banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Tổng thống Trần Văn Hương

mẫu người quốc gia tiêu biểu

Nguyễn Quang Duy

Trong buổi lễ nhậm chức Tổng thống ngày 21/4/1975 ông Trần văn Hương đã hứa:
"Tôi xin hứa với anh em trong quân đội là ngày nào anh em còn chiến đấu, tôi luôn luôn đứng bên cạnh anh em và ngày nào, chẳng may, mà đất nước không còn nữa thì cái nắm xương khô của tôi sẽ nằm bên cạnh đống xương của tất cả anh em binh sĩ."
Ông Hương đã thực hiện lời hứa, từ chối lời mời di tản của người Mỹ và người Pháp, từ chối nhận “quyền công dân” dưới thể chế cộng sản, mất đi trong nghèo túng và bệnh hoạn.
Nhân dịp 30/4 năm nay xin được ôn lại lịch sử của Tổng thống Trần văn Hương một người quốc gia suốt cuộc đời vì nước vì dân.

Thời thuộc địa

Ông Trần Văn Hương sinh năm 1902 tại Vĩnh Long trong một gia đình nghèo nhờ học giỏi ông được ra Hà Nội học tiếp.
Ở Hà Nội ông Hương học cùng trường Cao đẳng Sư phạm, cùng thời với nhà cách mạng Nguyễn Thái Học người sáng lập Việt Nam Quốc Dân đảng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930.
Ông Hương không chọn con đường đấu tranh cách mạng mà tiếp tục con đường giáo dục khi tốt nghiệp ông về dạy môn văn chương và luận lý tại trường Collège Le Myre De Villers.
Trường này ông Hương cũng đã theo học và đã được thành lập từ năm 1879 là ngôi trường xưa nhất tại Việt Nam, năm 1953 được đổi tên thành trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu rất nổi tiếng nhờ đào tạo được nhiều nhân tài cho Việt Nam.

Bắt đầu tham chính
Tháng 3/1945, Nhật đảo chánh Pháp rồi trao trả độc lập cho Việt Nam, Vua Bảo Đại cho thành lập Chính phủ Trần trọng Kim và bổ nhiệm ông Trần Văn Hương làm Đốc Học lo việc giáo dục tại tỉnh Tây Ninh.
Đến tháng 8/1945, Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền, Vua Bảo Đại thoái vị, ông Hương tham gia Việt Minh và được giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Kháng chiến tỉnh Tây Ninh.
Đến năm 1946, ông Hương thấy Việt Minh quy chụp cho nhiều trí thức là Việt gian rồi đem thủ tiêu, ông về quê tuyên bố bất hợp tác với Việt Minh rồi lên Sài Gòn làm cho một tiệm thuốc Tây.
Năm 1953, ông Hương cùng ông Trần Văn Văn và một số nhân sĩ quốc gia thành lập đảng Phục Hưng, ông Hương được cử làm chủ tịch đảng.

Đấu tranh cho dân chủ
Tháng 10/1954, ông Trần Văn Hương được bổ nhiệm làm Đô Trưởng thủ đô Sài Gòn nhưng chỉ được vài tháng ông xin từ chức không cho biết lý do.
Ngày 26/4/1960, ông Hương cùng 17 nhân sĩ quốc gia thành lập nhóm Tự Do Tiến Bộ, tổ chức họp báo công bố một bản tuyên cáo tại khách sạn Caravelle.
Nội dung Bản Tuyên Cáo rất ôn hòa chỉ yêu cầu Tổng thống Ngô Ðình Diệm mở rộng chính quyền để các nhà trí thức có thể hợp tác với chính phủ nếu được yêu cầu.
Ngày 11/11/1960, ông Hương ký tên ủng hộ cuộc đảo chánh do Đại tá Nguyễn Chánh Thi khởi xướng, ông bị bắt trong tù ông có viết một tập thơ lấy tên là “Lao trung lãnh vận” (Những vần thơ lạnh lẽo ở trong tù).

Dấn thân chính trị
Sau cuộc đảo chính ngày 1/11/1963, ông Trần Văn Hương lại được bổ nhiệm làm Đô trưởng Sài Gòn, nhưng chỉ vài tháng ông được Quốc trưởng Phan Khắc Sửu mời ra làm Thủ tướng.
Ông làm thủ tướng được 84 ngày thì Trung tướng Nguyễn Khánh lật đổ Chính phủ dân sự và Quốc trưởng Phan Khắc Sửu bị truất phế.
Người con trai đầu của ông Hương tên là Trần Văn Dõi tự là Lưu Vĩnh Châu theo Việt Minh ra Bắc khi biết ông Hương làm Thủ tướng có viết một lá thư nhờ ông Ung Văn Khiêm là Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Bắc Việt trao cho ông Hương.
Ông Hương nhận thư, thảo luận với người con thứ tên là Trần Văn Ðính cả hai đồng ý chuyện quốc gia phải đặt trên chuyện gia đình, bởi thế ông đã từ chối không liên lạc với người con ở miền Bắc.
Năm 1967, ông Hương cùng ông Mai Thọ Truyền lập liên danh Người Gieo Mạ ra tranh cử Tổng thống nhưng chỉ được 10% phiếu cử tri ủng hộ đứng hàng thứ tư.

Cộng tác với ông Thiệu
Tháng 5/1968, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu mời ông Hương ra làm Thủ tướng nhưng cũng chỉ được 96 ngày thì ông xin từ chức cũng không cho biết lý do.
Việc ông Hương nhận lời ông Thiệu làm nhiều người ủng hộ ông thất vọng, vì trước đó liên danh Người Gieo Mạ đã cùng các liên danh thất cử khác họp báo tố cáo có gian lận bầu cử và yêu cầu Quốc Hội Lập Hiến hủy bỏ kết quả bầu cử để tổ chức một cuộc bầu cử khác.
Giáo sư Sử Địa Lâm Vĩnh Thế hỏi ông Hương vì sao ông đã nhận lời làm Thủ tướng được ông trả lời như sau:
“… Lúc đó chỉ có ông Thiệu là có khả năng chống cộng thật sự, lại nữa vụ Mậu Thân cho thấy Việt cộng đã mạnh lắm rồi, mà Hoa Kỳ thì lại có ý chủ hòa, ông Johnson thì ép mình phải đi hoà hội Paris… nên cần phải ủng hộ ông Thiệu.”
Giáo sư Thế nhận xét: ông Hương có lập trường chống cộng triệt để nhưng ông cũng là một người yêu nước chân chính để vì đại cuộc mà bỏ qua mâu thuẩn cá nhân.

Liên danh với ông Thiệu
Năm 1971, ông Hương đứng chung liên danh với ông Nguyễn Văn Thiệu ứng cử và đắc cử chức vụ Phó tổng thống.
Ông Hương rất liêm chính nên những kẻ tham nhũng rất sợ ông, miền Trung bị lụt ông tới ngay để thăm dân và cứu trợ, trong chiến dịch Hạ Lào khi Hoa Kỳ thất hứa không trợ giúp không quân cho miền Nam ông họp báo chỉ trích Mỹ…
Báo chí đặt cho ông danh hiệu “Cụ Già Gân” còn dân chúng miền Nam trân quý kêu ông bằng “Cụ Hương” vì là văn viết nên tôi xin phép gọi bằng ông Hương.
Trong việc điều hành đất nước ông Hương rất gắn bó với ông Nguyễn văn Thiệu cho đến khi ông Thiệu từ chức dựa trên Hiến Pháp chính thức trao quyền Tổng thống cho ông.

Từ chức tổng thống
Trong bài diễn văn trước Lưỡng Viện Quốc Hội ngày 26/4/1975, Tổng Thống Trần Văn Hương cho biết đã tiếp xúc với Đại tướng Dương Văn Minh để mời ông Minh đảm nhiệm chức vụ Thủ Tướng, nhưng ông Minh không chịu mà đòi phải nhường cho ông Minh chức Tổng thống.
Ông trả lời ông Minh là không thể trao quyền cho ông ấy vì còn có Quốc Hội và phải tuân theo Hiến Pháp vì thế ông cho Quốc Hội biết để mọi người bàn tính và quyết định.
Ngay ngày hôm sau Quốc Hội họp, đồng ý sửa lại Hiến Pháp và trao quyền Tổng thống cho ông Dương Văn Minh để thương thuyết với phía cộng sản.
Sang ngày 28/4/1975, ông Hương chính thức từ chức và trao quyền Tổng thống cho ông Dương Văn Minh.

Từ chối di tản
Ngày 29/4/1975, Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin có đến nhà gặp ông Hương vừa để từ giã về nước, vừa để gởi lời Chính Phủ Hoa Kỳ mời ông Hương sang Mỹ lánh nạn, ông trả lời:
“Thưa Đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm, đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông Đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn ông Đại sứ, nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết cộng sản sẽ vào Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam.
Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại sứ đã đến viếng tôi”.
Trước đó, Tòa Đại Sứ Pháp cũng ngỏ lời sẵn sàng đưa ông rời khỏi Việt Nam để đi Pháp.

Nước mất nhà tan
Theo Hồi ký của bà Phan Cẩm Anh vào tối ngày 30/4/1975 hai vợ chồng cháu ông Hương là đại úy Phan Hữu Cương và trung úy Trần Mai Hương (là bạn thân của bà Phan Cẩm Anh) đã uống thuốc ngủ tuẩn tiết ngay tại nhà ông Hương.
Đại úy Phan Hữu Cương là cháu ruột kêu ông Hương bằng cậu và cũng là sĩ quan cận vệ cho ông Hương nên gia đình ở chung với ông Hương.
Họ để lại lời trăng trối: "…xin nhờ lòng tha thứ của cụ Hương và gia đình vì không thể sống khi đất nước rơi vào tay kẻ thù…", người nhà phát hiện nhưng chỉ cứu được người vợ.
Nghe tin buồn cháu tuẩn tiết ông Hương vào phòng đóng cửa im lặng, trầm mình trong nỗi đau của một người đã từng trên cương vị lãnh đạo đất nước, giờ đây bi phẩn chứng kiến cảnh quốc gia suy vong, gia đình tang chế, nỗi đau khổ của ông ở mức độ nào, chẳng ai trong nhà được ông hé môi thố lộ.

Từ chối “quyền công dân”
Theo hồi ký của Giáo sư Sử Địa Lâm Vĩnh Thế sau khi bỏ Việt Minh ông Hương lên Sài Gòn sống với gia đình bên vợ của ông Thế trong cả chục năm.
Bà Phan Cẩm Anh cho biết khi ông Hương từ chức Thủ tướng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu biết ông không có nhà riêng nên tỏ ý muốn cấp cho ông một căn nhà.
Ông Hương chọn một căn biệt thự nhỏ và cũ nằm ở cuối con hẻm đường Phan Thanh Giản. Ông Thiệu muốn sửa lại căn nhà nhưng ông Hương không đồng ý vì không muốn tốn hao ngân sách quốc gia.
Ngày 28/4/1975 sau khi từ chức tổng thống, ông Hương dọn về ngôi nhà này, vách tường của ngôi nhà đã có nhiều chỗ nứt nẻ, nền nhà nhiều chỗ gạch vỡ tung lên, màu vôi đã trải qua nhiều năm tháng vàng uế không được trùng tu sơn quét.
Giáo sư Lâm Vĩnh Thế cho biết sau Hội Nghị Hiệp Thương Thống Nhất Hai Miền Nam Bắc, nhà cầm quyền Hà Nội quyết định trao trả “quyền công dân” cho ông Hương tại ngôi nhà trước sự hiện diện của báo chí, các đài truyền thanh, truyền hình, nhằm tuyên truyền cho nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội.
Bà Phan Cẩm Anh cho biết khi một cán bộ cộng sản đọc "chính sách khoan hồng và rộng lượng" của nhà nước đối với những "thành phần" như ông Hương, ông trả lời:
“Tôi xin phép từ chối, không nhận cái quyền công dân này vì dù gì tôi cũng là người lãnh đạo miền Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp chỉ vì thừa lịnh của chúng tôi mà giờ đây vẫn còn bị giam cầm trong các trại cải tạo. Tôi sẽ là người sau cùng nhận cái quyền công dân này, sau khi binh sĩ và nhân viên của chúng tôi đã được thả và nhận lại quyền công dân”.

Những năm tháng cuối đời
Vì từ chối nhận “quyền công dân” ông Hương không được cấp hộ khẩu, không được cấp phiếu mua lương thực, mà còn bị quản thúc ba năm không được bước ra khỏi nhà.
Ông Hương phải sống đạm bạc, thiếu thốn, ốm đau và cũng như những người miền Nam khác để có thể sống qua ngày ông phải bán dần đồ vật trong nhà từ bộ áo vest cũ đến những đồ kỷ niệm.
Bà Trần Văn Văn và bạn bè từ Pháp gởi thuốc về giúp ông chữa trị, thuốc không dùng hết cũng được mang ra chợ trời thêm chút gạo bó rau cho gia đình.
Có lần ông Hương bị té xỉu phải đưa vào bịnh viện cấp cứu, khi tỉnh dậy thấy bịnh viện chỉ dành cho cán bộ cộng sản ông nhứt định đòi phải đưa ngay về nhà.
Bà Phan Cẩm Anh bạn thân của cháu gái ông Hương có chồng là bác sĩ mới ra trường, khi biết ông Hương bệnh nặng cần người chăm sóc, ông chồng bác sĩ đã tình nguyện thường xuyên đến tận nhà để chăm sóc cho ông.

Muốn nằm cạnh anh em binh sĩ
Tổng thống Trần văn Hương mất ngày 27/1/1982, gia đình nghèo đến độ không còn tiền mua hòm, người tài xế cũ của ông xin được phúng điếu chiếc quan tài, người chủ trại hòm ở Chợ Lớn, một người Việt gốc Hoa, nghe nói mua cho ông Tổng thống xin chỉ lấy nửa giá tiền của chiếc quan tài.
Ông Hương có ước nguyện được chôn trong nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa để được nằm bên anh em binh sĩ nhưng không được cộng sản chấp nhận, nên người nhà đã quyết định hỏa táng ông tro cốt được rải trong khu vực.
Hơn 40 năm qua người Việt quốc gia vẫn trân quý công ơn của ông, ở hải ngoại nhiều cộng đồng đến ngày ông mất đã cử hành lễ giỗ để tri ân một người đã một lòng một dạ xây dựng Việt Nam Cộng Hòa.

Người Việt quốc gia tiêu biểu
Ôn lại cuộc đời Tổng thống Trần Văn Hương làm tôi nhớ lại một định nghĩa được học giả Phạm Quỳnh viết trong bài “Đi tìm một chủ nghĩa Quốc Gia” xuất bản năm 1938:
“Một người theo chủ nghĩa quốc gia là một người hết lòng gắn bó với đất nước và nòi giống mình, có một ý thức cao về tình đoàn kết quốc gia và truyền thống lịch sử; là một người yêu nước, nhưng yêu nước không chỉ bằng tình cảm mà còn bằng lý trí, một người muốn nâng mức độ yêu nước của mình lên thành một chủ thuyết đạo đức và chính trị.”
Ông Hương quả là một mẫu người tiêu biểu theo chủ nghĩa quốc gia, ở miền Nam có không ít những người như ông, nhưng dường như họ đã thất bại xây dựng được một chủ thuyết về đạo đức và chính trị chung cho cả nước, để cuối cùng bị chủ nghĩa (quốc tế) cộng sản xóa nhòa.
Thế kỷ thứ 21, người Việt lại phải đối đầu với chủ nghĩa (quốc tế) toàn cầu mà mục tiêu cũng là xóa bỏ văn hóa, đạo lý, truyền thống dân tộc và xóa nhòa mọi nền tảng kinh tế, chính trị, xã hội và cả biên giới của mọi quốc gia.
Đã đến lúc người Việt cần tìm hiểu những điểm mạnh, điểm yếu, những thành công và thất bại của ông cha, để cùng nhau gìn giữ và phát triển những điều hay, lẽ phải, đồng thời bảo vệ được bờ cõi ông cha để lại.
27/4/2021
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi



Chiến lược phát triển VNCH

vẫn còn nguyên giá trị

Nguyễn Quang Duy

Ngay từ khi thành lập ngày 26/10/1955, Việt Nam Cộng Hòa chọn con đường phát triển xã hội lấy con người (người dân) làm trọng tâm và tự chủ quốc gia làm mục tiêu chiến lược, nên đến nay vẫn còn nhiều ảnh hưởng để chúng ta tìm hiểu và học hỏi.

Tự cung tự chủ
Trong thời thuộc địa người Pháp tập trung xây dựng kỹ nghệ ở miền Bắc Việt Nam, nên ngay khi thành lập Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã hướng đến phát triển kỹ nghệ nhẹ và kỹ nghệ tiêu dùng phục vụ nhu cầu quốc nội.
Để có thể tự chủ về kinh tế, chính phủ khuyến khích các nhà tư sản ngoại quốc, đa số là người Hoa có quốc tịch Trung Hoa Dân Quốc, trở thành công dân Việt Nam Cộng Hòa.
Với chủ trương kinh tế tự do, Chính phủ chỉ giữ một số hoạt động công ích, như điện, nước, hỏa xa, hàng không, còn hầu hết mọi hoạt động kinh tế đều để tư nhân vận hành.
Đồng thời Chính phủ đề ra những chính sách khuyến khích phát triển công kỹ nghệ và ban hành luật pháp bảo đảm việc cạnh tranh của tư nhân thực sự công bằng và hợp pháp.
Nhiều công ty đã được thành lập và một số vẫn tồn tại đến nay (một số đã được đổi tên) như Sữa Ông Thọ, Sữa Foremost, Sữa bột SMA, Kem đánh răng Hynos, Xà bông Cô Ba, Dầu gió Nhị Thiên Đường, Cà Ri Ông Chà Và, Pin Con Ó, Sơn Nam Á, Giấy Đồng Nai, Bia Con Cọp, Bông gòn Bạch Tuyết, Giày Bata, Bia Larue 333, Phân bón Đầu trâu, Xe hơi Ladalat,…
Chính phủ còn thành lập các khu kỹ nghệ như Thủ Đức, Bình Dương, Long Bình, Biên Hòa, An Hòa, Nông Sơn,… hầu hết các khu kỹ nghệ này ngày nay vẫn được duy trì và phát triển.
Nhiều nhà máy được xây dựng như nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy thủy điện Đa Nhim, nhà máy vải sợi Vinatexco Đà Nẵng, Vimytex Sài Gòn, Nhà máy thủy tinh, mỏ than Nông Sơn… hầu hết các nhà máy đến nay vẫn còn hoạt động.
Các hãng xưởng lớn đa số thuộc tư sản Việt gốc Hoa, còn các hãng xưởng gia công nhỏ có tính cách gia đình thì đa số do người Việt được mở ra khắp nơi và sản xuất hầu hết các mặt hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu trong nước.

Hữu sản hóa tự cường
Chủ trương của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa là “dân có giầu thì nước mới mạnh” nên ngay khi thành lập chính phủ đã đưa ra Chương trình Hữu sản hóa (dân tộc) tự cường, chương trình này thành công rõ rệt nhất trong ngành phục vụ chuyên chở công cộng.
Chính phủ cho nhập cảng các phương tiện phục vụ công cộng rồi bán trả góp cho tư nhân, nhờ thế các tài xế xe taxi, xe lam, xe buýt, xe tải đều có thể làm chủ các phương tiện phục vụ công cộng.
Cuối thập niên 1970 xe gắn máy Nhật Honda, Yamaha, Suzuki,… được cho phép nhập cảng với số lượng lớn chủ yếu làm phương tiện di chuyển cá nhân, nhưng một số được sử dụng chuyên chở công cộng được gọi là xe ôm.
Nhờ thế, hệ thống chuyên chở công cộng ở miền Nam vừa hết sức thuận tiện, lại thật rẻ tiền, tạo nhiều công ăn việc làm mà không bị nạn tư bản độc quyền.
Nhờ vậy Chính phủ không phải điều hành các dịch vụ chuyên chở công cộng vừa lãng phí ngân sách quốc gia lại vừa thiếu hiệu quả, riêng tại Úc, xe lửa, xe tram, xe buýt,… đều hoạt động dưới một phần mười khả năng phục vụ.
Cũng nhờ đó, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa có điều kiện tài chánh để xây dựng và phát triển hạ tầng cơ sở, xây dựng đường xá, cầu cống, chợ búa,… thúc đẩy các hoạt động kinh tế, tạo thành một xã hội miền Nam luôn năng động và phát triển.
Các khu thị tứ, các cửa hiệu buôn sỉ, bán lẻ, khách sạn, tiệm ăn, các dịch vụ công cộng, được mở ra ở khắp nơi hết sức tiện lợi cho người tiêu thụ.
Chính phủ cũng xây dựng thành công một hệ thống ngân hàng tín dụng gồm nhiều ngân hàng tư nhân có chi nhánh hoạt động trên toàn lãnh thổ miền Nam, và đã đóng góp vô cùng tích cực trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của miền Nam.

Người Cày Có Ruộng
Chương trình Cải Cách Điền Địa ở miền Nam bắt đầu từ năm 1956 nhưng mãi đến năm 1973 mới hoàn tất, mọi nông dân miền Nam đều làm chủ mảnh ruộng miếng đất họ cày cấy hay trồng trọt.
Chính phủ mua ruộng đất của điền chủ rồi bán lại cho tá điền qua phương cách trả góp hay phát không cho nông dân.
Chính phủ cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, đưa cán bộ về xây dựng nông thôn, khuyến khích nghiên cứu và áp dụng phương pháp canh tác mới với kỹ thuật mới thúc đẩy gia tăng năng suất.
Nông dân được vay nhẹ lãi để đầu tư trang bị máy cày, được hướng dẫn sử dụng phân bón hóa học, cải tiến giống lúa, trồng lúa Thần Nông, mở trang trại nuôi gia súc, tăng gia sản xuất.
Đến năm 1974, sản lượng gạo sản xuất đã tăng đến 7.2 triệu tấn hướng tới việc xuất cảng, đời sống của nông dân được cải thiện một cách rõ ràng, khoảng chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị được cân bằng.
Số điền chủ có ruộng bị truất hữu được nhận các các khỏan bồi thường lớn cũng được chính phủ giúp đỡ sử dụng vốn kinh doanh các dịch vụ cơ khí nông nghiệp, dịch vụ lưu thông hàng hoá nông sản phẩm, dịch vụ chế biến thực phẩm nông sản, hướng đến việc xuất cảng bán thành phẩm nông nghiệp, giúp nền kỹ nghệ miền Nam khởi sắc đóng góp xây dựng nền kinh tế quốc gia.
(xin xem bài https://www.bbc.com/vietnamese/forum/2014/09/140924_south_vn_land_reforms)

Viện trợ Hoa Kỳ
Trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa (1956-63), viện trợ của cho miền Nam được ước tính chừng 10% GDP nhưng chủ yếu là viện trợ quân sự, giáo dục và y tế hơn là viện trợ về kinh tế.
Năm 1963 khi Chính phủ Hoa Kỳ đe dọa cắt viện trợ, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã công khai ý định không muốn tiếp tục nhận viện trợ Hoa Kỳ, điều này cho thấy miền Nam đã có thể tự chủ về kinh tế.
Nhưng từ khi người Mỹ đổ quân vào miền Nam, chiến tranh càng ngày càng khốc liệt thì Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã phải phụ thuộc vào viện trợ quân sự của Hoa Kỳ.
Viện trợ Hoa Kỳ giúp tạo công ăn việc làm cho người miền Nam nhưng cũng tạo ra những ảnh hưởng xấu, như người Mỹ tiêu sài rộng rãi làm đồng tiền Việt Nam bị mất giá, tạo ra lạm phát ảnh hưởng đến đời sống của người dân và Chính phủ không thể thực hiện các chính sách vĩ mô một cách hiệu quả.
Đến khi Hoa Kỳ giảm viện trợ, rồi ngừng viện trợ, thì Việt Nam Cộng Hòa không còn khả năng chiến đấu để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.

Phát triển giáo dục
Nhờ viện trợ Hoa Kỳ học sinh miền Nam đều có thể học hết bậc tiểu học hoàn toàn miễn phí, sách giáo khoa được nhà trường cung cấp, lại còn được ăn bánh mì, uống sữa vào giữa buổi học.
Nhưng người Mỹ chỉ giúp miền Nam về vật chất còn về mặt tinh thần, đạo đức và trí tuệ thì nhờ vào triết lý nhân bản, dân tộc, khai phóng và vào sự cống hiến của các thầy cô mới có được một nền giáo dục tốt nhất trong lịch sử Việt Nam.
Bởi thế bà cựu chủ tịch Quốc Hội cộng sản Nguyễn Thị Kim Ngân ngày 12/9/2018, phải thừa nhận kiến thức về sử ký và địa lý mà bà đã học từ thời Việt Nam Cộng Hòa nay vẫn nhớ không quên điều gì, bà Ngân biểu lộ lòng luyến tiếc vì giờ đây trẻ em học hành khổ sở, nhưng sử ký và địa lý nước nhà hầu hết đều không biết.
(Mời xem bài Văn hóa giáo dục VNCH để lại gì? - BBC News Tiếng Việt)    
Về lâu dài giáo dục là nền tảng cho việc phát triển xã hội, điều đó đủ chứng minh Việt Nam Cộng Hòa đã xây dựng được viễn kiến phát triển quốc gia là một di sản đáng quý hậu sinh cần tìm tòi và học hỏi.

Đánh giá tổng quát
Dưới thể chế Việt Nam Cộng Hòa người dân không chỉ bình đẳng về chính trị mà còn có cơ hội bình đẳng về kinh tế, nên mặc dù chiến tranh khoảng chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa những người ở thành thị với nhau không mấy khác biệt.
Tôi lớn lên trong khu Bàn Cờ một khu lao động tại thủ đô Sài Gòn nên có thể thấy đời sống của bác Tư chạy xích lô chỉ cần vài cuốc chạy là đủ sống, của bác Hai có thùng xe kem (cà rem) đẩy bán quanh khu vực là đã đủ tiền để nuôi sống gia đình, bác thợ hớt tóc cũng đủ tiền nuôi con ăn học thành tài.
Đa số gia đình ở miền Nam (kể cả gia đình tôi) chỉ người cha làm việc nuôi sống gia đình, còn người mẹ ở nhà chăm sóc con cái.
Nhờ cuộc sống tương đối đầy đủ và thoải mái những người lao động đã không bị cộng sản tuyên truyền ảnh hưởng, nên Tết Mậu Thân 1968 khi cộng sản tấn công vào thủ đô Sài Gòn và các thành phố ở miền Nam đã không được dân chúng ủng hộ như họ kỳ vọng.
Ngược lại người dân còn đứng về phía Chính phủ bởi thế mới có những đoàn người miền Nam chạy trốn cộng sản hay cảnh thuyền nhân vượt biển được báo chí ví như những cuộc bỏ phiếu bằng chân.
Chính phủ và Tổng Liên đoàn Lao công Việt Nam đưa ra chính sách dung hòa quyền lợi giữa chủ và thợ vì thế cộng sản không thể lợi dụng giới thợ thuyền tổ chức những cuộc biểu tình hay đình công gây bất ổn chính trị.
Trong khi miền Nam có hai mục tiêu phải thực hiện là bảo vệ chủ quyền đất nước và phát triển xã hội thì miền Bắc lại tập trung toàn lực để “giải phóng” miền Nam.
Nhưng Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã thực hiện được một phần của mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội nên cộng sản miền Nam đã không thể nổi dậy cướp chính quyền mà phải dựa vào quân đội chính quy Bắc Việt vượt vĩ tuyến 17 thực hiện việc “giải phóng” miền Nam vào ngày 30/4/1975.

Cần đổi mới lần 2
Đảng Cộng sản đã tiếp thu trọn vẹn hạ tầng cơ sở công nghệ kỹ thuật, cả khối chuyên viên và các doanh nhân miền Nam, nhưng đáng tiếc vì quá say sưa với chiến thắng và cuồng nhiệt với chủ nghĩa cộng sản nên họ nhanh chóng đưa cả nước vào đường đói kém và lạc hậu.
Năm 1986 khi Liên Xô cắt viện trợ kinh tế, đảng Cộng sản phải mời gọi tư bản ngoại quốc đầu tư khai thác nhân công rẻ và thị trường Việt Nam, nhưng hệ thống chính trị vẫn chưa thay đổi.
Công nhân và nông dân là hai thành phần chiếm đa số dân chúng Việt Nam đến nay làm vẫn không đủ sống, tình trạng giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các thành phần xã hội càng ngày càng chênh lệch.
Tôi vừa đọc một bản tin là vào ngày 12/4/2021 tại cửa hàng M.P đường Trần Hưng Đạo, quận 1, TP HCM, khoai lang tím nhập cảng từ Úc có giá niêm yết là 350,000 đồng/kg, có nơi còn bán tới 400,000 đồng/kg, cùng ngày giá khoai lang Nhật trồng tại Việt Nam chỉ chừng 10,000 đồng/kg.
Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp nhưng nhiều mặt hàng nông sản phải nhập cảng đã là một điều đáng quan tâm, giá cả các mặt hàng được nhập cảng gấp vài chục lần giá hàng nội địa còn cho thấy tình trạng chênh lệch giàu nghèo và mất niềm tin vào phẩm chất của nông sản nội địa đã đến mức không thể hiểu nổi.
Gần đây lại dấy lên những đòi hỏi đảng Cộng sản phải “đổi mới (chính trị) không thì chết”, nhưng đổi mới chính trị chỉ là điều kiện cần, quay lại với nền kinh tế phục vụ người dân, của người dân và do người dân quản trị, như thời Việt Nam Cộng Hòa mới là điều kiện đủ để dân giàu, nước mạnh không lệ thuộc kinh tế ngoại bang.
13/4/2021
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi

 

Đăng ngày 29 tháng 04.2021