banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Nguồn gốc của "Tư tưởng Hồ Chí Minh":
Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin

Trần Trung Đạo

Mỗi năm đến ngày 19 tháng 5 hay đầu tháng 9, các loa tuyên truyền ở VN thường rêu rao khẩu hiệu “tư tưởng HCM”.
Tư tưởng và lý luận quyết định hướng đi của một tổ chức chính trị và của một quốc gia.  Biết rõ vai trò tư tưởng, những kẻ độc tài dù cướp quyền và cai trị bằng bạo lực khủng bố cũng phải nặn ra “tư tưởng” làm chỗ dựa tinh thần. Muammar Gaddafi có Sách Xanh (Green book), Mobutu Sese Seko có “tư tưởng Mobutu”, các nước CS có tư tưởng Marx Lenin.
Tháng Chạp 1991, ý thức hệ Marx-Lenin chính thức cáo chung tại Châu Âu. Để cứu vãn, Đặng Tiểu Bình đưa “tư tưởng Mao” vào hiến pháp. CS Việt Nam sao chép nguyên văn cách thức của họ Đặng, đưa “tư tưởng Hồ Chí Minh” vào “hiến pháp 1992”.
Điểm chính của “tư tưởng HCM” theo cách giải thích của đảng là “tư tưởng độc lập dân tộc”.
Những người có nhận thức chính trị và lịch sử Việt Nam căn bản cũng biết đó là cách ăn cắp ngay giữa ban ngày các giá trị lịch sử của dân tộc đã được hun đúc từ nhiều ngàn năm trước. Nếu Việt Nam không có “tư tưởng độc lập dân tộc” thì đã là tỉnh Việt Nam của Trung Quốc hai ngàn năm trước chứ không đợi tới nay.
Ngày 22 tháng 4, 1960, Hồ Chí Minh cũng nhắc lại trên báo Nhân Dân: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao? Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”
Mới đọc câu văn đó của Hồ Chí Minh, nhiều người dễ lầm tưởng mục đích tối hậu của Lenin là giúp cho các nước thuộc địa giải phóng dân tộc của họ.
Không phải.
Lenin chẳng hề thương xót gì số phận của các dân tộc đang chịu đựng dưới gót giày thực dân.
Sau Cách mạng CS Nga 1917, Liên Xô, nhà nước CS đầu tiên đang trong tình trạng bị bao vây. Để giải tỏa áp lực, Lenin nghĩ đến chiến lược xuất cảng cách mạng CS đến các quốc gia khác. Lenin thực hiện âm mưu quân sự hóa các đảng CS châu Âu như Đức, Hungary v.v…
Ngoài ra, ông ta còn nhắm đến các nước thuộc địa và dùng xương máu họ như những bàn đạp, phên dậu, tiền đồn chống lại khối dân chủ tư bản.
Bản tiếng Anh luận cương của Lenin có tựa đề “Draft Theses on National and Colonial Questions For The Second Congress Of The Communist International” được Lenin soạn vào ngày 5 tháng 6, 1920 gồm 12 điểm chính. Văn bản được in trong Tuyển Tập Lenin do nhà xuất bản Tiến Bộ in tại Moscow 1965, các trang 144-151.
Trong dự thảo bảy trang này, Lenin dùng phần lớn phân tích điều kiện chính trị châu Âu và sự phản bội của những người CS mang tư tưởng nước lớn đã ủng hộ chiến tranh trong Thế chiến Thứ Nhất (1914-1918).
Ngoài ra, Lenin cũng nhấn mạnh đến sự liên minh giữa tầng lớp vô sản và quần chúng lao động tại các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh chung để lật đổ thành phần địa chủ và tư sản. Trong đoạn thứ 5 của tiêu đề 5, Lenin cho rằng Quốc Tế CS nên ủng hộ các phong trào dân chủ tư sản với điều kiện vẫn giữ các đặc tính CS độc lập mà không bị hòa hợp vào các phong trào này.
Ngày 19 tháng Bảy, 1920, trong Báo Cáo Về Tình Hình Quốc Tế Và Nhiệm Vụ Căn Bản của Quốc Tế CS ( Report On The International Situation And The Fundamental Tasks Of The Communist International) đọc trước Hội Nghị Lần Thứ Hai của Đệ Tam Quốc Tế, Lenin lần nữa nhấn mạnh đến sự liên minh giữa giai cấp vô sản và quần chúng tại các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống “Chủ nghĩa đế quốc”.
Sự liên minh giữa các đảng chính trị trong cuộc đấu tranh chung, lẽ ra không phải là một vấn đề mà còn là điều đáng khuyến khích. Tuy nhiên, với đảng CS, mục tiêu không dừng lại ở điểm giành độc lập mà là đưa đất nước vào chế độ độc tài toàn trị CS.
Nguyễn Tấn Hưng, trong tạp chí Triết Học, tháng 9 2007, tóm tắt nội dung chính trong Sơ Thảo Luận Cương Lenin theo quan điểm của đảng CSVN: “Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc là một phạm trù của cuộc cách mạng vô sản, vì vậy những người cộng sản phải ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, rằng, với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, giai cấp vô sản ở các nước chậm tiến, sau khi hoàn thành nhiệm vụ dân tộc dân chủ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.”
Theo nội dung đó, luận cương chỉ ra hai giai đoạn không tách rời: (1) giải phóng dân tộc và (2) tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiền đề của chủ nghĩa CS, không thông qua chủ nghĩa tư bản.
Lý luận này cũng được giải thích phù hợp với quan điểm đột biến trong triết học duy vật biện chứng của Friedrich Engels.
Tai họa cho Việt Nam cũng bắt đầu từ lý luận không tưởng và mang tính áp đặt đó.
Nghị quyết của đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm, ghi rõ: "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”
Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN vừa rồi cũng lần nữa khẳng định “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam."
Mục đích “tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” đã trở thành kim chỉ nam cho hầu hết các chiến lược và chính sách của đảng CSVN.
Qua gần một thế kỷ với bao nhiêu lớp vỏ, bao nhiêu chiêu bài, mục đích nhuộm đỏ VN không hề thay đổi. Mục đích đó là một bộ phận trong chủ trương bành trướng chủ nghĩa CS của Mao tại Đông Nam Á Châu dẫn đến việc Trung Cộng chiếm Hoàng Sa và một phần lớn Trường Sa.
Bản chất của cuộc chiến Việt Nam ngay từ ngày 19 tháng 7, 1920, khai mạc Quốc Tế CS tại Moscow cho tới nay đã xác định cuộc chiến Việt Nam là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa CS và Tự Do. Đó không phải kết án mà khẳng định, không chỉ từ những người quốc gia, dân chủ mà cả đảng CS cũng không phủ nhận mục đích tối hậu của họ là CS hóa Việt Nam.
Pháp là đế quốc thực dân hàng thứ hai thế giới chỉ sau Anh, nhưng ngày nay, tất cả nước cựu thuộc địa Pháp đều được độc lập, tự do và dân chủ tại các mức độ khác nhau. Việt Nam là nước duy nhất vẫn còn chịu đựng độc tài và lạc hậu cũng chỉ vì Luận Cương Dân Tộc Và Thuộc Địa mà Hồ Chí Minh mang về. Nếu không có Hồ và không có luận cương của Lenin, Việt Nam, một quốc gia phong phú tài nguyên và dân số, ngày nay đã một quốc gia thống nhất và hiện đại hàng đầu Á Châu.
Bộ máy tuyên truyền của đảng lý luận rằng không có đảng CS, Việt Nam làm gì có được thống nhất, độc lập, tự do. Lý luận trẻ con nhưng không ít người tin.
Trên con đường máu nhuộm, từ khi viên đại bác của Rigault de Genouilly bắn vào Sơn Chà, Đà Nẵng sáng ngày 1 tháng 9, 1859 cho tới hôm nay, nhiều triệu người Việt đã hy sinh vì độc lập tự do dân tộc.
Bao nhiêu phong trào yêu nước và đảng phái đã lần lượt ra đời. Phong Trào Cần Vương, Phong Trào Văn Thân, Phong trào Đông Du, Phong trào Duy Tân, Việt Nam Quang Phục Hội, Tân Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Dân chính, Dân Xã Đảng, Đảng Lập hiến, Đại Việt Duy dân và nhiều tổ chức, phong trào không Cộng sản khác.
Họ thành công và thất bại. Họ hy sinh trong công khai và chết trong âm thầm. Những Nguyễn Trung Trực, Trương Công Định, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Tôn Thất Thuyết, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Nguyễn An Ninh và vô số anh hùng dân tộc đã ngã xuống. Xương máu họ đọng thành những viên gạch vô cùng rắn chắc lót đường cho thế hệ sau tiến bước.
Đảng CS chỉ là một nhóm rất nhỏ, và chỉ ra đời vào tháng 3, 1930. Cộng Sản thắng chỉ vì họ có mục đích thống trị rõ ràng, dứt khoát, kiên trì và bất chấp mọi phương tiện dù phi nhân và sắt máu bao nhiêu để hoàn thành mục tiêu đã vạch ra. Các chính sách của đảng từ 1975 đến nay một lần nữa chứng minh điều đó.
Đánh giá cuộc chiến Việt Nam phải bắt đầu từ cội nguồn của cuộc tranh chấp thay vì từ những hậu quả hay các hình thức tham gia của các bên liên hệ.
Chủ nghĩa CS đã sụp đổ trên phạm vi thế giới. Tại Việt Nam, mục tiêu CS chỉ còn trong sách vở nhưng hai phương tiện mà đảng CS dùng là tuyên truyền tẩy não và bạo lực trấn áp vẫn đang ngày đêm áp dụng.
Tháo gỡ cơ chế CS với hai phương tiện giết người độc hại đó trở thành mục tiêu đầu tiên của tất cả các lực lượng yêu nước trong tiến trình cách mạng dân chủ và phục hưng toàn diện Việt Nam.
Trần Trung Đạo
20 tháng 05.2022
https://www.facebook.com/trantrungdao



“Một hệ thống áp bức không thể được cải tiến"

Sáng sớm ngồi uống cà phê sau vườn và đọc lại hồi ký của Nelson Mandela. Chương 98 có những đoạn và những câu rất hay nên vào nhà tóm tắt lại cho các bạn trẻ đọc.
Thời gian đó, tháng 8, 1989, De Klerk vừa nhận chức tổng thống Nam Phi và quốc gia này tiếp tục rơi vào tình trạng bất ổn nghiêm trọng, cả đối nội lẫn đối ngoại.
Một trong những điểm quan trọng trong nghị trình của De Klerk là giải quyết cuộc khủng hoảng chính trị Nam Phi và tìm một đường thoát cho đất nước nói chung và thiểu số da trắng nói riêng.
Đại diện tinh thần và đầu não cho phong trào chống Phân Biệt Chủng Tộc Nam Phi không ai khác hơn là tù nhân chính trị mang số 46664 Nelson Mandela (tù nhân thứ 466 năm 1964).
Để bày tỏ thiện chí với Nelson Mandela, TT De Klerk trả tự do cho một loạt các lãnh tụ ANC (African National Congress) ngoại trừ chính Nelson Mandela. Dĩ nhiên lúc đó chính phủ da trắng Nam Phi vẫn còn giam giữ nhiều tù nhân chính trị khác.
Hôm được trả tự do, một số chính hữu của Nelson Mandela tại nhà tù Pollsmoor đến chia tay ông.  Sau nhiều chục năm sống chung với nhau trong vòng lao lý, theo Nelson Mandela, đó là buổi sáng đầy xúc động.
TT De Klerk thực hiện một số cải tổ khác như cho phép dân da đen được tắm trên một số bãi biển trước đây chỉ dành cho người da trắng dù họ chỉ chiếm 9 phần trăm trong tổng số dân Nam Phi.
Từ 1953, theo nội dung của đạo luật Reservation of Separate Amenities Act, tại Nam Phi gần như mọi phương tiện dành cho công chúng đều được phân loại. Không chỉ các công viên, hí viện, bãi biển mà cả phòng đi tiểu cũng được xếp dựa theo màu da.
Tháng 12, 1989, Nelson Mandela được TT De Klerk mời gặp.
Nelson Mandela đồng ý. Trước ngày gặp Mandela gởi cho De Klerk một lá thư làm sườn cho buổi thảo luận.
Trong thư Mandela đòi hỏi chính phủ da trắng Nam Phi phải trả tự do cho tất cả tù nhân chính trị, xóa bỏ mọi hạn chế về tổ chức và cá nhân, ngưng thi hành Luật Khẩn Cấp, rút quân đội ra khỏi các khu vực da đen. Lá thư được gởi đến TT De Klerk một ngày trước buổi hẹn.
Nelson Mandela biết Nam Phi đang tiến tới một giai đoạn lịch sử quan trọng và nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Cả hai, TT De Klerk và chính ông cũng biết Nam Phi đang cạn máu và cần phải được giải quyết vì lợi ích chung của đất nước.
Điểm chung duy nhất Nelson Mandela được TT De Klerk yêu cầu là “một cam kết trung thực cho hòa bình”. Mandela đáp lại là ông sẵn sàng cam kết và hy vọng một nước Nam Phi mới sẽ được ra đời.
Sáng ngày 13 tháng 12, 1989, Nelson Mandela được đưa đến dinh tổng thống ở Tuynhuys để gặp TT De Klerk. Đó là lần đầu họ gặp nhau.
Sau vài phút chào hỏi xã giao thân tình, buổi thảo luận diễn ra căng thẳng. Nelson Mandela phản đối "kế hoạch 5-năm" của  TT De Klerk trong đó có chủ trương thiết lập một hình thức phân biệt chủng tộc mới qua dạng các quyền dành cho nhóm người (group rights). Thoạt nghe quyền này hợp lý vì không một nhóm người nào dù đen hay trắng có quyền hơn các nhóm khác nhưng thực chất là để bảo vệ quyền của người da trắng. Theo Mandela đó chỉ là một cách hiện đại hóa chủ trương phân biệt chủng tộc thay vì xóa bỏ nó.
Tại buổi gặp gỡ này, Nelson Mandela nói với với TT De Klerk  một câu mà hôm nay trở thành một trong những danh ngôn được trích dẫn nhiều nhất: “Một hệ thống áp bức không thể được cải tiến, nó phải bị hoàn toàn gạt qua một bên.”
Trần Trung Đạo tóm tắt từ “Long Walk To Freedom” của Nelson Mandela
18 tháng 05.2022



Từ cuộc chiến tại Ukraine
nhìn lại chính sách quốc phòng "4 không" của Việt Nam

Với tỉ số vượt trội gồm 141 nước kết án Nga và chỉ có 5 nước ủng hộ Nga trong Quyết Nghị LHQ ngày 2 tháng 3, 2022 là một kết quả rất ngạc nhiên và người ngạc nhiên nhất không ai khác hơn là Vladimir Putin.
Trước đó, ngày 25 tháng 2, Hội Đồng Bảo An LHQ họp để biểu quyết quyết nghị tố cáo Nga vi phạm Điều 2, phân đoạn 4 của Hiến Chương LHQ vì đã dùng võ lực xâm phạm chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine, quốc gia hội viên. Quyết nghị này bị Nga phủ quyết, nhưng ngoài TC, Ấn, United Arab Emirates bỏ phiếu trắng, không một quốc gia nào trong số 15 hội viện của Hội Đồng Bảo An ủng hộ Nga.
Cộng Hòa Kenya là thành viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An LHQ. Buổi chiều tối trước giờ biểu quyết, đại sứ Martin Kimani đã đọc một diễn văn để bày tỏ lập trường của quốc gia ông. Dưới đây là vài đoạn trích từ diễn văn hùng hồn, đầy thôi thúc của Đại Sứ Martin Kimani:
“Kenya và hầu hết các quốc gia châu Phi ra đời bởi sự kết thúc của đế chế. Biên giới của chúng tôi không phải do chúng tôi vẽ mà được vẽ ở các mẫu quốc thuộc địa xa xôi của London, Paris và Lisbon, không liên quan gì đến các quốc gia thời cổ đại đã bị tách rời nhau.”
“Chúng tôi bác bỏ chủ nghĩa phục hồi lãnh thổ và chủ nghĩa bành trướng trên bất kỳ cơ sở nào, bao gồm các yếu tố chủng tộc, dân tộc, tôn giáo hoặc văn hóa.”  
“Chúng tôi cũng lên án mạnh mẽ xu hướng trong vài thập niên gần đây của các cường quốc, bao gồm cả các thành viên của Hội Đồng Bảo An, vi phạm luật pháp quốc tế mà không được quan tâm.”
“Đêm nay, chủ nghĩa đa phương nằm trên giường bệnh. Ngày nay cũng như trong quá khứ gần đây, chủ nghĩa đa phương đã bị các cường quốc tấn công.”
Một người Việt Nam quan tâm nào đọc diễn văn của đại sứ Martin Kimani cũng đều cảm thấy gần gũi, xúc động và cảm thông. Số phận những nước nhược tiểu từng bị thực dân bóc lột ở đâu cũng giống nhau.
Giống như dân tộc Kenya, dân tộc Việt Nam không hề ký vào các Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 (nhượng Nam Kỳ cho Pháp), Hòa Ước Giáp Thân (Patenotre) 1884, Hiệp định Geneva 1954 hay Hiệp định Paris 1973. Tất cả đều là tác phẩm của các thực dân và đế quốc để phân chia quyền lợi và quyền lực bằng máu xương người Việt.
Diễn văn của đại sứ  Martin Kimani cũng cho thấy khuôn mặt mới của thế giới đang định hình và một xu hướng mới đang mở ra cho các quan hệ đối ngoại. Kết quả hai cuộc biểu quyết ở LHQ cũng cho thấy sự cần thiết phải đẩy mạnh chủ nghĩa đa phương để giải quyết các vấn đề chung của các quốc gia trong phạm vi một khu vực hay thế giới.
Chủ nghĩa đa phương (multilateralism)  liên kết của các quốc gia qua hình thức của những tổ chức, những trung tâm, những cơ quan quốc tế, những nhóm liên kết của ba nước hay nhiều hơn. Khác với phương thức đơn phương (unilateralism) hay song phương (bilateralism), phương thức đa phương là cơ hội cho các quốc gia nhỏ có tiếng nói, có quyền hạn và trách nhiệm đối với cộng đồng nhân loại. LHQ hay WTO là những tổ chức đa phương.
TC rất sợ và từ chối cách giải quyết các tranh chấp trên nền tảng đa phương. Chiến lược đàm phán của TC từ nhiều năm nay là song phương nhưng thực chất cũng chỉ là đơn phương vì TC luôn giữ thế mạnh và quyết định kết quả của đàm phán.
Các lãnh đạo đảng CSVN thường xuyên lập lại hai chữ “ổn định” để diễn tả tình trạng Việt Nam. Nhưng đó chỉ cách nói dối, không chỉ dối với người dân mà còn tự dối với chính mình.
Hiểm họa TC là hiểm họa thường trực thì làm gì có ổn định.

Đọc lại vài biến cố nổi bật từ sau chiến tranh Biên Giới Việt-Trung 1979 tới nay để thấy tội ác của bá quyền TC đối với dân tộc Việt Nam gấp nhiều lần hơn so với tội các của Nga đối với Ukraine.
Cuộc chiến xâm lược Việt Nam của Đặng Tiểu Bình năm 1979 mang về cho TC một thảm bại nhục nhã nhưng đồng thời đó cũng là thời điểm đánh dấu những thay đổi lớn trong sách lược quốc phòng. Họ Đặng đẩy mạnh hiện đại hóa quốc phòng bằng cách trẻ trung hóa cấp chỉ huy và nâng cấp kỹ thuật chiến tranh trong quân đội. Hơn một triệu lính và sĩ quan già các cấp bị cho giải ngũ. Yếu tố phẩm chất được nhấn mạnh thay vì số lượng.
Mặc dù thua to, họ Đặng không từ bỏ tham vọng tấn công Việt Nam.
Những năm từ 1980 đến 1983, các trận pháo liên tục bắn vào lãnh thổ Việt Nam và các đụng độ nhỏ tiếp tục diễn ra dọc biên giới Việt-Trung. Theo Miles Maochun Yu, từng là cố vấn chính sách về Trung Quốc của Bộ Ngoại Giao Mỹ:  “Chỉ trong năm 1985, Trung Quốc đã bắn một triệu quả đạn vào vùng Vị Xuyên của Việt Nam, sau đó là một loạt trận pháo kích dài ngày khác trong suốt hai năm sau đó, kèm theo các cuộc tấn công của Trung Quốc vào các vị trí của Việt Nam với sự tham gia của ít nhất 15 sư đoàn quân TC. Chỉ trong vòng 5 năm từ 1985 đến 1989, Trung Quốc đã bắn hơn hai triệu quả đạn pháo vào Việt Nam.” (America’s Pivot To Vietnam Miles Maochun Yu, Friday, May 27, 2016, Hoover Institution)
Hai triệu quả pháo là một con số khủng khiếp, không nhiều hơn nhưng chắc cũng không ít hơn so với số lượng pháo TC bắn vào hai đảo Kim Môn và Mã Tổ trong thập niên 1950.
Sau 5 năm cải tiến, Đặng Tiểu Bình muốn thử nghiệm hiệu quả của chính sách “hiện đại hóa quốc phòng” và lần nữa nơi thử nghiệm chẳng đâu khác là Việt Nam.
Ngày 24, 12, 1983, họ Đặng tiếp Norodom Sihanouk, lúc đó đang là chủ tịch của Chính phủ Liên Hiệp Ba Thành Phần gồm Khmer Đỏ, Campuchia Dân Chủ và Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Khmer, tại Bắc Kinh. Trong buổi tiếp xúc này, Norodom Sihanouk yêu cầu Đặng can thiệp bằng quân sự vì phía CSVN đang thắng thế trong nhiều mặt trận trên khắp lãnh thổ Cambodia.  (Xiaoming Zhang, Deng Xiaoping's Long War: The Military Conflict between China and Vietnam, University of North Carolina Press, 2015)
Đặng Tiểu Bình đồng ý giúp nhưng thay vì mở một cuộc chiến tranh biên giới khác, họ Đặng nhắm hai căn cứ chiến lược Lão Sơn (Laoshan) và  Núi Bạc (Zheyinshan).   Sau nhiều trận đánh suốt mùa hè 1984, Lão Sơn của Việt Nam đã bị TC chiếm ngày 16 tháng 7, 1984. Nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đã chết trên các đỉnh núi Lão Sơn. Đặng Tiểu Bình xem đây là một chiến thắng lớn. Viên tư lịnh sư đoàn tham dự mặt trận Lão Sơn được đặc cách lên chức Tư lịnh Binh Đoàn 11 của quân đội TC. ((1) Trần Trung Đạo, Đặng Tiểu Bình và Trận Lão Sơn Trong Chiến Tranh Biên Giới Trung – Việt Năm 1984 dịch từ China-Defense, (2) Charlie Gao, China's Loss That You Have Never Heard About,  The National Interest, August 18, 2021)
Ngày 14 tháng 3, 1988, TC chiếm Gạc Ma. Cuộc thảm sát này hiện nay được được nhắc lại trong các báo khá nhiều. Báo Lao Động ngày 13/03/2022 viết: “Ngày 14.3.1988, nhằm ngày 27 tháng giêng âm lịch, Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm đảo đá chìm Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Trong một cuộc chiến không cân sức để bảo vệ đảo đá Gạc Ma, 64 chiến sĩ thuộc lực lượng Hải quân Nhân dân Việt Nam đã kiên cường chiến đấu và anh dũng hy sinh. Nhiều người trong số họ đã nằm lại mãi mãi nơi đáy biển sâu.” Cũng theo báo Lao Động, mãi tới 11 năm sau “những bài báo viết về các anh, các cựu binh Gạc Ma mới bắt đầu xuất hiện rải rác. (Lao Động, Chủ nhật, 13/03/2022)
Chiếm Gạc Ma chỉ là đầu cầu cho chiến lược bành trướng Biển Đông của Đặng Tiểu Bình. Vào thập niên 1990, đối tượng cạnh tranh chiến lược của Đặng Tiểu Bình và các lãnh đạo TC sau ông ta  là Mỹ, Nhật, Đức chứ không còn là Việt Nam.
Cuối năm 1990, LX đang trên đà sụp đổ. Sáu trong số mười lăm nước “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa” đã tuyên bố độc lập, nền kinh tế LX đang thời kỳ suy thoái, bức tường Bá Linh đã bị đập đổ. Boris Yeltsin từ bỏ đảng CS và trở thành lãnh đạo của phong trào dân chủ Nga. CSVN trở thành con thuyền không bến và chiếc phao duy nhất còn lại là TC. Hội nghị Thành Đô trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 đánh dấu cho ngày trở về của đảng CSVN dưới ảnh hưởng TC.
Sau hội nghị Thành Đô, ngày 8 tháng 5 năm 1992 Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone của Mỹ, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa của Việt Nam, nằm ở phía Tây Nam của quần đảo Trường Sa. Trung Cộng cũng hứa với công ty Creston sẽ bảo vệ bằng võ lực nếu Việt Nam can thiệp vào công việc của họ.
Ngày 25 tháng 2, 1992, TC thông qua Luật Lãnh Hải và Vùng Tiếp Giáp. Theo luật này, Biển Đông, trong đó có  Hoàng Sa và Trường Sa, thuộc về TC. Văn bản này viết: “Lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là vành đai biển tiếp giáp lãnh thổ đất liền và nội thủy của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Lãnh thổ trên đất liền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bao gồm đất liền và các đảo ven biển; Đài Loan và tất cả các đảo bao gồm quần đảo Điếu Ngư; quần đảo Penghu; quần đảo Đông Sa; quần đảo Tây Sa; quần đảo Trung Sa và quần đảo Nam Sa; cũng như tất cả các đảo khác thuộc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.”
Theo phân tích của Council On Foreign Relations, một trung tâm nghiên cứu lớn tại Mỹ, ý đồ của TC không chỉ là kinh tế nhưng chính là quân sự. TC muốn khóa Biển Đông khỏi sự hải hành quân sự của Mỹ.
Quan trọng nhất là việc TC quân sự hóa Biển Đông qua việc xây dựng hàng loạt “đảo nhân tạo” và các căn cứ quân sự trên quần đảo Hoàng Sa. Bảy đảo nhân tạo đó gồm Johnson Reef South (Đá Gạc Ma), Subi Reef (Đá Xu Bi), Gaven Reef (Đá Ga Ven), Hughes Reef (Đá Tư Nghĩa), Fiery Cross Reef (Đá Chữ Thập), Cuarteron Reef (Đá Châu Viên) và Mischief Reef (Đá Vành Khăn).
Tại hội nghị Shangri-La 2015 (The IISS Shangri-La Dialogue) với cấp bộ trưởng quốc phòng của 50 quốc gia, Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Ash Carter chính thức yêu cầu TC ngưng xây dựng các căn cứ quân sự nổi qua hình thức các đảo nhân tạo. Tuy nhiên, ngoại trừ có các biện pháp cứng rắn của các quốc gia trực tiếp trong vòng tranh chấp, không một lời yêu cầu nào hay văn bản nào có thể làm thay đổi tham vọng của Tập Cận Bình.
Ngày 14 tháng 2, 2016, TC đặt các giàn hỏa tiễn địa đối không (surface-to-air missiles) và chiến đấu cơ J-11 trên đảo Phú Lâm (Hoàng Sa). Tờ The Wall Street Journal trích dẫn nguồn tin quân sự cho biết đây là loại hỏa tiễn HQ-9 dài 6 mét, nặng hai tấn, tầm bắn từ trung bình tới xa. (China Positions Missiles on Disputed South China Sea Island, The Wall Street Journal, Feb. 17, 2016)
Ngày 18 tháng 5, 2018, các oanh tạc cơ H-6 của TC cất cánh từ đảo Phú Lâm và đáp xuống một “đảo nhân tạo” của TC trên Biển Đông. Ấn bản điện tử của Nhân Dân Nhật Báo còn đăng cả một video ngắn cho thấy oanh tạc cơ H-6K  có tầm bay xa  1900 hải lý hạ cánh xuống một trong những “đảo nhân tạo”. Với loại oanh tạc cơ này, tất cả các thành phố lớn, các quốc gia vùng Đông Nam Á đều nằm trong tầm oanh tạc của H-6K nói chi là Việt Nam chỉ cách Hoàng Sa 121 hải lý. (China lands bomber on South China Sea island for first time, CNBC, May 18, 2018).
Ngày 18 tháng 4, 2020, TC công bố thành lập hai đơn vị hành chánh mới gồm Tây Sa bao gồm Hoàng Sa và Nam Sa bao gồm Trường Sa của Việt Nam. Trụ sở của hai đơn vị hành chánh này đặt tại đảo Phú Lâm, trực thuộc tỉnh Hải Nam của TC. Nhiều người nghĩ tình trạng Covid-19 sẽ làm giảm chính sách bành trướng của Tập Cận Bình, nhưng không, họ Tập không những chậm mà còn lợi dụng khó khăn của thế giới để đẩy mạnh hơn tham vọng xâm thực chủ quyền của các nước chung quanh trong đó có Việt Nam.
Trên đây chỉ là vài sự kiện chính được các viện nghiên cứu, các hãng tin, các báo chí quốc tế ghi lại. Sự chịu đựng của ngư dân Việt Nam trong 47 năm qua không sách vở nào ghi hết như Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô Đại Cáo “Trúc Nam Sơn không ghi hết tội, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”.
Nhiều người có thể đặt câu hỏi nếu vậy thì làm gì?
Cuộc chiến tranh xâm lược của Nga vao Ukraine đã làm các nhà phác họa chính sách đối ngoại, từ các nước lớn như Mỹ, Đức, Anh cho tới những nước nhỏ xa xôi như Ghana ở Phi Châu hay Cambodia ở Á Châu suy nghĩ lại chính sách đối ngoại của nước mình và chọn lựa một hướng đi mới phù hợp với xu hướng mới đặt trên nền tảng đa phương.
Việt Nam không có khả năng đánh bại hải quân TC, không đủ không quân để làm chủ bầu trời Biển Đông nhưng không phải là tuyệt lộ. Ít nhất có một việc nên làm ngay, đó là hủy bỏ chính sách quốc phòng “Bốn Không”.
Chính sách “Bốn Không” được xác định trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019: “Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”. (Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019)

Tại sao phải “Bốn không”?
Thái Lan, Nam Dương, Mã Lai, Philippines, Cambodia và ngay cả nước nhỏ tí như Brunei cũng không tự cô lập khi đưa ra một chính sách tự trói tay như Việt Nam.
Một chính sách đối ngoại đúng là chính sách đặt quyền lợi của đất nước lên trên hết chứ không đặt quyền lợi của cường quốc nào lên trên hết.  Chính sách “Bốn Không” thực chất là một chính sách “tiền đồn” nhằm phục vụ cho quyền lợi của TC để giữ “sân sau” Việt Nam làm hành lang an toàn cho TC khi có một xung đột giữa TC với Mỹ và Đồng Minh xảy ra.  
Hủy bỏ “Bốn Không” không có nghĩa phải thay bằng “Bốn Có”, không nhất thiết phải chọn đi với Mỹ nhưng để giải quyết các vấn đề thế giới trên nền tảng đa phương, không tự trói tay.
Hủy bỏ “Bốn Không” không có nghĩa là chống lại TC mà là giới hạn sự lệ thuộc vào TC và tạo điều kiện được đối xử bình đẳng trong quan hệ ngoại giao với TC.
Cuộc chiến tự vệ  của Cộng Hòa Ukraine với sự ủng hộ của gần hết các quốc gia trên thế giới cho thấy tầm quan trọng của chủ nghĩa đa phương.
Chưa bao giờ trong lịch sử thế giới từ sau Thế Chiến Thứ Hai, sự liên kết và phụ thuộc hỗ tương giữa các quốc gia bất kể lớn nhỏ quan trọng như những ngày này. Một trong những quốc gia nhỏ nhất thế giới là Lục Xâm Bảo (Luxembourg) với dân số chỉ 640 ngàn người cũng gởi võ khí chống tăng đến giúp Ukraine. Con số tuy nhỏ nhưng tính đại diện rất quan trọng và ý nghĩa.
Sự thất bại của Putin là bài học cho Tập Cận Bình, đặc biệt là quan điểm chủ nghĩa dân tộc cực đoan của y đối với Đài Loan.
Khái niệm dân tộc ngày nay không chỉ được định nghĩa bằng quá khứ lịch sử, ngôn ngữ, giống nòi, tôn giáo mà quan trọng hơn là dựa vào khát vọng của con người sống trong thời đại họ. Khi thành phố Bucha của Ukraine  bị san bằng, hàng ngàn người dân vô tội, kể cả phụ nữ mang thai bị giết, mọi lời rao về tình dân tộc Rus củaVladimir Putin đã trở thành những hạt muối xát vào vết thương của người dân Ukraine.
Sự thất bại của Putin cũng là bài học cho Tập Cận Bình về hậu quả của chủ nghĩa bành trướng. Lịch sử cận đại chứng minh các đế quốc bành trướng như Ottoman, Phổ, Nhật, Nga, Áo-Hung v.v.. đều thất bại và sụp đổ.
Cái gọi là “quyền lịch sử” mà bộ máy tuyên truyền TC huênh hoang tối ngày thực chất chỉ là quyền ăn cướp. Nếu TC quả thật có đủ bằng chứng cụ thể và thuyết phục trước công pháp quốc tế thì họ đã không trốn khi bị Philippines kiện ra tòa.
Xin nhớ, chính phủ Philippines không hề giấu diếm ý định mà còn báo trước cho TC biết họ sẽ nộp đơn kiện để TC có thời gian chuẩn bị.
Nhắc lại, ngày 22 tháng 1, 2013 chính phủ Philippines trao cho đại sứ Trung Cộng tại Philippines một công hàm ngoại giao trong đó trình bày lý do Philippines kiện Trung Cộng lên Tòa Án Quốc Tế về Luật Biển (ITLOS). Chính phủ Philippines cũng cho đại sứ TC biết trọng tài thứ nhất Philippines chọn là luật gia người Đức Rüdiger Wolfrum.  
Cộng Hòa Philippines dựa vào Điều 287 (chọn thủ tục) và Phụ lục số Bảy (Annex VII) của Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển (United Nations Convention on the Law of the Sea, UNCLOS) để nộp đơn lên kiện Trung Cộng vi phạm UNCLOS đối với Philippines và thách thức cái gọi là “Quyền lịch sử” của Trung Cộng trên Biển Đông.
Kẻ cướp chỉ có súng chứ  làm gì có bằng chứng sở hữu vì của cải, đất đai, nhà cửa là của chủ nhà. Sau gần một tháng họp bàn, ngày 19 tháng 2, 2013 TC thông báo cho chính phủ Philippines biết sẽ không tham gia vụ kiện. Vì không tham gia nên TC không có quyền đề cử thẩm phán trọng tài. Kết quả như cả thế giới đều biết hôm nay, Philippines chẳng những thắng phần mình mà còn làm cho lý luận gọi là “quyền lịch sử” chỉ để đun nóng chủ nghĩa dân tộc cực đoan tại lục địa chứ hoàn toàn vô nghĩa trước công pháp quốc tế. (The South China Sea Arbitration. The Republic of Philippines v. The People's Republic of China, Case 2013-19 PCA)
Thay vì “Bốn Không”, quan điểm quốc phòng chỉ nên viết một cách tổng quát: Chính sách quốc phòng Việt Nam phục vụ cho mục đích duy nhất là bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, và do đó, trong mỗi tình huống của thế giới, chính sách có thể sẽ được linh động áp dụng một cách thích nghi.
Hủy bỏ “bốn không” chưa hẳn là “thoát Trung” nhưng ít nhất cũng phá vỡ tình trạng tự cô lập, bế tắc để mở ra một không gian mới thúc đẩy đa phương hóa trong tranh chấp Biển Đông.
Im lặng là góp phần nuôi dưỡng tội ác.
Nhìn bức ảnh đính kèm theo bài viết độc giả sẽ thấy không phải một sáng, một chiều, một tháng, hay ngay cả một năm mà TC xây xong bảy căn cứ quân sự trên Biển Đông.
Các hình ảnh chụp năm 1988 và 1995 cho thấy những “căn cứ” của TC trên Trường Sa vừa chiếm được của Việt Nam đơn sơ không khác gì những chòi giữ vịt ở Cao Lãnh. Tuy nhiên, chính sách quốc phòng tự cô lập của Việt Nam đã khuyến khích TC biến những chòi giữ vịt đó thành những phi trường cho các oanh tạc cơ, chiến đấu cơ, các giàn phóng hỏa tiễn tầm xa được đặt, đồn trú hay trang bị như ngày nay.  
TC có kho ngoại hối dự trữ (foreign-exchange reserves) lớn nhất thế giới nhờ mấy chục năm bán sức lao động của mấy trăm triệu dân và kho võ khí hiện đại một phần không nhỏ do ăn cắp kỹ thuật. Tuy nhiên, như bài học Putin cho thấy võ khí và tiền bạc không đem lại chiến thắng.
Nga có nguồn dự trữ lớn thứ tư trên thế giới với 611 tỷ dollar nhưng ngoại trừ 13% số tiền đó ký thác trong các ngân hàng Trung Cộng và sẽ sử dụng được, số lớn còn lại đã bị “đóng băng”. Kỹ thuật chiến tranh của Nga chưa phải là đối thủ của Mỹ và NATO.
Yếu tố còn lại và cũng là yếu tố quyết định là con người. Đây cũng là nỗi lo của Tập Cận Bình. Chính họ Tập đã gọi quân đội TC đang mắc một bệnh dịch gọi là “bệnh hòa bình”. Lý do, từ sau chiến tranh biên giới với Việt Nam, quân đội TC chưa tham dự một cuộc chiến nào. (Charlie Lyons Jones Xi believes a ‘peace disease’ hampers China’s military modernization, Australian Strategic Policy Institute, 26 Aug 2019)
TC không đáng sợ nhưng nếu CSVN tiếp tục theo đuổi các chính sách tự cô lập, tách rời khỏi hướng đi của thời đại, không liên kết với các quốc gia có cùng quyền lợi để ngăn chặn kịp thời tham vọng bành trướng của TC, Việt Nam, một quốc gia bán đảo bên bờ Thái Bình Dương, có nguy cơ trở thành một nước không có biển.
Cuộc chiến xâm lược của Nga tại Ukraine là một trường hợp nghiên cứu cho tất cả học viện quân sự, các “think tank” (trung tâm nghiên cứu chiến lược) tại mọi quốc gia, mọi chính phủ nhất là những nước có vị trí địa lý chính trị tương tự như Ukraine.
Nếu Ukraine cũng theo đuổi chính sách “bốn không” như Việt Nam chắc chắn đã không có sự viện trợ quân sự của 36 quốc gia, và hậu quả ai cũng có thể hình dung được thủ đô Kyiv hôm nay là một đống tro tàn.
Qua hai cuộc bỏ phiếu vừa rồi tại LHQ, người viết không kỳ vọng giới cầm quyền CSVN thay đổi chính sách quốc phòng, nhưng chẳng qua nói phải nói cho hết, viết phải viết cho hết.
Biển vô cùng quan trọng. Phải giữ cho được biển. Nhiều ngàn năm trước, tổ tiên dòng giống Việt vượt núi, băng rừng từ bỏ vùng đất nằm sâu trong đất liền để di dân về phương Nam và đã dừng lại ở Việt Nam chỉ vì nơi đây có biển. Đừng vì sự “ổn định” tạm thời của đời mình hay của đảng mình mà quên đi nền hòa bình, thịnh vượng và ổn định thật sự của cả dân tộc trong nhiều đời sau.


Trần Trung Đạo
01 tháng 5.2022

https://www.facebook.com/ChinhLuanTranTrungDao



Giới thiệu: Hôm 27 tháng 4 vừa qua tôi nhận thông báo của Facebook cho rằng bài viết "UKRAINE ĐÁNH THỨC NHÂN LOẠI NGOẠI TRỪ CSVN" đã bị chế độ CSVN yêu cầu Facebook hạn chế phổ biến tại Việt Nam vì vi phạm "luật". Facebook cũng cho biết họ đã “xem xét cẩn thận” và có thể phải hạn chế việc đọc bài dưới đây tại Việt Nam.  Nhân dịp có ông Phạm Minh Chính, người mà quan điểm đã được tôi dùng để phân tích trong bài nên tôi đăng lại tại Mỹ và hy vọng nội dung sẽ theo không gian tin học không biên giới để đến Việt Nam.

Ukraine đánh thức nhân loại ngoại trừ CSVN

Trần Trung Đạo

Cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine của Nga đã làm thay đổi vị trí chiến lược của nhiều quốc gia trên chính trường thế giới cũng như buộc nhiều quốc gia phải thay đổi đường lối đối ngoại để thích nghi với xu hướng thời đại.
Xu hướng của thời đại ngày nay là phát triển dân chủ và hòa bình chống lại các cơ chế độc tài chuyên chính với tham vọng bành trướng.
Ngày 17, tháng 3, 1948, phát biểu trước lưỡng viện quốc hội Mỹ, TT Harry Truman giải thích lý do phải “bao vây Liên Xô”. Theo tổng thống thứ 33 của Mỹ, “nguyên nhân chính là do một quốc gia đã không chỉ từ chối hợp tác để thiết lập một nền hòa bình công bằng và danh dự mà thậm chí tệ hại hơn, đã tích cực tìm cách ngăn chặn điều đó.” (Special Message to the Congress on the Threat to the Freedom of Europe, March 17, 1948, Truman Library)
Mặc dù quốc hội Mỹ lần thứ 80 do đảng Cộng Hòa chiếm đa số nhưng họ cũng đã ủng hộ TT Truman (Dân Chủ).
Ngoại trừ năm nước CS theo chủ nghĩa Lenin không Mác, phong trào CS thế giới đã qua và câu nói của TT Truman dường như cũng đã bị lãng quên đi. Nhưng không. Mới đây cũng tại quốc hội Hoa Kỳ, nhiều phát biểu gần như lập lại nguyên văn câu nói của TT Truman chỉ thay chữ Liên Xô bằng chữ Nga và kết quả đạo luật “Bảo Vệ Chủ Quyền Ukraine” ra đời. Điều thứ hai trong đoạn hai của đạo luật viết “Sự xâm lược và ảnh hưởng có ý định thù địch của Chính phủ Liên bang Nga và các tổ chức thân cận của họ ở Ukraine là mối đe dọa đối với chủ quyền dân chủ của Ukraine.” (Defending Ukraine Sovereignty Act of 2022)
Một ngày không xa, câu nói của TT Truman cũng sẽ được nghe lần nữa tại một phiên họp khoáng đại của quốc hội Hoa Kỳ và nhóm chữ “một quốc gia” sẽ được hiểu là “Trung Quốc”.
Chính trường quốc tế là một không gian đầy sinh động. Những quan điểm “bạn và thù”, “đồng minh và đối nghịch” thay đổi theo từng hiệp định và ngay cả theo từng chọn lựa chính trị của lãnh đạo một quốc gia.
Những ai học môn sử lịch sử thế giới bậc trung học ở miền Nam trước 1975 chắc còn nhớ bài học sau đây. Ngày Chủ Nhật, 28 tháng 6, 1914, Đại Quận Công Archduke Franz Ferdinand, người sẽ kế vị bác của mình để trở thành hoàng đế Đế Quốc Áo-Hung bị một sinh viên người Bosnia Serb tên là Gavrilo Princip bắn chết tại Sarajevo. Sự kiện này được lịch sử thế giới ghi nhận như điểm khởi đầu cho Đại Chiến hay còn gọi là Thế Chiến Thứ Nhất.
Tuy nhiên, giống như hỏa diệm sơn, biến cố đó chỉ là điểm vỡ của những xung đột gây tác động dây chuyền suốt nhiều thế kỷ. Trong hai thế kỷ trước đó, nhiều liên minh quân sự được ký kết giữa các quốc gia lớn nhỏ như Liên Minh Nga-Ottoman 1700, Liên Minh Ba Nước Đức, Áo-Hung, Ý (Triple Alliance)1882 chẳng hạn.
Vô số bài học trên thế giới cho thấy không phải nước lớn nào cũng chiếm đoạt nước nhỏ dễ dàng. Nếu một quốc gia có được hai yếu tố (1) nội lực vững mạnh và (2) quốc tế ủng hộ quốc gia đó dù thua những trận đầu vẫn sẽ thắng trận cuối cùng quyết định.
Năm 1939, Phần Lan dân số chỉ vỏn vẹn 3.6 triệu người nhưng chiến đấu anh dũng trong Chiến Tranh Mùa Đông (Winter War) chống lại quân đội LX đông gấp trăm lần. Lòng yêu nước, yêu tự chủ và dân chủ của dân tộc Phần Lan giành được cảm tình của đa số nhân loại. Hội Quốc Liên (League of Nations ) chẳng những lên án LX xâm lược Phần Lan mà còn trục xuất LX ra khỏi tổ chức quốc tế này. Chiến Tranh Mùa Đông 1939 đã làm Stalin lo ngại và từ bỏ tham vọng chiếm Phần Lan lần nữa sau Thế Chiến Thứ Hai dù đã nuốt hết vùng Baltics và Đông Âu.

Chính sách đối ngoại của một quốc gia chỉ đạo cho các mục tiêu chung của quốc gia đó trong quan hệ với các quốc gia khác bằng phương tiện ngoại giao.
Tại Việt Nam, Phạm Minh Chính thủ tướng CSVN, một thời gian ngắn trước khi Nga xâm lăng Ukraine đã phát biểu về chính sách đối ngoại của CSVN như sau: “Chúng ta không “chọn bên” mà chọn lẽ phải, xu hướng thời đại là hòa bình, hợp tác và phát triển.” (“Chúng ta không chọn bên mà chọn lẽ phải”, Thanh Niên, 16-12-2021)
Sau khi Nga xâm lăng Ukraine cuối tháng 2, 2022, CSVN vẫn giữ quan điểm “chọn lẽ phải” này.
“Lẽ phải” của ông Phạm Minh Chính phải chăng là bốn triệu người Ukraine chỉ trong vòng hai tháng đã bị Nga đẩy ra khỏi căn nhà riêng của họ để sống chen chúc và thiếu thốn trong các trại tị nạn ở Ba Lan, Romania, Hungary và các quốc gia lân cận?
“Lẽ phải” của ông Phạm Minh Chính phải chăng là hàng trăm ngàn ngôi nhà Ukraine bị thiêu rụi, nhiều thành phố Ukraine bị san bằng, nhiều ngàn người Ukraine bị bom đạn Nga giết và chôn chung trong các ngôi mộ tập thể, nhiều em bé Ukraine chưa sinh đã chết khi còn trong bụng mẹ?
Dù với tiêu chuẩn đạo đức nào, hành động của Nga đối với Ukraine là hành động xâm lược trắng trợn và bản thân Putin theo tinh thần của Geneva Convention và nội dung “8 vi phạm” được LHQ nêu ra là một tội phạm chiến tranh.
Nhưng CSVN đã gạt qua bên mọi phản ứng từ phía người dân, mọi giá trị, tiêu chí đạo đức căn bản, mọi công pháp quốc tế và viễn ảnh một Việt Nam bị cô lập theo Nga chỉ để lấy lòng quan thầy Trung Cộng (TC).
CSVN rập khuôn theo cách bỏ phiếu của TC còn trơ trẽn hơn so với cách Tajikistan, Uzbekistan, Kazakhstan, Kyrgyzstan đối xử với Nga.
Dù trong cùng một tổ chức Tổ Chức Liên Minh An Ninh Tập Thể (Collective Security Treaty Organization ) do Nga chế ngự, bốn quốc gia cận biên giới này đã không ủng hộ Putin trong quyết nghị LHQ ngày 2 tháng 3, 2022. Đó là những cái tát vào mặt Putin kiêu ngạo. Ít ra lãnh đạo bốn nước nhỏ này còn có chút ý thức về chủ quyền đất nước dù sự nghiệp chính trị và cả sinh mạng cá nhân của họ nằm trong tay Putin. Hành động vắng mặt tại buổi bỏ phiếu ngày 2 tháng 3, 2022 của Turkmenistan, Uzbekistan và Azerbaijan là một cách phản đối mà Putin chưa bao giờ nghĩ tới.
Công bằng mà nói không phải 141 quốc gia lên án Nga đều vì Ukraine. Không ít trong số họ nhận thấy đây là cơ hội tốt để hội nhập vào khối dân chủ tự do. Argentina, Saudi Arabia, Thổ Nhĩ Kỳ, Chile tham gia phe Đồng Minh chỉ hơn hai tháng trước khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt nhưng vẫn được xem là quốc gia Đồng Minh và hãnh diện là thành viên sáng lập ra Liên Hiệp Quốc.
Chọn trường hợp Kampuchea láng giềng để phân tích cái khôn của Hun Sen và cái dại của đảng CSVN.
Kampuchea ngày nay thừa hưởng gia tài chính trị hai mặt (Flip-flop politics) của Norodom Sihanouk để lại nên cũng đã chọn cách bỏ phiếu hai mặt. Sihanouk đi với bất cứ ai kể cả tên diệt chủng Pol Pot miễn là giữ được chiếc ngai vàng.
Hun Sen chọn phỏ phiếu ủng hộ Ukraine “đòi Nga rút ngay lập tức, hoàn toàn và vô điều kiện tất cả các lực lượng quân sự của mình khỏi lãnh thổ Ukraine trong các biên giới được quốc tế công nhận” trong nghị quyết quan trọng của Đại Hội Đồng LHQ ngày 2 tháng 3, 2022 nhưng chọn bỏ phiếu trắng trong nghị quyết ít quan trọng hơn loại Nga ra khỏi Hội Đồng Nhân Quyền LHQ ngày 7 tháng 4, 2022.
Với chọn lựa khôn khéo này, Hun Sen muốn nói lớn cho Mỹ nghe rằng (1) Kampuchea không tham khảo Tập Cận Bình trước khi bỏ phiếu, (2) Kampuchea chưa quên vai trò chính yếu của Mỹ trong công cuộc phục hồi Kampuchea sau thời kỳ Pol Pot diệt chủng, (3) Kampuchea nhận thấy vai trò mới của Mỹ trong bàn cờ chính trị thế giới, nhất là Á Châu và muốn có một sự cân đối trong mặt trận ngoại giao trong thời gian tới.
Chính phủ Mỹ chắc chắn đã lưu ý quan điểm đối ngoại của Kampuchea nổi bật trong khối các nước Đông Nam Á. Sau cuộc bầu phiếu, hai tòa đại sứ Pháp và Mỹ công bố lời cám ơn lãnh đạo Kampuchea đã có lập trường cứng rắn chống lại hành động xâm lược Ukraine của Nga.
Không có thù vặt trong chính trị. Quan hệ giữa hai quốc gia không chỉ đặt cơ sở trên quyền lợi chung mà còn trên quan điểm của mỗi quốc gia trước một vấn đề chung.
Cùng một mối quan tâm, chính sách đối ngoại của Ấn Độ vừa qua đã làm ba quốc gia còn lại lo lắng cho tương lai của Đối Thoại An Ninh Bốn Bên (Quadrilateral Security Dialogue, QUAD) và sẽ ảnh hưởng đến quan hệ Mỹ Ấn sau này.
Điều này thể hiện ngay trong tổng kết phiên họp của QUAD ngày 3 tháng 3, 2022 vừa qua. Phiên họp diễn ra khá nhạt nhẽo so với hai phiên họp năm 2020 đầy phấn khởi với hàng loạt mục tiêu từ Covid-19 đến tự do và an ninh hải hành. Lần này, mặc dù phiên họp ở cấp nguyên thủ quốc gia không có một chương trình nào cụ thể ngoài việc cứu trợ nhân đạo cho Ukraine. QUAD được thành lập với ý định bao vây TC nhưng với chính sách hàng hai của Ấn Độ, với ngân sách dành cho quốc phòng chỉ 1% GDP (47 tỷ dollar) của Nhật Bản và quốc gia nhỏ (21 triệu dân) như Úc còn khá lâu mới dựng nổi một hàng rào ở Ấn Độ - Thái Bình Dương.
Đây không phải lần đầu. Sự lo ngại của Mỹ trước chính sách đối ngoại tả khuynh của Ấn phản ảnh trong thái độ của Mỹ trước xung đột giữa Ấn và Trung Cộng 1967 cũng như giữa Ấn và Pakistan năm 1971. Năm 1967, Mỹ đứng ngoài và trong xung đột 1971 Mỹ ủng hộ Pakistan. Sau sự sụp đổ của LX, các nhà làm chính sách đối ngoại Mỹ muốn lôi kéo Ấn, một nước dân chủ, về phe tự do trong cuộc đấu tranh lâu dài nhằm cô lập TC. Đây là lối đi đúng nhưng đường còn dài.

Để biện minh cho chính sách đối ngoại rập khuôn TC, các lãnh đạo CSVN biện hộ rằng cách bỏ phiếu của họ là biểu hiện thái độ trung lập trong xung đột Nga-Ukraine.
Trung lập là gì? Trích từ các văn bản của LHQ: “Tính trung lập - được định nghĩa là tình trạng pháp lý phát sinh từ việc một quốc gia không tham gia vào một cuộc chiến giữa các quốc gia khác.” Cũng theo tuyên bố của LHQ về tính trung lập: “Trước tình hình căng thẳng chính trị và khủng hoảng leo thang, điều hết sức quan trọng là phải giữ vững các nguyên tắc chủ quyền và bình đẳng của các quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, quyền tự quyết, không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kỳ quốc gia nào cũng như bảo vệ, thúc đẩy, khuyến khích giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình sao cho hòa bình và an ninh quốc tế không bị đe dọa.” (United Nations, International Day of Neutrality, 12 December)
Nhưng trung lập không có nghĩa chỉ tuyên bố “tôi đứng ngoài” là xong mà còn phải được các cường quốc nằm trong quỹ đạo xung đột công nhận.
Khi Đệ nhị Thế Chiến vừa bùng nổ hàng loạt quốc gia như Estonia, Ireland, Latvia, Lithuania, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển,Thụy Sỹ v.v... tuyên bố trung lập. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào tuyên bố trung lập cũng tránh được tai họa chiến tranh. Hitler tấn công các nước “trung lập” Na Uy, Đan Mạch, Bỉ, Hòa Lan và Stalin, lúc đó là đồng minh của Hitler, thu gọn ba nước “trung lập” nhỏ vùng Baltics chỉ trong vài ngày.
Lịch sử các cuộc xung đột quân sự trong thế kỷ qua cho thấy, mục đích tối hậu của giới lãnh đạo một quốc gia khi tuyên bố trung lập là để bảo vệ sự “bình đẳng chủ quyền của các quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, quyền tự quyết”.
Gần nửa thế kỷ từ ngày cưỡng chiếm miền Nam 1975, đảng CSVN bảo vệ được gì về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ theo đúng định nghĩa trung lập của LHQ?
Câu trả lời không chỉ là con số không mà là một số âm to lớn.
Không cần phải là một nhà nghiên cứu địa lý hay theo dõi chính trị hàng ngày, trong thời đại internet này, chỉ cần vào google gõ từng tên đảo Việt Nam như Gạc Ma, Đá Xu Bi, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Vành Khăn sẽ thấy đó là những căn cứ quân sự TC hiện đại đầy đủ các phương tiện chiến tranh từ phi trường với nhiều phi cơ chiến đấu trang bị hỏa tiễn tầm xa có thể đạt tới Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn trong một vài chục giây.
Những địa danh Vành Khăn, Tư Nghĩa, Gạc Ma v.v.. chỉ còn trong các diễn văn, nghị quyết. Những quần đảo Việt Nam được nhắc tới trong thơ, trong nhạc đang còn sờ sờ trước mặt mà nghe xa xôi như từ thời Bắc thuộc vọng về.
“Trung lập” của CSVN đặt nền tảng trong chính sách gọi là “bốn không” được xác định trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019: “Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”. (Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019)
Trung Cộng muốn gì ở CSVN? Một điều mà những ai theo dõi quan hệ giữa CSVN và TC đều biết TC muốn CSVN (1) hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng về chế độ chính trị và (2) không được tách rời khỏi chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng.
Cách hành xử của các lãnh đạo đảng CSVN cho thấy họ đang nghiêm chỉnh thỏa mãn các yêu sách đó của TC bằng tài nguyên và xương máu của nhiều đời dân tộc Việt.

Tại sao cần phải “ba không” hay “bốn không”?
Hội nghị quốc tế nào, cường quốc nào chính thức tuyên bố chấp nhận nguyên tắc “bốn không” của CSVN?
Không một quốc gia nào trong số các quốc gia tranh chấp chủ quyền các đảo trên Biển Đông đưa ra những nguyên tắc đối ngoại một chiều và bị động như CSVN.
Sau đây là nguyên tắc đối ngoại chỉ đạo của Cộng hòa Philippines, từng đưa TC ra tòa án quốc tế và thắng, được ghi trong Điều II Mục 7 của Hiến pháp Philippines năm 1987: “Cộng hòa Philippines theo đuổi một chính sách đối ngoại độc lập. Trong quan hệ với các quốc gia khác, điều quan hệ tối thượng sẽ là chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia và quyền tự quyết.”
Khẳng định của Philippines rất linh động, uyển chuyển, rõ ràng và tổng quát thích hợp cho mọi hoàn cảnh, mọi đối tác với đồng minh và cả kẻ thù.
CSVN cũng có thể nói một cách công khai như vậy nhưng nếu nói như Philippines các lãnh đạo đảng lại lo TC hiểu sai lòng dạ của họ.
Chiến tranh là tai họa không tránh khỏi. Đại đa số nhân loại, nhất là dân tộc Việt Nam, không muốn chiến tranh nhưng ngày nào trái đất còn chia ra những biên giới ngày đó nhân loại còn có chiến tranh.
Người viết hình dung Tập Cận Bình vừa dán lên tường trong phòng làm việc của ông ta lời dặn dò cho các thế hệ lãnh đạo TC tương lai rút ra từ cuộc chiến Nga xâm lược Ukraine: “Nếu phải trừng phạt Việt Nam lần nữa nhớ đừng đổ bộ mà hãy tận dụng tối đa mọi hỏa lực từ xa.”
Với kỹ thuật chiến tranh hiện có, TC thừa khả năng “trừng phạt CSVN” bằng hải lực và không lực từ Hải Nam, Hoàng Sa, các căn cứ quân sự trên đảo Chữ Thập, Xu Bi, Vành Khăn, từ hạm đội Nam Hải mà không cần phải đổ nửa triệu quân như 1979.
Nếu tình huống đó xảy ra, ai sẽ cứu Việt Nam? Trả lời theo lối bình dân là “chẳng có ma nào cứu”.
Lãnh đạo CSVN thường “nổ” cái gì cũng nhất. Đúng, một người không thể đứng thứ hai nếu chỉ chạy đua với chính mình, thi đua với chính mình, cạnh tranh với chính mình.
Về kinh tế, những quốc gia cựu CS thoát ra được và tự do phát triển, kể cả Mông Cổ, đều bỏ xa CSVN. GPD tính theo đầu người của Mông Cổ tăng gấp 10 lần kể từ cuộc bầu cử tự do chính thức 1993.
Nhưng những gì người dân Mông Cổ và các nước cựu CS có được không chỉ là lợi tức kinh tế, tài chánh mà là quyền được bầu cử, ứng cử, tự do phát biểu, tự do đi lại, tự do tôn giáo, quyền biểu tình, quyền phê bình lãnh đạo mà không bị ai bắt bỏ tù và rất nhiều quyền khác mà người dân Việt Nam không có.

Giữa các cuộc chiến tranh, ngoài việc lo cải tiến và hiện đại hóa bộ máy quốc phòng, các nhà tư tưởng của mỗi quốc gia luôn cố gắng nghĩ ra một con đường đất nước sẽ phải đi qua, các thế hệ trẻ tập trung dùi mài kinh sử của nước mình và của thế giới để qua đó phác họa những chính sách dài hạn ngắn hạn thích nghi cho đất nước.
Tư tưởng vô cùng quan trọng và phải đi trước. John Adams, tổng thống thứ hai của Mỹ viết thư cho Thomas Jefferson, tổng thống thứ ba của Mỹ ngày 24, 8, 1815 “Cuộc Cách mạng đã ở trong ý thức của người dân, và điều này đã có hiệu quả, từ năm 1760 đến năm 1775, trong vòng mười lăm năm trước khi một giọt máu đổ xuống tại Lexington." (Exhibition, Creating the United States, The Library of Congress)
Những lời phát biểu của Phạm Minh Chính cho thấy sau 47 năm, Việt Nam vẫn còn là một nước với những tư tưởng lỗi thời, già nua và lạc hậu đã được nhân loại xếp vào ngăn tủ. Bộ Lenin toàn tập cũ, bìa cứng, in năm 1974 được bán ở Mỹ với giá rất cao vì đó là sách xưa dành cho các nhà sưu tập, thế nhưng tại Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lê trên danh nghĩa vẫn còn là cây kim chỉ nam cho đất nước đi lùi.
Trần Trung Đạo
tháng tư 2022

https://www.facebook.com/ChinhLuanTranTrungDao

 

Đăng ngày 30 tháng 05.2022