là "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng tốt và hợp tác toàn diện".


Trên lưng của Lê Khả Phiêu có dấu ấn 16 ký tự, "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng tốt và hợp tác toàn diện". (trường kì ổn định, diện hướng vị lai, mục lân hữu hảo, toàn diện hợp tác) đánh dấu bước ngoặc thời đại nô lệ. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm. [5]

Giữa hai nước thiết lập quan hệ trong khuôn khổ phát triển của thế kỷ 21. Cả hai bên đã đồng ý rằng giải quyết sớm vấn đề biên giới giữa hai nước quá phù hợp với quyền lợi ích trên căn bản và nguyện vọng chung của nhân dân hai nước. Hai bên quyết tâm đẩy nhanh quá trình đàm phán, nâng cao hiệu quả công tác đảng, như đã ký kết vào năm 1999, "Hiệp ước biên giới đất liền", việc xây dựng đường biên giới chung giữa hai nước đã trở thành biên giới hòa bình, thân thiện và ổn định.
Hai bên cũng giải quyết đất liền khu vực định cư, quan trọng vấn đề biên giới sẽ đạt được sự đồng thuận và tôn trọng ranh giới giữa các điều kiện hai nước cư trú dài hạn, sản xuất và đời sống, không phải vì việc phân định biên giới giữa hai nước gây ra một cú sốc lớn.

8. Trung Cộng lưu hồ sơ chính trị của "Bác" về động lực "bán nước còn đảng"
Có hai sự đồng thuận Trung Cộng-Việt Cộng đạt được trên cơ sở đàm phán biên giới đất liền do Trung Cộng cung cấp một hồ sơ chính trị của Hồ Chí Minh, làm động lực mạnh mẽ thúc đẩy đảng Cộng sản Việt Nam im lặng và chấp nhận quyết tâm đàm phán càng sớm càng tốt.
Theo sự nhất trí của hai nhà lãnh đạo, Tiền Kỳ Tham và Nguyễn Mạnh Cầm, cố gắng thúc đẩy phía Việt Nam xác định thái độ thực dụng để thông qua các cuộc đàm phán với phía Trung Quốc nhằm giải quyết biên giới đất đai trong khu vực tranh chấp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến quyền lợi ích sống còn tại biên giới.
Tháng 5 năm 1999, một lần nữa Tiền Kỳ Tham đe dọa sẽ hạ đàm phán biên giới không thông qua chính phủ Việt Nam, ông đã gửi thư tới Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm. Trong nội dung lá thư của Tiền Kỳ Tham, bày tỏ rằng phía Việt Nam phải thực sự nhất trí, hy vọng các nhà lãnh đạo hàng đầu Việt Nam hãy nhìn tình hình chung, tiến hành quyền lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, mong rằng chân thành thực dụng và thân thiện phản ánh đầy đủ, đưa khu vực tranh chấp còn lại phải vào giải pháp biên giới giữa hai nước giải quyết đúng cách, cả trên đường địa giới cho tất cả các khu vực tranh chấp để đạt được thỏa thuận, các nhà lãnh đạo của cả hai nước đảm bảo rằng trong khi kết thúc thời hạn quy định đàm phán biên giới đất liền, cho tiến hành nhanh việc ký kết giữa Trung-Việt "Hiệp ước biên giới đất liền". Một khi hiệp ước cắm cột mốc đã thành hình sẽ thấy Việt Nam đứng trước nguy cơ bất lợi mất nhiều đất liền tại biên giới, đối với "Hòa ước Pháp-Thanh ngày 26 tháng 6 năm 1887" thiết lập một ranh giới cắm 240 cột mốc và 24 huyện đánh dấu phân định biên giới Trung-Việt. Còn hiện tại trên hồ sơ cột mốc của "Hiệp ước Trung Cộng-Việt Cộng 1999" sơ khởi đã có đến 1120 cột mốc, trong những ngày tháng tiếp theo số cột mốc còn nhiều khả năng tăng lên, mỗi bước tiến của một cột mốc Trung Quốc tất nhiên đất liền của Việt Nam teo mạnh.
Tiền Kỳ Tham còn đề nghị thêm. Hai bên chấp nhận lịch sử khu vực không gây tranh cãi, nên khẳng định một cách thực tế, không làm tăng sự khác biệt giữa hai nước không nên thay đổi hiệp định trước đó của chính phủ đã công nhận đường biên giới; đối với khu vực tranh chấp, theo đúng thỏa thuận đã quy định của pháp luật mốc giới và tuân thủ các số liệu quy định, để xác định đường biên giới; liên quan đến các khu dân cư, theo đúng với sự đồng thuận quan trọng đã đạt được từ các nhà lãnh đạo của cả hai nước, phải đồng tôn trọng, không vì phân định biên giới mà gây ra sốc cho nhân dân, tạo điều kiện mọi mặt như sinh cư và sản xuất của thường dân phải được bảo đảm sống đời vĩnh cửu tại biên giới.
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm nhanh chóng trả lời. Phía Việt Nam giải quyết đất liền biên giới, và tôi đồng ý thúc đẩy đàm phán biên giới đất liền càng sớm càng tốt.
Nguyễn Mạnh Cầm đề nghị rằng hai bên cần phải dựa trên tinh thần hiểu biết và hỗ trợ lẫn nhau, trong việc xem xét đầy đủ các yếu tố khác nhau và quyền lợi hợp pháp của tất cả các bên và chủ quyền của mỗi nước, quá trình lịch sử, địa hình, nhu cầu thẩm quyền, cuộc sống biên giới và cơ sở bảo vệ cho tương lai của nhân dân được ổn định trong khu vực biên giới, nhanh chóng thu hẹp sự khác biệt, để tìm kiếm một giải pháp để hai bên đồng chấp nhận, theo sự nhất trí của cả hai bên Việt Nam-Trung Quốc.
Tiền Kỳ Tham chủ động hướng dẫn các nhà đàm phán Việt Nam, ông kêu gọi trong các cuộc đàm phán phải tìm kiếm sự thật thông qua những sự kiện, giải thích đầy đủ cơ sở pháp lý, tìm kiếm một giải pháp công bằng và hợp lý cho đôi bên.
Ngày 25 tháng 7 năm 1999. Tiền Kỳ Tham tham dự cuộc họp ASEAN và APEC (APEC), ông đã gặp hai lần với Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm. Thảo luận về các vấn đề khu vực và quốc tế, ông nắm bắt cơ hội này làm một số ngoại giao đẩy Việt Nam tiến hành đàm phán biên giới.
Ngày 11 tháng 9, Tiền Kỳ Tham gặp Nguyễn Mạnh Cầm đề xuất giải quyết các vấn đề của khu vực tranh chấp phải được thực tế, Việt Nam xem xét tích cực các đề nghị phản ánh quyền lợi của cả hai quốc gia được cân đối và những giải pháp tổng thể, hai bên có thể đạt được một sự hiểu biết về điều căn bản này, hướng dẫn Nhóm công tác biên giới đất liền làm việc. Tiền Kỳ Tham hy vọng các nhà lãnh đạo phía Việt Nam sẽ thực hiện nghiêm túc đàm phán để đồng thuận giữa hai bên giải quyết khu định cư.
Tiền Kỳ Tham giới thiệu sự nghiệp của Nguyễn Mạnh Cầm. Nguyễn Mạnh Cầm sinh ra vào năm 1929 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Việt Nam, trong những năm 1950 ông học tiếng Nga tại Học viện Nga ngữ, và Học viện Chính trị Hành chánh tại Bắc Kinh, cũng là một gián điệp lỗi lạc của Trung Quốc đã từng làm đại sứ ở Hungary, Đức, Liên Xô, là một nhà ngoại giao cao cấp quen thuộc với các cuộc đàm phán biên giới. Nguyễn Mạnh Cầm còn báo cáo cho Tiền Kỳ Tham biết về nội tình của phía Việt Nam nhằm để Trung Quốc hiểu được điểm yếu của từng người, ông sẵn sàng chấp nhận nỗ lực lớn hơn để tìm một giải pháp cho vấn đề biên giới.
Trong ủy ban đàm phán Trung Quốc-Việt Nam có ba cấp độ: Trưởng phái đoàn Chính phủ cấp Bộ trưởng Ngoại giao. Nhóm công tác chung, và Nhóm chuyên gia đàm phán. Việt Nam đề nghị vào ngày 20-28 tháng 10 năm 1999, Trưởng phái đoàn của hai Chính phủ gặp nhau tại Bắc Kinh. Đề nghị này được phía Trung Quốc chấp nhận vì thấy thuận lợi cho cả hai về tầm nhìn chung giải quyết cân bằng gói lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam.
Kể từ đó, trong các cuộc đàm phán của Trung Quốc-Việt Nam bao thành một gói hàng giải pháp lãnh hải, lãnh thổ Việt Nam, bao gồm tất cả các vấn đề nhạy cảm và khó khăn lâu nay tồn đọng chưa tính sổ, do đó khi đàm phán đạt được một thỏa thuận sơ bộ biên giới đất liền được xem là một trong những bước đột phá của Trung-Việt. Sau khi đàm phán khó khăn hơn một tháng, hai bên tranh chấp quá lâu khu vực biên giới, cuối cùng thỏa thuận đầy đủ như ý Trung Quốc. Kể từ đó, hai bên tiến hành đàm phán soạn thảo hiệp ước, đặt tất cả khả năng của mình vào hồ sơ phổ quát liên quan đến kết quả của các cuộc đàm phán và soạn thảo hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt.
Những chuyên viên của hai bên hợp tác đắc lực, đàm phán trong vòng 20 ngày và đêm, thành hình dự thảo hiệp ước cho tất cả các điều khoản và thành tựu trọn vẹn văn bản điều ước quốc tế chuẩn bị tiến hành vẽ bản đồ, sau đó cho xuất bản về "Hiệp định biên giới đất liền và đường ranh giới Trung-Việt".
Trước khi ký kết hiệp ước chính thức, Trung Quốc-Việt Nam tổ chức lễ ký tắt hiệp ước. Trưởng phái đoàn cấp Chính phủ cả hai bên đồng thỏa thuận mỗi văn bản và bản đồ cần được ký tên của mỗi bên, chữ ký đã lưu vào văn bản của hiệp ước, tạo thành hồ sơ chứng nhận. Do số lượng lớn, hai bên đồng ký tên trong một giờ, ngần ấy hồ sơ văn bản và bản đồ hiệp ước.


Ngày 30 tháng 12 năm 1999. Lịch sử biên giới Việt Nam không còn gắn liền với những mảnh đất của quê hương, vì nguyên do bất lực của Cộng sản để mất những làng, xã tại biên giới, nay chính thức chia lìa tổ quốc. Ngày ghi nhận của lịch sử này, nó đang ở điểm cuối của một ngày đi qua thế kỷ 20, bước vào điểm khởi đầu của ngày mai thế kỷ 21. Đó là ngày Trung Quốc-Việt Nam đồng tham gia buổi lễ ký kết tại Hà Nội "Hiệp ước biên giới đất liền Việt-Trung", đã kéo dài 18 năm, đánh dấu sự kết thúc chiến tranh. Cuộc cắm cột mốc biên giới đất liền đang thực hiện bước thứ hai. Nhưng vẫn còn nhiều thử thách lịch sử dân tộc Việt Nam nếu không biết biến cải tự thoát xát xa Trung. Đối với Việt Nam, từ đây sẽ nẩy sinh quá nhiều tác động quan trọng và đang đứng trước ngưỡng cửa mất nước. Và ngày 06 tháng 7 năm 2000, hai bên trao đổi phê chuẩn hiệp ước, bắt đầu có hiệu lực. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Trung Quốc-Việt Nam phân định Vịnh Bắc Bộ
Buổi lễ ký kết được tổ chức vào tối ngày 30 tháng 12 năm 1999, tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế Hà Nội Việt Nam. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham và Phó Thủ tướng Chính phủ Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm đồng ký "Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt". Tại buổi lễ ký kết, Tiền Kỳ Tham thực hiện một bài phát biểu ngắn: "Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt" đã được chính thức ký kết, đánh dấu hai bên hòa bình, thân thiện và ổn định đất liền biên giới vào thế kỷ 21, không chỉ sẽ trực tiếp mang lại lợi ích cho người dân các tỉnh biên giới, mà còn thúc đẩy hai bên quan hệ nhà nước và thúc đẩy hợp tác toàn diện giữa hai nước trong các lĩnh vực khác nhau, thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực có ý nghĩa rất lớn.
Ngày 29 tháng 4 năm 2000, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nhân dân Trung Quốc khóa 9, Đại hội thứ 10 thông qua nghị quyết phê duyệt "Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt"; cùng năm vào tháng 9, Việt Nam mở Đại hội lần thứ X cũng theo quyết định phê duyệt điều ước quốc tế này.
Ngày 06 tháng 7 năm 2000, Trung Quốc và Việt Nam tổ chức buổi lễ phê chuẩn "Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt" tại Bắc Kinh. Chính thức công bố hiệu lực 1000 theo lời nguyện của "Bác" tại hội nghị Bắc Kinh ngày 07 tháng 7 năm 1955.
Tháng 11 năm 2000, Trung Quốc và Việt Nam thừa nhận phù hợp với "Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt", và trong hai cuộc đàm phán biên giới hai phái đoàn cấp cao Chính phủ thành lập một ủy ban phân định ranh giới chung. Đến cuối năm 2008, hoàn thành tất cả các công việc phân giới cắm cột mốc và hoàn thành lĩnh vực xây dựng. Dự trù của hai bên sẽ trải qua cắm mốc 8 năm, mới kết thúc ngày cắm cột mốc.
Việt Nam-Trung Quốc bắt đầu mở những cuộc đàm phán, thương lượng hiệp ước hoặc thỏa thuận biên giới lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, và đàm phán phân định ranh giới cùng một lúc. Nhưng cuộc đàm phán phân định biển là một chủ đề mới phải vận dụng nhiều ngôn ngữ ngoại giao. Trước mắt Việt Nam thua thiệt đã quá nhiều bởi mất đất, và chuẩn bị mất Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông, thế nhưng vẫn không chuẩn bị thực tế đàm phán, phân định ranh giới để cho Trung Cộng tùy duyên dẫn đi đâu theo đó, cách làm này của Việt Nam xem như vô trách nhiệm, họ không cần thiết chú ý "nước còn hay đã mất", cho nên những nhà ngoại giao Trung Quốc không lấy gì làm lạ, gọi những nhà lãnh đạo Việt Nam với hai từ "linh động".
Phía Việt Nam sợ nhất đàm phán phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ, bởi trong vùng Vịnh gặp phải một cục bứu thối chính trị của "Bác" quá vĩ đại đã bán đứng vùng Vịnh 1000 năm. Đàm phán nhất định sẽ thất bại, trả một giá quá đắt đỏ, gặp nhiều phức tạp đưa đến khó khăn. Bước vào giai đoạn đàm phán vùng Vịnh truyền thống của Việt Nam, Trung Quốc thường hay tìm lý cớ phản đối, thực sự đã dẫn đến xung đột. Nổi bật nhất quốc gia nào quan tâm đến Vịnh Bắc Bộ, chiến thắng sẽ ở trong lòng bàn tay. Trong khi đó Tiền Kỳ Tham đã có quá nhiều kinh nghiệm đàm phán về biên giới lãnh thổ và lãnh hải với 14 quốc gia lân bang, đáng kể nhất là biên giới Liên Xô, Ân Độ, trái lại hai nhà ngoại giao của Việt Nam thiếu kinh nghiệm lại thân cha đẻ Trung Cộng, chính xác hơn những nhân vật này được nên người MSS là do Trung Cộng đào tạo.

Sự nghiệp "vĩ đại" của Hồ Chí Minh, tìm đường bán nước không thể chối cãi
Hồ Chí Minh đã 3 lần liên tục ký "Hiệp ước Vạn Lịch nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc-Việt Nam" (Vạn lịch điều ước đích lĩnh thổ nhượng bộ hòa bắc bộ loan, Trung Quốc-Việt Nam): [6]
- Tháng 11 năm 1957. Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Ban Thư ký đã ký, vấn đề biên giới lãnh thổ và lãnh hải Vịnh Bắc Bộ quan trọng nhượng cho Trung Quốc, được dựa trên cơ sở chủ quyền 1000 năm. (1957 niên 11 nguyệt Việt Nam cộng sản đảng hòa bí thư xử đích trung ương ủy viên hội dĩ kinh thiêm thự, biên giới vấn đề, bắc bộ loan trọng yếu đích nhượng bộ, trung quốc đích lĩnh hải, thị cơ vu chủ quyền thiên niên). [7]
- Năm 1961, Phạm Văn Đồng thay mặt Hồ Chí Minh cùng với Chu Ân Lai xác định lại một số nguyên tắc về pháp luật chủ quyền Vịnh Bắc Bộ, hai Chính phủ quyết định giải quyết lãnh hải. (1961 niên, Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh đại biểu Chu Ân Lai trọng tân bắc bộ đích chủ quyền loan đích nhất ta pháp luật nguyên tắc, lưỡng quốc chánh phủ quyết định tương giải quyết lĩnh thổ). [8]
- Năm 1963, Phạm Văn Đồng thay mặt Hồ Chí Minh cùng với Chu Ân Lai ký "Hiệp ước Vịnh Bắc Bộ". Trung Quốc-Việt Nam thiết lập tư vấn ranh giới và tôn trọng lẫn nhau hoặc nhượng lãnh hải. Cấm tuyệt đối chính quyền địa phương hay cộng đồng xâm lấn lãnh hải. (1963 niên, Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh đại biểu chu ân lai thiêm thự liễu "Bắc Bộ loan đích điều ước". Trung Quốc-Việt Nam biên cảnh kiến lập liễu tư tuân hòa tương hỗ tôn trọng hòa lĩnh thổ nhượng bộ. cấm chỉ địa phương chánh phủ hoặc xã khu lĩnh thổ đích xâm phạm). [9]
Tất cả những hiệp ước trên đều liên quan đến khai thác thủy sản, tương ứng thẩm quyền 3-12 dặm lãnh hải của Việt Nam, cũng như các bên thực hiện quy định về hợp tác nghề cá. 3-12 hải lý cho vùng biển bên ngoài khoảng cách đường cơ sở lãnh hải giữa hai nước, ba "Hiệp ước" trên, ngư dân giữa hai nước tại khu vực được thành lập tổ hợp tác hành nghề đánh cá chung "Tự do ra biển", tôn trọng sinh hoạt thói quen của ngư dân đã sống hai thế hệ, có thể liên hiệp tự do hoạt động khai thác biển, dầu khí, môi trường, du lịch v.v... tạo thành hai cộng đồng ngư dân ở phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ và ngư trường truyền thống quyền đánh bắt cá của Trung Quốc.


Ngày 07 tháng 7 1955, Cộng hòa Nhân dân Chính phủ Trung Quốc. Kỷ niệm ngày "Bác" dâng Vịnh Bắc Bộ. Và sau này cũng chính nơi đây Hồ Chí Minh đã ký 3 lần hiệp ước, gọi tắt là "Hiệp ước Vạn Lịch" (1000 Năm). Nguồn ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Sau khi ký kết "Hiệp ước nguyên tắc cơ bản", Tiền Kỳ Tham hào hứng khoe với BCT/TW Việt Công về tập thơ Trung Quốc "Ngục thất trong tù" của Hồ Chí Minh, cho rằng "Bác" rất yêu văn hóa truyền thống quê hương (chính Tiền Kỳ Thân tiết lộ "Bác" là người Hán). Trong những năm đầu của "Bác" tham gia vào các hoạt động cách mạng tại quê hương cùng với Mao Chủ tịch (毛泽东), Chu Ân Lai (周恩来) và các nhà lãnh đạo khác của Trung Quốc ngày nay họ đều là thế hệ cũ đã từng giả mạo trên chính trường Trung Quốc-Việt Nam tình bạn sâu sắc. Vì vậy chuyến thăm lần này Tiền Kỳ Tham là người hiểu rõ về Hồ Chí Minh nhờ đọc nhiều tư liệu lưu trữ tại CPC và MSS.
Tiền Kỳ Tham nói tiếp: Tôi có đã ý thức sâu sắc rằng tình hữu nghị Trung-Việt phát nguồn gốc từ văn hóa "Bác" nhập lậu vào Việt Nam, nhân dân Việt Nam tự tin vào Hồ Chí Minh đó là điều hạnh phúc nhất của đất nước này. Mao Trạch Đông (毛泽东), Chu Ân Lai (周恩来) và Hồ Chí Minh (胡志明) cẩn thận canh tác và chăm bón phân người trồng tình hữu nghị bắt rễ sâu trong trái tim của nhân dân Việt Nam. Đây là sự phát triển tài sản giá trị nhất mà Trung Quốc mong đợi. Mối quan hệ từ trước đến nay đã được thiết lập trên cơ chế đảng trị không thương lượng với người dân Việt Nam, nay đàm phán một trò chơi nhất trí của những lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam như đã ký "Hiệp ước nguyên tắc cơ bản".

Chú thích:
[1] (关于解决中华人民共和国和越南社会主义共和国边界领土问题的基本原则协议).
[2] ("1990年论文集", 它是这样一个结构材料, 边界地图将按照界碑的法律制定, 因为所有的边界都被批准为依据中国-越南).
[3] (双方应按照公平原则并考虑北部湾的所有有关情况, 以取得一项公平的解决办法).
[4] (在和平共处五项原则的基础上, 建立和平, 稳定, 公正, 合理的国际新秩序).
[5] (长期稳定, 面向未来, 睦邻友好, 全面合作).
[6] (万历条约的领土让步和北部湾, 中国 - 越南)
[7] (1957年11月越南共产党和秘书处的中央委员会已经签署, 边界问题, 北部湾重要的让步, 中国的领海, 是基于主权千年)
[8] (1961年, 范文同, 胡志明代表周恩来重新北部的主权湾的一些法律原则,两国政府决定将解决领土).
[9] (1963年, 范文同, 胡志明代表周恩来签署了 "北部湾的条约". 中国-越南边境建立了咨询和相互尊重和领土让步。禁止地方政府或社区领土的侵犯).

 

Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 5)

Huỳnh Tâm (Danlambao)

- Sau vài tháng chưa nguôi ngoai cái hội nghị bí mật Thành Đô, Bắc Kinh không cho Hà Nội tùy tiện an phận, gửi chỉ thị độc đến Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười hãy tiếp nhận mật lệnh mới, dù đang bất tỉnh cũng phải đứng lên vặn lấy sức người thực hiện "bình thường hóa quan hệ Trung-Việt" theo chỉ thị nghị quyết "Kỷ yếu" đã định. Đồng thời Tiền Kỳ Thâm đã 2 lần bí mật gặp Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Đỗ Mười và nhiều lần hẹn gặp Thứ trưởng thứ nhất Bộ ngoại giao Việt Nam Đinh Nho Liêm để thúc giục, tiến hành gấp rút nghị quyết Trung-Việt, nhằm nhanh chóng đạt giải pháp chính trị "đảng còn nước mất", buộc đảng Cộng sản Việt Nam tận dụng hết khả năng chạy theo tiến trình toàn diện chính trị. Tất nhiên không thể cưỡng lại ý Bắc Kinh, phải chấp nhận diễn biến "bình thường hóa quan hệ Trung-Việt" vì đảng sống thuận theo ý Bắc Kinh, chính bóng hình lờ mờ của "Bác" xưa nay vẫn làm thân "lược cài" cho chiến sách bành trướng hết sức tàn nhẫn không còn lối thoát nào khả thi cho dân tộc Việt Nam, ngày nay lộ trình ấy đảng "Bác" vẫn tiếp tục thi đua cho đến ngày tàn đất Việt.

Hoạt động của những nhà lãnh đạo Trung Quốc, từ thời Mao cho đến chí ngày nay, đều được CPC ghi chép và lưu lại. Chúng tôi tìm được toàn bộ văn bản của "Hiệp ước nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ Vạn Niên", chiến tranh biên giới Việt-Trung 1970-1988, "Kỷ yếu Thành Đô 1990", và Hiệp ước phân định biên giới lãnh thổ, lãnh hải Việt-Trung v.v... Nguồn: Quân ủy Trung ương Trung Quốc (CPC). Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Quả nhiên cả dân tộc Việt Nam không ngờ rằng chính Hồ Chí Minh đưa đường chỉ lối cho Trung Cộng thực hiện hạ tầng cơ sở "tư tưởng, chủ quyền, bành trướng" vào ở trong lòng đất nước Việt Nam, bởi Hồ Chí Minh với Trung Cộng đồng ký một hiệp ước giá trị 10.000 năm, vào ngày 07 tháng 7 năm 1955, "Hiệp ước nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ Vạn Niên", (điều ước đích lĩnh thổ nhượng bộ hòa Bắc Bộ loan phàm niệm vạn niên). Cho phép Trung Cộng khởi sự khai thác theo từng thời kỳ.[1]
Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng tiếp nối "Kỷ yếu bí mật Thành Đô 1990", đối với Trung Cộng "Quý di tích lịch sử" giá trị phi thường, tương đương 10.000 năm của "Hồ". Đúng lúc Trung Cộng chọn thời điểm chạy nước rút bôi sạch từng phần Việt Nam. "Bác" đảng quyết liệt hơn, thừa dịp đẩy cơ nghiệp Cộng sản Việt Nam tiến nhanh về hướng Bắc Kinh, cho nên trong đàm phán đã chấp nhận thành lập "Hai nhóm chuyên viên và công tác phân định lãnh thổ biên giới đất liền và lãnh hải vùng Vịnh Bắc Bộ Việt Nam", một bình phong, trái độn của mưu đồ đại Hán.
Ở thời điểm này "Kỷ yếu Thành Đô" chưa lấy quyết định đàm phán Biển Đông. Khởi đầu bộ máy điều hành cướp vùng, thành lập 2 Nhóm chuyên viên vô trách nhiệm đàm phán sơ bộ và giám sát tiến trình phân định biên giới. Nhóm công tác có trách nhiệm đo đạt phân định lãnh thổ, lãnh hải và thiết lập cột mốc tại miền Bắc Việt Nam và vùng Vịnh Bắc Bộ.

1- Nhóm chuyên viên đàm phán và giám sát tiến trình phân định biên giới. 2 - Nhóm công tác đo đạt phân định lãnh thổ, lãnh hải và thiết lập cột mốc tại miền Bắc Việt Nam và vùng Vịnh Bắc Bộ. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Sau 6 tháng hoạt động của "Kỷ yếu Thành Đô", do Trung Quốc chủ trì đàm phán, phía Việt Nam phải tuân thủ qui lệ đã định. Cho nên trong những buổi đàm phán phía Trung Quốc thường nói ví von "Ta dắt trâu đi cày" (ngã môn thủy ngưu lê điền) và Việt Nam tự hào "Điều ấy vẫn còn hãnh diện vì bạn" (tha nhưng nhiên vi nhĩ kiêu ngạo). Đặc biệt phía đảng Cộng sản Việt Nam, tăng cường hỗ trợ công tác cho nhóm Trung Quốc, mở rộng qui hoạch, chuyên sâu vào lãnh thổ phía Bắc và loang rộng khỏi vùng Vịnh Bắc Bộ, ra đến tận vùng Biển Đông 120 hải lý thuộc chủ quyền Việt Nam. Một điều phi lý khác nhà nước Việt Nam phủ nhận quyền sống của ngư dân vốn đã được hưởng quyền đánh bắt cá theo truyền thống ngư trường trong Vịnh. Trái lại đảng Cộng sản Việt Nam không theo qui ước nào, tự chấp nhận và cho phép ngư dân Trung Quốc hoạt động rộng rãi tại Vịnh Bắc Bộ. Nhờ vậy Nhóm công tác Trung Cộng tạo ra mọi việc đã rồi, thừa dịp Trung Cộng lấy quyết định đặt lại cơ sở pháp lý cho đàm phán ngày mai.

Chuẩn bị liên kết bán đứng biên giới Việt Nam
Trước khi đàm phán đại diện Chính phủ Trung Cộng và Nhóm chuyên viên Trung Cộng chủ động tiến hành phân tích tình hình và nghiên cứu cẩn thận từng kế hoạch hoạt động tại vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam. Vào thời điểm đó Pháp còn để lại nhân viên kiểm soát mặt biển trong Vịnh Bắc Bộ, trái lại phía Trung Cộng không có nhân viên kiểm soát biển ở đây. Trung Cộng tự thấy yếu thế về pháp lý so với phía Việt Nam. Khi ấy Trung Cộng không thể ngồi khoanh tay nhìn vùng Vịnh Bắc Bộ không có bóng chủ quyền Trung Cộng, vì nguyên nhân muốn bành trướng phải tự tạo ra một thứ chủ quyền bằng khả năng cướp, họ tự cho rằng chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp quốc tế, "Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển" và vịn vào "Hiệp định nguyên tắc cơ bản" Trung-Việt Nam vừa ký kết làm cơ sở đàm phán. Trung Cộng tự tin rằng hành động có tính chính đáng, thừa sức thuyết phục và kêu gọi Việt Cộng "hãy trở về đại lộ bên phải Bắc Kinh". (thỉnh hồi đáo chánh xác đích đạo lộ, Bắc Kinh).

Photo 1 - Hiệp ước Pháp-Thanh 1885, đánh dấu ranh giới xây dựng cột mốc ngoài khơi giữa sông Bắc Luân cửa Vịnh Bắc Bộ, cột mốc cao 1,7 m trên mặt nước, rộng 0,7 mét, dày 0,4 mét, vật liệu xây dựng nền đá biển vào tháng 4 năm 1890, cách cửa sông Bắc Luân 2km. Vị trí này có đáy biển sâu; theo Pháp-Thanh tại đầu cửa sông là một trong những thủy lộ quan trọng nhất của miền Bắc Việt Nam, thủy quân Tầu ô kéo vào Việt Nam và tiến xuống thành Thăng Long đều xuất phát từ nơi này.
Chính phủ nhà Thanh và Pháp ký tại Thiên Tân ngày 9 tháng 6 năm 1885. "Thanh-Pháp Hiệp ước Việt Nam" quy định theo điều ước quốc tế, biên giới giữa hai nước kể từ Trúc Sơn từ cộng đồng, thông qua sông Bắc Luân từ Đông sang Tây, ở trung tâm của ranh giới sông Phòng Thành Cảng đường biên giới với Việt Nam, từ cửa sông Bắc Luân hướng Đông có Trúc Sơn địa hình thu hẹp đến hang động Bắc Cương Ải, dài hơn 200 km, toàn bộ đoạn này có di tích Tiêu Trí và Cộng Lập theo đánh dấu ranh giới cột mốc từ số 1-33. Cửa sông như là ranh giới đất liền, ven sông đá đứng thiên nhiên, những cuốn sách ghi chép điểm đánh dấu ranh giới gồm có "Đại thanh khâm châu giới", "Đương thì phòng thành chúc khâm châu phủ hạt" và cuốn sách "Đại Nam".
Photo 2 - Cột mốc của "Hiệp ước phân định biên giới lãnh thổ, lãnh hải Việt-Trung" xây dựng năm 2006 cách cửa sông Bắc Luân 150m. Đối với quy định Thanh-Pháp Hiệp ước Việt Nam" nay đã biến mấy. Việt Nam không còn Trúc Sơn, động Bắc Cương Ải, di tích Tiêu Trí, Cộng Lập, ven sông đá đứng thiên nhiên và cột mốc ranh giới từ số 1-33, dài hơn 200 km không còn trên bản đồ của Việt Nam. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm. [2]

Trung Cộng thừa biết khó cãi đổi căn bản pháp lý của vùng Vịnh Bắc Bộ, cũng khó cướp được ngư trường đánh bắt cá truyền thống của ngư dân Việt Nam. Do vấn đề này Trung Cộng cần phải giải quyết càng sớm càng tốt, trước mắt tạo ra một hồ sơ lợi ích chung liên quan đến đời sống của ngư dân Trung Cộng được phép sinh cư tại vùng Vịnh, trong buổi đàm phán phía Trung Quốc đưa ra vấn đề hai dân tộc chung sống, hy vọng phía Việt Nam có thể ngồi xuống hội thảo giải quyết vấn đề Vịnh Bắc Bộ, toàn dân trong Vịnh chấp nhận chung sống nhưng Trung Cộng không bao giờ chấp nhận hòa bình.
Trong khi chờ đợi đàm phán, vào đầu tháng 8, Tiền Kỳ Tham đi trước một bước thật dài, thực hiện chuyến đi đặc biệt đến đảo Hải Nam, thăm thị trấn Quỳnh Hải Đàm (Ho Qionghai), cửa cảng thuyền cá Lâu Trấn (Louzhen). Nghe báo cáo của Nguyễn Sùng Vũ (Ruan Chongwu) tỉnh trưởng đảo Hải Nam, sau đó tiến hành điều tra thực địa, từ bờ biển đến toàn vùng Vịnh Bắc Bộ. Lần này Tiền Kỳ Tham trở lại đàm phán, thay đổi quan điểm, ông đem về cho phía Trung Cộng một mưu đồ cướp lãnh hải, và quyết tâm can thiệp vào vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam.
Ngày 15-18 tháng 8 năm 1994, cấp cao Chính phủ Trung Cộng-Việt Cộng bước vào vòng 2 đàm phán, tổ chức tại Hà Nội. Tiền Kỳ Tham thay mặt phái đoàn chính phủ Trung Cộng tham gia vào các cuộc đàm phán. Vũ Khoan Trưởng phái đoàn Việt Nam chủ trì hội nghị, phát biểu:
- Việt Nam đánh giá cao mỗi bên tiến bộ đàm phán biên giới, Việt Nam đề nghị phân định từng phần biên giới đất liền tại miền Bắc và thực hiện cắm cột mốc, sau đó giải quyết đàm phán Vịnh Bắc Bộ và những vị trí quan trọng ngoài Biển Đông.
Tiền Kỳ Tham không chấp nhận liền đọc một bài tham luận dài nội dung nhấn mạnh tầm quan trọng của Trung Cộng tại Vịnh Bắc Bộ, liên tục đề nghị phân định lãnh hải theo vị trí dân cư hai thế hệ, người Hán ở đâu cột mốc hiện diện đến đó!
Vũ Khoan phát biểu:
− Tôi đánh giá đàm phán biên giới đất liền có tiến bộ, tuy nhiên lưu ý rằng cuộc đàm phán biên giới cần duy trì một bầu không khí tốt, trước khi giải quyết hai bên phải tuân thủ nghiêm ngặt liên quan đến việc ký kết vào hiệp ước biên giới để cho phù hợp với các thỏa thuận theo "Hiệp định tạm thời" đã qui định, thẩm quyền xử lý theo tình hình cụ thể, hai bên cần tăng cường thành viên Chính phủ và các ban ngành địa phương liên quan với nhau tại thực địa biên giới.
Tiền Kỳ Tham, đặt ra đàm phán trước khi phân giới Vịnh Bắc Bộ, quan điểm cho rằng lịch sử luật học đã chỉ rõ từ lúc có ngư dân Trung Cộng sống trên Vịnh đó là chủ quyền theo quan hệ quốc tế. Thực tế quyền đánh cá truyền thống trong Vịnh thuộc quyền quốc gia Trung Cộng, lưu ý rằng đời sống dân cư ngư nghiệp, hoạt động thủy sản gần 1,38 triệu người, tại 3 tỉnh Quảng Tây, Hải Nam và Quảng Đông Trung Cộng vấn đề này có liên quan trực tiếp đến quyền đánh bắt cá, đời sống của ngư dân cần ổn định trong xã hội.
Tiền Kỳ Tham long trọng nói với phía Việt Nam, hai bên sẽ phân chia Vịnh Bắc Bộ phải đạt được thỏa thuận, trước tiên phía Việt Nam nên tôn trọng ngư dân Trung Cộng trong Vịnh Bắc Bộ, bao gồm quyền đánh bắt cá truyền thống trong vùng biển tranh chấp. Chính phủ Trung Cộng sẽ không tha thứ cho các tàu vũ trang Việt Nam cướp tài sản của ngư dân Trung Cộng đang đánh bắt cá và gây ra các sự cố khác.
Tiền Kỳ Tham còn cảnh cáo: Phía Việt Nam cần lưu ý rằng, các cuộc đàm phán phân chia Vịnh Bắc Bộ, phải có điều khoản qui định quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Trung Quốc, một trong những yếu tố quan trọng phải được xem xét phân định công bằng. Hơn nữa, các bộ phận của các cuộc đàm phán Vịnh Bắc Bộ, là sự cần thiết cuối cùng cho một hình thức hợp pháp, do ngư dân Trung Cộng quyết định quyền này, hy vọng sắp xếp cho hợp lý và hợp tác song phương trong ngành thủy sản sau khi phân định. Không thấy Vũ Khoan Trưởng đoàn Việt Nam phát biểu ý kiến và phản ứng!

Hai nhóm chuyên viên và công tác phân định lãnh thổ biên giới đất liền và lãnh hải vùng Vịnh Bắc Bộ Việt Nam, cụng ly uống cạn, vui mừng hoàn thành sứ mạnh bán nước của "Bác" đảng ta. Nguồn: MSS.

Hiệp định phân định vượt qua sự khác biệt.
Ngày 18, Tiền Kỳ Tham bí mật tham vấn cho Vũ Khoan, về quan hệ song phương và các vấn đề khác có liên quan khu vực Vịnh Bắc Bộ, trao đổi quan điểm quốc tế. Một lần nữa nhắc nhở cá nhân Vũ Khoan:
− Khi cuộc đàm phán chính thức, giọng điệu của bạn và tôi, vẫn duy trì yên tĩnh tình hình Vịnh Bắc Bộ, đến khi đàm phán biên giới đất liền quan trọng nhất đối với sự phát triển quan hệ song phương, và sau đó chúng ta âm thầm xử lý đúng đắn các vấn đề có liên quan đến Vịnh Bắc Bộ.
Tiền Kỳ Tham đến Hà Nội, gặp gỡ Chủ tịch Việt Cộng Lê Đức Anh, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm. Chuyến thăm lần này được Chủ tịch nước Lê Đức Anh tiếp đón, ngày hôm ấy Lê Đức Anh có một yêu cầu nhờ Tiền Kỳ Tham chuyển thông điệp của các nhà lãnh đạo Việt Nam "Đã chấp hành tốt nghị quyết của đảng, xin Chủ tịch Giang Trạch Dân hãy tin tưởng BCT/TW VN, một lòng ân quốc và kính chúc khang ninh".
Lê Đức Anh còn trịnh trọng nói rằng "Việt Cộng và Trung Cộng có nhiều điểm cơ bản tương đồng trong hệ thống xã hội, các chính sách hiện hành, Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam và các thành phần cùng mức độ đồng thuận cao về vấn đề "cắt" lãnh thổ và lãnh hải để phát triển quan hệ hữu nghị với Trung Cộng, quan hệ Việt Cộng -Trung Cộng người một nhà, không thể thay đổi lòng, cũng không thể giảm tình anh em. Về vấn đề này, các nhà lãnh đạo Việt đã thể hiện quyết tâm và có thể Trung Cộng tự tin sâu sắc.
19 tháng 8 năm 1994, hai phái đoàn cấp cao Chình phủ Việt Cộng -Trung Cộng gồm Tiền Kỳ Tham và Vũ Khoan đi thực địa biên giới Việt Nam, khởi hành từ Hà Nội đến cổng Ải Nam Quan 180 km, hành trình từ Hà Nội đến Nam Ninh mất khoản 10 giờ, đường xá Việt Nam không được tốt, còn 6 hay 7 giờ nữa sẽ đến Ngã Môn biên giới. Trên đường đi theo hướng những tỉnh phía Bắc của Việt Nam.
Vũ Khoan cho biết: Chúng tôi băng qua cầu sông Hồng ra vùng ngoại ô. Chẳng bao lâu chúng tôi đã đến đồng bằng sông Hồng là đại bình nguyên thượng. Nhìn ra cửa sổ thấy toàn cảnh "nhất mã bình xuyên", và những con đường rộng; hai bên đường có những khu nhà nông dân và cánh đồng lúa bậc thang, chắp vá vào nhau tuyệt đẹp. Buổi chiều đến Nam Ninh, sáng hôm sau chúng tôi dậy sớm, dùng một bữa ăn đơn giản, xem lại lộ trình. Chúng tôi lên đường đi dọc theo lộ lớn, một trong những hướng Bắc, địa hình thấp và cao. Lái xe qua Bắc Ninh, chúng tôi đi qua ngọn núi phía bắc Việt Nam, từ các lĩnh vực rộng tầm nhìn dần dần thu hẹp lại, và sau đó chúng tôi sẽ đi bộ qua những con đường núi.
Chúng tôi đến Lạng Sơn, khoảng cách rất gần biên giới Trung-Việt. Trong thỏa thuận thực địa, chúng tôi đến thăm chợ của nông dân. Nơi đây biên giới Trung-Việt không còn bao lâu nữa sẽ mở cửa giao thương phát triển nhanh chóng, có rất nhiều sản phẩm từ Trung Cộng chuyển qua Việt Nam, sản phẩm công nghiệp chủ yếu là đồ tiêu thụ. Người dân địa phương nói với tôi, Bia của Trung Cộng sản xuất nổi tiếng nhất. Điểm cuối cùng chúng tôi đã đến là cổng Hữu Nghị vào lúc 13 giờ 40 cùng ngày. Tôi đi bộ qua cổng đánh dấu "tình bạn", nơi trở về miền ấy đã một lần ra đi. Sau một lúc nghỉ giải lao, chúng tôi chuẩn bị lên pháo đài Kim Kê Sơn kiểm tra tình hình biên giới Việt Cộng-Trung Cộng.
Trong cuộc đàm phán biên giới vòng 2 giữa hai cấp Chính phủ, sự phân định phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ gặp khó khăn nghiêm trọng, kẻ bán sợ vỡ nợ, kẻ mua hối thúc. Trong các cuộc đàm phán, hai bên tiếp tục tăng cường hổ trợ và yêu cầu lợi ích về mình. Trung Cộng tuyên bố rằng Vịnh Bắc Bộ đã phù hợp với cái gọi là kinh độ 108 độ trong khoảng 3 phút và 13 giây dòng mô tả bởi chính phủ nhà Thanh của Trung Quốc và chính phủ Pháp đã phân định như thế.
Ngày 20-ngày 22 tháng 6 năm 1995 Hà Nội. Các bộ phận chuyên viên tổ chức đàm phán, Nhóm làm việc chung đàm phán vòng thứ 5, hai bên đã làm nóng cuộc tranh luận, không có thỏa thuận nào đạt được trong quá trình đàm phán về toàn bộ biên giới Việt Nam, trong ngày kết thúc đàm phán không đem lại kết quả bởi Trung Cộng đòi chia cổ phần lãnh thổ và lãnh hải quá nhiều.
Ngày 13 tháng 7 năm 1995, đàm phán biên giới vòng 3 giữa hai cấp Chính phủ, tổ chức tại Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài Bắc Kinh. Tiền Kỳ Tham chủ trì cuộc đàm phán. Cụ thể trình bày quan điểm thuộc hệ thống lịch sử Trung Cộng ở phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ và vị trí phân định ranh giới. Phía Trung Cộng tố cáo, kể từ khi ký "Hiệp uớc nguyên tắc cơ bản", phía Việt Nam đơn phương mở rộng kiểm soát phía Bắc, công bố đấu thầu Vịnh Bắc Bộ trong vùng biển truyền thống, thứ đến hoạt động không bình thường của ngư dân Việt Nam cướp một tàu đánh cá Trung Cộng, cuộc sống và an toàn tài sản của ngư dân Trung Cộng đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng.
Trung Cộng rất quan tâm về việc đàm phán của Nhóm làm việc chung ở vòng thứ 5, chú trọng ủng hộ vị trí ngược lại Vịnh Bắc Bộ có kinh độ 108 độ 3 phút 13 giây dòng.
Vào thời điểm này, vì lý do gì Vũ Khoa không kêu gọi các bên thể hiện đàm phán chân thành, mà để Tiền Kỳ Tham phía Trung Cộng tự đứng ra xử lý tranh chấp thủy sản thông qua các cuộc đàm phán phân chia Vịnh Bắc Bộ, Vũ Khoa còn cho rằng "đây là giải pháp đúng đắn cho hai nước".
Tiền Kỳ Tham la lớn tiếng, hỡi Vũ Khoan hãy nghe những lời của tôi, và nhớ rằng Việt Nam đã ký kết với Trung Cộng "Hiệp ước 1993" và "Hiệp ước nguyên tắc cơ bản", nếu phá vỡ phân chia Vịnh Bắc Bộ sẽ bế tắc như những năm 1970. Ông cảnh báo, Trung Cộng nhất định đi tới mục đích, tin rằng Việt Nam sẽ không đi thụt lùi, các nhà lãnh đạo Việt Nam không còn lý do nào quay đầu trở lại đã đến lúc cần thể hiện quyết tâm cao.
Những thành viên trong Bộ Chính trị Trung Cộng cùng Phó Thủ tướng Lý Bằng gặp Vũ Khoan. Chúng tôi sắp xếp cho Vũ Khoan đến Sơn Đông truy cập rộng rãi một số dữ liệu nghị sự đàm phán đã quyết định trước, nói đúng hơi Vũ Khoan đi nhận mệnh lệnh mới.
Sau khi ông Vũ Khoan từ Sơn Đông trở về Bắc Kinh, nói với Tiền Kỳ Tham rằng, ông đã đi thăm quê hương Khổng Tử ở Khúc Phụ, Sơn Đông, có để lại tại đó một ấn tượng rất sâu sắc. Sau khi trở về Việt Nam, ông Vũ Khoan viết "Viếng thăm quê hương Khổng Tử", một tờ báo đảng Hà Nội xuất bản trên chủ đề "Tuần lễ Quốc tế". Bài báo giới thiệu Vũ Khoan "Càng có nhiều đối tác cũ đang bắt rễ sâu vào đất màu mỡ của lịch sử Trung Quốc, các thế hệ Việt Nam tương lai không có lý do nào từ chối sự bắt rễ sâu thêm". Chỉ cần một phát biểu này đã chứng minh được đảng Cộng sản Việt Nam chủ ý mượn Khổng Tử đẩy dân tộc Việt Nam vào hòa biến Trung Cộng.
Tháng 11 năm 1995 Tổng Bí thư Đỗ Mười, chính thức viếng thăm Bắc Kinh, không biết ông ta đã ký Hiệp ước gì để kết thúc tranh luận, đàm phán phân chia Vịnh Bắc Bộ. Trong chuyến thăm lần này, hai nhà lãnh đạo tái khẳng định các nguyên tắc trên cơ sở tinh thần của tình hình chung qua cuộc họp cấp cao Chính phú. Đỗ Mười khẳng định trước đây giữa hai nước đã đạt được và hiểu biết lẫn nhau, cùng ăn, cùng hưởng mọi công bằng có hợp lý và tinh thần tham vấn thân thiện, phù hợp với luật pháp quốc tế, luôn có sự tham khảo quốc tế, thông qua đàm phán hòa bình, một giải pháp thích hợp vấn đề biên giới giữa hai nước tồn tại. Hai nhà lãnh đạo nhất trí thúc đẩy vượt qua quá khứ, khác biệt tranh chấp ranh giới Vịnh Bắc Bộ của những năm 1970. Ngày nay thành lập các khuôn khổ chính trị mới và định hướng trong suốt những nỗ lực đàm phán của cả hai bên để thúc đẩy quan hệ song phương Trung-Việt.
Ngày 14 tháng 2 năm 1996, Tiền Kỳ Tham đến Bằng Tường biên giới Quảng Tây và Việt Nam tham dự buổi lễ cử hành khai mạc phục hồi đường sắt. Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Vũ Khoan phát biểu tại buổi lễ: "Cả hai bên đều khẳng định vai trò quan trọng của tỉnh Quảng Tây và Việt Nam trao đổi nhiều hơn trong lịch sử của đường sắt, Trung Cộng đã từng hỗ trợ cuộc chiến cho Việt Nam chống Pháp. Cả hai bên đều tin rằng đây là mở đường sắt một lần nữa báo trước sự phát triển của mối quan hệ Trung Cộng và Việt Cộng hứa hẹn tương lai một nhà chung".
Sau lễ khai mạc phục hồi đường sắt, Vũ Khoa mời ông Tiền Kỳ Tham đến Lạng Sơn tham vấn về quan hệ song phương biên giới. Đây là chuyến thăm đặc biệt Vũ Khoa muốn trao đổi. Điểm hẹn Khách sạn Kim Sơn thành phố Lạng Sơn. Tại nơi này Tiền Kỳ Tham đưa ra ba đề xuất:
Thứ nhất, đàm phán phân định ranh giới toàn vùng Vịnh Bắc Bộ, có thể đạt được bởi các nhà lãnh đạo hiểu biết lẫn nhau tình hình chung của hai nước, công bằng, hiệp thương hữu nghị, "sự đồng thuận là tư tưởng chỉ đạo năm 1993", hai bên đã ký các nguyên tắc cơ bản của thỏa thuận" như là một cơ sở pháp lý chung.

Khách sạn Kim Sơn thành phố Lạng Sơn. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Thứ hai, cả hai bên cần tiếp tục trao đổi ý kiến trên cơ sở lý tưởng, đưa ra đường lối và các yếu tố khác có liên quan quan hệ song phương. Trung Cộng sẽ đưa ra dòng ý tưởng của mình.
Thứ ba, cả hai bên cần đạt được một sự hiểu biết "nội bộ" trên nguyên tắc công bằng. Trong khi đó toàn bộ quá trình đàm phán cần thiết nhất phân định lãnh thổ phía Bắc và lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, hai bên sắp xếp cho hợp lý và ngư dân của hai phía hoạt động bình thường trong vùng Vịnh Bắc Bộ.
Ba đề nghị của Tiền Kỳ Tham đưa ra, Vũ Khoan đồng ý và nhất trí. Vũ Khoan phát biểu: Phía Việt Nam sẽ tuân thủ giải pháp Vịnh Bắc Bộ sẽ đàm phán phân định lại Biển Đông. Tuy nhiên, phải bảo vệ an ninh cho ngư dân Trung Cộng hoạt động bình thường trong Vịnh Bắc. Vũ Khoan còn cho biết: Phía Việt Nam cần xem xét sau khi hoàn thành phân giới cắm mốc tại Vịnh Bắc Bộ.
Tiền Kỳ Tham hài lòng và trao đổi:
− Phân giới cắm mốc và bảo vệ ngư dân của Trung Cộng tại Vịnh Bắc Bộ là hai vấn đề phải tách rời ra, vấn đề bản thân thủy sản của Vịnh Bắc Bộ khác với phân giới cắm mốc, Việt Nam chỉ xem phần lãnh thổ quan trọng, đối với Trung Cộng quan tâm ưu tiên hàng đầu vấn đề thủy sản. Tôi nhấn mạnh rằng mối quan tâm của Trung Cộng về các vấn đề thuỷ sản sẽ không hy sinh lợi ích của ngư dân khi phân định chưa kết thúc. Hai thằng Tàu cãi qua cãi lại kết cuộc chỉ thấy một thằng Tàu.
Ngày 04 tháng 3 đến 11 năm 1996, trong sự phân chia Vịnh Bắc Bộ, Nhóm làm việc chung tổ chức đàm phán vòng thứ 6 tại Bắc Kinh. Hai bên đã trao đổi quan điểm về các nguyên tắc bình đẳng, công bằng, cả hai xác nhận tầm quan trọng cơ bản, đồng ý trao đổi ý kiến càng sớm càng tốt về Vịnh Bắc Bộ. Điều này làm cho phía Việt Nam phấn khởi đi đúng đàm phán của Trung Cộng muốn gì được náy.
Ngày 18 đến 23 tháng 9 năm 1996, Tiền Kỳ Tham đứng đầu phái đoàn Chính phủ Trung Cộng, dẫn phái đoàn đến Hà Nội, tham dự đàm phán biên giới vòng thứ 4. Trong các cuộc đàm phán, Tiền Kỳ Tham tập trung quan điểm và lấy luật pháp Trung Cộng hù thiên hạ, ông ta giải thích chi tiết, ý muốn cho ra một quái thai Vịnh Bắc Bộ. Ông cho rằng Trung Cộng và Việt Cộng cần mối quan hệ tổng thể chính trị có cân bằng phân định cơ bản nhất của tình hình biên giới. Hai nước đồng có dân cư sống trong Vịnh Bắc Bộ, tạo nên cơ sở đàm phán song phương hàng hải ven bờ biển. Hai bên xem xét lại vùng Vịnh Bắc Bộ và chiều dài bờ biển đối diện với đất liền v.v...để đạt được các mục tiêu chung cho cân bằng lợi ích của cả hai. Mục đích của luật pháp là công bằng, thân thiện, kinh tế hợp lý, phù hợp chính trị, và căn bản lợi ích của nhân dân hai nước.
Vũ Khoan cho rằng:
- Theo hình thành cơ sở Vịnh Bắc Bộ, phía Trung Cộng được phân chia nhiều hơn dự định, điều này đã có quyết định trong chuyến viếng thăm Trung Quốc vào tháng 11 năm 1995 của BCT/TW Tổng Bí thư Đỗ Mười và các nhà lãnh đạo Việt Cộng, đã thực sự trao toàn quyền xử lý cho Trung Cộng. Không còn gì để báo cáo một cách trung thực. Sau đó, ông giải thích chi tiết các quan điểm của BCT/TW đảng. Ông cho biết phía Việt Cộng tin rằng Trung Cộng xem xét lại ranh giới cho công bằng, đầu tiên yếu tố địa lý tự nhiên và địa lý đặc biệt.
Vũ Khoan lạc quan cho rằng, Vịnh Bắc Bộ là động mạch giao thông Biển Đông, một cửa ngỏ Vịnh Bắc Quốc tế của Việt Nam không thể mất, bởi tầm quan trọng sống còn đối với Việt Nam. Ông đề xuất Vịnh Bắc Bộ phân định ranh giới từ phía đảo Hải Nam Trung Quốc không thể so sánh với đất liền Việt Nam.
Về vấn đề này, Trung Cộng ngay lập tức phản pháo cho rằng đảo Hải Nam là một tỉnh duyên hải của Trung Quốc. Nó là một hòn đảo trong toàn bộ Biển Đông, tạo thành đại dương được hưởng các quyền cơ bản và phân định tác dụng tương tự theo luật pháp quốc tế về Biển. Cuối cùng, Tiền Kỳ Tham một lần nữa nghiêm túc đàm phán phân chia Vịnh Bắc Bộ và mở rộng ý tưởng phân giới cắm mốc. Trong vòng đàm phán này, hai bên đã nhất trí thành lập một nhóm tham vấn chuyên gia Biển, thực hiện không chính thức về các vấn đề liên quan đến chương trình đường ranh giới lãnh hải.
Ngày 18 tháng 9 năm 1996, Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Khoan thường xuyên quan hệ song phương với Tiền Kỳ Tham, trao đổi quan điểm khu vực và quốc tế. Vào ngày 19 tháng 9, các thành viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Trần Đức Lương đã gặp phái đoàn chính phủ Trung Cộng.
Năm 1996 đến năm 1997, hai Nhóm công tác lãnh hải tổ chức đàm phán vòng 3, phân chia vùng Vịnh Bắc Bộ, quan điểm Việt Nam ủng hộ phân định hàng hải, lần này mới vào cuộc đàm phán đã nhận được đột phá, đạt được sự đồng ý phân định Vịnh Bắc Bộ theo dân cư Trung Quốc.

Thầm lặng bán lãnh thổ và lãnh hải
Tháng 7 năm 1997, Tổng Bí thư Đỗ Mười đi thăm Trung Cộng. Tiền Kỳ Tham đến Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài thăm phái đoàn Chính phủ Việt Nam, và tham khảo trước nghị trình cuộc đàm phán chung của Ủy ban ranh giới tổ chức tại Đại sảnh đường Điếu Ngư Đài, tập trung vào việc phân chia Vịnh Bắc Bộ tuy có vài quan điểm gây khó cuối cùng thông qua, phía Trung Cộng đưa ra luận điệu rõ ràng trong buổi đàm phán không lấy cân bằng làm đột phá, bởi trên tay Trung Quốc có nhiều lá bài "đảng tham sống sợ chết", lúc này Tiền Kỳ Tham đứng lên giảng cái lý của kẻ mạnh. Đỗ Mười ngồi im phăng phắc chỉ biết lấy quyết định đồng ý làm mục phiêu sinh tồn cho đảng nhu nhược.
Ngày 13-đến 15 tháng 7 năm 1997, tổ chức tại Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài Bắc Kinh đàm phán biên giới vòng thứ 5, cấp Thứ trưởng Ngoại giao tham dự. Trong vòng đàm phán lần này, Việt Nam bắt đầu đưa ra nghị sự biên giới đất liền làm đầu đề có nhóm soạn thảo "Hiệp ước", hai bên đồng ý. Và hai bên đã trao đổi quan điểm đàm phán toàn bộ khu vực Vịnh Bắc Bộ, cũng được tối đa đồng thuận, thu hẹp sự khác biệt, hai bên Trung-Việt phấn đấu để di chuyển cột mốc vào lãnh thổ phía biên giới Việt Nam ? Được xem vị trí cột mốc căn bản của chủ quyền hai nước. Sau đó duy trì một cơ chế tham vấn chính thức của nhóm chuyên gia biên giới, phấn đấu để tìm mọi đồng thuận lẫn nhau, hai bên nhất trí cùng nhau "Phổ biến kế hoạch phân định biên giới Trung-Việt", (lưu hành đích hoa phân phương án Trung-Việt). Đã 17 năm trôi qua (1997-2014) nhân dân Việt Nam chưa hề biết nội dung (Phổ biến kế hoạch phân định biên giới).
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Cộng Tiền Kỳ Tham gặp Phó Thủ tướng Thứ trưởng Ngoại giao Việt Cộng Vũ Khoan và đoàn tùy tùng, đưa ra quyết định đàm phán, phân chia thủy sản Vịnh Bắc Bộ, ông cho rằng trái tim của vấn đề lớn đều nằm trong đàm phán Vịnh Bộ Bộ.
Kể từ khi khởi động lại các cuộc đàm phán về biên giới Trung-Việt vào năm 1992, Trung Cộng đã nhiều lần khuyến cáo vấn đề Vịnh Bắc Bộ với phía Việt Nam, nhấn mạnh đàm phán để giải quyết phân định Vịnh Bắc Bộ và các vấn đề thủy sản cùng một lúc. Thực chất Trung Cộng muốn chiếm Biển Đông lại muốn tránh xâm lăng cho nên chuyển qua Vịnh Bắc Bộ nếu được toàn thắng cả hai cùng lúc lưỡng tiện.
Suốt quá trình đàm phán phân định lại miền Bắc và Vịnh Bắc Bộ, theo quy định đã ký kết, phía Trung Cộng vũ trang tàu biển hoạt động trong Vịnh Bắc Bộ, đã tuyên bố long trọng bảo vệ ngư dân Trung Cộng tránh cướp biển. Cho đến thời điểm cuối cùng của cuộc đàm phán, vấn đề này đã trở nên rõ ràng chỉ còn lại đôi điều trở ngại không quan trọng lắm đối với các cuộc đàm phán trước đây thường phước tạp, cuối cùng Việt Nam cũng đã hiểu mọi mặt chính trị trong đàm phám, và để hiểu tại sao người Trung Cộng khẳng định làm sạch biên giới, thủy sản Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông, từ nay mỗi khi Trung Cộng hoạt động trong vùng liên quan lãnh thổ hay lãnh hải của Việt Nam đều có thông báo trươc.
Trên thực tế, Trung Cộng chú trọng như vậy để sắp xếp lại Biển Đông, lấy được Vịnh Bắc Bộ và vùng đảo Bạch Long Vĩ, tất nhiên Biển Đông trong tầm tay, mọi liên quan đến sinh kế của ngư dân chỉ là một trong muôn lý do cho phép kẻ muốn thôn tính lân bang. Đúng hơn, Bộ Ngoại giao Việt Nam có nhiệm vụ bán lãnh hải và lãnh thổ cho Trung Cộng, qua một tiểu bang của Chính phủ mà đảng gọi thật kêu với cái tên quá dài "trách nhiệm với nhân dân, là một vấn đề chính trị có ảnh hưởng đến sự ổn định địa phương và xã hội", (đối nhân dân phụ trách, thị ảnh hưởng đương địa xã hội ổn định đích chánh trị vấn đề).
Tiền Kỳ Tham cho biết:
− Quá ngạc nhiên, các nhà đàm phán Việt Nam không thể hiểu nổi phía Trung Cộng vì sao cứ nằng nặc, nhấn mạnh lãnh thổ miền Bắc và lãnh hải Vịnh Bắc Bộ. Nay mới kết thúc này, như tôi đã nhiều lần tham khảo ý với đồng chí Vương Nghị (Wang) sau khi tôi thực hiện trách nhiệm và tìm kiếm giải pháp cụ thể đã thành công phần đầu.
Tháng 2 năm 1999, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm Trung Quốc, được Giang Trạch Dân tiếp đón, hai bên đồng thuận, quyết định năm 2000 đàm phán để xác định, giải quyết lãnh thổ biên giới, lãnh hải Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông.
Tháng 12 năm 1999, Tiền Kỳ Tham và Vũ Khoan tham dự lễ ký "Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt", (Trung-Việt lục địa biên giới điều ước) Sau lễ ký kết. Trong cuộc họp, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đưa ra quan điểm chính trị luộm thuộm, không tập trung vào Vịnh Bắc Bộ hay thủy sản mà hiệp ước đã ban hành, thiếu sự chú ý không quan tâm, và chưa hề tham khảo với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân. Nếu ông Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu xem việc nước nhạt nhẽo như nước ốc, thì đàm phán "Xác định ranh giới Vịnh Bắc Bộ và giải quyết đánh bắt cá" sẽ thông qua không khó.
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu cũng có một ý khác thường, ông cho biết về đàm phán "Xác định ranh giới Vịnh Bắc Bộ và giải quyết đánh bắt cá". Ông đã thảo luận cùng với các nhà lãnh đạo Việt Nam là sẵn sàng tích cực ủng hộ. Ông còn nói rằng trên lĩnh vực nuôi trồng thủy sản tại Vịnh Bắc Bộ có thể phía Trung Quốc tiến hành ngay lập tức không cần thông qua đàm phán, đồng thời đàm phán phân định ranh giới không trở ngại.
Vị trí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu rất quan trọng cho cả hai bên, ông ta kịp thời đã bật đèn xanh để bắt đầu thoả hiệp phân định ranh giới của hai nước xem ra đàm phán thủy sản cũng không trở ngại đã được giải quyết trên nguyên tắc đồng thuận ngoài đàm phán, Lê Khả Phiêu đã tạo điều kiện cắm cột mốc cho ngững tháng sau này. Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm sau một thời gian dài với chức vụ Bộ Trưởng ngoại giao nay từ chức.
Ngày 28 tháng 11 năm 2000, ông Nguyễn Dy Niên được Chính phủ Việt Nam bổ nhiệm tân Bộ Trưởng Ngoại giao, còn ông Vũ Khoan được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Thương mại. Bộ trưởng Bộ Ngoại thương và Kinh tế Trung Quốc Thạch Nghiễm Sanh (Shi Guangsheng) gửi công văn chúc mừng Vũ Khoan. Nguyễn Dy Niên vừa nhậm chức Bộ trưởng Bộ Ngoại, hạnh phúc lớn nhất nhận được điện tín chúc mừng của Tiền Kỳ Tham, tự xem một sự công nhận chính thức của triều Trung Cộng.
Ngày 31 tháng 1 năm 2000, Lý Gia Trung (Li Jiazhong) cũng được bổ nhiệm Đại sứ Trung Cộng tại Việt Nam. Sau khi Nguyễn Duy Niên nhậm chức Bộ trưởng Bộ Ngoại ông bày tỏ và hy vọng Trung Cộng là nơi đầu tiên ông đến thăm, ông kêu gọi các nhà lãnh đạo Trung Cộng đàm phán lãnh thổ và lãnh hải giữa Việt Cộng-Trung Cộng. Tiền Kỳ Tham gửi công văn mời Nguyễn Dy Niên đến thăm Trung Cộng.
Ngày 24-đến 26 tháng 2 năm 2000, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Dy Niên chính thức thăm Trung Cộng. Thủ tướng Chu Dung Cơ và Lý Bằng tương ứng, tiếp Nguyễn Dy Niên tại Hội trường đại sảnh Trung Nam Hải.
Vào ngày 25, Bộ trưởng Ngoại giao Tiền Kỳ Tham với Nguyễn Dy Niên hội đàm chính thức tại Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài. Trong các cuộc đàm phán, đề cập nhiều về quan hệ song phương, trao đổi khu vực và quan điểm toàn diện tình hình quốc tế, Tiền Kỳ Tham cứ nói xoen xoét về sự tập trung phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ. Hai bên cần nỗ lực để làm tốt công việc tỷ lệ diện tích và thỏa thuận thủy sản trên biển.
Năm 1995, các nhà lãnh đạo Trung Cộng thường phản ánh lợi ích và khái niệm chung "cán cân phân định ranh giới". Những nhà lãnh đạo Việt Nam cũng đã đồng ý nội dung trong cuộc trò chuyện tương tự, miễn là cả hai bên phù hợp với sự nhất trí của lãnh đạo hai nước, thực tế Trung Cộng khám phá đảng Cộng sản Việt Nam nhu nhược "Nọa nhược dữ tà ác địch nhân đích nhân", ham sống sợ chết, tứ đó Trung Cộng tha hồ tạo ra tiền lệ cho những giải pháp đối phó với Việt Cộng hay giải quyết gọn nhẹ lãnh thổ biên giới, và kiểm soát toàn vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam.

Huỳnh Tâm
___________

Chú thích:
[1] (中越领导人成都秘密会晤内幕 - 中共辽宁省委党史研究室).
[2] Photo 1 - 1885年6月9日, 清政府和法国在天津签定的 (中法越南条约), 条约规定, 两国边界自竹山起界, 循北伦河自东向西, 以河心为界线. 防城港市与越南的边界线, 从竹山的北伦河口至峒中的北岗隘, 长200多公里, 全段以石碑为标致, 共立1至33号界碑. 其中以河为界的, 双方各于已方河岸相对立石, 以山为界的则双方共立一块界碑, 一面书 "大清国钦州界" (当时防城属钦州府辖), 一面书 "大南" (即越南).
http://danlambaovn.blogspot.com/2014/11/tien-trinh-am-phan-bi-mat-thanh-o-1990_20.html" data-title="Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 5) - Dân Làm Báo"


Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990  (Kỳ 6)

Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham tuyên bố trong hội nghị đàm phán tại Hà Nội:
− Đã đến lúc chúng tôi xử lý vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, thẳng thắn, thu về toàn bộ lãnh hải, nay phân giới cắm cột mốc chỉ là một động tác giả hình, nhằm che khuất lòng dân của bạn phẫn uất, chúng tôi thực hiện những gì dưới sự đồng tình của quý đồng chí. Đàm phán đã trở thành một phần quan trọng, chúng tôi muốn phân định ranh giới lãnh thổ và lãnh hải, đây là một hồ sơ Biển Đông cho phép hợp thức hóa trước Liên Hiệp Quốc, các bạn là người hổ trợ cho chúng tôi. Một điều nữa, tác động lên lưng ngư dân Việt Nam, mục đích của nó có liên quan đến việc duy trì ổn định trong khu vực Vịnh Bắc Bộ, cũng là một vấn đề chính trị mà nhà nước Việt Nam phải thi hành đúng luật pháp? Hy vọng, Việt Nam bắt đầu tiến hành ngay lập tức, sau khi cơ chế đàm phán thủy sản có hiệu lực, phân giới cắm mốc Vịnh Bắc Bộ và thủy sản sẽ được giải quyết theo qui định lịch sử đảng đã có từ trước vào thời Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai ký hiệp ước, ngày 07 tháng 7 năm 1955, "Hiệp ước nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ Vạn Niên".
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên (阮怡年) đáp rằng:
− Đồng ý, trên cơ sở Trung Quốc thúc đẩy đàm phán phân định lãnh thổ, phía Việt Nam sẵn sàng làm việc, cùng nhau đi về hướng tương lai. Ông nói thêm: Việt Nam đã nhận thức đầy đủ các mối quan tâm của Trung Quốc, trước nhất thỏa thuận phân giới cắm mốc đã được ký kết cùng một lúc với nghề cá tại Vịnh Bắc Bộ, hai bên có khả năng tạo thành hợp tác khai thác thủy sản. (Nguyễn Duy Niên đề nghị cá nhân hai đảng làm ăn chung).


Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (trái) và Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội Lý Gia Trung (Li Jiazhong). Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Thúc đẩy hiệp định đánh bắt cá vùng Vịnh Bắc Bộ
Tháng 4 năm 2000, đàm phán phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ trong khuôn khổ của Trung Quốc và Việt Nam, như đã phát động thành lập Nhóm chuyên gia đàm phán thủy sản. Tuy nhiên, Việt Nam đã nhiều lần làm trì hoãn đàm phán vì lý do kỹ thuật tư vấn, nội dung đàm phán khác nhau với Trung Quốc sẽ không có lợi cho Việt Nam.
Ngày 14 tháng 9 năm 2000, Tiền Kỳ Tham đi New York tham dự Đại hội đồng Liên Hợp Quốc lần thứ 55. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên bí mật gặp tại trụ sở chính LHQ, hai bên trao đổi quan điểm, tập trung thảo luận những vấn đề tồn tại về Vịnh Bắc Bộ và đưa ra công thức phân định ranh giới theo chiều sâu đã đề nghị đàm phán lần trước.
Tiền Kỳ Tham cho rằng:
− Trong sự phân chia Vịnh Bắc Bộ, đã bước vào đàm phán ở giai đoạn quan trọng. Việt Nam đồng ý Vịnh Bắc Bộ thành lập một khu vực đánh cá chung, đó là một bước tiến quan trọng được thực hiện thành công trong cuộc đàm phán vừa qua. Bây giờ, cả hai bên cần đẩy mạnh đàm phán về thỏa thuận thủy sản, Việt Nam cần thiết phải đảm bảo các thỏa thuận phân giới cắm mốc và ký kết thỏa thuận thủy sản cùng một lúc. Tôi cũng bày tỏ hy vọng phía Việt Nam thực hiện càng sớm càng tốt quyết định chính trị về tỷ lệ thu nhận chủ quyền cho cả hai vấn đề phân định ranh giới khu vực.
Nguyễn Duy Niên hăng hái bày tỏ đáp ứng nguyện vọng và tham gia cùng với Tiền Kỳ Tham trong việc kêu gọi các phái đoàn Chính phủ và các bộ phận của cả hai Nhóm tại Vịnh Bắc Bộ tăng cường công tác làm việc tốt hơn. Tiền Kỳ Tham định hướng lại mục tiêu phương tiện cho hai nhà lãnh đạo cấp Chính phủ hướng tới nỗ lực đàm phán. Nguyễn Duy Niên hoàn toàn đồng ý hứa sẽ ký "Hiệp định phân định ranh giới lãnh hải" và "Hiệp định nghề cá" trong vùng Vịnh Bắc Bộ, nay thuộc chủ quyền Trung Cộng.

Bộ Trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Niên (trái) và Thứ trưởng Lê Công Phụng (黎功奉). Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Ngày 25 tháng 10 năm 2000, Trưởng phái đoàn chính phủ Trung Quốc Vương Nghị (Wang Yi), và Trưởng phái đoàn Chính phủ Việt Nam Lê Công Phụng (黎功奉), đồng tổ chức đàm phán không chính thức về Vịnh Bắc Bộ, đạt được thỏa thuận sơ bộ về kế hoạch kiểm tra đường tuyến Vịnh Bắc Bộ, đàm phán đã thực hiện được một bước đột phá quan trọng lãnh hải. Ngày hôm sau, Vương Nghị và Lê Công Phụng gặp nhau ngoài nghị sự đàm phán cả hai ông đồng khẳng định sự nhất trí, giúp hai bên phá vỡ bế tắc bấy lâu. Trong đàm phán ngày hôm sau mang lại một biến động mới, các chuyên gia hai bên trở lại làm việc với sự nhất trí, phù hợp nghị sự của hai cấp cao Chính phủ đã tiến đến sự hình thành một đường biên phân định phổ biến.
Tiền Kỳ Tham quan tâm vấn đề nghề cá của ngư dân Trung Quốc, ông luôn tìm hiểu quan điểm của đối tác, đem về Trung Quốc một chiến thắng lớn cả hai mặt lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam. Ông thường thúc đẩy hai cơ quan ngoại giao cùng nhau tiến bộ, đáng kể nhất trong đàm phán thủy sản, gọi là giải pháp trọn gói "phân định ranh giới và nghề cá Vịnh Bắc Bộ".
Ngày 21 tháng 11 năm 2000, Nhóm chuyên gia của Trung Cộng trì hoãn đàm phán Thủy sản, phản đối Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên chưa thúc đẩy phân giới cắm cột mốc của Vịnh Bắc Bộ, đặc biệt trong quá trình đàm phán đã phân định thủy sản và liên quan đến sinh cư của ngư dân Việt Nam. Trung Quốc cho rằng, trong giai đoạn cuối của đàm phán ở thời điểm quan trọng này, hai bên cần phải thúc đẩy mạnh mẽ mức độ cao chính trị, bảo đảm ký kết và thỏa thuận phân định thủy sản.
Ngày 05 tháng 12, Trung Cộng tự phân định lãnh hải và thủy sản không thông qua đàm phán, thời gian này Trung Cộng tung ra biểu đồ thực địa theo ý của kẻ cướp. Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Niên bình thản không có nửa lời nào phản đối, lạnh nhạt với đất nước Việt, vì Trung Cộng đe dọa công bố "bạch thư chính trị Việt Cộng", bởi Việt Cộng xưa nay sống nhờ hơi thở của Trung Cộng, các nhà đàm phán Việt Cộng thấy rõ điều này, cho nên đầu hàng trước áp lực, rõ ràng nhất Trung Cộng hướng dẫn Việt Cộng, bảo sao làm vậy, ngồi nghiêm chỉnh trong bàn tròn đàm phán, chọn lấy gật đầu làm điều cầu sống, bảo đảm đảng tồn tại.
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên trong bài phát biểu thay cho đa tạ, lời đáp của các nhà lãnh đạo Việt Nam hổ trợ mạnh mẽ, thiết lập nghề đánh bắt cá chung trong vùng Vịnh Bắc Bộ, hy vọng Trung Cộng lấy quyết định để phía Việt Nam sẵn sàng làm mọi việc với Trung Cộng, hai bên tích cực thảo luận bằng thái độ anh em và trên môi với những thỏa thuận hài lòng tình đồng chí.

Ngày 13-đến 15 tháng 7 năm 1997, tổ chức đàm phán biên giới vòng thứ 5 tại Nhà khách Quốc gia Điếu Ngư Đài Bắc Kinh. "Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt", "Hiệp định mở rộng phân định Vịnh Bắc Bộ Việt Nam" và "Hiệp định Việt Nam hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ". Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Ngày 18 tháng 12, tại vùng Vịnh Bắc Bộ, các bộ phận của Nhóm chuyên viên và công tác làm việc chung, trải qua 18 cuộc đàm phán đã nhất trí phân định được lãnh hải và ngư trường trong Vịnh. Trưởng đoàn đại biểu của hai Chính phủ đồng xác định lãnh hải của Việt Nam không đáng kể, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Vịnh vẽ lại bản đồ đính kèm tọa độ, địa lý theo những điểm có dân cư và văn bản Hiệp định Vịnh Bắc Bộ đồng ý trên nguyên tắc phân định lại tất cả.
Cho đến nay, Trung Cộng mới xem xét đầy đủ những trường hợp có liên quan đến phía miền Bắc Việt Nam và Vịnh Bắc Bộ, theo nguyên tắc Trung Cộng ra giá thành, mọi thứ phải phù hợp lý luận công bằng theo kiểu cách Hán, Việt Cộng chấp nhận thông qua trò chơi hiệp thương hữu nghị, tất cả những cuộc đàm phán quan trọng ở giai đoạn cần thiết đã hoàn thành và xác định ranh giới. Nay trong Vịnh Bắc Bộ tương đối ổn định ranh giới. Lúc này, nhảy ra một Ban hội Thẩm sắp xếp lại ngư trường thủy sản, sau khi phân định giải quyết ranh giới, bao gồm cả việc xác định các nguyên tắc hợp tác lâu dài giữa hai thủy sản quốc gia, mô tả hơn 30.000 km² thuộc Trung Cộng trong khu vực đánh cá chung biên giới và vùng chuyển tiếp, nếu Việt Nam muốn soạn thảo hợp tác nghề cá tại Vịnh Bắc Bộ phải theo văn bản hiệp ước.

Ngày 12-đến 14 tháng 12 năm 2000, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Hà Nội. Cả hai Bộ Ngoại giao Trung Cộng-Việt Cộng, chạy đua nước rút, đàm phán hiệp định cho phần cuối cùng. Vương Nghị trưởng đoàn Ngoại giao Trung Quốc và phía Việt Nam có Thứ trưởng Lê Công Phụng, chính thức đàm phán lần thứ 3. Sau hai ngày đàm phán vấn đề Vịnh Bắc Bộ chủ yếu chính phương thức thỏa thuận phân định biển, hai bên nhận ra phía Vịnh Bắc Bộ và khu vực tổng thể không cân bằng lợi ích chung. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Việt Cộng tiếp nhận trái đắng hòa bình trên đôi môi Bắc Kinh
Nhìn lại, Việt Cộng-Trung Cộng phân chia đất nước Việt Nam qua đàm phán lãnh thổ biên giới đất liền và lãnh hải tại vùng Vịnh Bắc Bộ đã có quá nhiêu mâu thuẫn bên trong đàm phán, gián tiếp cho phép Trung Cộng chủ động lần lượt xoắn từ từ lấy trọn vẹn tài nguyên biển Việt Nam. Từ năm 1992 trở đi kết quả phân giới cắm mốc hoàn toàn bất thường, ai mạnh người đó kiểm soát và thừa hưởng gia tài Việt Nam.
Sau khi "Kỷ yếu" bí mật Thành Đô 1990) có hiệu lực, Việt Cộng khởi động "mất nước còn đảng" chấp hành mệnh lệnh 16 chữ vàng "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng tốt và hợp tác toàn diện" và nghiêm thủ áp dụng lịch trình đàm phán theo thỏa hiệp: - 18 năm đàm phán biên giới đất liền (1990-2008), 20 năm đàm phán Biển Đông (1990-2010), 30 năm đàm phán thuộc quốc (1990-2020) [1].
Hôm nay chúng tôi xin trình bày trước 10 năm đàm phán Vịnh Bắc Bộ (1990-2001), theo lịch trình đã đàm phán: 2 lần đàm phán cấp chuyên viên, 7 lần đàm phán cấp Chính phủ, 3 lần đàm phán cấp Thứ trưởng, 3 lần đàm phán cấp Nhóm chuyên gia, 6 lần đàm phán cấp Nhóm chuyên gia thủy sản, 7 lần đàm phán cấp Nhóm chuyên gia bản đồ ngoài thực địa, 18 lần đàm phán cấp Nhóm công tác phân định Vịnh Bắc Bộ. [2] Trung Cộng quá vui mừng tiết lộ về chiến thắng phân định lãnh hải, lấy được vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, qua mưu sách mật độ thâm giao "Tình đồng chí, tình anh em" và độc đáo trong lịch sử ngoại giao của Trung Cộng, nhờ những "mật nghị" với Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Duy Niên, Nông Đức Mạnh và Trần Đức Lương và hiện nay "10 hiệp ước" của Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng v.v...
Ngày 24 tháng 12 năm 2000, Chủ tịch Việt Nam Trần Đức Lương chính thức thăm Trung Quốc. Ngày 25, Giang Trạch Dân hội đàm chính thức với Trần Đức Lương, hai nhà lãnh đạo đánh giá cao về biên giới. Sau cuộc hội đàm, hai nguyên thủ quốc gia cùng tham dự buổi lễ ký kết 2 Hiệp ước "Hiệp định Trung Quốc-Việt Nam phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ".
Lễ ký kết được tổ chức tại Đại lễ đường Bắc Kinh. Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Niên thay mặt chính phủ ký "Hiệp ước Trung Cộng-Việt Cộng hợp tác đặc quyền kinh tế" và "Hiệp định phân định thềm lục địa". Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Trần Diệu Bang và Bộ trưởng Bộ Thủy sản Việt Nam Tạ Quang Ngọc (Xie Guangyu) đã ký "Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ".

Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (L) và đối tác Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng (R) dấu hiệu trên các tài liệu về việc phê duyệt hiệp ước phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ ký tại Hà Nội ngày 30 tháng 6 năm 2004. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Ngày 25 tháng 6 năm 2004. Sau khi ký kết những hiệp định, mỗi bên theo quy định của pháp luật phê chuẩn công bố hiệu lực. Quốc hội Nhân dân Trung Quốc lần thứ X, thông qua cuộc họp "Hiệp định phân định vùng Vịnh Bắc Bộ". Trước đó, vào ngày 15, Quốc hội Việt Nam lần thứ XI phê chuẩn thông qua 2 văn bản "Hiệp ước Trung Cộng- Việt Cộng hợp tác đặc quyền kinh tế" và "Hiệp định phân định thềm lục địa".
Ngày 30 tháng 6 năm 2004 tại Hà Nội. Quan hệ Trung- Việt đàm phán biên giới, người đứng đầu phái đoàn Trung Quốc, Thứ trưởng Ngoại giao Vương Nghị và người đứng đầu phái đoàn Chính phủ Việt Nam Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Dũng trao đổi "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" đã phê chuẩn.
Cùng ngày hai Bộ Ngoại giao trao đổi những điều ghi chú trong "Hiệp định Việt Nam hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định phân định vùng Vịnh Bắc Bộ", đồng thỏa thuận công bố hiệu lực.
"Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ mở rộng", hai bên Trung Quốc và Việt Nam xác định chủ quyền tại ranh giới biển, còn lại các đường ranh giới Vịnh Bắc Bộ từ cửa biển xuyên biên giới sông Bắc Luân, khoảng mở rộng về phía Nam đã thỏa thuận niêm phong hàng hải tại phía Bắc của Vịnh, là khoảng năm trăm (500) cây số.

"Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ mở rộng". Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Trung Cộng ngạo mạn, Việt Cộng quá đê nhục
Chuyển giao thế kỷ 21, thông qua các nỗ lực chung của Trung Cộng và Việt Cộng, nay giải quyết thành công được hai vấn đề lớn về biên giới mà từ lâu Trung Cộng tố cáo Việt Cộng trì trệ quan hệ song phương, tuyên bố:
− Ngày nay quan hệ song phương Trung-Việt sẽ phát triển sâu rộng biên giới, phục vụ các lợi ích cơ bản và lâu dài cho nhân dân hai nước; "Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt" và "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ mở rộng", đánh dấu hai nước hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác biên giới đất liền và biên giới biển, mà còn tiếp tục làm phong phú thêm song phương 16 chữ vàng "ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng tốt và hợp tác toàn diện", (Trường kì ổn định, diện hướng vị lai, mục lân hữu hảo, toàn diện hợp tác) [3] theo khuôn khổ ý nghĩa quan hệ thuộc quốc, để thúc đẩy sự phát triển lành mạnh và ổn định quan hệ của hai nước trong thế kỷ mới, đặt trên nền tảng vững chắc.
"Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ mở rộng" đã có hiệu lực, đánh dấu sự ra đời một biên giới biển đầu tiên của Trung Cộng. Việt Cộng thông qua tham vấn của Trung Cộng, giải quyết thành công giữa hai nước trong Vịnh Bắc của vấn đề phân định biển, pháp luật của chế độ biển phù hợp với thực hành hiện đại.

Hải giám Trung Cộng kiểm soát vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.

Mở rộng phân định biển Vịnh Bắc Bộ Việt Nam, đã thể hiện đầy đủ lòng người hàng xóm của Trung Cộng thông qua một "giải pháp thương lượng" [4] với các vấn đề phân định biển, Việt Cộng chân thành có liên quan sâu sắc với Trung Cộng, sẽ giúp tăng cường tin cậy lẫn nhau giữa Trung Cộng và các nước láng giềng trong các đại dương xung quanh, thúc đẩy sự phát triển của mối quan hệ của Trung Cộng với các nước láng giềng, quan trọng đối với việc duy trì hòa bình và ổn định.
Việt Cộng để giải quyết đất đai biên giới, phía bắc Vịnh Bắc Bộ kinh nghiệm cho thấy không tranh chấp khi phân định biển chỉ bằng cách tôn trọng những cơ sở luật pháp quốc tế, có sự tham khảo thông lệ quốc tế, tôn trọng lịch sử và khách quan sự thật, xem xét các lợi ích cơ bản và lâu dài của nhân dân hai nước, tư vấn bình đẳng, hiểu biết lẫn nhau, tìm kiếm công lý giải pháp công bằng và hợp lý để đạt được kết quả chiến thắng liên tục.
Để đạt được một kết quả chiến thắng này nhờ Việt Cộng tôn trọng lịch sử và thực tế của Trung Cộng. Ở đây, tôn trọng lịch sử và tôn trọng sự thật khách quan không phải là mâu thuẫn nhưng mục đích bổ sung để hiểu tại sao sự việc xảy ra, để hiểu rõ hơn tình hình thực tế, để làm rõ sự khác biệt của Việt Cộng và tranh chấp, khác biệt và tranh chấp nội dung, tính chất và mức độ thực hiện bản án chính xác thuận lợi để tìm giải pháp tốt hơn. Tiêu chuẩn để đánh giá sự thành công của các cuộc đàm phán giữa hai bên dựa trên lịch sử, địa lý, chủ quyền, quyền tài phán và quyền lợi chính sách thực dụng, công bằng, hợp lý, hợp pháp, lợi ích của hai bên đã chính thức hiệu lực và được duy trì hai nhà nước tốt. [5]
Nếu như Việt Cộng phổ biến những sự kiện lịch sử này thì hay biết mấy, nếu "Bác" của đảng phát biểu như Trung Cộng vì quyền lợi của nhân dân, tất nhiên quá tuyệt vời. Tại sau vậy, bởi vì đảng không có gì để thể hiện lòng thành đối với nhân dân Việt Nam! Ôi rất tiếc nhân dân Việt Nam đã quá thiệt thòi, đôi vai nặng trĩu chịu đựng kiếp người và đã mệt mỏi ý chí, sống dưới chế độ vô hồn, tuy có chính phủ nhà nước Cộng sản cũng như không bởi nó độc trị.
Cho đến nay đã có câu trả lời thỏa đáng, Việt Cộng thực sự đầu hàng Trung Cộng, chấp nhận "đảng còn nước mất" để rồi ký vào "Hiệp ước biên giới đất liền Trung-Việt" và "Hiệp định mở rộng phân định Vịnh Bắc Bộ", do Trung Cộng chủ động soạn thảo và Việt Cộng vô tư ký!
_______________

Chú thích:
[1] - 18年陆地边界谈判 (1990-2008年), 20年的谈判中海 (1990-2010), 30岁以下的联合国谈判 (1990-2020).
[2] - 10年谈判北部湾 (990-2001年) 的, 按照协商的时间表: 2谈判专家级, 7级政府的谈判, 3次副部长级会谈, 3倍的水平谈判团队专家介绍, 6级的渔业谈判专家小组, 7次野外地图上水平谈判小组, 北部湾的18倍, 工作组级别会谈划界。
[3] "长期稳定, 面向未来, 睦邻友好, 全面合作".
[4] Sự sống còn của một dân tộc trên căn bản đàm phán với đối phương, không thể áp dụng "giải pháp thương lượng" đồng nghĩa chấp nhận nhượng địa của Việt Nam cho Trung Cộng theo như lời Tiền Kỳ Tham tuyên bố "giải pháp thương lượng". Sau đó Việt Cộng ngoan ngoãn cặm cụi thi hành, cho thấy Việt Nam không còn chủ quyền quốc gia.
[5] Báo cáo Điện thoại: 010-64192948 ngư nghiệp Trung Quốc Command Center.
Bộ Nông nghiệp, Thủy sản và câu cá Harbor giám sát khu vực biển Nam Trung Hoa 020--87776584.


Bộ ngoại giao TQ công bố 5 bằng chứng bán nước của ĐCSVN

CTV Danlambao - Hôm 8/6/2014, trang web của Bộ ngoại giao Trung Quốc đã cho đăng một bản tuyên bố mang tên "Giàn khoan 981 hoạt động: Sự khiêu khích của Việt Nam và lập trường của Trung Quốc". Trong đó, phía Trung Quốc đã chính thức cho công bố 5 bằng chứng bán nước không thể chối cãi của chế độ cộng sản Việt Nam dưới quốc hiệu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Những bằng chứng động trời này một lần nữa khẳng định: đảng cộng sản Việt Nam chính là một tập đoàn Việt gian phản quốc. Thậm chí, đến cả những ai còn mù quáng nhất cũng không thể phủ nhận hành vi bán nước ô nhục của đảng cộng sản Việt Nam.
Bản tuyên bố được viết bằng tiếng Anh trên trang web Bộ ngoại giao Trung Quốc, sau đó lập tức được Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc-CRI chuyển sang tiếng Việt.
Trong phần IV của bản tuyên bố, phía Trung Quốc đưa ra các bằng chứng cho thấy chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do đảng cộng sản cầm đầu đã thừa nhận quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) thuộc chủ quyền Trung Quốc.
"Trước năm 1974, các khóa Chính phủ Việt Nam không hề đưa ra bất cứ nghị dị đối với chủ quyền quần đảo Tây Sa của Trung Quốc, bất cứ trong tuyên bố, công hàm của Chính phủ Việt Nam hay là trên báo chí, tạp chí, bản đồ và sách giáo khoa của Việt Nam đều chính thức công nhận quần đảo Tây Sa từ xưa đến nay là lãnh thổ của Trung Quốc", bản tuyên bố ngày 8/6/2014 của Bộ ngoại giao Trung Quốc viết.
*

Dưới đây là trích đoạn phần nói về 5 bằng chứng bán nước của đảng cộng sản Việt Nam do Bộ ngoại giao Trung Quốc công bố:

Bằng chứng số 1:
Ngày 16/5/1956, trong buổi tiếp Đại biện lâm thời Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam Lý Chí Dân, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Ung Văn Khiêm trịnh trọng bày tỏ: "Căn cứ vào những tư liệu của Việt Nam và xét về mặt lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là thuộc về lãnh thổ Trung Quốc". Vụ trưởng Vụ châu Á Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Lộc còn giới thiệu cụ thể hơn những tư liệu của phía Việt Nam và chỉ rõ: "Xét từ lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đã thuộc về Trung Quốc ngay từ đời Nhà Tống".

Bằng chứng số 2:



Ngày 4/9/1958, Chính phủ Trung Quốc ra tuyên bố, tuyên bố chiều rộng của lãnh hải Trung Quốc là 12 hải lý, dứt khoát nêu rõ: "Quy định này áp dụng cho tất cả mọi lãnh thổ của nước Cộng hoa Nhân dân Trung Hoa, trong đó bao gồm quần đảo Tây Sa". Ngày 6/9, trên trang nhất của "Báo Nhân Dân"-cơ quan Trung ương của Đảng Lao động Việt Nam đã đăng toàn văn bản tuyên bố lãnh hải của Chính phủ Trung Quốc. Ngày 14/9, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Văn Đồng đã gửi Công hàm cho Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Chu Ân Lai, trịnh trọng bày tỏ: "Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận và tán thành tuyên bố về quyết định lãnh hải công bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa", "Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định này".

Bằng chứng số 3:
Ngày 9/5/1965, Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra tuyên bố về việc Chính phủ Mỹ lập "khu tác chiến" của quân Mỹ tại Việt Nam, chỉ rõ: "Việc Tổng thống Mỹ Giôn-xơn xác định toàn cõi Việt Nam và vùng ngoài bờ biển Việt Nam rộng khoảng 100 hải lý cùng một bộ phận lãnh hải thuộc quần đảo Tây Sa của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoà là khu tác chiến của lực lượng vũ trang Mỹ", đây là đe dọa trực tiếp "đối với an ninh của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước láng giềng".

Bằng chứng số 4:


Tập "Bản đồ Thế giới" do Cục Đo đạc và Bản đồ Phủ Thủ tướng Việt Nam CS in ấn xuất bản tháng 5/1972 đã ghi chú quần đảo Tây Sa bằng tên gọi Trung Quốc.

Bằng chứng số 5:



Trong sách giáo khoa "Địa lý" lớp 9 Trung học phổ thông do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam xuất bản, có bài giới thiệu "Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" viết: "Từ các đảo Nam Sa, Tây Sa đến đảo Hải Nam, đảo Đài Loan, các đảo Bành Hồ, quần đảo Châu Sơn..., các đảo này có hình vòng cung, tạo thành bức 'Trường Thành' bảo vệ Trung Quốc đại lục".

*

Cũng trong bản tuyên bố ngày 8/6, phía Trung Quốc cũng nêu cáo buộc nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam "đã nuốt lời cam kết của mình" khi tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cho đến thời điểm này, nhà cầm quyền CSVN chưa hề đưa ra bất cứ tuyên bố chính thức nào trước việc Trung Quốc cho công bố 5 bằng chứng bán nước như trên.

Một sự im lặng nhục nhã đối với tập đoàn Việt gian bán nước.

Huỳnh Tâm
tháng 11/2014

 

 

 

Đăng ngày 30 tháng 12.2017