Nói về Duyên Anh

Nguyễn Vy Khanh


Hưng Việt: Thưa anh Vy Khanh, trước hết xin anh lược qua tiểu sử của anh?

Nguyễn Vy Khanh: Tôi sanh năm 1951 tại Quảng Bình nhưng mới một tuổi đã được bố mẹ đưa vào Huế rồi từ năm tuổi vào sống hẳn ở Sài Gòn. Hơn một năm trước khi rời Việt Nam cuối tháng 4-1975, tôi được bổ nhiệm dạy trung học tại Nha Trang. Thơ văn khởi từ trên ghế trung học nhưng chỉ có một tập thơ mỏng Khung Cửa in giới hạn năm 1972. Viết tiểu luận triết lý từ năm đệ Tam và bắt đầu nghiên cứu triết đông phương và văn học sử khi học ở đại học Sư Phạm Sài Gòn khoảng 1970. Rời Nha Trang đầu tháng Tư 1975 và Sài Gòn ngày 29 sau đó, đến đảo Guam rồi Canada, một năm sau đi học tiếp Cao học Quản Trị Thư viện và làm công chức ngay sau khi nhập quốc tịch Canada đầu năm 1979 cho đến nay. Hiện sinh sống tại thành phố Montréal thuộc tỉnh bang Québec, Canada.

HV: Anh có quen biết nhà văn Duyên Anh không? Nếu có xin anh cho biết trong trường hợp nào ?

NVK: Tôi thuộc thế hệ đàn em, quen Duyên Anh vì hai lý do : nhà tôi ở Tân định, qua cầu Phú Nhuận một quãng là cư xá nhà Duyên Anh nơi tôi có một số bạn bè học chung trung học đệ nhất cấp, thứ nữa tôi từng là BB (Nhật Lệ nếu tôi nhớ không lầm!) có thơ đăng trên phụ trang nhật báo do Duyên Anh phụ trách và có được mời đến tòa báo một đôi lần ở đường Hồ Xuân Hương. Khi Búp Bê trở thành tuần báo, tôi đã qua tuổi … BB, bắt đầu trung học đệ nhị cấp, bạn bè lúc ấy đã gọi tôi là “ông cụ non”!

HV: Xin anh cho biết thêm về sự liên hệ giữa nhà văn Duyên Anh và tuổi trẻ VN trong các tác phẩm của ông trước và sau năm 1975?

NVK: Câu hỏi này, tôi xin trích vài đoạn của bài tôi viết cách đây đã năm năm, lúc bấy giờ tôi chỉ nói sơ lược giai đoạn sau 1975 :

“(…) Tuổi thơ được Duyên Anh chăm sóc rất kỹ trong văn nghiệp của ông. Trước hết với Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ, bộ truyện gồm 6 quyển mà khung cảnh là tỉnh lỵ Thái Bình những năm 1944-1954: Thằng Vũ, Thằng Côn, Thằng Khoa, Con Thúy,… Thằng Vũ được khởi viết vào những năm cuối cùng làm công chức trước cách mạng 1-11-1963. Tuổi thơ lồng trong thảm cảnh của chiến tranh, của tù đày, bạo động, phản trắc, của chia cách, của những vùng tề, vùng tiếp thu. Bộ truyện Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ là “lịch sử mười năm được nhìn và suy nghĩ bởi tuổi thơ. Điều tôi định sẽ nói lên trong Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ là con người sẽ xây dựng lại tất cả, nhưng sự đổ vỡ về tình người thì không thể xây dựng lại được” (11), vì xuất phát từ nỗi thất vọng của tác giả về chiến tranh, về cái hoàng hôn xám tình người lạnh lẽo và hờ hững. “Tất cả cho cách mạng Tháng tám. Còn gì nữa mà cho. Vàng cho hết rồi. Niềm tin cho hết rồi” (Con Thúy, tr. 187). Cách mạng đã cướp mất tuổi thơ, đã khiến tuổi thơ sống đày đọa trong khói lửa và bạo động. Cách mạng dạy con người đánh mất tính người.
Đến các truyện Dzũng Đa-Kao, Chương Còm, Bồn Lừa, Hưng Mập, … một tuổi nhỏ mới của miền Nam phải đương đầu với chiến tranh mới Bắc-Nam. Tuổi thơ này muốn làm anh hùng dân tộc (Mơ thành người Quang Trung), thủ quân kiêm trung phong của đội tuyển thiếu niên làm đẹp dân tộc (Bồn Lừa). Đưa trẻ em hư hỏng ở vỉa hè vô trường học (Giặc Ô-Kê). thành thị kết tình với tuổi thơ nông thôn (Hạ Ơi), kinh với thượng (Gấu Rừng). Có khi tuổi thơ chỉ mơ hết nghèo khổ, được bước chân vào lớp học. Giấc mơ của những em bé đánh giày được có ăn, có mái ấm gia đình, được đến trường (Luật Hè Phố).

Một tuổi thơ dù ở Bắc ở Nam, trước hay sau 1954, con nhà giàu (Hoàng Dung, Elvis Dậu, Chương Còm, Đoàn Dự, Thiện Mông Cổ, ..) hay nghèo (Thằng Vũ, Bồn Lừa, Dũng Đa-Kao, Danh Ná, ..) hay con lai rơi rớt (Jimmy, Bill, Jack, ..), tất cả đều là những ánh bình minh rực rỡ tình người, rộn ràng tình bạn, những thương yêu trìu mến. Dù ngoại cảnh đầy bạo động, chiến tranh, máu và nước mắt. Duyên Anh viết cho tuổi thơ vì ông “không có tuổi thơ”, “thèm tuổi thơ nên viết để giải tỏa những uẩn ức, những thèm khát” (1) như ông đã từng thú nhận sau này. Viết về tuổi thơ cũng là viết về gia đình, quê hương bỏ lại khi đã di cư vô Nam. Nếu đúng như tiết lộ của nhà văn Đỗ Tiến Đức bạn thân với Duyên Anh từ khi cả hai di cư vô Nam ở chung trại tạm trú, Duyên Anh đã để vợ con lại quê nhà ngoài Bắc, người đọc có thể hiểu thêm nỗi lòng nhớ vợ con của ông. Duyên Anh lập lại cuộc đời mới trong một hoàn cảnh éo le dễ được thông cảm, dù gia đình mới trong Nam ông vẫn chứng tỏ chồng cha gương mẫu. Viết về tuổi thơ là Duyên Anh viết cho ông, với tình thương cho cô con gái ngoài Bắc và với hạnh phúc ba đứa con trong Nam.

Cái tuổi thơ trong tác phẩm của Duyên Anh cũng như trong tác phẩm của Thanh Tịnh, Nguyên Hồng, Tô Hoài, v.v... của văn chương Việt Nam là tuổi thơ văn chương, tuổi thơ của mọi người và nhiều người, tuổi thơ đã phổ quát. Tuổi thơ đã qua đã sống của mỗi người đã trở thành một phần đời, phần trời gió có thể đã thoảng trôi mà cũng có thể đã ảnh hưởng đến cả phần đời người lớn, cả sự nghiệp, chí hướng. Đối với nhiều người, tuổi nhỏ trở thành khung trời trú ẩn, thành một vùng tâm thức kỳ diệu ủi an để quay về khi con người phải đương đầu với những thực tế ê chề, khó khăn. Một cõi sống có thể thần linh – người ta vẫn nói thiên đàng tuổi thơ. Một cõi sa mù hay kỳ diệu có giá trị trị liệu. Ngày hôm nay khô cằn hoặc chỉ còn là bã là rác sẽ cần đến khoảng sống thần tiên đó để làm mới lại cuộc đời, chỉnh đốn lại cái sống, làm mạnh cái sống. Và ngược lại, tuổi thơ có thể như một căn bệnh kinh niên bất trị, như một sổ mũi, nhức đầu nhè nhẹ rồi qua đi nhưng sẽ luôn trở lại. Tuổi nhỏ đó còn là tiềm thức hay vô thức sẽ ảnh hưởng hiện tại và ý thức của con người. (…)

Đặc điểm của văn chương tuổi nhỏ còn ở nơi ngôn ngữ. Một ngôn ngữ bình dị hồn nhiên mà trong sáng. Thành công của Duyên Anh khiến ông một thời trở thành hiện tượng, phần lớn do ở những tác phẩm về tuổi thơ nói trên. Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt dù không biết Trà Lý ở đâu nhưng đã phải công nhận “Hình ảnh thiên đường và đất hứa của tuổi trẻ trong tác phẩm của Duyên Anh, tuổi trẻ được phục sinh vừa thơ mộng kỳ diệu, vừa phẫn nộ trong lầm than một vùng nhân thế” (11).

Tuổi trẻ
Duyên Anh viết và xuất bản những tác phẩm về tuổi trẻ khi miền Nam đang trên đà xây dựng, tổ chức và các phong trào thanh niên sinh viên học sinh được các chính quyền đệ nhất và đệ nhị cộng hòa phát động cũng như tổ chức. Và kẻ thù cũng đã có những xâm nhập. Tuổi trẻ xuống đường, chống độc tài (hiến chương Vũng Tàu), chống chính khách xôi thịt, chống Mỹ, … và chống cả đi lính, đòi hòa bình, thống nhất đất nước.
Trong khi đó tuổi trẻ của Duyên Anh lãng mạn nhưng có ý thức và yêu nước. Lãng mạn, theo những tập đoàn cách mạng một cách thành tâm nhưng ngây thơ trước thủ đoạn. Ảo Vọng Tuổi Trẻ kể chuyện những người trẻ tuổi đi làm cách mạng, chống độc tài và cộng sản, lên cao nguyên, về miền Đông và thủ đô rốt cục bị lãnh tụ lừa gạt, đi đêm với quyền lực và chức tước. Tuổi trẻ bị ảo vọng, ‘thua bạc’, mất cả vốn liếng lý tưởng và tuổi trẻ, đâm ra phẫn nộ. Họ “đã ngủ sầu trong đất”, không cần đến những đàn anh thê thảm và khốn nạn.

Duyên Anh trong Ngựa Chứng Trong Sân Trường tiếp tục ý hướng giáo dục, muốn đề cao tình nghĩa trong một xã hội đầy bạo động và giá trị văn hóa không còn. Rồi trong “tâm bút” Bò Sữa Gặm Cỏ Cháy, Duyên Anh đã mong tạo được những thần tượng thiếu niên nhi đồng và đào tạo được một thế hệ hết mình bảo vệ miền Nam và ngăn chặn đám giải phóng theo chỉ thị của miền Bắc, ngay từ những lứa tuổi 14, 15. Võ Trụ trong Bò Sữa Gặm Cỏ Cháy “quên thân mình cứu người phi công Mỹ lâm nạn” (tr. 34), Danh Kê cướp xuồng máy và súng của cộng sản ở Kiên Giang để khi lớp “đàn anh chết đi, có thể vững dạ tin tưởng ở thế hệ rường cột xâm mình chiến đấu, chiến thắng cộng sản” (tr. 43).

Nếu các truyện về tuổi thơ là chuyện của Duyên Anh và bạn bè trang lứa thì những tiểu thuyết về tuổi trẻ đã là kết hợp từ những kinh nghiệm cá nhân của tác giả thời mới vô Nam và cả khi làm báo, công chức.
Tuổi trẻ bụi đời và du đãng là hai loại tiểu thuyết mà Duyên Anh đã hơn một lần phân biệt hai khuynh hướng đó. Tuổi trẻ bụi đời, trẻ mồ côi có Luật Hè Phố và Dấu Chân Sỏi Đá. Luật Hè Phố là thế giới của Danh, Lựa, Dân, vv những đứa trẻ đánh giày, ở viện mồ côi ra, sống bụi đời, không lựa chọn; là thế giới của bọn đầu trâu như Quý Đen, vua đánh giày. (…)

Đến loại tiểu thuyết gọi là du đãng, Duyên Anh đã cẩn thận nhấn mạnh : “Tuổi trẻ bơ vơ, thèm xả thân cứu giúp đời, mà rốt cuộc tinh thần hào hiệp đó biến thành tinh thần du đãng” (ĐRNM, tr. 107). Đã hơn một lần, cũng trong Điệu Ru Nước Mắt, Duyên Anh nói về những người trẻ tuổi này là “những thằng trong sạch nhất trong xã hội” (tr. 274), “du đãng nhiều thằng lương thiện gấp bội những thằng to tiếng đòi giáo dục du đãng” (tr. 107) hay “xã hội du đãng cũng ăn đứt xã hội đạo đức giả”. Chúng nỗi loạn vì cô đơn, “nổi loạn tâm hồn” vì “bất mãn gia đình, học đường, tổ quốc”, hoặc thù đời, “khinh miệt cuộc đời, vì cuộc đời cứ coi nó là du đãng ” (tr.81).
Thất vọng một xã hội không có chỗ đứng, bất mãn trước bất công xã hội, chúng “nổi loạn đánh chém, hiếp dâm, cướp ngày, tống tiền để trả thù xã hội”, “sống tách riêng ra một xã hội” (tr. 107) . Nổi loạn làm du đãng như không còn lựa chọn. Vết Thù Hằn Trên Lưng Con Ngựa Hoang: chuyện Du Chột bắt cóc đòi tiền chuộc nhà buôn giàu không thành vì Hoàng Guitar đàn em của hắn quyết chí trở lại con đường lương thiện làm sai kế hoạch. Chuyện hoàn lương cũng không dễ một khi đã ở lâu với xã hội đó, cuối cùng trở thành thảm kịch. Hoàng Guitar có học, biết điều, giang hồ đã cuối cùng muốn sống như mọi người có vợ có con và đủ ăn mà cũng không thể được trong một xã hội nhiều mắc lưới đó. (…)
Xã hội này có luật lệ của nó nhưng cũng có những phẩm tính tốt như chúng yêu thương nhau, biết đùm bọc nhau. Có tuổi trẻ vì hoàn cảnh mà đi du đãng như Trần Đại, Nguyễn Đạm, Trần Long, Trần Thị Diễm Châu, Lê Hùng, v.v. đã học xong trung học, có đứa đậu cả tú tài Pháp. Chúng cũng hào hoa phong nhã và “rất nghệ sĩ”. Một đính chính cho cảm thông. Vì tuổi trẻ đường xá này sẽ chấp nhận hoàn lương, vào trường các nữ tu như trong Trần thị Diễm Châu “xã hội không cải thiện cuộc đời của du đãng thì nội trú Hòa Hưng sẽ cải thiện họ”. Và tuổi trẻ du đãng cũng sẽ nhập ngũ làm bổn phận công dân thời chiến. Một nhân vật của Sa mạc tuổi trẻ : “quân đội là nơi lý tưởng nhất để nó làm lại cuộc đời” và “kỷ luật quân đội dạy người lính trở nên chín chắn, biết yêu biết ghét đúng đắn” (tr. 337). Trần Đại của Điệu Ru Nước Mắt được đàn em James Dean Hùng khen “Anh Trần Đại được làm tướng đi đánh nhau với cộng sản, chắc chắn anh ấy thương lính của anh ấy như thương chúng mình, anh ấy lại ‘cừ’ nữa, cộng sản cứ gọi là hết ngáp…” (tr. 274).”

HV: Còn về mặt chính trị, anh nhận định thế nào về tư tưởng chống cộng của nhà văn Duyên Anh, một “Biệt kích văn nghệ cực kỳ nguy hiểm của chế độ”?

NVK: Đây là ngôn ngữ lúc chiến tranh quốc-cộng còn hực lửa tranh giành ai thắng ai, do đó ai cũng có thể là kẻ thù. Bây giờ nhìn lại thì thấy có thể đó là một căn bệnh chung nhưng có thật. Riêng trường hợp Duyên Anh thì rõ là kẻ thù của chế độ cộng-sản : ông là nhà văn mà lại là nhà văn nổi tiếng, được ưa thích, nhất là giới trẻ; sự nghiệp của ông dành phần quan trọng cho tuổi trẻ thơ mộng ở quê nhà Thái Bình của ông cũng như tuổi trẻ hè phố đáng thương ở Sài Gòn; ông lại di cư năm 1954 và cuối cùng, trong tác phẩm ông nhiều lần lý luận chống chủ nghĩa cũng như con người cộng-sản !

HV: Tuy nhiên ở hải ngoại, nhà văn Duyên Anh lại bị cô lập, có phải chăng vì dư luận cho ông là “Ăng ten” (antenne) ? Anh nghĩ gì hoặc biết gì về dư luận trên?

NVK: Chuyện này có nhiều nguyên nhân. Làm ăng-ten hay không ở trong các trại “cải tạo” không ai có thể nắm sự thật hết, ngay cả cai tù cộng-sản. Có người nín thở qua cầu, có kẻ muốn tâng công để được yên thân hoặc về sớm, nhưng những kẻ đáng trách là những kẻ làm hại bạn mình, đồng nghiệp mình đến chết vì thù oán. Sống trong cảnh mất tự do, bị dòm ngó, theo dõi, thì cái chết của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn vốn đã yếu về thể chất, nếu không có bằng chứng rõ rệt thì không thể kết cho Duyên Anh được. Phải nói là người ta nhân cái chết đó để tung hỏa mù thì đúng hơn. Dĩ nhiên sẽ dễ hơn nếu đương sự nhìn nhận và xin lỗi như trường hợp nhạc sĩ VTA.

Khi Duyên Anh ra đến hải ngoại thì đã có một số hồi-ký cải tạo kể những chuyện không thật, Duyên Anh lại cho ra ba cuốn hồi ký (Nhà Tù, Nhìn Lại Những Bến Bờ, Sài Gòn Ngày Dài Nhất) thế là rối rắm thêm và Duyên Anh đã trở thành “nạn nhân tiêu biểu” kéo dài của xã hội miền Nam. Một số nhóm cựu tù cải tạo và kẻ thù của ông trước 1975 hợp nhau để “kết án” ông. Tưởng cũng cần biết là trước 1975, dưới bút hiệu nhà báo Thương Sinh, Duyên Anh đã gây thù chuốc oán khá nhiều, một phần do ông trên đà thành công nổi tiếng, một phần ông bị xúi hoặc mua chuộc và cả đe dọa. Duyên Anh và Thương Sinh đánh không chừa một ai, kể cả giáo sư Nguyễn Văn Trung, nhà văn Trần Phong Giao phụ trách tạp chí Văn (ông TPG mất job ở Văn phần nào đó cũng vì Duyên Anh và áp lực Nguyên Sa), v.v... Cuối cùng người ta nói các cô ca sĩ có yêu nhau bao giờ, áp dụng cũng đúng trong trường hợp Duyên Anh. Duyên Anh và vợ chồng Nhã Ca là những nhà văn nhà báo hiếm hoi nổi “cơ đồ” nhờ vào tác phẩm bán chạy!
Cuối cùng chuyện Duyên Anh bị cô lập và đả thương thành tật nguyền, Duyên Anh vào cuối đời đã không nói đến dù được hỏi [X. phỏng vấn của Đỗ Tiến Đức. “Duyên Anh, cuối đời” trên tạp chí Văn Học CA (131, 3-1997, tr. 108-125)]. Và nếu muốn công bằng cũng nên xét đến đời tư riêng của Duyên Anh vào những năm cuối cùng!

HV: Cách đây không lâu anh đã có một bài viết về nhà văn Duyên Anh, xin anh cho biết động cơ nào thúc đẩy anh làm việc này ?

NVK: Bảy năm trước đây, tôi bắt đầu viết thử một tập văn học sử biết gì nói nấy cốt để lại cho giới trẻ hơn, sau hơn hai mươi năm nghiền ngẫm và đọc, mục đích để ghi lại phần nào chân dung của một nền văn học bị kẻ chiến thắng cưỡng chiếm miền Nam sổ toẹt. Một trong những tác giả tôi bắt đầu xem lại và viết là nhà văn Duyên Anh.

HV: Được biết bài viết của anh đã gặp nhiều khó khăn khi phổ biến qua báo chí, anh có thể giải thích lý do về hiện tượng bất bình thường đó ? Phải chăng một “thế lực ngầm” nào đó cản trở các báo, tạp chí đó nói về Duyên Anh?

NVK: Như câu hỏi các em đã nói đến “thế lực ngầm”, tôi cũng nghĩ thế! Các tạp chí về văn học người Việt ở hải ngoại tập trung ở Quận Cam California, ở đó đã thành một xã hội mà người sống nương, nể nhau mà sống (kể cả áo thụng vái nhau). Thế lực đó còn nhìn thấy trong vụ Duyên Anh bị đả thương mà không ai dám cứu, ngay cạnh phòng mạch bác sĩ Việt Nam nào đó cũng là nhà văn! Rồi ngay cả vài người từng là bạn của Duyên Anh trước khi ông mất cũng trở nên “rét” khi ông đã thật sự ra đi! Con người ta vì sống còn, vì muốn giữ “danh giá” còn sót lại nên họ phải đồng minh, nương nhau mà sống và bỏ rơi người bị đa số hay thiểu số hiểu lầm, ngộ nhận! C’est la vie, quelle misérable vie!

Qua kinh nghiệm này và một số liên hệ với giới văn hóa và viết lách hải ngoại sau đó, tôi cũng nhận ra có những quyền lực vô hình khiến cho một số sinh hoạt của người Việt ở ngoài nước trở nên bất bình thường.

HV: Anh Lê Xuân Quỳnh, trước năm 1975 làm việc cho Việt Tấn Xã, đã ở chung trại cải tạo với hai anh Duyên Anh và Nguyễn Mạnh Côn. Anh Quỳnh đã viết một bài rất dài và đầy đủ về cái chết của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn hoàn toàn không dính dáng đến anh Duyên Anh. Tại sao các hội đoàn văn bút hải ngoại không làm sáng tỏ sự việc để rộng đường dư luận? Một thông cáo chính thức – đặc biệt là văn bút – chắc chắn sẽ xóa bỏ những tin đồn thất thiệt về anh Duyên Anh. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa thấy!!! Như thế, theo anh, có phải thù oán cá nhân là nguyên nhân chính về tin đồn “Duyên Anh ăng ten”?

NVK: Như đã trả lời ở câu hỏi trên, tôi tin rằng tin đồn đó do nhiều nguồn : 1) tư thù và ghen tương cá nhân, 2) chính quyền cộng-sản trong nước (nên nhớ Duyên Anh không được xuất ngoại theo gia-đình qua Pháp năm 1983 – mà phải vượt biên cùng năm 1983). Còn chờ đợi ở Văn Bút, nên quên thì hơn!

HV: Làm sao để phục hồi lại danh dự cũng như đặt nhà văn Duyên Anh vào đúng vị trí xứng đáng của ông?

NVK: Danh dự như là nhà văn thì tôi nghĩ Duyên Anh đã có và sẽ còn tồn tại lâu dài khi nào vẫn còn tình yêu và tuổi thơ cần có một thế-giới riêng, khác người lớn. Những người yêu quí văn tài Duyên Anh xin cứ tiếp tục tiếp nhận và cảm nghiệm những gì tích cực và đẹp trong tác phẩm của ông, như sư huynh Pierre Trần Văn Nghiêm đã có dịp dịch truyện của Duyên Anh ra tiếng Pháp (Enfants de Thai-Binh, Colline de Fanta) và viết về Duyên Anh trên các tạp chí Pháp. Ngày hôm nay làm được gì cứ làm, nếu không, thời gian cũng sẽ trả lời. Chiến tranh Nam-Bắc đã chính thức chấm dứt từ ngày 30-4-1975, nhưng cuộc chiến đó đến nay, 27 năm sau, vẫn chưa hoàn toàn ngã ngũ, cần nhiều thời gian nữa thì những sự thật sẽ lộ diện lại như là sự thật (cũng như những giả dối, tuyên truyền, mạo nhận, bôi bác, v.v.).

HV: Anh đã đọc các bài thơ của anh Duyên Anh? Có thể cho chúng em một vài nhận xét , quan điểm của anh về thơ Duyên Anh?

NVK: Thơ Duyên Anh không có gì đặc sắc về văn học : đơn sơ, bình dị; nhưng được viết bởi tấm lòng thành thật và yêu đời.

HV: Là một nhà văn, anh nhận định như thế nào về các đóng góp của nhà văn Duyên Anh trong nền văn học cận đại.

NVK: Tôi lại phải dùng lại những nhận xét của mình trong bài đã viết :

“(…) Trong hơn hai mươi năm văn học miền Nam, Duyên Anh đã là một trong số những hiện tượng văn học. Hiện tượng trước hết vì ông viết nhiều, sau vì ông có hẳn một chủ trương làm văn học và có đường lối văn chương của ông. Viết nhiều và các tác phẩm về sau có khi hay lập lại, có khi trích dẫn thơ văn quá độ. Nếu trong nhiều tiểu thuyết xã hội ông liên tục tấn công cái Ác và đề cao tình người hay cái Thiện thì trong bộ truyện Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ, Duyên Anh liên tục làm sống cái xã hội và con người hiền hòa, thơ mộng. Hiện tượng vì sau hết, dù thành công, Duyên Anh vẫn tiếp tục chân thành với người đọc, không huênh hoang, tự cao hay thay đổi lối viết. Ông cũng đã cố gắng tách rời Thương Sinh nhà báo trong văn chương dù có khi yếu ớt. Duyên Anh đã thành công trung thành với người đọc của ông. Chính cái trung thành hỗ tương này làm nên thành công cho tác giả Thằng Vũ, ông trở thành hiện tượng, đại diện cho một giá trị nào đó, trở thành thân thiết, thành cái không thể thiếu, cái tất yếu, phải đọc; người đọc như đồng hóa với nhân vật và xã hội tiểu thuyết của ông, có khi gần mà như xa vì dù đơn sơ, bình dị, thế giới đó, tỉnh lỵ Trà lý hay Sài gòn, nhân vật đó – những thằng Vũ, con Thúy, em tôi, Trần Đại, Châu Kool, … vẫn như xa cách, lý tưởng quá chăng, hài hòa quá chăng – là những cái hiếm có trong xã hội thật. Mộng và thực như đời sống, ở nơi đây nhưng mơ mộng cái lý tưởng và xa xôi. Nếu thế giới thằng Côn con Thúy ở tỉnh lỵ quá đẹp, nên thơ, đáng mộng mơ thì thế giới Trần Đại hay Danh Lựa đánh giày,… quá tàn nhẫn; nhưng ở cả hai xã hội đó, cái ước muốn sống Thiện, sống đời bình thường có cha mẹ gia đình vẫn ở đó, vẫn là cái xương sống, cái lõi của những bầy nhầy khốn nạn trên bề mặt. Khi viết, Duyên Anh đã biết đối tượng của tác phẩm ông: viết cho những người như ông, mơ và sống một cuộc đời bình thường trong đó người đối xử với người với thành tâm, viết cho những người muốn sống bình thường nhưng vì nhiều hoàn cảnh đã không thể được, đã bị bứng ra khỏi thế giới đó. Duyên Anh đã không thuộc vào loại nhà văn viết cho mình, hay viết để mà viết, hay viết mà không cần người đọc, loại văn nghệ sĩ không tưởng, làm dáng, viễn mơ xa người đọc. Ông cũng không đề ra những câu hỏi nhân sinh hóc búa, những lý thuyết cho tương lai xa tầm với. Ông giới thiệu với người đọc những mảnh đời đẹp, có thể thần tiên, có thể khốn khổ. Tác phẩm của Duyên Anh cũng là những trả lời những gì người đọc có thể muốn biết, về cuộc đời, về con người.

(…) Duyên Anh đã là hiện tượng vì ông thuộc về lớp nhà văn đã ảnh hưởng đến người đọc, những người trẻ, những người mất tuổi trẻ, những người sống bằng hoài niệm, bằng kỷ niệm và quá khứ, của người đô thị nhớ về đồng quê dung dị thời thanh bình. Người đọc ông có thể là người di cư từ phía Bắc tuyến 17 phải xa nơi chôn nhau cắt rốn, cũng có thể là người trẻ mới lớn ở miền Nam. Dù sao thì người đọc của ông không ít và ảnh hưởng có thể có của tác phẩm ông đã khiến những người cộng sản khi đã cưỡng chiếm miền Nam đã cấm sách ông và liệt ông vào số những người “biệt kích văn hóa tư tưởng”. Lý do là Duyên Anh đã làm cùng công việc của họ, đã dám ảnh hướng giới trẻ, dám giáo dục giới trẻ như đề cao tình thương yêu, tình người để đối chọi với căm thù và bạo động của cách mạng, đã dám “trồng người”. Duyên Anh đã dám “cạnh tranh” với những huyền thoại của họ như Kim Đồng (Kim Đồng của Duyên Anh trong Thằng Khoa người hơn), Duyên Anh đã tạo dựng những thần tượng tuổi thơ hiền lành nhưng hiểu biết trong tiểu thuyết, nhưng những thần tượng tuổi thơ này đã vượt thế giới tiểu thuyết để đi vào cuộc đời, đã ảnh hưởng giới trẻ trong Nam. Duyên Anh bị kết án “lừa gạt trẻ con”. Phải chăng sự kiện đây có thể giải tỏa nghi vấn về việc Duyên Anh bị đả thương thành tật nguyền ở hải ngoại và đã bị liên tục kết án? Duyên Anh đã “cứng đầu”, vẫn tiếp tục sứ mạng ông tự cho – viết cho tuổi trẻ, viết về tuổi trẻ và ước vọng nhân sinh của chúng.

Nếu nói Duyên Anh “chống cộng” thì là một thứ chống đối tự nhiên của một người dân bình thường không thích chiến tranh hoặc đã phải sống những đổ nát do chiến tranh gây ra. Ông không đưa ra những lý thuyết lớn như nhà văn các nhóm Quan Điểm, Thái Độ, Sáng Tạo,… Ông chống cái Ác và đòi hỏi sự thật và lẽ phải phải được tôn trọng. Ông cũng không viễn mơ vì ông đã nhìn thấy và đã biết với kinh qua thế nào là cách mạng mùa Thu, Duy Dân, là lý thuyết mới về xã hội cộng sản. Có thể ông biết ít, nhưng cái biết của ông đã đủ để ông chống chiến tranh và cộng sản!

Năm 1971, Duyên Anh đã quyết định bỏ nghề làm báo để chỉ làm xuất bản và ra báo cho tuổi trẻ. Quyết định có thể bắt nguồn từ những đụng chạm lớn trong nghề báo, từ những thành công khiến ông đi quá đà gây nhiều hận thù và bớt bạn, nhưng có thể ông đã hối hận về nghề báo đi sai đường hướng văn nghệ của đời mình. Duyên Anh có quá đáng khi làm báo ngoài những lý do bình thường, có thể cái quá đáng đó thúc đẩy bởi ước muốn công bằng xã hội. Bỏ chốn lụn bại báo chí, Duyên Anh trở lại, sống hết mình với thế giới trong sáng của tuổi thơ và tuổi trẻ. Sau 1971, ông đã viết tiếp bộ Vẻ Buồn Tỉnh Lỵ và xuất bản những tiểu thuyết về tình yêu.

Niềm tin ở chân thiện, ở đời sống và con người, Duyên Anh tin một cách chân thành không màu mè; thể hiện ở câu chuyện, cách hành văn, không thuyết lý. Duyên Anh đã viết văn như đã sống với một tâm hồn thẳng thắn dù đã có lúc phải làm bất cứ nghề gì để sống còn, phải làm lại cuộc đời từ số không. Duyên Anh không có ý làm mới ngôn ngữ. Nói chung, ông xử dụng một ngôn ngữ bình thường, dung dị hợp với câu chuyện và nhân vật của ông, tất cả như vừa tầm mọi người. Ngay cả khi ông mơ mộng hay viết về cách mạng.

(…) Duyên Anh viết về giới trẻ du đãng, bụi đời có thể đã đáp ứng một thị hiếu của độc giả; nhưng thiển nghĩ ông không viết về tuổi trẻ này hoàn toàn vì thị hiếu cao bồi du đãng để thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ mà ông còn có một mục đích giáo dục, đề cao với một cái nhìn khá từ bi, thông cảm. Khi viết về tuổi thơ, phải công tâm công nhận văn chương tuổi thơ của Duyên Anh khá trĩu nặng đau buồn của quá khứ, mất mát, có ngụ ý, có cả hối hận. Trong khi đó những nhà văn sau ông như Hoàng Ngọc Tuấn, Từ Kế Tường, Đinh Tiến Luyện,… viết về tuổi thơ và tuổi trẻ với một tâm hồn trong sáng hơn. Không khí tiểu thuyết của họ vui và nhẹ nhàng hơn, thực tế hơn mà tình yêu cũng thật sự mộng mơ gần gũi hơn.

Duyên Anh trong một thời gian dài đã trở thành một hiện tượng văn học vì tác phẩm của ông đã đáp ứng được một phần những nhu cầu của thời đại, những nhu cầu văn hóa, tâm lý, xã hội của đại chúng. Với sự leo thang của chiến tranh, khi xã hội khủng hoảng trầm trọng về văn hóa, đời sống, một số tác phẩm của Duyên Anh với ý hướng giáo dục đã đáp ứng được một số mong đợi. Đừng đòi hỏi ở ông những đáp ứng triết lý siêu hình của thời đại. Duyên Anh chỉ nói tiếng nói của đời sống thường nhật, của những ngừời con, những bậc cha mẹ, những thầy giáo hay những trẻ bụi đời hay thanh niên du đãng. Và ông trung thành với đường hướng đó. Mục đích hay chủ ý trong tiểu thuyết của Duyên Anh cũng dễ nhận ra chứ không phải quanh co, lưỡng nghĩa.

Nhà văn Duyên Anh ngoài gần 50 tác phẩm đã xuất bản trước 1975 còn là tác giả những bài báo dưới nhiều bút hiệu khác nhau (những phóng sự Đi Tầu Suốt, Đầm Giao Chỉ,…) vẫn khiến hơn một người thắc mắc về cái mâu thuẫn con người hai mặt của ông, một thơ mộng và lý tưởng và một thâm độc, trào phúng. Khởi đi từ thế giới đã mất, từ những mơ mộng, Duyên Anh đã đi đến chỗ hẹn hò thỏa thuận với quá khứ và đã đưa người đọc vào một thực tế hàng ngày không giản đơn trước mắt, đã có những ý tích cực cho giới trẻ. Mất tuổi trẻ, sống ly cách, cuộc đời mới khó khăn khiến Duyên Anh có cái nhìn xoi mói về tha nhân có khi quá đà không cần thiết. Cao Thế Dung trên tạp chí Quần Chúng đã cắt nghĩa rằng nếu Duyên Anh “không cho thoát những uẩn ức chất đầy trong đầu óc (ông) bằng những bài báo ngổ ngáo, cay độc, (ông) sẽ không thanh thản mà viết những trang sách hiền lành lý tưởng” (14). Duyên Anh đã tuyên bố : “Tôi đập phá và tôi xây dựng một xã hội tốt đẹp. Cho nên, song song với những bài báo trào lộng là những cuốn sách viết về tuổi thơ hay về tình người. (…) ngôn ngữ phóng sự nhảm nhí, pô tanh đểu cáng hiếm có trong những cuốn sách lý tưởng của tôi…” (4).

Dâng văn chương cho tuổi thơ và quá khứ và không nhất thiết làm văn chương để chống cộng, Duyên Anh đã chọn cái nghiệp chống cộng và đã gánh chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc đời kể cả bị đả thương đến tật nguyền. Những xã hội và tập đoàn nào còn duy trì bất công và bạo động sẽ dễ kết án những người như Duyên Anh, những người đi khêu động những cấm kỵ. Truyện của Duyên Anh dù chỉ là tiểu thuyết đã bị kiểm duyệt miền Nam cắt bỏ (Bò Sữa Gậm Cỏ Cháy bị kiểm duyệt ‘ngâm’ không cấp giấy phép, sau lại cho nhưng cắt 32 trang) và ông đã là một trong số những tên ‘biệt kích văn hóa tư tưởng’ nguy hiểm cho chế độ đối nghịch chế độ thứ nhất. Nghèo, tự lập tự vươn, muốn truyền lại kinh nghiệm, muốn nói với giới trẻ, nhưng cái gốc người đời nghĩ là không sang cả không quý phái và không cả bằng cấp của ông đã khiến ông bị hất hủi. Nhà văn của tuổi thơ cuối đời tật nguyền buồn khổ đã trở lại đạo Thiên Chúa, tìm nước Trời nơi trẻ nhỏ dễ vào vì đứa nhỏ đã chấp nhận nước Trời, nói như người có đức tin. Một niềm tin mà Duyên Anh đã không có khi đang thành công lớn (5).

Có thể nói ngoài vài cuốn tiểu thuyết về du đãng và trẻ bụi đời, toàn bộ tác phẩm đã xuất bản trước 1975 của Duyên Anh là chính cuộc đời và con người Duyên Anh. Những kỷ niệm, tình tiết, không gian và nhân vật đã được lập lại ở nhiều tác phẩm. Nói như tác giả, ông “bị ám ảnh bởi dĩ vãng, kỷ niệm và vùng trời quê hương nhỏ bé của (ông)” (4). Duyên Anh đã nhìn nhận đó là một nhược điểm vì ông “chưa đủ tuổi để đi xa, để thoát ly khỏi kỷ niệm, dĩ vãng và vùng trời thân thuộc của mình” (4). Nếu tuổi thơ là dĩ vãng, nếu quê hương xa xôi là kỷ niệm đã làm nền cho tiểu thuyết của Duyên Anh trước 1975 thì sau khi ra được nước ngoài tị nạn, sau 6 năm tù và học tập, sau những chiến dịch xóa bỏ tác phẩm ông hoặc kết án ông, tuổi trẻ đã trở thành ý thức chính trị làm nền cho tiểu thuyết của ông xuất bản ở hải ngoại. Duyên Anh sẽ đề cao tuổi trẻ, một tuổi trẻ có ý thức, có lý tưởng, như 28 người trẻ trong hầm đá trại Đầm Đùn, như người trẻ hào kiệt Trần Văn Bá. Chúng tôi tin ông đã từ giã cõi đời với niềm hy vọng ở những người trẻ tuổi, ở một ngày mai nếu có! ” (Bài viết trích đây là một chương sách của tôi, Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX , Đại Nam xuất bản 2004)

HV: Nếu là một lời khuyên cho các bạn trẻ say mê những tác phẩm Duyên Anh, anh sẽ khuyên gì ?

NVK: Thứ nhất : đọc, thưởng thức lại những tác phẩm của Duyên Anh viết về hai tuổi trẻ (hồn nhiên và bụi đời). Thứ hai : nghiên cứu, tìm hiểu những kinh nghiệm, thông điệp, nhắn nhủ của Duyên Anh từ các tác phẩm đó. Thứ ba : sống như con người thật của Duyên Anh đã từng sống, đó là sống cho tình yêu, với tình yêu, ngay cả trong thế-giới bạo lực và lúc nào cũng tìm cho được hạt ngọc quí trong mỗi tâm hồn con người!

15.05.2007
Nguyễn Vy Khanh

http://damau.org

 


NHÀ VĂN DUYÊN ANH: ĐỜI LƯU VONG BI KỊCH

Đoàn Thạch Hãn
 
Cho dù Duyên Anh có thế nào đi nữa, thì ông cũng là một người cầm bút, không có lấy một tấc sắc trong tay để tự vệ. Nhân danh bất cứ một điều gì để tấn công và hạ thủ một người như thế rõ ràng là một tội ác.

Là một trong những nhà văn nổi tiếng của miền Nam trước năm 1975, Duyên Anh được biết đến như một con người nhiều tài, lắm tật, miệng làm hại thân! Tôi quen biết Duyên Anh từ lâu, từ dạo tôi vẫn thường hay chầu rìa những canh xì phé nảy lửa của những "hão thủ" lừng lẫy trong làng báo Sài Gòn trước 1975 với một vài doanh nhân, chính khách. Thuở đó, thân phận và túi tiền của tôi không đủ "tư cách" ngồi cùng chiếu với các đàn anh. Vào sòng xì phé là có thể biết ngay tính cách của từng người. Duyên Anh thích "tháu cáy" và khích tướng đối thủ, nhưng lại rất cay cú khi bị người khách "tháu cáy". Thế nhưng sau 1975, tôi mới thật sự thân thiết với Duyên Anh. Ông từng coi tôi như một người bạn vai em ruột rà. Điều này đã được ông viết trong hồi ký.
Năm 1954, Duyên Anh di cư vào Nam. Để kiếm sống, ông đã làm mọi công việc của một thanh niên hè phố, chẳng có nghề ngỗng nào nhất định. Khi thì theo một nhóm sơn đông mãi võ, khi tháp tùng đoàn cải lương lưu diễn đây, mai đó. Lại có lúc quảng cáo cho gánh xiếc rong, rồi giữ xe đạp hội chợ… Sang trọng nhất là làm gia sư, dạy kèm cho trẻ con và dạy đàn ghita, sáo trúc cho những người theo học vỡ lòng nghệ thuật.
 
Duyên Anh làm thơ rất sớm, đến những năm cuối của thập niên 50, ông bắt đầu viết văn xuôi. Viết để thỏa mãn giấc mơ cầm bút, chẳng đăng đâu cả. Mãi đến năm 1960, ông được nhà văn Trúc Sĩ dẫn tới diện kiến nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, lúc đó đang làm chủ bút tờ Chỉ Đạo. Bài thơ "Bà mẹ Tây Ninh" - sáng tác đầu tiên của ông được đăng trên tờ báo này. Một tháng sau, thêm truyện ngắn "Hoa Thiên Lý", rồi "Con sáo của em tôi" tiếp tục có mặt trên tờ Chỉ Đạo, với lời giới thiệu bốc tới mây xanh của Nguyễn Mạnh Côn. Ngay lập tức, ông được người đọc đón nhận nồng nhiệt. Mỗi truyện được trả nhuận bút 5.000 đồng, thời đó mua được hơn một cây vàng. Nguyễn Mạnh Côn tỏ ra rất ưu ái, tận tình nâng đỡ Duyên Anh để sáng tác của ông thường xuyên xuất hiện trên văn đàn. Và đây cũng là đầu mối oan nghiệt cho cả hai sau này.
Đến năm 1961, khi ông Nguyễn Mạnh Côn rời tạp chí Chỉ Đạo thì Duyên Anh đã thành danh. Ông bắt đầu tung hoành làng báo Sài Gòn với nhiều bút danh khác nhau: Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Nã Cẩu, Lệnh Hồ Xung, Độc Ngữ …bằng một giọng văn châm chọc, hết sức cay độc. Thời đó, có hai nhà văn làm báo mà người ta sợ nhất, đó là Chu Tử với bút hiệu Kha Trấn Ác, trong mục Ao Thả Vịt và Duyên Anh. Nạn nhân của Duyên Anh không phải chỉ toàn là người xấu, mà nhiều khi chỉ là một ai đó bị ông ghét, cũng bị ông lôi lên mặt báo, "đánh" không thương tiếc! Sự kiêu căng, miệng lưỡi cay độc của ông đã gây dị ứng cho không ít người. Một nhân vật lãnh đạo chóp bu của Việt Nam Cộng hòa, khi lưu vong ở Mỹ đã bắn tiếng với ông Tô Văn Lai của chương trình Thúy Nga Paris rằng: "Bảo thằng Duyên Anh câm mồm nó lại".
Duyên Anh được xem như tay tổ trong loại sách "xúi con nít đập lộn", với những cuốn tiểu thuyết viết về giới du đãng rất ăn khách như "Điệu ru nước mắt", "Sa mạc tuổi trẻ", "Vết thù trên lưng ngựa hoang". Tác phẩm của ông từng ngợi ca tay anh chị Trần Đại (Đại ca Thay) như một kẻ giang hồ mã thượng. Trong một bài phỏng vấn, tuần báo Đời hỏi ông: Tại sao trong thời buổi nhiễu nhương lại tôn vinh một tay du đãng, sống ngoài vòng pháp luật lên tận mây xanh? Duyên Anh trả lời: "Chính vì thời buổi nhiễu nhương, không có thần tượng cho tuổi trẻ, nên phải đi tìm cho họ một mẫu thần tượng. Xem ra, Trần Đại là xứng đáng hơn cả".
Duyên Anh là người thẳng thắn, yêu, ghét rạch ròi. Đã quý mến ai rồi thì ông sống trọn tình, trọn nghĩa với người đó.
Năm 1978, Duyên Anh gặp lại Nguyễn Mạnh Côn trong trại cải tạo. Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn có thâm niên hơn 40 năm là đệ tử của ả phù dung nên sức khỏe rất yếu. Biến chứng tâm, sinh lý của một con người có quá trình "phi yến thu lâm" (đọc trại cho… sang chữ "phiện, thú lắm") quá dài nên khi bị bắt buộc phải cai, cơ thể ông bị hành hạ liên tục. Do đó, sinh hoạt của ông rất bê bối, khiến đa số trại viên khác, dù có thông cảm đến mấy cũng không muốn gần gũi, chia sẻ, trong đó có Duyên Anh. Người khác chẳng sao, nhưng với Duyên Anh, Nguyễn Mạnh Côn cho rằng đó là bội bạc. Nhiều lần ông Côn nói với mọi người: "Không có tôi thì đã không có Duyên Anh! Tôi mà không biên tập nát ra thì truyện của nó ai mà thèm đọc". Và Duyên Anh đã phản ứng theo đúng tính cách kiêu ngạo của ông: "Không có "Côn Hít" thì Duyên Anh vẫn là Duyên Anh. Ông Côn giỏi sao không biến một thằng cha căng chú kiết nào đó thành một văn tài mà phải đợi đến Duyên Anh?" Từ đó, cả hai nhìn nhau tuy bằng mặt, mà không bằng lòng. Cũng chỉ có thế, ngoài ra Duyên Anh không có bất kỳ hành vi, thủ đoạn nào ác ý với Nguyễn Mạnh Côn, như lời đồn đại đầy ác ý của những kẻ thù ghét Duyên Anh sau này. Nhiều người biết rất rõ chuyện này, hiện vẫn còn sống…
 
Năm 1981, Duyên Anh được trở về với gia đình khi vợ và các con đã định cư tại nước ngoài. Năm 1983, ông vượt biên sang Malaysia, rồi sinh sống tại Pháp, tiếp tục viết. Cùng phận lưu vong nhưng ông không tiếc lời thóa mạ những đảng phái, phe nhóm chính trị lưu manh đang hoạt động tại hải ngoại. Duyên Anh gọi bọn họ là những kẻ giả hình, những tay lừa bịp, mộng du, chiến đấu trong chiêm bao. Ông cũng lên án đám lãnh đạo, chính khách, tướng tá của Việt Nam Cộng hòa toàn là một lũ vô tài, bất tướng, giàu của cải nhờ bóc lột, nhưng quá nghèo nàn liêm sỉ và nhân cách.
Duyên Anh đã gục ngã ở một nơi được ca tụng như là thiên đường của thế giới tự do. Cũng tại nơi đó, nhà báo Đạm Phong, nhà văn Hoài Điệp Tử… đã bị sát hại một cách tàn nhẫn; cựu sinh viên Đoàn Văn Toại (nhạc gia của ca sĩ Trần Thu Hà) đã bị bắn trọng thương bởi những đồng hương quá khích do bất đồng chính kiến. Năm 1988, Duyên Anh sang thăm Hoa Kỳ. Xui cho Duyên Anh, ngày 30/4/1988, ông cùng một người bạn - họa sĩ Trần Đình Thục đi trên đường Bolsa, đúng vào lúc mặt trận bịp bợm Hoàng Cơ Minh đang biểu dương lực lượng, với mấy chục người loe hoe… Trước đó, Duyên Anh đã từng không tiếc lời chỉ trích mặt trận bịp này trên báo Ngày nay bằng những lời lẽ nặng nề. Ông còn viết cả một cuốn tiểu thuyết mang tựa đề "Tuổi bướm sầu" để vạch trần bộ mặt đểu cáng của những tên chóp bu và những hành động bỉ ổi của mặt trận này. Nhận ra Duyên Anh, một gã thanh niên có thân hình vạm vỡ cầm một cục đá từ trong đám đông xông ra. Duyên Anh bị đánh tới tấp vào đầu, gục xuống trên vũng máu. Sau ca cấp cứu, ông được đưa về Pháp sống đời phế nhân, cánh tay phải và nửa thân hình gần như liệt hẳn. Điều đáng nói, hầu như tất cả các phương tiện truyền thông của người Việt ở hải ngoại, không nơi nào dám lên tiếng bênh vực Duyên Anh, hoặc lên án hành động mang nặng tính khủng bố của những kẻ chủ mưu. Người ta chỉ thấy một vài tờ báo Việt ngữ loan tin một cách hả hê bên cạnh tấm hình Duyên Anh nằm bất tỉnh, đầu vẹo sang một bên, giây nhợ chằng chịt từ đầu xuống cổ!
Dư luận trong cộng đồng người Việt hải ngoại rộ lên nghi vấn chính mặt trận Hoàng Cơ Minh là thủ phạm. Chúng đã cho tay chân sát hại Duyên Anh để trả thù chứ không chỉ là một trận đòn dằn mặt. Một nguồn dư luận khác, cũng không kém phần sôi nổi, và cũng được nhiều người tin, dù rất mơ hồ, không cơ sở: Duyên Anh bị những người yêu mến Nguyễn Mạnh Côn hành hung để phục hận cho những ngày hai người sống chung trong trại cải tạo. Trong giới văn nghệ sĩ của Sài Gòn trước đây đang sống ở hải ngoại cũng có người vì hiềm khích cá nhân với Duyên Anh mà công khai lên tiếng công kích ông một cách mạnh mẽ. Điển hình là trường hợp Tạ Tỵ.
Trước 1975, Duyên Anh và Tạ Tỵ đã như sừng với đuôi. Sau giải phóng, NXB Công an nhân dân có phát hành cuốn sách "Những tên biệt kích cầm bút", trong đó có điểm tên nhiều văn nghệ sĩ sừng sỏ của Sài Gòn. Tuyệt nhiên không thấy có tên Tạ Tỵ. Nhưng theo Duyên Anh, khi sang Mỹ, đi đâu ông Tạ Tỵ cũng tự nhận mình có tên trong số "những tên biệt kích" đó. Duyên Anh giễu cợt Tạ Tỵ "nhận xằng, khôi hài". Lửa đổ thêm dầu, Duyên Anh càng trở thành cái gai trong mắt ông Tạ Tỵ.
Nhưng cho dù Duyên Anh có thế nào đi nữa, thì ông cũng là một người cầm bút, không có lấy một tấc sắc trong tay để tự vệ. Nhân danh bất cứ một điều gì để tấn công và hạ thủ một người như thế rõ ràng là một tội ác. Duyên Anh kéo dài cuộc sống tàn phế tại Pháp, cho đến ngày 6/2/1997 thì qua đời vì bệnh xơ gan.
Tác giả bài viết này còn nợ Duyên Anh một món nợ tinh thần. Trong một lần đau ốm, ngỡ mình sắp chết, Duyên Anh đã nhờ tôi học thuộc lòng một bài thơ của ông với lời căn dặn một ngày nào đó, gặp được vợ con của ông thì đọc cho họ nghe. Ông đọc cho tôi, Đằng Giao và Dương Đức Dũng cùng nghe, bắt học thuộc lòng và sau đó xé mất. Đó là bài thơ có tựa đề là "Đảng tử sám hối". Trong bài có những câu tự vấn lương tâm và thói kiêu ngạo một thời:
"Ta dại khờ múa hát giữa ngàn hoa
Ca bóng tối cứ ngỡ là ánh sáng
Ta ru hồn ta tháng ngày bịnh hoạn
Với kiêu sa dị hợm chút tài hèn
Hỡi cánh diều căng gió vút bay lên
Ngạo nghễ lắm mà quên dây sắp đứt
Mũi tên oan phóng đi không thương tiếc
Lưỡi gươm đau chém nát đóa môi cười
Anh nhìn anh xưa thế đó em ơi
Những đổ vỡ của một thời lang bạt…
".
Tôi tin là Duyên Anh thật sự sám hối. Hy vọng ở bất cứ nơi nào trên thế giới này chị Phương (vợ của Duyên Anh) và các cháu cũng như những ai một thời là bằng hữu của ông, hoặc từng thù ghét ông sẽ đọc được những câu thơ này bằng tấm lòng độ lượng đối với một người đã không còn trên cõi đời này.
 
Đoàn Thạch Hãn
 
 

Duyên Anh

Trích: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Duyên Anh 1935-1997) là nhà văn, nhà báo, nhà thơ hoạt động ở Miền Nam Việt Nam trước năm 1975 và ở hải ngoại sau năm 1981.

Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp PhụĐộc Ngữ. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái Bình vàHà Nội. Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề: bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta, dạy sáo.

Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy.... viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt, giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm.

Sau đó ông trở thành một ký giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây Dựng, Sống, Chính Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc...

Có một dạo, Duyên Anh thường viết về giới giang hồ, bụi đời trong xã hội trước năm 1975. Trong tác phẩm của Duyên Anh ca ngợi lối sống phóng khoáng, bất cần đời của giới trẻ bị bế tắc trong cuộc sống. Tuy nhiên vẫn thấm đậm một tính cách nghĩa khí và các nhân vật của Duyên Anh đều sẵn sàng chết vì tình nghĩa và chữ tín của mình. Ngoài ra, ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện dài cho thiếu nhi.[1]

Ngày 8 tháng 4 năm 1976, Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo trong Chiến dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam (tháng 4, 1976). Sau khi ra khỏi trại cải tạo vào tháng 11 năm 1981 ông vượt biên đến Malaysia. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông cũng có viết thơ và soạn nhạc.[2]

Năm1985, ông bắt đầu cộng tác với tờ Ngày Nay và trở thành một trong những cây bút trụ cột của báo này.

Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ gan tại Paris, Pháp.

Gần như có hai con người đối lập trong ông. Một Duyên Anh nhà văn có lối viết nhẹ nhàng, trong sáng, mơ mộng, đầy ấp tình người. Và một Duyên Anh nhà báo ngổ ngáo, tai tiếng, lắm kẻ thù với những bài viết sống sượng và cay độc[3] . Ông được đánh giá là một nhà văn, nhà báo có chỗ đứng cao trong văn học nghệ thuật Việt Nam, sức sáng tạo dồi dào: 34 năm cầm bút với 101 tác phẩm.

Các tác phẩm chính:

  • Đêm thánh vô cùng
  • Hoa thiên lý
  • Ðiệu ru nước mắt
  • Luật hè phố
  • Thằng Vũ
  • Dấu chân sỏi đá
  • Dzũng ÐaKao
  • Vết thù hằn trên lưng con ngựa hoang
  • Bồn Lừa
  • Ảo vọng tuổi trẻ
  • Gấu rừng
  • Cỏ non
  • Ngày xưa còn bé
  • Nặng nợ giang hồ
  • Mùa thu
  • Con suối ở Miền Ðông
  • Danh ná truyện tuổi nhỏ
  • Giặc cờ đỏ truyện tuổi nhỏ
  • Nhóc tì phản động truyện tuổi nhỏ
  • Hồn say phấn lạ tiểu thuyết trường thiên
  • Cầu Mơ
  • Ánh lửa đêm tù
  • Ánh mắt trông theo
  • Thằng Côn
  • Trường cũ
  • Tuổi 13
  • Nhà tôi
  • Mơ thành người Quang Trung
  • Ðàn bà
  • Chương Còm
  • Mặt Trời nhỏ
  • Lứa tuổi thích ô mai
  • Giặc ôkê
  • Đồi Fanta truyện
  • La colline de Fanta dịch bản tiếng Pháp nxb Belfond Paris
  • Một người Nga ở Sài Gòn truyện (1986) Nam Á, Paris
  • Un Russe à Saïgon dịch bản tiếng Pháp nxb Belfond Paris
  • Un prisonnier Américan au Viêtnam truyện nxb Belfond Paris
  • Hôn em kỷ niệm nhạc (1986) Nam Á, Paris
  • Ru tình ngất ngây nhạc
  • Thơ tù thơ (1984) Nam Á, Paris
  • Em, Sài Gòn và Paris thơ
  • Một người mang tên Trần Văn Bá truyện (1985) Nam Á, Paris
  • Sỏi đá ngậm ngùi truyện (1985) Nam Á, Paris
  • Bầy sư tử lãng mạn truyện (1985) Nam Á, Paris
  • Quán trọ trước cổng thiên đường truyện (1987) Nam Á, Paris
  • Thơ của đàn bà truyện
  • Nhánh cỏ mộng mơ truyện
  • Động lòng chữ nghĩa đoản văn
  • Nhà tù hồi ký (1987) Xuân Thu Hoa Kỳ
  • Trại tập trung hồi ký (1987) Xuân Thu Hoa Kỳ
  • Sài Gòn ngày dài nhất hồi ký, Xuân Thu Hoa Kỳ
  • Nhìn lại những bến bờ hồi ký, Xuân Thu Hoa Kỳ

 

Đăng ngày 24 tháng 03.2016