banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

So sánh Tư bản và Cộng sản

trên đất nước Việt Nam


Gs Nguyễn Thiên Thụ

So sánh hai chế độ tư bản và cộng sản thì đòi hỏi phải ra công nghiên cứu nhiều, và cũng mất nhiều giấy bút. Ở đây, chúng tôi chỉ trình bày sơ lược để đôc giả có thể thấy sự dị biệt của hai chế độ sau khi đã phân tích sự dị biệt giữa lý thuyết và thực hành của chế độ cộng sản.Chúng tôi sẽ điểm qua các khía cạnh giáo dục, y tế, xã hội, chính trị,văn hóa

A. CỘNG SẢN DẪY CHẾT

I. GIÁO DỤC
Thời Pháp thuộc, nước ta có ba bậc giáo dục: tiểu học, trung học và đại học nhưng ban đầu chưa phổ biến. Tại Hà nội có trường Đại học và Cao đẳng, các tỉnh lớn có trường trung học, các thành phố đều có trường tiểu học . Các vị trưởng sở các cơ sở giáo dục, các giáo sư, giáo viên đều do triều đình và chính quyền Pháp bổ nhiệm. Học trò không phải đóng học phí.
Thời Viêt Nam cộng hòa, sau hiệp định Geneve, các trường trung, tiểu học mở khắp nước. Các trường đại học công và tư mở khắp Saigon, Huế, Tây Ninh, Cần Thơ, Đà Lạt, Long Xuyên. Tại Đại Học, sinh viên đóng học phí tượng trưng. Các giáo sư có tự do giảng dạy. Học sinh đỗ bằng tú tài toàn phần đều có thể ghi danh bất cứ đại học nào, Chỉ có hai trường đại học thi tuyển là đại học Sư Phạm và Đại Học Quốc gia hành chánh để chọn sinh viên ưu tú. Học sinh trung học, tiểu học trường công không phải đóng học phí. Học sinh nhập học trường công lập phải qua kỳ thi tuyển.
Tại Việt Nam khu vực cộng sản, người ta tuyển chọn giáo viên là những kẻ cô thân và kém cỏi:"
Nhất Y, nhì Dược,
Sư Phạm bỏ qua,
Bách Khoa tạm được."

Giáo viên không được tôn trọng, thường bị cán bộ địa phương bắt nạt vì truyền thống cộng sản khinh trí thức, trọng công nông. Sau 1955, Cải Cách Ruộng Đất, con nhà tư sản, địa chủ, phú nông không được đi học. Sau 1975, cộng sản ưu tiên cho con em cán bộ. Con em nhà cộng sản 5- 6 điểm là có thể vào đại học, con nhà thường dân và "nguỵ quân, ngụy quyền" phải 17-19 điểm mới được vào đại học. Tốt nghiệp đại học, hạng này cũng khó có việc làm. Chương trình giáo dục có tính ngu dân và nhồi sọ, lấy việc học chính trị làm đầu. Vì theo đường lối tuyên truyền cho cộng sản nên nội dung là ca tụng cộng sản, xuyên tạc sự thật. Khoảng năm 2000, cộng sản chủ trương bán bằng cấp, họ đặt chỉ tiêu mấy chục ngàn tiến sĩ, thạc sĩ một năm cho nên có nhiều tiêu cực trong việc này.
Theo Báo Mới, (HQ Online)- Theo kế hoạch mà Bộ GD-ĐT công bố tại Hội nghị Kế hoạch ngân sách năm 2014, trong năm 2014, tỷ lệ đào tạo tiến sỹ sẽ tăng khoảng 7% và chỉ tiêu thạc sỹ tăng 5% so với chỉ tiêu năm 2013 để phục vụ cho mục tiêu mà Bộ GD-ĐT đưa ra là đào tạo 20.000 tiến sỹ năm 2020. Giáo viên bị học sinh làm mật thám theo dõi và báo cáo với nhà trường. Cuộc sống khó khăn, cô giáo phải bán kẹo trong lớp hoặc mở lớp kèm tại nhà, còn nam giáo viên phải đạp xich lô để sống.
Tạp chí "Người Lao Động" cho biết:
Một công trình nghiên cứu, khảo sát lương giáo viên vừa công bố cho thấy: Thu nhập bình quân của giáo viên từ 3-3,5 triệu đồng/tháng. Lương mới ra trường ở cả 3 cấp trên dưới 2 triệu đồng/tháng; lương trung bình giáo viên sau 13 năm từ 3-3,5 triệu đồng/tháng; sau 25 năm từ 4,1 - 4,7 triệu đồng/tháng. Từ đó, nhóm nghiên cứu kết luận: Thu nhập và phụ cấp lương của giáo viên không bảo đảm nhu cầu đời sống của họ. Trên 40% giáo viên khảo sát muốn bỏ nghề sư phạm.
Học sinh các cấp phải đóng học phí cao, và phải đóng nhiều thứ khác. Một giáo sư trung học lương 3-5 triệu, nhưng mỗi đưá con học trung học phải trả học phí từ 500 ngàn đến một triệu mỗi tháng nếu học ở các trường danh tiếng.
Tạp chí Thanh Niên Online cho biết như sau:
Mức thu học phí các trường mầm non, phổ thông và GDTX được quy định như sau:
Cấp học
Năm học 2013 – 2014
Đơn vị tính : đồng/học sinh/tháng
Trong đó: Nhóm 1 là học sinh học tại các trường ở các quận 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Gò Vấp, Tân Bình, Tân Phú, Thủ Đức và quận Bình Tân; Nhóm 2 là học sinh học tại các trường ở các huyện Bình Chánh, Hóc Môn, Củ Chi, Cần Giờ và Nhà Bè.
Học sinh hệ chuyên trong các trường THPT chuyên và trường THPT công lập có lớp chuyên không thu học phí (theo quy định của Bộ GD-ĐT).
Các trường THPT Lê Quý Đôn, THPT Nguyễn Hiền, THPT Nguyễn Du thực hiện cơ chế thu học phí theo “mô hình trường tiên tiến theo xu thế hội nhập” với mức thu hiện hành như sau (cho đến khi Đề án của các trường được duyệt sẽ áp dụng mức thu mới): Lớp 10: 890.000 đồng/học sinh/tháng; Lớp 11: 850.000 đồng/học sinh/tháng; Lớp 12: 900.000 đồng/học sinh/tháng.
Đối với trường Mầm non Nam Sài Gòn và THPT Nam Sài gòn: thu theo mức thu hiện hành. Cụ thể: Nhà trẻ: 400.000 đồng/học sinh/tháng; Mẫu giáo: 400.000 đồng/học sinh/tháng; Tiểu học: 400.000 đồng/học sinh/tháng; THCS: 600.000 đồng/học sinh/tháng; THPT: 600.000 đồng/học sinh/tháng.

II.Y TẾ
Tại các thành phố, người Pháp đã lập nhà thương, mọi người đều có thể vào bệnh viện mà không phải trả viện phí. Tại Việt Nam có hai loại nhà thương, nhà thương công và nhà thương tư. Nói chung, dân nghèo được chữa bệnh miễn phí.
Trong chế độ cộng sản, các thôn xã có trạm y tế nhưng chỉ là hình thức vì thiếu thuốc men, dụng cụ y tế, và thiếu bác sĩ, y tá giỏi. Các y tá lâu năm có thể được thăng làm bác sĩ. Sau 1985, cộng sản bỏ bao cấp, nhân dân phải trả viện phí và các khoản hối lộ cho bác sĩ, y tá, y công và các loại dịch vụ khác. Cộng sản thu nhiều tiền bạc nhưng không mở thêm bệnh viện khiến cho bệnh viện bị tràn ngập. Các bệnh nhân phải nằm chung sáu, bảy người một giường. Họ phải nằm ngoài hành lang, dưới gậm giường.

III. XÃ HỘI
Xã hội Việt Nam là một xã hội nông nghiệp, trước 1945 là một xã hội an bình mặc dầu thực dân Pháp cai trị, đàn áp và bóc lột nước ta. Sau 1945, Cộng sản cướp chính quyền, sát hại các chiến sĩ quốc gia, và tạo ra một không khí khủng bố. Cộng sản chiếm núi rừng, lấy núi rừng uy hiếp nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị, phá hoại nhà cửa, cầu đường, ám sát, bắn sẻ gây ra cuộc chiến tranh đẫm máu giữa anh em đồng bào. Những ai không theo cộng sản thì bị giết hại. Những ai theo cộng sản thì trở thành giai cấp thống trị, còn nhân dân bị coi là phản động, cộng sản có quyền bắn giết và gán cho họ là Việt gian, phản động.
Đảng Cộng sản Việt Nam là phân bộ của đệ tam quốc tế, là tay sai Nga Tàu. Hồ Chí Minh lãnh chỉ thị của Stalin và Mao Trạch Đông tiến hành cuộc chiến tại Việt Nam để mở rộng biên cương quốc tế cộng sản. Sau 1954, Cộng sản chiếm nửa nước, đảng cộng sản công khai hoạt động.Trong CCRD, cộng sản đã giết hại, tù đày hàng trăm ngàn nông dân trong đó có nông dân nghèo và dán cho họ nhãn hiệu tư sản, địa chủ. Ngoài ra các cán bộ thuộc diện phong kiến, tư sản và có liên hệ với thực dân.
Tại miền Nam, tuy bị cộng sản đánh phá, chính phủ quốc gia đã bảo vệ được an ninh cho nhân dân. Dân chúng được tự do sinh sống. Một phần nông dân đã dùng cày máy, phân hóa học, thuốc trừ sâu trong nông nghiệp. Việc chăn nuôi tuy không theo quy mô lớn như Âu Mỹ mà theo phương pháp tư nhân tự túc. Heo được nuôi bằng cám, gạo, được tắm rửa sạch sẽ.
Tại miền Bắc, cộng sản dùng chiêu bài chia ruộng cho nông dân nhưng sau CCRD, mỗi nông dân chỉ được vài thước đất "con chó nằm ló đuôi ra ngoài". Được khoảng một năm, khoảng 1967-1968, cộng sản thu hồi ruộng đất, lập các HTX nông nghiệp, bắt dân làm nô lệ trong các nông trại tập thể. Cộng sản tố cáo tư sản bóc lột, địa chủ tàn ác nhưng cộng sản càng bóc lột tàn tệ trăm ngàn lần tư bản và địa chủ. Thời trước, nông dân làm rẽ, phải trả hoa màu cho địa chủ, nhưng mỗi nơi mỗi khác, thường thì nông dân tại miền Trung được hưởng một nửa hoặc 2/3 lợi tức.Sau 1955, chính phủ Ngô Đình ban hành luật thu tô. Nội dung cải cách điền địa của Ngô Đình Diệm chủ yếu trong bốn đạo dụ:
Dụ số 2 (8/1/1955) quy định mức thu tô (giá thuê đất) tối đa và lãi suất mà điền chủ được áp dụng.Mức tô tối đa từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoạch cho ruộng làm 1 mùa / năm.Mức tô tối đa từ 15 đến 25% cho mùa gặt chính của ruộng 2 mùa / năm (Cải cách điền địa .Wikipedia).
Dẫu sao, nông dân cũng hưởng được 75%-50% hoa màu, trong khi tại các HTX, cộng sản chiếm 90% lợi tức. Những nông dân lao động hạng nhất mỗi ngày được một ký lúa tức hơn nửa ký gạo. Nủa ký gạo tức hai lon sữa bò. Một nông dân ăn mỗi bữa hơn một lon gạo, không đủ cho ngày ba bữa. Ngoài ra không có tiền mắm muối,quần áo. Những một ký lúa này chỉ được trả vào cuối vụ mùa. Tại miền Bắc, sau khi lập HTX, cộng sản đưa máy cày về biểu diễn, được it lâu thì thu hồi. Dân chúng phải bón phân người trong canh tác nhưng dân Trung Kỳ cũng như Nam Kỳ không dám làm việc này. Nói chung, đời sống dân chúng rất khổ. Trong công trường, nông trường, công nông phải làm việc ngày đêm không nghỉ:
Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm, làm thêm ngày nghỉ".
Chế độ cộng sản bất công. Trong khi giai cấp công nông lao động cực nhọc thì đói khổ, còn bọn nịnh hót, gian dối thì sung sướng:
Thằng làm thì đói,
Thằng nói thì no,
Thằng bò thì sướng"
Kinh tế HTX không có hiệu quả, vì mọi người làm chiếu lệ "Mười người khiêng một cộng rơm".Nông dân không tích cực vì đói, và vì thấy sức lao động của họ bị cộng sản chiếm đoạt:
Một người làm việc bằng hai,
Để cho cán bộ mua đài sửa sân"
Một người làm việc bằng ba,
Để cho cán bộ xây nhà sắm xe."
Một người làm việc bằng năm,
Để cho cán bộ vừa nằm vừa ăn."
Sau 1986, Việt cộng theo Trung Quốc, quay trở lại "tư bản chủ nghĩa", kêu gọi tư bản đầu tư, bãi bỏ kinh tế chỉ huy thì giai cấp tư sản đỏ phát triển mạnh. Họ cướp tài sản công, cướp ruộng đất, nhà cửa của các giáo hội và nhân dân đem bán lấy tiền bỏ túi, khiến cho nhân dân mất nhà cửa trở thành dân oan. Dân oan và các nhà tranh đấu dân chủ bị cộng sản đánh đập tàn nhẫn, có người bị chết, một số phải ngồi tù. Công cuộc tranh đấu cho độc lập, tự do, dân chủ đang phát triển mạnh tại Việt Nam.

IV. VĂN HÓA
Thời Pháp đô hộ, nước ta bắt đầu có báo chí. Ban đầu là báo chí của Pháp nhằm mục đích thông tin và truyền bá quốc ngữ cùng văn học, nghệ thuật của Pháp. Sau tư nhân Việt Nam cũng được ra báo, có loại văn học nghệ thuật, có loại tranh đấu chính trị.Thời VNCH, tại miền Nam có báo chí và nhà xuất bản tư nhân. Ai muốn viết gì thì viết miễn là đừng làm tay sai cho cộng sản. Cộng sản lợi dụng sự dễ dãi của chính quyền đã dùng báo chí để tuyên truyền phá hoại. Khi chưa cầm quyền, cộng sản đòi hỏi quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội đoàn nhưng khi đã nắm quyền, cộng sản độc quyền báo chí và xuất bản.
Năm 1956, vừa tiếp thu Hà Nội, cộng sản còn để lại một vài tờ báo tư nhân và cho tư nhân ra báo. Nhân Văn, Giai Phẩm ra đời lúc này và bị đánh phá dã man. Những nhà văn trong phong trào này và những người liên hệ đều bị trả thù một cách dã man.Những văn thi sĩ có tinh thần dân chủ thì bị bỏ tù. Những tác phẩm văn học nghệ thuật thì bị chỉ trich gắt gao bởi những công an văn nghệ. Những tác phẩm nào không theo đường lối" hiện thực xã hội chủ nghĩa" nghĩa là nói láo, là tuyên truyền cho cộng sản đều bị chụp mũ " phản động, lãng mạn, đồi trụy."
Miền Bắc phải theo khuôn mẫu "Thép đã tôi thế đấy "," Ruồi trâu" của quốc tế cộng sản. Những tác phẩm của Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan... đã trở thành sách giáo khoa trong nhà trường XHCN. Ca nhạc cũng phải theo đường lối tuyên truyền.Tân nhạc với nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu, đây là đề tài chính của nhiều bài hát: Anh vẫn hành quân (Huy Du), Chào anh giải phóng quân (Hoàng Vân), Lời anh vọng mãi ngàn năm (Vũ Thành), Bài ca năm tấn (Nguyễn Văn Tý), Lá thư hậu phương (Phạm Tuyên), Trai anh hùng, gái đảm đang (Ðỗ Nhuận), Bài ca may áo (Xuân Hồng), Hành khúc giải phóng (Lưu Nguyễn Long Hưng, tức Lưu Hữu Phước), Giải phóng miền Nam (Huỳnh Minh Siêng, tức Lưu Hữu Phước)... trong đó bài Giải phóng miền Nam được dùng làm bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1960 tới năm 1975.
Nhân dân miền Nam thích văn nghệ. Các văn nghệ sĩ tự do sáng tác và biểu diễn. Đa số thích tân nhạc. Đài phát thanh và truyền hình được nhân dân ưa thích vì có tính nghệ thuật cao với các ca sĩ Thái Thanh, Thanh Lan, Hoàng Oanh, Thái Châu, Duy Trác, Duy Khánh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền... Miền Nam cũng yêu nhạc tiền chiến với các nhạc sĩ Phạm Duy, Văn Cao, Văn Phụng...
Nhân dân miền Nam rất thích Cải lương nhưng sau 1975, đa số nhân dân bị thất nghiệp và ngồi tù, không có tiền đi xem cải lương cho nên bộ môn này bị đào thải. Sau 1975, Cộng sản mở các trung tâm ca nhạc với các ca sĩ miền Bắc như Tô Long Phương với các bản Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây,Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Những cô gái đồng bằng sông Cửu Long, Cô gái Sài Gòn đi tải đạn thì chẳng ai đi nghe. Sau cộng sản bỏ nhạc cộng sản, hát nhạc vàng, nhạc Âu Mỹ thì dân chúng nhiệt liệt ủng hộ. Từ đây, nhạc tình cảm chiếm ngôi vị cao quý. Sau 1975, dân Bắc Kỳ đổ xô vào Nam mua sách báo, tiểu thuyết, kinh Phật. Về quân sự, miền Nam tạm thời thoái lui, nhưng văn hóa miền Nam đã ngự trị miền Bắc.

B. MIỀN BẮC ĐIÊU TÀN
Trong xã hội cộng sản, các văn nô phải ca tụng lãnh tụ và đảng dù cho họ ngu dốt, sai lầm và tàn ác. Trái lại những nhà văn chân chính luôn nói sự thật.

Qua các nhân vật Biền, Kha, Dương Thu Hương đã tố cáo cộng sản gian manh:
Trước tiên là ông Biên, một nông dân và là bố chiến sĩ. Ông cho rằng cán bộ bây giờ tệ hơn các ông lý trưởng, chánh tổng ngày xưa: Thời xưa, cứ mười người thì phải có bảy tám người là con nhà tử tế, có lễ nghĩa. Muốn làm bậy cũng còn sợ nhục. Bây giờ đa phần là bọn không học cương thường đạo lý. Họ học luân lý Mác Lê. Cướp vườn, cướp ruộng nhà người ta cũng là theo sách Mác Lê. Lột quần vợ người ta mà ngủ cũng là vì lợi ích của giai cấp đấu tranh (118).
Kha đã tố cáo các lãnh đạo tham nhũng trong việc lợi dụng xây cất nghĩa trang liệt sĩ để bỏ túi , và anh kết luận: Em nghĩ nhiều... Em cũng nghe chán vạn điều thiên hạ nói. Nhưng mà nhân dân lúc có thật, lúc như bóng ma: Nếu cần có lúa, nhân dân là con bò kéo cày. Lúc có chiến tranh, con bò ấy mặc áo giáp và cầm súng. Rồi khi mọi sự đã qua, vào những ngày lễ lạc hội hè... người ta tôn xưng nhân dân như hú vọng các hồn ma, tưởng thưởng cho khói thơm và tro tiền, còn phần xôi thịt thì kẻ khác hưởng; Nhân dân phải đóng kịch, phải tuân lệnh để sống.

Bà đã nói đến cảnh các bà mẹ trong ngày con nhập ngũ:
Chúng tôi đứng thành hàng nghiêm ngắn, mắt nhìn thẳng về phía trước trong lúc các bà mẹ lén lút hỉ mủi vào vạt áo, ghìm tiếng nức trong họng, để rồi mỗi khi có vị đại diện nào tới thăm hỏi thì lại giương đôi mắt đỏ hoe lên, trệu trạo cười: - Dạ thưa bác, cháu nó đuợc lên đuờng, chúng em phấn khởi lắm ạ!. . (38).

Dương Thu Hương đã tố cáo chế độ cộng sản tuyên truyền bịp bợm bằng một hoạt cảnh chụp hình nông dân như sau đây:
- Bác cào cỏ khoai của đội hay của nhà?
Bà ta quay lại, gương mặt võ vàng, lầm lụi:
- Khoai này của bày tui? Của hợp tác bên tê.
Anh lại hỏi:
- Sao các bác tới đây cào cỏ?
Bà ta ném cây cuốc xuống, ngồi thở hổn hển và đáp:
- Mấy ông lãnh đạo xã bảo tới đãy làm cho báo chí chụp phim. Ruộng bầy tui nứt thụt ống chân, có giọt nước mô mà trồng khoai, cấy lúa. Hai tháng nay nỏ có hột cơm vào bụng. Bữa diếp nghe có đoàn các chú về, hợp tác lên huyện xin nếp về chia cho mỗi nhà hai cân với ba lạng thịt heo... Nói xong bà ta lau mồ hôi giục:
- Chú có chớp hình chớp nhanh lên cho bầy tui về. Nhọc quá...
Anh gọi cậu nhiếp ảnh kia trở lại chụp hình. Cậu ta thì thào:
- Dân đói quá anh ạ. Em không dám ghi rõ hình đành phải làm mờ đi. Tại sao người ta lại bảo mình huyện này làm ăn tấn tới lắm? (41)

Bùi Ngọc Tấn nói đến cái bất hạnh của người tù trong chế độ cộng sản. Vào truyện, tác giả cho biết thân phận người tù và thời gian ngồi tù:
Người một lệnh, người hai lệnh, người ba lệnh. Nhiều người tới sáu, bảy lệnh. Mỗi lệnh ba năm. [...] Nhưng chưa ai tù một lệnh (ba năm) mà được trở về. Chưa hết bọp này đã được dí thêm bọp khác. Cái án cao-su. Cái án tù mù. (2). Số phận người tù không phải là do công an một mình quyết định, mà còn do đảng, và cơ quan văn hóa (161, 267).
Họ là những con người hiền lành, yêu nước và tin đảng như già Đô bên Pháp, bỏ vợ con mà về Việt Nam cứu nước lời theo lời kêu gọi của Hồ Chí Minh để rồi ngồi tù vì bị nghi là gián điệp. Tất cả bọn họ, thường dân, bộ đội, nhà văn theo tác giả đều chung một tội "Sự ngây thơ. Nhẹ dạ. Cả tin. Và đều phải trả giá"(26).
Xã hội cộng sản là một nhà tù vĩ đại, hầu hết cư dân đều là tù nhân. Khi ra tù, người cựu tù nhân thấy dường như đâu cũng là bạn tù:
Gặp ai, ở đâu hắn cũng tưởng như gặp lại bạn tù cũ. Nhìn những người đi trên đường, hắn giật mình : "Quái nhỉ, ở trại nào nhỉ. Quen quá. Không biết đã gặp ở đâu rồi. Được về bao giờ nhỉ [...]. Hắn luôn gặp những khuôn mặt tù quen quen. Những khuôn mặt tù ngờ ngợ. Không biết ở trại nào. Hẳn họ cũng như hắn. Mới được ra trại (165).
Kết thúc buồn nhưng mang một ý nghĩa lớn lao: Xã hội cộng sản nhân danh tự do dân chủ nhưng đã giết chết con người dù nó ở trong tù hay ra ngoài tù. Dự, Min, Giang (220-223), già Đô ra tù còn khổ hơn ở trong tù (169).

Nhân dân miền Bắc căm thù cộng sản, ghét lây cả Trần Đĩnh. Ông thuật lại cái bi hài kịch của đời ông khi về Quỳnh Côi ( Thái Bình ) bị nhân dân chửi xéo vì nghi ông là "chó săn của đảng" về rình mò việc làm ăn của Hợp tác xã:
Lần ấy tôi đến một hợp tác xã, gần thị trấn Quỳnh Côi. Vừa tới đầu làng, thấy một nhóm bà con trục lúa, tôi đứng lại xem. Liền bị chửi tức thì - nhanh hơn cả pháo phòng không sau này: “Kìa, gớm chưa, thính hơi thế!”, “về đánh hơi rình mò mà,” “Này, con đốm nhà tôi nó đã hít hít hực hực ở đâu là y như có cáo...,” “Nào, cót kiếc, thúng mủng chuyến này đem đốt mẹ nó hết đi mà hun chuột đồng, nó về thì còn cái đ. gì để mà cần cót, cần thúng nữa?”
Bà con cho là tôi về đánh giá sản lượng để bóp nặn thuế nông nghiệp.( ĐC,283)

Trần Đĩnh cho biết một vài cảnh bi hài kịch của xã hội cộng sản:
Tôi chợt nhớ tới chuyện Lê Duẩn xưa tắc “chỗ kia” mà chả bác sĩ ta nào dám mổ đâu. Cả Phạm Văn Đồng thong manh cũng vậy.
Vợ Vũ Hoàng Địch, giáo viên bảo tôi bọn tôi vừa ăn tối xong thì trường triệu tập họp gấp 7g rưỡi. Đang đại hàn chi cực, rét ghê rét gớm. Tôi ngồi cạnh một cô cứ thấy nó run bắn người lên. Hỏi thì nó bảo chị sờ quần em xem. Ướt đẫm. Em có mỗi cái quần dạy xong đem giặt thì bị gọi họp. Nhà không có bàn là mà có thì hôm ấy cũng mất điện. Đạp xe đến bạn ở khu phố khác để là thì không kịp thế là đành… Lớp không có cửa gió bấc cứ hun hút. Tối ấy tôi tưởng nó chết…
Ở Đinh Công Trứ, gần nhà Vũ Hoàng Địch, Anh hùng quân đội Nguyễn Thị Chiên bán vé xổ số.
Dân tổng kết quá siêu đầu ra của võ công oanh liệt:
Đầu đường đại tá bơm xe,
Giữa đường thượng tá bán chè đậu đen,
Trung tá đi bán cà - rem,
Thiếu tá thì bận thổi kèn đám ma
Đại úy chăn vịt đuổi gà,
Trung úy ở nhà bám đít con trâu,
Còn thằng thiếu úy đi đâu,
Ba-lô lộn ngược buôn tàu bắc nam.
Bao giờ Trung Quốc tràn sang
Trung ương Đảng gọi, sĩ quan chạy làng!
Như ca dao xưa đã nói “thằng Tây nó tếch thằng Tàu nó sang!”
Cùng tiền đồ đầy hy vọng:
“Ngày xưa chống Mỹ, chống Tây
Bây giờ chống cổng rước Mỹ Tây vào nhà.”
Một chiều xếp hàng mấy tiếng ở Bách hoá tổng hợp mua săm lốp xe đạp Sao Vàng theo tem phiếu một đời xe may mới được cấp một lần, tôi chứng kiến một cảnh chắc chắn khắp thế giới không đâu có.
Cách chúng tôi đám người mua săm lốp chừng mươi mét là quầy sữa. Bảy tám chị em còn trẻ nhấp nhổm chờ ở đó đã khá lâu. Chốc lại nhăn nhó hỏi cô bán hàng sao lâu thế, con em ở nhà chẳng có người trông. Nghe đâu bị giữ ở đây bốn tiếng, chị em đã gọi đây là Hoả lò ngọai trú. Khoảng nửa giờ sau, một người đàn ông thấp, vạm vỡ, hai cánh tay trần xăm xăm đi tới, miệng nói lớn. “Trật tự, lần lượt từng người, xếp hàng vào... Nào, đúng là đã chờ đủ bốn tiếng chứ?” vừa nói vừa nhặt một tờ giấy ghi tên những người đến vào giờ nào giờ nào để ở trên quầy lên xem. “Ai không đủ bốn tiếng thì về hôm khác đến...” (Một ông xếp hàng cạnh tôi nói khẽ: - Sửa trụ sở y tế phường nên chị em phải đem vú đến chỗ chợ búa thử thách xem tươi hay héo, rắn hay nhão. Chúng nó cấm về nhà vì sợ chi em cho con bú hay vắt kiết sữa đi... Chốc sẽ còn bắt chi em uống nước thật nhiều cho sữa dễ rịn ra.)
Tôi thật sự không tin vào mắt mình. Những bà mẹ trẻ lần lượt trật vú ra cho người đàn ông bóp kiểm tra trữ lượng sữa sẽ nuôi các Phù Đổng tương lai. Hai tay hai bầu, mắt chằm chằm vào núm vú, anh ta nói: - Cố nhịn đau đấy, tôi nhẹ tay thì lại bảo tôi ngoắc ngoặc, thiên lệch... Cô bán hàng bên cạnh bỗng bình giá: - Bốn hộp! Người mẹ vừa nghiến răng xoa ngực vừa vội kêu lên: - Ối, bốn hộp thì con em bú sao đủ, tiền đâu mua sữa phe, khổ con em...
Tôi quàng lốp vào cổ vội lách ra. Nghĩ đến tít xã luận báo Nhân Dân: “Hà Nội, thủ đô của phẩm giá con người” mà không thể không rủa thầm bố tiên sư nhà nó!
Vừa tới cổng bách hóa đằng Hai Bà Trưng thì bị giật về đúng ba ngả: trái, phải và đằng sau. Một cô liến thoắng: - Bố hớ rồi, dớ mẹ nó loại hai rồi, phải xem có sợi chỉ xanh ở vải lót bên trong cơ, bố Khốt (khù khờ) quá… Thôi, thương bố Khốt con mua đỡ cho với giá giữa loại hai và loại một xuất khẩu.
Tôi nghẹn cổ không trả lời được vì một cô bên trái đã hai tay níu lấy cái lốp xoắn lại và nó lập tức thít lấy cổ tôi. “Có mỗi con là chơi đẹp với bố Khốt. Nghĩa là trả đúng loại một, chỉ xin bố Khốt bớt kha - ra - sô năm đồng. Thế là ố chìn tuyệt, bố Khốt nhẻ nhẻ!”
Tôi cố gỡ ra khỏi gọng kìm. Nói: - Tôi mua dùng, bánh xe tôi vấn một năm nay rồi…
- Bán đi. Đi vành sắt không lốp đỡ trượt ngã!...
Tôi chẳng thiết ngó xem ai vừa mách mẹo thiết luân xa. Bụng nghĩ: chủ nghĩa tư bản biến người thành hàng hoá, mình hơn là còn được làm cái giá treo hàng cho nên mới thành lương tâm thời đại… đồ…
Ít lâu sau, mấy chị em ở báo cho hay tay bóp vú ăn lương kia bị vợ li dị. Quen thói hóa thành quỷ bạo dâm với ngay vợ. Cũng cho hay hôm nọ y tế lộ ra bí mật quốc gia là 90% trẻ sơ sinh của ta bị ỉa chảy. Loại cho bóp vú được tám hộp sữa Liên Xô cũng điêu đứng. Sữa Nga để quá ba ngày là kém phẩm chất. Ăn vội được ba hộp còn năm lại đem ra Hàng Buồm cho phe đỡ hộ. Sữa Similac Nga ăn vào là trôn tháo cống ồ ồ ngay. Khéo mà các ta - va - rít làm nhầm thuốc tẩy ra thành sữa à?… Một chị vặn lại: - Thế Nétxlê nó cho thuốc táo bón vào ư?
Một chị nhắc lại hôm nào công đoàn bán cho đoàn viên sữa Mộc Châu. Đặc quánh hệt mỡ tra ổ líp xe đạp. Nhiều người mách nhau nấu chè bà cốt. Cứ tương cho nửa bàn tay gừng vào là chắc dạ . Nhưng có chè lại khổ nỗi không thìa, phải lấy dao bếp nạy. (ĐC, 511-514)

C. MIỀN NAM HUY HOÀNG
Xã hội Miền Nam có nhiều vấn đề do:
-Con người tham, sân, si
-Chiến tranh, Việt Cộng phá hoại
Tuy nhiên, so với miền Bắc, miền Nam ta có rất nhiều tự do và thịnh vượng dù là tương đối.
Chúng ta có báo tư nhân, nhà xuất bản tư nhân, chúng ta muốn đi đâu thì đi không cần xin phép phường khóm, chúng ta có tự do hôn nhân không cần đảng chấp thuận. Chúng ta không làm được việc này thì làm việc khác không bị rút phép thông công, bao vây kinh tế.
Trong khi ngoài Bắc ăn độn, trong Nam con heo cũng được ăn cơm trắng, được tắm rửa hàng ngày và được nằm mùng.
Ngoài Bắc, sau CCRD, cộng sản đưa về HTX vài cái cày máy, sau vài tháng rút đi mất tiêu, người nông dân trở lại đời kéo cày thay trâu, còn trong Nam, tư nhân có cày máy, thuyền đuôi tôm và chế ra máy quạt lúa khiến ngoài Bắc phải vào mua. Trong Nam tư nhân chế tạo xe đạp còn ngoài Bắc phải nhập cảnh xe đạp Trung Quốc! Xe đạp là món xa xí quý trọng phải xin phép mới được mua, phải đăng ký như thể xe hơi!
Ngoài Bắc cũng có nồi đồng soong nhôm song it bữa là méo mó, hư hao và nứt nẻ!
Một sinh viên bộ đội học Đại Học Tổng Hợp miền về hè thăm quê Bắc, gặp tôi, tôi hỏi sao anh vào sớm vậy? Anh nói: "Thưa thầy, ngoài Bắc chán lắm. Con gái một con mà vú nhão nhẹt và lép kẹp , da nhăn nheo như bà già, còn đàn bà trong Nam, 40-50 vẫn tươi mát như con gái mười tám"!
Trần Đĩnh ca tụng cái Ng. học ở Đức về đi xăng đan cao gót, cậu bảo bàn chân con gái tự nhiên trông thành một đường arabesque - uốn lượn quá đẹp… Đúng, nhưng cậu mới thấy cái chất vật lý của bàn chân con gái gói bọc trong những quai da. Tớ còn thấy ở đó động thái ưỡn dướn của cơn mê nhục cảm.(ĐC, 497)
Trần Đĩnh chỉ thấy một cái Ng. đi giày cao gót mà ca tụng ầm lên, còn trong Nam có cả triệu đôi chân với động thái ưỡn dướn đầy nhục cảm!
Việt cộng tuyên truyền trong Nam dân chúng bị Mỹ Ngụy bóc lột nên đói khổ. Đến khi vào Saigon, cán bộ mới thấy Saigon đẹp đẽ biết là bao.
Trần Đĩnh thuật lại cảm tưởng của ông khi vào đến Đà Nẵng, một vùng trời bình yên và tươi sáng hiện ra, và ông nói đến những tặng vật mang từ ngoài Bắc vào:
Đêm miền Nam đầu tiên nghỉ ở Đà Nẵng. Hành khách ngủ vạ vật trên đường quanh xe. Sáng sớm, mở mắt tôi thấy một vùng loá trắng, tinh khiết, ngỡ như mênh mang ngay ở trên đầu: pho tượng Phật. Chợt thấy lòng êm ả lạ. Nhờ ánh sáng an ủi mà một đức Phật bằng lặng và nguy nga như tảng băng Nam cực kia trôi đến ban cho. Sau biết đó là pho tượng Phật Quan Âm lớn nhất Việt Nam ở Chùa Linh Ứng, Bãi Bụt. Hay thật, sao đêm đầu tiên gửi mộng trên đất miền Nam tôi lại ở Bãi Bụt!
Tôi tới nhà, cô em út trông thấy tôi đầu tiên.
Cách đây hai mươi năm, ở Đại học Bắc Kinh, tôi nhận được một bưu thiếp, sản phẩm đặc biệt của cái thời “tạm chia cắt.” Hân, mười sáu tuổi, viết: “Em mơ thấy anh được Nobel, à, nhưng anh có biết Nobel là gì không? Em khoe với bọn bạn là anh rất giống Marlon Brando và Anthony Perkins, ôi, chúng nó ghen quá, đã đẹp trai lại giỏi nữa chứ. À, nhưng anh có biết hai diễn viên Mỹ này không?”
Nay Hân ngẩn ra nhìn mãi cái người tiều tụy đang cố rút chân ra khỏi đống bị, sọt, can, ba lô tha vào cứu tế chất đầy sàn xích lô. Gắng rút được chân thì một chiếc dép nhựa nâu văng lên thành một parabol hoàn hảo của một chiếc lá đa già, mỏng sắc, nó liệng vồng lên qua đường rồi rơi đánh đạch một cái trước khung cửa gỗ tăm tối của nhà tôi: tiền trạm của tôi lại là cái gót rỗ kỳ khu nằm trình diện kia! Khi xỏ lại chân vào nó, tôi chợt thấy mình đúng là khố dây đi đất. Tôi không có nền móng gì ở dưới chân. Nhẹ bỗng. Trống trơ. Trừ tình gia đình, bố con anh em… Tôi đồng thời cũng thấy một ngỡ ngàng lớn trên mặt em gái (ĐC, 483)

Trần Đĩnh nói đến cảm giác của các cán bộ cộng sản vào Nam trong những năm đầu 1975 :
" Thương miền Nam đang sướng rồi khổ đây thì mọi người cũng lại xuýt xoa trong kia dân nó ối chà giàu ơi là giàu. Vàng chỉ năm chục đồng Cụ một cây. Tủ lạnh vài chục đồng một chiếc. Lạnh cứ là liên lu liền lù suốt năm. Bảo cho tay vào lâu là hoá ra đá.
Một sáng P. K. bên giáo dục chuyển sang làm báo mời tôi ăn phở Phú Gia. Lúc chờ, anh nói: - Chỉ với anh thì tôi mới nói thật cái này: nhà tôi là tư sản anh ạ.
Thấy vẻ sung sướng trên mặt anh, tôi mừng thay nhưng cũng lo. Tôi nói khéo sẽ mất hết. K. nói: - Tôi đã mách cách phân tán cả rồi. Sao để họ lấy không được chứ? Trả lời tôi hỏi trong ấy họ sống thế nào, anh nói: - Đủ hết nhưng nay nhà tôi đã cho nghỉ máy lạnh. Giả nghèo. Buồng nào cũng máy lạnh. Xin lỗi anh, tôi thấy sướng nhất là đi toa lét. Ối trời, anh biết không, rộng, thoáng, mát, sạch… Buồng trưởng phó ban báo ta thua xa…(ĐC, 480 ).

Nguyễn Chí Thiệp trong Trại Kiên Giam viết cũng giống Trần Đĩnh:
“Ở miền Bắc người ta đều hiểu sai về miền Nam, hệ thống tuyên truyền của Hà Nội đã mô tả xã hội miền Nam cực kỳ xấu xa, lạc hậu và nghèo đói”. Khi được phép vào Nam chú lo lắng không biết lấy gì để đem về làm quà cho bà con – vì chú không có dư dả. Chú thím bàn nhau mãi mới quyết định trích phần tiền nhỏ nhoi để dành mua được 5 khăn tay, 4 hộp sữa nhãn hiệu Liên Sô viện trợ và hai ký muối, 5 khăn tay để làm quà cho 5 người cháu ruột ở Đà Nẵng, 4 hộp sữa và 2 ký muối làm quà cho gia đình anh ruột và gia đình tôi.
Khi lên xe đò chú giữ nâng niu món quà, tưởng tượng thân nhân sẽ vô cùng sung sướng. Đường quốc lộ số 1 lồi lõm đầy hố bom Mỹ, xe chạy tung bụi mờ mịt, có đoạn xe phải băng xuống ruộng vì khoảng quốc lộ đã bị bom phá nát không đi được. Qua khỏi Thanh Hóa chú mất cái khăn tay. Đường còn xa, bụi dơ bẩn, không thể nào không dùng một cái khăn. Đầu óc chú cứ phân vân, nếu dùng một cái khăn tay thì một người cháu ở Đà Nẵng không có quà.
Chú phấn đấu với bản thân, khi xe ngừng ở Vinh để hành khách rửa mặt giải lao, chú quyết định xé ngang vạt áo sơ-mi làm khăn lau để đảm bảo đủ 5 cái khăn cho 5 đứa cháu. Một quyết định lúc đó đối với chú thật quan trọng, chú phải hy sinh một cái áo “còn tốt” của chú để bảo vệ quà đủ cho người thân ở miền Nam. Xe qua Bến Hải vào đến Quảng Trị, chú Bình thoáng chút nghi ngờ, đường quốc lộ rộng thênh thang, thẳng tắp, rồi thành phố Huế khang trang hiện ra, chú tự hỏi nếu đời sống miền Nam cơ cực làm sao nhà cửa, phố xá, quốc lộ đều to lớn, mới mẻ nói lên một cảnh ngược lại những gì chú được học từ bấy lâu nay. Về đến Đà Nẵng, chú bắt đầu thấy rõ là mình bị lừa gạt. Về đến nhà người anh, chú sững sờ trước một ngôi nhà đồ sộ hai tầng, chú sợ lầm địa chỉ, đi tới, đi lui cả buổi không dám gọi cổng. Cuối cùng chú “đánh liều” bấm chuông cửa. Hơn 20 năm chú còn nhận ra người anh ruột.
Cuộc sống của gia đình người anh, một thương gia hạng trung ở Đà Nẵng đã làm chú choáng ngộp, phương tiện vật chất, xe hơi, xe Honda của các cháu, TV, tủ lạnh, quạt máy đầy đủ tiện nghi, tương quan trong gia đình tôn ti trật tự cha con, chồng vợ, anh chị em không khác thời nhỏ chú được dạy và giờ đây chú mới lại tìm thấy. Chú Bình đã khóc ngon lành trước sự kinh ngạc của mọi người.
Các món quà lúc đầu chú không dám đưa ra, nhưng cuối cùng để cho mọi người hiểu chú đem ra tất cả để trình bày mà không cần giữ lại 2 lon sữa và 1 kg muối cho gia đình tôi. Mọi người thương chú và cười ra nước mắt. Đồng thời lúc đó gia đình còn phát giác chỉ cho chú một điểm nhỏ của sự lừa bịp có hệ thống: Những lon sữa có nhãn hiệu Liên Sô thật ra là sữa Foremost sản xuất tại miền Nam, người ta đem về Bắc bóc giấy in nhãn hiệu Liên Sô dán vào nhưng chữ F đóng nổi ở dưới đáy hộp không xóa được. (Ch.II)

Ông chú của Nguyễn Chí Thiệp vô cùng ngạc nhiên trước cuộc sống đạo đức và tự do của miền Nam. Người chú của Nguyễn Chí Thiệp xuc động vì bữa ăn vui vẻ và hiếu thuận của gia đình người anh:
Bữa cơm xoàng trong gia đình làm chú xúc động. Thấy mấy em nhỏ vào bữa cơm chào mời lễ phép chú khóc. Ngoài Bắc đã mất những hình ảnh đó từ lâu rồi. Giáo dục miền Bắc chỉ dạy trẻ con trung với Đảng, hiếu với dân, họ muốn vô hiệu hóa gia đình nên chỉ dạy trẻ con tinh thần đấu tranh, đấu tranh từ bản thân đến cha mẹ, anh em. Phần vì chủ trương đường lối, phần vì cuộc sống, cha mẹ không gần gũi con cái trong sinh hoạt của chúng nên trẻ em ngoài Bắc rất mất dạy, chúng không còn biết tôn trọng cha mẹ hay thầy cô giáo.(Ch.II)

Ông chú của Nguyễn Chí Thiêp vô cùng sửng sốt trước việc uống la ve không cần tiêu chuẩn của Miền Nam:
Chúng tôi vào quán cơm bình dân ăn cơm; khi ăn chú Bình nhìn về bàn một người đàn ông mặc áo Treillis xanh, quần đùi, trước mặt anh ta là một đống vỏ Bia 33 chừng 5 hay 6 chai.
Tôi chợt nhớ không mời chú uống bia. Tôi nói:
– Xin lỗi chú, cháu không uống được bia nên vô tình không mời chú uống bia, chú uống bia nhé?
– Bộ mình cũng có tiêu chuẩn bia sao? Có thì uống chứ.
– Chú nói gì tiêu chuẩn, mình mua uống thì trả tiền chứ tiêu chuẩn gì, chú uống bao nhiêu cũng có, miễn đủ tiền trả.
– Có thật không? Chú hỏi lại.
– Thật, mời chú uống. Tôi gọi Bia 33.
Ngồi ăn uống, chú vẫn như ngẫm nghĩ điều gì, chú hỏi tôi:
– Người đó làm gì mà uống nhiều bia quá vậy?
Nhìn lối ăn mặc của người ngồi bàn đối diện, tôi nói:
– Có lẽ một phu xích lô hay phu ba gác.
Chú vẫn không tin vào lời nói của tôi, nhân lúc người kia nhìn qua, chú chào xong bước qua bàn hỏi:
– Xin lỗi ông bạn nhé, tôi hỏi nếu không phải thì ông bạn thứ lỗi. Ông bạn làm gì mà tiêu chuẩn bia nhiều vậy?
Người kia cười ha hả nói:
– Tiêu chuẩn gì, chắc ông ở miền Bắc vào, tôi làm gì hả, tôi đạp xích lô, tôi có tiền tôi uống, không có tiêu chuẩn gì hết. Trước kia chạy xe khá, tôi uống 10 hay 12 chai, bây giờ làm ăn khó tôi chỉ uống 5 chai.
Chú vẫn chưa tin hỏi tiếp:
– Thực anh làm phu xích lô?
– Không thực thì sao tôi ngồi ung dung như thế này, nếu tôi làm quan quyền chế độ cũ, tư sản này nọ thì đang lo sốt vó, có thì giờ đâu mà thong dong nhàn hạ.
Nói xong, người kia kêu tính tiền, đứng lên, ra lề đường đẩy chiếc xích lô rồi nhảy lên đạp thẳng như để chứng minh cho chú, anh ta là phu xích lô thật.

Ở ngoài Bắc cũng như tất cả các nước Xã Hội Chủ Nghĩa đều qui định tiêu chuẩn và chế độ khẩu phần lương thực, thực phẩm và các vật dụng cần thiết. (Ch.II)
Dân Nam chán ghét và sợ hãi cộng sản.
Trần Đĩnh còn nghe một chị Saigon bán ve chai nói về " Giải Phóng":
Như có trời xui, cách chúng tôi hai ba mét một phụ nữ ve chai ngồi tựa vào hông chiếc ghế dài trống không. Tôi bảo ngồi lên ghế thì lắc: “Cháu không quen ngồi vào thứ sang.” Cụ bạn bèn đến bên: - Bây giờ được ở trong các nhà thế này cô có quen không?
- Không ạ!
- Cô thấy nó đẹp không?
- Đẹp… Nhưng cháu chỉ muốn Mỹ nó lại thả bom cho tan hết…
Chúng tôi trố mắt. Không ngờ tới câu trả lời dứt khóat, đanh thép này chút nào.
Người phụ nữ nói tiếp: - Thế hồi đánh nhau đâu có như thế này? Chả là đều nghèo như nhau cả thôi. Bây giờ đấy, đứa ăn chẳng có mà đứa thì sướng quá vua. ..Thôi cháu chào hai cụ, cháu đi đây. Sáng đến giờ mới kiếm được hai mươi tư nghìn...” (ĐC, 492 )

Minh Trường, phóng viên nhiếp ảnh Thông tấn xã là lớp người đầu tiên về Sài Gòn chiến thắng. Khi trở về nhà cũ, đứng trước nhà mình bấm chuông. Thì mẹ anh mở cửa. Thì mẹ liền chắp hai tay lạy: - Anh còn sống thì tôi mừng nhưng anh về thì tất cả các đứa con bao lâu nay sống với tôi, chăm sóc phụng dưỡng tôi đều đã bị các anh lôi đi tù hết mất rồi. Anh về thì nhà này tan nát, thì tôi trơ trọi. Thôi, tôi xin anh, anh đi với đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên...( ĐC, 486)

\D. SO SÁNH TƯ BẢN VÀ CỘNG SẢN
So với cộng sản, quân chủ và thực dân dễ sống hơn.Thi sĩ Hữu Loan viết :
Một loạt các quyền tự do đã tồn tại ngay cả dưới chế độ thuộc địa. Hãy để tôi liệt kê một số điểm đáng nhớ trong Pháp chiếm Việt Nam vẫn còn trong bộ nhớ của nô lệ này: Đầu tiên, tự do bầu cử. Hầu hết các cơ quan hành chính là đối tượng phổ thông đầu phiếu. Các quan chức Pháp tỉnh chỉ đơn giản là đóng vai trọng tài. Khác thấp hơn [Việt Nam] các quan chức không dám nhận hối lộ.Mọi người có thể kiện và thậm chí còn buộc tội các quan chức từ các vị trí của họ. Quan chức tham nhũng đã khinh miệt bởi tất cả mọi người. Tham nhũng dẫn đến thiệt hại cho đời sống, thậm chí còn tồi tệ hơn. Một viên quan ở một huyện ở Huế tham nhũng thì cả nước đều biết.
Điều thứ hai là có tự do báo chí, và quyền phát biểu tư tưởng.
Các cá nhân được phép thành lập báo chí riêng của họ. Họ từ chối chấp nhận trợ cấp của chính phủ. Trong số các tạp chí nổi tiếng nổi tiếng là tờ Nam Phong ( Gió Nam) Tạp chí, Phụ Nữ) Tạp chí, Phụ Nữ Thời Đàm, Tạp chí, Tiếng Dân , Phong Hóa Ngày Nay vv. Trong số những nhà văn có uy tín và các phóng viên là Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Thụy An, Huỳnh Thúc Kháng, etc.
Các thí sinh bất kỳ vị trí nào phải tham gia kỳ thi vòng loại. Những người có tài năng sẽ vượt qua. Lương của người lao động đã đủ để trả tiền cho sinh sống và một số tiền tiết kiệm của họ. Một giáo viên của hai lớp sơ đẳng và dự bị, thu được 12 piasters một tháng, tương đương với 2 "chỉ " của vàng ngày hôm nay.
Sinh viên không phải nộp học phí. Chỉ có giáo dục đại học phải nộp một đồng một tháng. Học sinh giỏi đã được trao học bổng, thậm chí học bổng du học ở bên Pháp. Bệnh nhân được cho thuốc tại trạm xá huyện. Bệnh viện tỉnh đã dành khu vực cho bệnh nhân nghèo đã được điều trị và ăn uống miễn phí. Những bệnh viện này đã được biết đến như bệnh viện từ thiện.
Ngày nay, y đức từ lâu đã biến mất. Các bệnh viện ở khắp mọi nơi lấy tiền của bệnh nhân nhưng chắc không có hiệu quả điều trị. Chế độ thực dân Pháp thực sự là khủng khiếp, nhưng nó vẫn là một giấc mơ xa cho người dân dưới các chế độ vỗ ngực khoe khoang của họ về độc lập và quay lại đàn áp người dân của họ. (Tác phẩm Hữu Loan).

Nguyễn Chí Thiện viết:
Ôi thằng Tây mà trước khi người dân không tiếc máu xương đánh đuổi.
Nay họ xót xa luyến tiếc vô chừng.
Nhờ vuốt nanh của lũ thú rừng.
Mà bàn tay tên cai trị thực dân hóa ra êm ả [1]

Đúng là thực dân tử tế hơn cộng sản bởi vì tư bản, quân chủ còn chút nhân ái, từ bi còn cộng sản chủ trương đấu tranh giai cấp và vô sản chuyên chính cho nên vô cùng tàn độc!
Các nhân vật trong Đèn Cù đã cho ta thấy rõ tính "ưu việt" của chủ nghĩa cộng sản là tàn bạo, dã man hơn thực dân. Khi công an bắt Vũ Đình Huỳnh, ông nói:
- Các đồng chí cho tôi vào hôn mấy cháu bé.

- Thằng phản động, ai đồng chí với mày hả?
Sau ông Huỳnh nói với Trần Đĩnh: - Mật thám Tây đến bắt không vô văn hóa như vậy (ĐC, 338).

Trong Đêm Giữa Ban Ngày, Vũ Thư Hiên ghi lại lời mẹ ông, bà Vũ Đình Huỳnh, người đã có kinh nghiệm với mật thám Pháp đã đưa ra một nhận định để đời: Chúng nó đến, con có tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám Pháp nữa kia!... Thời Pháp thuộc, mẹ còn chống chọi được, bọn thực dân tiếng thế chứ không đến nỗi ác như bọn này. Bây giờ khó lắm, mọi sự làm ăn đều khó, chúng nó bít kín mọi đường, bắt mọi người muốn sống phải phụ thuộc chúng nó .[2]

Nguyễn Đức Thuận cho biết rằng cơm ăn nước uống của tù rất khá. Mỹ cho mỗi tù mỗi ngày một đô-la ăn uống cơ mà. Thuận đã so sánh cụ thể:- Ra đây tôi thấy cơm vụ trưởng không bằng cơm tù chúng tôi những ngày không bị đánh đập (ĐC, 298 ).

Trần Độ so sánh lực lượng an ninh xã thôn ngày xưa và bộ máy công an cộng sản ngày nay:
Ngày xưa còn bé, ở nhà quê, tôi chỉ thấy làng xã tôi có một trương tuần và 4 anh tuần phiên. Ngày nay tôi thấy ở phường có công an phường có trụ sở, có mấy chục người và chỉ huy là một cấp tá; bây giờ mình nhiều sĩ quan thật!...Lực lượng Công an nhân dân hiện nay được giới thiệu như một lực lượng của nhân dân, trong nhân dân và vì nhân dân. Nhưng sao mà trong thực tế nó lại hay giống nhưng cái ngày xưa ở ta, và giống các nước tư bản quá. Nhiều người nhìn vào nó, thấy rõ nó tiêu biểu cho một lực lượng đàn áp và khủng bố. Dân sợ nó nhiều hơn và cho đó là một nghề "thất đức" và quả nhiên nó làm cho nhiều người sợ thật.
Nó có một lực lượng cảnh sát chiến đấu trang bị rất sắc bén và hùng hậu. Nó được trang bị tất cả những công cụ khủng bố hiện đại và phong phú hơn cả các lực lượng bảo vệ chế độ cũ (phong kiến và thực dân) như dùi cui, súng, vòi rồng phun nước, hơi cay, khiên và côn, xe phân khối lớn, chó nghiệp vụ v.v... Nó có một hệ thống trụ sở, đồn, nhà giam và nhà tù và đều là những chỗ đáng sợ, ít ai vui vẻ muốn tới đó. Trình độ nghiệp vụ của nó rất cao: thẩm vấn, hỏi cung, theo dõi, điều tra, phong tỏa thư tín, nghe trộm điện thoại v.v... yêu cầu dân và tìm người đưa tin chỉ điểm. Hỏi cung thì mớm cung, gài bẫy, tạo chứng cớ, bắt nọn và hành hạ người bị hỏi cung rất kịch liệt và dài ngày. Tất cả những điều nói trên đều là những điều mà khi ta chưa có chính quyền thì ta nguyền rủa, chống đối, khinh bỉ. Lúc đó những chữ mật thám, tay sai, chỉ điểm được nhắc đến như những gì xấu xa và lý tưởng của ta là quét sạch nó như quét sạch những rác rưởi ở chợ. Mà ngày nay ta lại sử dụng nó tích cực và ca ngợi, bênh vực nó ghê gớm (Bút ký "Một cái nhìn trở lại" 2)
Trần Độ kể lại lời chị họ của ông:" Tôi có một bà chị có chồng là tù nhân trong thời đế quốc phong kiến, nay có con rể là tù cách mạng. Chị có kể chuyện về hai cuộc đi thăm tù : trước đi thăm chồng, nay (sau năm 1975) đi thăm con rể. Chị có một ấn tượng rất nặng nề khi phải so sánh hai cuộc đi thăm ấy: tù nhân thời nay cực hơn thời đế quốc (Bút ký "Một cái nhìn trở lại" 
I, 4)
Trần Độ viết ":Cuộc cách mạng ở Việt Nam đã đập tan và xoá bỏ được một chính quyền thực dân phong kiến, một xã hội nô lệ, mất nước, đói nghèo, nhục nhã. Nhưng lại xây dựng nên một xã hội chưa tốt đẹp, còn nhiều bất công, nhiều tệ nạn, một chính quyền phản dân chủ, chuyên chế, của một chế độ độc đảng và toàn trị, nhiều thói xấu giống như và tệ hơn là trong chế độ cũ  (Trần Độ - Nhật ký Rồng Rắn II, 3)

Sau đây là những đoạn văn so sánh tù thực dân và tù cộng sản. Trước tiên là việc Trần Văn Giàu ngồi tù thời thực dân:
Phải thừa nhận rằng, ở “biệt thự S”, suất ăn của chúng tôi thịt cá nhiều hơn bình thường, mỗi bữa ăn đều có miếng cơm cháy vàng tươi, dòn rụm, chỉ những ai đã lãnh án tử hình mới được ăn (trang12)
Ở căng Tà Lài cuộc sống không đến nỗi cực khổ quá, có thể nói thảnh thơi là khác, được như vậy không phải do chế độ của trại giam mà do tổ chức tù nhân của chúng tôi; công việc khoán phần lớn ở trong rừng, chỉ có mã tà đi theo cốt để giữ không cho chúng tôi trốn hơn là để thúc bách tù làm...
Ăn, thì gạo thừa, cá khô đủ; chúng tôi còn đánh cá trên sông, mua thịt rừng, rượu cần ở đồng bào thiểu số. Rau thì thiếu gì trong rừng. Thuốc men không biết đâu là đủ, nhưng sốt rét thì có ký ninh, uống nước thì có nước sông lọc bằng thuốc tím. Ở, thì nhà tranh vách nứa, tự làm, nhưng được phát mùng, phát chiếu. Tây nó cốt được yên bằng việc tách tụi tôi khỏi nhân dân, không cốt được kết quả lao động khổ sai.( Trần Văn Giàu* Hồi ký I ,42)

Qua vài trang nhật ký của Trần Văn Giàu, ta thấy tù nhân ăn uống thuốc men đầy đủ, không bị tra tấn đánh đập dã man. Có thể nói ở tù mà như đi dạo chơi. Còn trong trại tù cộng sản, họ dùng cái đói, cái rét để hành hạ và kiềm chế tù nhân. Đa số tù nhân người quốc gia đều viết về cái đói trong trại tù cộng sản. Phan Lạc Phúc trong tác phẩm Bè Bạn Gần Xa viết như sau:
Lũ tù cải tạo chúng tôi ra Bắc nếm mùi xã hội chủ nghĩa, đói quanh năm suốt tháng, đói triền miên, đói dài dài, miếng sắn, miếng khoai là ước mơ to lớn nhất. Từ sự kiện này, tôi mới nhận ra rằng cái nghệ thuật cao tay của người Bôn sê vich trong việc quản trị là nghệ thuật nắm cái dạ dày. Ngày ấy, ngoài Băc chế độ tem, phiếu còn đang thịnh hành, lương thực còn do tay nhà nước quản lý. Anh em tù lên huyện Phù Yên lĩnh gạo về cho hay rằng nhân dân không ai có quyền được có quá 5 ký gạo trong nhà [3]

Hà Thúc Sinh viết:
" Khoai mì này là loại khoai già, được xắt cả vỏ và phơi khô lâu ngày. Vì để cả vỏ, và lại được phơi khô, do đó khi nấu lên khoai mì mang một màu tím than quắt queo như đống cứt chó bị dầm mưa dãi nắng nhiều ngày với một mùi vị vừa hôi mốc vừa nhầm nhậm đắng như có lộn một hai vị thuốc bắc. Được phát kèm với bát khoai mì ân huệ của bác và đảng là ít cộng rau muống, hoặc một tí bí ngô, hoặc tí củ cải kho nước muối [3]
Cái tàn ác thứ hai là bắt lao động quá sức trong khi thực dân không bắt tù nhân lao động. Hà Thúc Sinh kể cho ta nghe một cảnh đốn cây và kéo cây về trại:
Đội 17 hiện có công tác phụ trách kéo những thân cây lớn đã được anh em đốn ngã. Những thân cây này nhiều khi có đường kính hơn nửa thước tây và dài cả 20 thước phải kéo qua địa thế gồ ghề những gò mối, bụi rậm và ao tù làm cực khổ vô cùng. Những thân cây này được kéo thẳng về khối mộc nằm gần bệnh xá cho khối mộc khai thác. Nhà 2 đội 17 và nhiều nhà khác có cùng công tác, chỉ việc kéo với chỉ tiêu 8 cây mỗi ngày, kéo một đoạn đường rừng dài 500 thước và kéo dọc con đường chính của căn cứ vào tới trại mộc quãng một cây số [4]
Cái tàn ác thứ ba là cộng sản còn đánh người và dùng cực hình tra tấn. Hà Thúc Sinh kể chuyện một công an trẻ dùng báng súng đánh các bác sĩ già nua, trong đó có bác sĩ Triển và Lý Trung Dung:
Mày! Thằng già này! Từ lâu tao đã chú ý đến cái lông mày rậm rạp của mày. Nội cái lông mày thôi trông cũng đủ muốn đánh rồi!... Không hiểu ông trả lời ra sao mà thình lình thằng vệ binh xốc lại đập luôn một báng súng vào mặt ông [4]

Và sau đây là môn "tuốt nứa" của trại Đầm Đùn do Trần Văn Thái thuật lại:
Đầu Trâu nhấc cây nứa đã lựa rồi bảo thợ rèn: Bổ làm tư. Thợ rèn ngồi xuống lúi húi sửa soạn.... Tù thợ rèn thận trọng nhấc một trong bốn mảnh nứa, vòng ra sau lưng 983, lom khom cúi xuống, lựa khe hở giữa hai bắp đùi, đút đầu nứa cho lọt qua chừng gang tay. Y ngắm nghía sửa lại cho hai mép nứa ngậm đều vào bắp đùi nạn nhân. Mặc dầu 983 gầy gò nhưng vì hai đầu gối bi cột khít với nhau nên hai cạnh của mảnh nứa úp chặt vào thớ thịt, chỉ khẽ cử động là tinh nứa cắt đứt bắp đùi liền. Mãy người tù trong phòng tra tấn lấm lét nhìn nhau rợn người. Họ thừa biết tinh nứa sắc là đường nào. Hai cẳng chân Toàn run lẩy bẩy, đứng không vững. Trong mảnh nứa sắc sắp cắt lem lém da thit người đồng cảnh, anh rợn khắp châu thân liên tiếp...
Một tiếng rú rùng rợn nổi lên, xiên vào óc mọi người... Y đẩy ngược mảnh nứa để lấy đà tay rồi giật xuôi mạnh một cái. Tức thì 983 thét lên một tiếng rùng rợn. Giám thị lại lùi theo một tốc độ đồng đều, đến đoạn chót của mảnh nứa dài thì vừa vặn ngưng như đã có cỡ tay...(5)

Dù Ngục Trung Nhật Ký không phài của "Bác" cũng nói lên chế độ tù của Quốc Dân Đảng Trung quốc. Tù Trung Quốc không phải lao động, suốt ngày rảnh rang:
開卷
老夫原不愛吟詩
因為囚中無所為
聊借吟詩消永日
且吟且待自由時
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi.
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.

Dịch nghĩa:
Già này vốn không thích ngâm thơ,
Nhân vì trong ngục không có gì làm.
Hãy mượn việc ngâm thơ cho qua ngày dài,
Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do

Trong ngục được ngủ trưa:
獄中午睡真舒服,
睡昏昏幾句鐘。
Ngục trung ngọ thuỵ chân như phục,
Nhất thuỵ hôn hôn kỷ cú chung. (Ngọ)
Trong nhà lao, giấc ngủ trưa thật khoan khoái,
Một giấc say sưa suốt mấy tiếng liền;

Trong ngục, học đánh cờ:
閑坐無聊學奕棋 (學奕棋)
Nhàn toạ vô liêu học dịch kỳ, ( Học dịch kỳ)
Ngồi trong giam cấm buồn tênh, học đánh cờ,
每餐一碗紅米飯
無鹽無菜又無湯 (囚糧 )
Tù lương
Mỗi xan nhất uyển hồng mễ phạn,
Vô diêm vô thái hựu vô thang.
Mỗi bữa một bát cơm gạo đỏ,
Không muối, không rau cũng chẳng canh;
(Tù Việt cộng chỉ lưng bát cơm, hoặc vài mẫu khoai sắn).
Lính Quốc Dân đảng rất tử tế, đôi khi cho tù ăn cá thịt:
芭鄉拘肉
過果德時吃鮮魚,
過芭鄉時吃狗肉。
可見一般迎解人,
生活有峙也不俗。
Bào Hương cẩu nhục
Quá Quả Đức thì ngật tiên ngư,
Quá Bào Hương thì ngật cẩu nhục;
Khả kiến nhất ban đệ giải nhân,
Sinh hoạt hữu thì dã bất tục.

Dịch nghĩa:
Khi qua Quả Đức, ăn cá tươi,
Lúc qua Bào Hương, ăn thịt chó;
Thế mới biết bọn lính giải tù,
Cách sống có lúc cũng sành sỏi.

Trong Vừa đi đường vừa kể chuyện. T. Lan kể việc "bác" ngồi tù Hương Cảng": Mỗi ngày ăn hai bữa cơm gạo xay, một phần tư là thóc. Hôm nay, thức ăn bữa sáng có rau muống, bữa chiều có mắm thối hoặc cá ươn. Hôm sau, để thay đổi “khẩu vị”, bữa sáng có mắm thối hoặc cá ươn, bữa chiều có rau muống. Mỗi tuần được ăn một bữa tiệc: một phần cơm trắng cùng vài miếng thịt bò.
Qua những so sánh trên, ta thấy cộng sản dã man nhất, tàn bạo nhất. Thực dân, đế quốc tuy ác nhưng vẫn có it nhiều tính nhân bản. Nói tóm lại, lý thuyết của Marx sai lầm, dối trá, đảng cộng sản từ đầu cũng đã sai lầm dối trá. Từ trước cho đến nay, thế giới đã hiểu rõ chủ nghĩa Marx gian xảo, những lãnh đạo cộng sản như Lenin, Stalin, Mao, Hồ, Pol Pot là những con thú mang lốt người, và đảng cộng sản là một đảng cướp.
Trong lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam, có những trang đen tối là lịch sử thời cộng sản. Đó là những trang sử chứa đầy máu và nước mắt của một nửa thế giới bất hạnh, trong đó có Việt Nam chúng ta. Cộng sản Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ, còn lại Trung Quốc, Việt Nam, Cambodia, Lào, Tây Tạng, Bắc Hàn. Chúng ta phải đoàn kết với nhân dân thế giới đang tranh đấu chống Trung Cộng xâm lược. Chúng ta phải quyết tâm tranh đấu để giải phóng chúng ta và giải phóng nhân loại khỏi gông cùm và tai họa cộng sản.
Trần Độ là một vị tướng của cộng sản nhưng ông là người cộng sản giác ngộ
Cũng như Nguyễn Chí Thiện, Hữu Loan, bài thơ ngắn của ông là một lời phê phán ngay thẳng vào chế độ cộng sản:
Những mơ xoá ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ngỡ ác xóa rồi thay cực thiện
Ai hay, biến đổi, ác luân hồi.
(Trần Độ - Nhật ký rồng rắn I)

Trên đây là những so sánh giữa hai phe cộng sản và quốc gia Việt Nam. Nhìn xa hơn, chúng ta sẽ thấy cộng sản gây tai họa cho hơn nửa thế giới.

Các nhà văn, nhà chính trị đã nhận định và so sánh hai phe cộng sản và tư bản như sau:
* Triệu Tử Dương (1919-2005) là một người cộng sản giác ngộ. Ông khác hẳn những cộng sản giáo điều.Trong Đại hội Đảng năm 1987 Triệu Tử Dương tuyên bố Trung Quốc đang ở trong "một giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội" có thể kéo dài 100 năm. Theo tiền đề này, Trung Quốc cần thử nghiệm nhiều hệ thống kinh tế nhằm kích thích sản xuất. Triệu Tử Dương đã đề xuất tách biệt các vai trò của Đảng và Nhà nước, một đề xuất từ đó đã trở thành chủ đề cấm kỵ. Theo các nhà quan sát phương Tây, 2 năm làm Tổng bí thư của Triệu Tử Dương là thời gian mở cửa nhất trong lịch sử Trung Quốc hiện đại—nhiều hạn chế về tự do ngôn luận và tự do báo chí đã được nới lỏng, cho phép giới trí thức tự do đề xuất các cải thiện cho đất nước.(Wikipedia, Triệu Tử Dương)

* Trần Độ nhận định rằng đảng cộng sản là tai họa, làm chậm bước tiến của dân tộc:
Trên thế giới có đến hơn 100 nước không cần chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội, không cần có Đảng cộng sản “tài tình” và “sáng suốt” mà cứ phát triển đến trình độ giàu có, văn minh cao. (Trần Độ - Nhật ký rồng rắn I)

* Nguyễn Kiên Giang vẽ lên toàn bộ cảnh vật bi thảm của Việt Nam sau ngày hòa bình:
Khủng hoảng trong lĩnh vực kinh tế biểu hiện chủ yếu ở tình trạng lạc hậu kinh tế và kỹ thuật của đất nước. Trong khi nhiều nước trên thế giới đang bước qua giai đoạn văn minh hậu công nghiệp (điện tử - tin học), thì nước ta vẫn chưa ra khỏi giai đoạn văn minh tiền công nghiệp (văn minh nông nghiệp); sản xuất không đủ ăn (1.932 kilôcalo mỗi người mỗi ngày so với yêu cầu 2.300 kilocalo); không tạo được nguồn tích luỹ bên trong đáng kể, chưa đủ bảo đảm tái sản xuất giản đơn, chưa nói tới tái sản xuất mở rộng, trong khi sức ép dân số và thoái hóa môi trường sinh thái ngày càng tăng; lạm phát vẫn ở mức nghiêm trọng; mức tăng giá cả khá cao; tài sản quốc gia ngày càng giảm sút, không ít xí nghiệp đứng trước nguy cả bị mất dần tài sản, kể cả tài sản cố định; ngân sách thiếu hụt nghiêm trọng, dù mức chi ngân sách cho các hoạt động kinh tế và văn hóa rất thấp; nạn buôn lậu hoành hành, thị trường hỗn loạn...(Suy tư 2 - Khủng hoảng & Lối ra)
Những tính toán gần đây cho biết các doanh nghiệp nhà nước phần lớn đều thua lỗ, chỉ có 21% có lãi, [...]. Hơn nữa, các doanh nghiệp nhà nước đang mắc nợ tới khoảng 200 ngàn tỉ đồng, xấp xỉ 1/2 tống sản phẩm quốc dân (Suy tư 4 , 3).

* Richard Pipes nhận định về hai nước Triều Tiên như sau:
Ở nước Bắc Triều Tiên cộng sản, trong những năm 1990 phần lớn trẻ em bị mắc các căn bệnh do đói ăn mà ra; theo các số liệu hiện có, trong nửa sau của thập kỉ 1990 gần hai triệu người Bắc Hàn đã bị chết vì đói. Tại nước này tỉ lệ tử vong ở trẻ em sơ sinh là 88 trên 1000, trong khi ở Hàn Quốc là 8 trên 1000; tuổi thọ của đàn ông Bắc Hàn là 48,9 trong khi ở Nam Hàn là 70,4. Tính the GDP mỗi người Bắc Hàn $900 còn Nam Hàn $ 13.000 (Pipes, 152)
Milovan Djilas viết:" Ta biết rằng năng suất là thấp và các nhà kinh tế Nam Tư tính ra rằng (dĩ nhiên là trong giai đoạn mâu thuẫn với Liên Xô) ngay trên những cánh đồng màu mỡ của Ukraine năng suất cũng không được 1 tấn một hecta. Số lượng gia súc và gia cầm trong giai đoạn hợp tác hoá cũng giảm hơn 50%, và cho đến nay vẫn chưa đạt mức như thời nước Nga Sa Hoàng lạc hâu. (Giai cấp mới 4 ,1, 58)

* Barry Loberfeld viết về kinh tế Liên Xô: "Trong khoảng 1861, nông dân là nông nô, nhưng có cây trồng và gia súc. Nhưng sau đó, khoảng 1935, canh tác tập thể, một nông trường xuống cấp, nông dân vẫn là nông nô, một hộ gia đình nông dân thu được từ 247 rúp một năm, chỉ đủ để mua một đôi giày [6].
Chủ nghĩa Marx được xây dựng trên triết thuyết của Marx. Triết thuyết của Marx lại được Lenin phù trợ nhưng tập thể nào cũng đưa đến dị biệt và mâu thuẫn, nhất là chủ nghĩa Marx. Dị biệt và mâu thuẫn là do lý luận của Marx, Lenin tự thân mang nhiều hủy thể. Mầm hủy thể đó là sự kết hợp của ước mơ, tưởng tượng và dối trá, là sự mâu thuẫn giữa lý thuyết và thực hành, mâu thuẫn giữa thiện và ác. Hủy thể đó là tham, sân, si. Tự thân có hủy thể, bên ngoài cũng đầy những yếu tố hủy thể xâm nhập. Có áp bức là có tranh đấu, tranh đấu gắn liền với áp bức và tiêu diệt áp bức.Andre Malraux nói:"Cộng sản phá hủy dân chủ, Dân chủ cũng phá hủy cộng sản. [7]

* Cuối đời, Trần Đức Thảo đã nhận định đúng về Hồ Chí Minh và Karl Marx:
Về Hồ Chí Minh, ông viết: Đấy là một Tào Tháo muôn mặt của muôn đời, một con người không có tình bạn, không có tình yêu gia đình, tình yêu con cái, một bộ óc nung đúc một cuồng vọng, với một ưu tư duy nhất là phải leo lên đến tột đỉnh quyền lực đê đạt tới mục tiêu của mình. Cụ Hồ là một tay chính trị nhiều thủ đoạn lắm chứ không phải là một tay hiền từ đâu!...Cụ Hồ còn nêu gương sống thanh đạm, bắt làm nhà gỗ để cụ ở, nhưng chung quanh và những người thừa kế cụ, có ai theo gương sống thanh đạm như thế đâu. Bởi chung quanh đều biết tấm gương ấy chỉ là thứ đạo đức hình thức, bề ngoài, nhưng trong thực tế thì lại khác, "ông cụ" vẫn sống rất là đầy đủ về mọi mặt, kể cả về vấn đề sinh lý”. (Tri Vũ. TĐT, 82-83)
Về Marx, ông nhận định: Ta đã trồng cây tư tưởng của Marx, và cho tới nay thì cây đó vẫn cho toàn quả đắng- (Tri Vũ.69)

Không có một thứ lý luận biện chứng nào có thể chứng minh rằng một xã hội đầy đen tối, đầy dối trá, độc ác, quỷ quyệt, đầy hận thù , tranh chấp , đầy chia rẽ và tham nhũng của hôm nay sẽ đẻ ra một thế giới đại đồng chân thật, đoàn kết, thương yêu, tốt đẹp cho nhân loại …tung tích của thủ phạm đưa tới sai lầm cơ bản của cách mạng là : sự thiếu vắng của thực tế hiện tại trong lý luận- (Tri Vũ,207)… hạnh phúc ở nơi không có con quỷ quyền lực và con quỷ chiến tranh nó ám …phải biết rằng chỉ có con quỷ mới kiêu căng, mới vui khi làm khổ, làm nhục con người... quỷ ấy là thứ đầu óc đầy ý đồ gian xảo, hung bạo của quyền lực. Quỷ ấy là ý thức đấu tranh giai cấp, là thứ cuồng tín của bạo lực và hận thù - Chính trị và chiến tranh cách mạng là cơ hội thao túng của quỷ (Tri Vũ,.342-344)

Cộng sản bây giờ lộ rõ bộ mặt phản quốc hại dân, là lũ cướp của giết người, phi dân chủ, phi nhân nghĩa, là đại họa của dân tộc Việt Nam...Chính lực lượng dân chủ sẽ tiêu diệt cộng sản để xây dựng thế giới hòa bình và thịnh vượng.

Nguyễn Thiên Thụ
(Cựu Giảng sư ĐH Văn Khoa Sàigòn)

https://giahoi.wordpress.com

 

Đăng ngày 30 tháng 12.2015