Khi những thần tượng cách mạng biến thành đồ tể
Cách mạng cần phải đổ máu ?
Đến ngày nay, Robespierre vẫn còn kẻ ghét, người thương !
Phan Văn Song
Với cảm nghĩ cá nhơn, Robespierre là biểu tượng của cái quá khích của con người cách mạng. Và có thể nói rộng ra là cả cái quá khích của đạo đức cách mạng. Tuần nầy, tiếp tục không nói chuyện mình nữa, xin nói chuyện người, và xin kể chuyện ông Maximilien Robespierre, người anh hùng cách mạng Pháp của Đại Cách Mạng Pháp của thế kỷ thứ 18 (1789), một con người đầy uẩn khúc, đầy bàn cải, lắm kẻ ngưỡng mộ, nhưng cũng lắm người chê bai, ghen ghét!
1. Biết thời thế
Maximilien de Robespierre hay Maximilien Robespierre sanh ngày 6 tháng 05 năm 1758, bị hành quyết (chặt đầu bằng máy chém- guillotine) ngày 28 tháng 07 năm 1794, luật sư, một nhơn vật hàng đầu của cuộc Đại Cách Mạng Pháp, đến ngày nay vẫn là một nhơn vật điển hình của một cuộc Cách Mạng đầy tranh cải, lắm kẻ ghét nhưng cũng nhiều người thương!
Tuồi trẻ học rất giỏi, trung học ở Louis le Grand, Paris (cùng với trường trung học Henri IV, là hai trường trung học lớn nhứt xứ Pháp và Paris, nổi tiếng cả đến ngày nay).
Tốt nghiệp Luật sư năm 1781, ông hành nghề ở Luật sư Đoàn vùng Artois (Bắc Pháp) và có lúc hành sự thẩm phán.
Đắc cử dân biểu thuộc Thành phần thứ Ba-Tiers état của Viện các Thành phần Chánh-Les États Généraux, một tổ chức mới được Vua Louis XVI chấp nhận cho thành lập, gồm các đại biểu đại diện các (3) thành phần chánh của xã hội để cùng Vua quản trị đất nước.
Đây là Viện Lập Pháp đầu tiên ở Pháp, khai trương nền dân chủ bằng một chế độ Quân chủ lập hiến – mặc dù ở Anh với Magna Carta đã có rồi, với nhóm quý tộc chia quyền với Nhà Vua, nhưng không có Thành phần thứ Ba-Tiers état, đại diện cho thường dân.
Thành phần thứ Ba, tuy là một thành phần xã hội vẫn có sẳn từ thời xa xưa trong các lịch sử nhơn loại, thành phần phục vụ các triều đại, sanh hoạt chung quanh các triều đình, tại nhiều quốc gia, xuyên các dân tộc, toàn khắp thế giới, Á cũng như Âu. Vì đó là một đại đa số trong các thành phần xã hội, tự nhiên, gồm những người dân phục vụ cho hai đẳng cấp xã hôi thượng lưu là quý tộc và giáo quyền thường ngày. Nhưng phải chờ đến lúc bấy giờ, năm 1789, vào buổi bình minh của Đại Cách Mạng, ở Pháp, mới được nhìn nhận.
Gọi là chánh, vì thành phần thứ ba nầy được chọn lọc, đây là phần có tiền, có của, có học, có hành của thành phần nầy, là dân trí thức, là thương gia, là ngân hàng... thuộc giới xã hội trung gian, dịch vụ, cho hai giới thượng lưu kia – tiếng Pháp gọi chung là Les bourgeois (những người trong thành phố–les bourgs, khác với nông dân-paysans hay dân ngành nghề artisans. Từ cộng sản gọi chung là tiểu tư sản. Và đám người sau là bần cố nông.
Vào thế kỷ thứ XVIII mà đã nhìn nhận được một tiers-état, chấp nhận cho giai cấp tiers-état tham gia chánh quyền, chia quyền Lập Pháp thật sự là một cuộc cách mạng lớn lao, một cách mạng tư duy, một cái nhìn hoàn toàn đổi mới! Tư tưởng dân chủ đã bắt đầu chớm nở.
Nên biết rằng, hệ thống xã hội và tư duy xã hội của thời bấy giờ, thế kỷ thứ XVIII, dưới triều đình, xã hội chỉ gồm có hai (2) giai cấp chánh. Nhà Vua, do Ơn Chúa (Âu), hay Thiên Tử (Á), thống trị cùng với hai giai cấp phụ tá, một thế quyền, với Quý Tộc-Aristocratie và thần quyền, với Giáo quyền-le Clergé. Nói tóm lại, nhà Vua với gia đình nhà Vua thống trị toàn bộ tài sản và thể xác con người và đất nước (thế quyền) và với Giáo hội thống trị toàn bộ linh hồn con người và đất nước (thần quyền). Phần còn lại, giáo dân, hay thần dân đều là bầy tôi, là dân chúng, chỉ là bầy nô lệ, là đầy tớ nay có thể gọi chung là thành phần thứ Ba của xã hội. Hôm nay mới được cho phép có chổ đứng!
Maximilien de Robespierre, con một gia đình quý tộc hạng nhỏ-petite noblesse, đã bỏ thủ ngữ "de" thành Maximilien Robespierre, để trở thành một gia đình thuộc thành phần thứ ba.
Thật sự mà nói trong từ ngữ «Thành phần thứ Ba» của xã hội phong kiến Âu châu bấy giờ là một từ chung trong ấy gồm cả các nông dân nghèo khổ - cộng sản gọi là «bần cố nông» - và gồm cả các giai cấp trung lưu khác, làm nghề trao đổi, buôn bán, dịch vụ, ngân hàng, luật sư, thầy giáo... Vì vậy trong Viện Lập Pháp đầu tiên nầy, mới thêm từ Chánh - États Généraux!
Từ ngữ cộng sản về sau, đặt thêm tên cho giai cấp «nửa chừng xuân» nầy là tiểu tư sản-petit bourgeois (tạch tạch sè, phải giết phải diệt). Một giai cấp, tuy thuộc Thành phần thứ Ba nhưng phải diệt, vì là một giai cấp có hiểu biết, có đầu óc và có suy nghĩ.
2. Sử dụng thời thế
Đại biểu thành phần thứ Ba-Tiers état của Viện các Thành phần Chánh-États Généraux năm 1789, Robespiere nhanh chóng biến thành một nhà lãnh đạo của nhóm «Dân Chủ-les Démocrates» của Viện Lập Hiến- La Constituante. Nhóm anh chủ trương, nào phế bỏ án tử hình (Nhưng 4 năm sau, 1793, lại cùng với Chánh phủ khủng khiếp hay khủng bố-gouvernement de la Terreur, anh là người ra lệnh chặt đầu thiên hạ nhiều nhứt). Anh cũng chủ trương hủy bỏ nô lệ, ủng hộ cho quyền bầu cử cho người da đen, cho người Do thái giáo và cho các kịch sĩ-comédiens. Anh ủng hộ phổ thông đầu phiếu-suffrage universel và quyền bình đẳng (cho mọi thành phần xã hội – lúc ấy chưa nói đến bình đẳng phụ nữ. Và anh chống lại đặc quyền bầu cử–suffrage censitaire (chỉ có người đóng thuế mới được quyền bầu cử).
Anh cũng quyết định phải kiểm soát chặt chẽ Phòng Chứng Khoán-La Bourse.
Anh khó khăn đến nổi dư luận gọi anh là "Ông Thanh Liêm-L’Incorruptible". Không có gì mua chuộc anh được.
Nói tóm lại, Maximilien Robespierre là một nhà dân chủ thật sự, một nhà cách mạng đúng với định nghĩa ngày nay. Còn hơn thế nữa, anh là một con người thanh liêm. Con người với một đạo đức cách mạng được gọi là điển hình, là tiêu biểu. Trong một thời kỳ đầy tranh tối tranh sáng, trắng đen lẫn lộn, lắm chuyện, cướp bóc, đập phá, hôi của, giết người! Gán một tội phản cách mạng, mang một tội quý tộc, thân giáo quyền, là bị chặt đầu, bêu đầu, của cải bị cướp giựt ngay… Chuyện đút lót, mua quan bán chức đều có thể xảy ra. Thế mà ông «Thanh Liêm», giữ sòng phẳng, thanh liêm. Đó là một gương sáng! Thế nhưng, con người thanh liêm trong sáng ấy, giữ lễ, giữ lề, giữ lẽ phải, cứng rắn, trong sạch, chẳng bao lâu biến thành một người quá khích, bằng mọi giá, nhơn danh cách mạng, sẳn sàng giết để cách mạng thành công!
Vận hành cuộc Đại Cách mạng Pháp lắm nỗi gian truân đưa đẩy, Robespierre, xã viên của Công Xã Paris Nổi Dậy-La Commune insurrectionnelle de Paris, đắc cử vào Hội Đồng Quốc gia-La Convention Nationale. Ở đây anh ngồi cùng với nhóm Trên Núi- Sơn tinh-La Montagne quá khích, cứng rắn, tả phái và chống với nhóm Thủy tinh- La Gironde, ôn hòa, trung dung hữu phái. Sau những ngày tranh chấp cải vã, chia rẽ giữa hai phái, đầy khó khăn, của những ngày 30 tháng 05 và 2 tháng 06 năm 1793, anh gia nhập ngày 27 tháng 07 năm 1793, Ủy ban Cứu Quốc-Comité de Salut Public.
3. Độc tài
Và ở đây, cùng các đồng chí, anh thành lập chánh phủ cách mạng và khủng bố - La Terreur.
Thoạt đầu, để chống lại không khí đe dọa chiến tranh đối ngoại chống Liên hiệp các vương triều Anh Phổ Áo... đang thành lập đồng minh chống Cách mạng Pháp. Sau đó, chống những tư tưởng chủ bại, đối lập, cùng với đe dọa nội chiến do các tỉnh, các vùng bảo hoàng, thiên Giáo hội Thiên chúa Giáo chống cách mạng… (Vùng Vendée - Tây Nam Pháp đang nổi dậy, nhóm đòi nước Pháp phải liên bang hóa…) có kẻ đòi ly khai, có người cần phá hoại Cách mạng…
Mùa Xuân 1794, Robespierre cùng các đồng chí mình của Ủy ban Cứu Quốc quyết định bắt giam nhóm Hébertistes, các đồng chí của Jacques-René Hébert, người trưởng nhóm của hội quán đường Cordeliers, một nhóm cực tả quá khích – les Exagérés, đòi cách mạng tới cùng, xóa bỏ Thiên Chúa Giáo. Và đồng thời, cũng quyết định bắt luôn Danton và nhóm Trung hữu- les Indulgents, ôn hòa, trung dung...
Sau một phiên toà vội vã, các lãnh đạo cả hai nhóm đều bị kết án và bị tử hình (máy chém).
Từ nay Maximilien Robespierre và các các đồng chí mình Saint Just, Couthon, Le Bas, và cậu em ruột Augustin Robespierre... cùng các bạn hữu đã, cùng một lúc, loại bỏ hai cánh tả hữu của Ủy ban Cứu Quốc độc diễn, độc tài cách mạng, độc tài yêu nước.
4. Ngày 10 Thermidor năm II, gặp nạn và gảy cánh
Ngày nói tên trên đây là ngày nói theo tên của lịch Cách mạng hay lịch Cộng hòa Pháp. Được lưu hành từ 1792 đến 1806. Bắt đầu áp dụng ngày 15 Vendémiaire năm II (6 tháng10 1973) nhưng thật sự đã bắt đầu có hiệu lực ngày 1 vendémiaire năm I (22 tháng 09 năm 1792) rồi. Vì ngày ấy được tuyên bố là Ngày Cộng hòa Pháp, bắt đầu gọi là «kỷ nguyên người Pháp-L’ère des français».
Lịch nầy tính theo thể thập phân-décimale, để lánh xa lịch grégorien của Thiên Chúa Giáo :
Năm Cộng hòa gồm 12 tháng 30 ngày (360 ngày). 5 ngày hay 6 ngày (năm nhuận) còn lại là những ngày nghỉ Cộng hòa, để hòa nhịp với lịch thiên văn (365,25 ngày).
Mỗi tháng Cộng hòa gồm 3 tuần 10 ngày.
Tùy mùa các tên tháng mang tên hợp thời tiết. Thí dụ Mùa Thu mang tiếp ngữ aire : 1/Vendémaire mùa gặt-vendanges 2/ Brumaire mùa sương mù-brumes 3/Frimaire mùa lạnh-frimas.
Ngày 8 Thermidor năm II (26 tháng 07 năm 1794) Robespiere bắt đầu bị cô lập trong một buổi họp, và bị nhốt ở một phòng họp của Hội Đồng Quốc Gia-Convention Nationale. Người em Augustin, cùng ba người đồng chí thân cận là Couthon, Le Bas và Saint-Just của anh cũng bị các đồng nghiệp của Hội Đồng Quốc Gia-la Convention Nationale bắt giam.
Công Xã Paris-la Commune insurrectionnelle de Paris, ủng hộ Robespierre và bạn hữu, phản đối Hội Đồng Quốc Gia, bèn nổi dậy, đòi đem quân, đến giải cứu bọn ông. Đang cù cưa, thương thuyết, Hội Đồng Quốc Gia bèn tuyên án ông và đồng bọn «ngoài vòng pháp luật», thành lập nhanh chóng một toà án, chiều ngày 10 Thermidor, quyết định xử trảm, chém đầu ông cùng 21 bạn hữu.
Thật là :
«... Kêu lắm lại càng tan tác lắm,
Thế nào cũng một tiếng mà thôi!».
( Bài Vịnh Thơ Pháo của Nguyễn Hữu Chỉnh, cũng một tay anh hùng thất vận mất đầu!
Dẹp xong nhóm Robespierre, chánh phủ cách mạng và khủng bố cũng bị dẹp luôn.
Thay lời kết
Tại sao ngày nay, nước Pháp vẫn sợ những cải tổ những cách mạng? Tại sao hình bóng của Robespierre vẫn ám ảnh lịch sử Pháp từ hai thế kỷ nay?
Tất cả bắt đầu từ cuộc Đại Cách mạng Pháp, và tất cả đều lại trở về cuộc Đại Cách Mạng 1789!
Do đó, chiến thắng của «tư tưởng trung dung ôn hòa không tả không hữu», của Emmanuel Macron, đang gợi dân Pháp trở về với tư tưởng của thế kỷ Ánh Sáng-le siècle des Lumières. Cũng do đó bắt buộc mỗi người Việt chúng ta phải đọc và xem xét lại lịch sử nước Pháp để có một hướng suy nghĩ cho Việt Nam tương lai chúng ta.
Đại Cách Mạng có những thành tựu đáng kể. Tạo một quốc gia có bình đẳng, biết tôn trọng tự do cá nhơn, tôn trọng nhơn quyền. Tạo một nền Cộng hòa, pháp trị, hiến định. Tạo một nền Dân chủ đầy đủ tam quyền phân lập rõ ràng, có một chế độ bầu cử phổ thông đầu phiếu tuy gián tiếp nhưng nếu cần vẫn tổ chức những cuộc trưng cầu dân ý. Tạo một đời sống xã hội, hài hòa, cân bằng, trọng luật pháp. Có một nền kinh tế tư do tư bản chủ nghĩa kinh tế thị trường, nhưng vẫn chú trọng đến công bằng xã hội, với một nền y tế cộng đồng cao. Có một nền Giáo dục và văn hóa nhơn bản, khoa học tiên tiến… và dĩ nhiên nước Cộng hòa Pháp là một quốc gia tiên tiến cường quốc đứng hàng thứ năm trên thế giới...
Thế nhưng, trong vận hành lịch sử vẫn có những thiếu sót, những cố chấp, những quá khích. Và những tội lỗi của thời quá độ vẫn tiếp tục ám ảnh, như sự giết hại đồng bào vùng Vendée (Giả thuyết quân Cách Mạng Pháp đã diệt chủng dân Vendéens ngày nay vẫn còn giá trị. Vì trong 3 năm (1793-1796) càn quét dân chúng vùng Vendée, trong một địa thế chỉ với 10000 cây số vuông, chỉ với 850000 dân lúc bấy giờ, đã tạo trên 200000 nạn nhơn. Quân đội Cách Mạng cũng thiệt hại từ 30000 quân đến 80000 quân, không được thống kê rõ ràng vì vấn đề chánh trị )...
Và chưa kể những nạn nhơn của chánh phủ khủng bố: Từ Ông Hoàng Louis XVI, bà Hoàng Marie-Antoinette, đến thứ dân, các lãnh đạo chánh trị, hữu phái Danton, tả phái Hébert, đến cả ông trùm chánh sách khủng bố là Robespierre cũng «mất đầu». Con số ước lượng, độ 17000 người, bị tuyên án tử hình theo các tài liệu chánh thức của các Toà án cách mạng.
Thực sự mà nói, phải tính thêm, và con số có thể là 40000 người, vì có một lô người ở những thời gian đầu không kịp tuyên án, bị bắt kéo ra và chém bừa.
Theo thống kê, 85% nạn nhơn thuộc thành phần thứ Ba- Tiers état, 8,5% giới quý tộc, 6,5% Giáo quyền. Nhưng theo lý luận toán học, vì dân số hai giai cấp thượng lưu ít hơn giai cấp thứ Ba thường dân, nên tuy tỷ lệ chung là như vậy, chứ tỷ lệ thiệt hại hai giai cấp thượng lưu thật sự lớn hơn…
Đại Cách mạng Pháp ngày nay, vẫn tiếp tục ám ảnh các sử gia, các nhà trí thức Pháp đã đành. Các chánh trị gia cũng không tránh khỏi, dù có ngưỡng mộ hay không; dù có tư tưởng thiên tả, yêu nền cách mạng và cộng hòa; hay dù có tư tưởng hữu phái, tư bản, yêu ổn định và truyền thống; dù có tư tưởng thế tục hay tư tưởng tôn giáo; ngay cả đến những thường dân Pháp, vẫn sợ chữ Révolution, Cách mạng, rất sợ những Réformes, Cải tổ. Vì sợ xáo trộn? hay vì ám ảnh, sợ mãi….
Hình ảnh một Robespierre, thanh liêm , trong sạch Incorruptible cuối cùng biến thành anh đồ tể.
Một Saint Augustin thánh thiện biến thành một Staline, một Lénine, một Mao Zédong, một Hồ Chí Minh, bắn vào dân, đày dân, giết dân, dùng xe tăng cán dân, nhơn danh Cách Mạng!
Và cái tội của Đại Cách Mạng Pháp vẫn, 200 năm sau, tiếp tục ám ảnh dân Pháp. Và dân Pháp phải tiếp tục, vẫn phải chấp nhận, vỗ ngực tự thú tội và lên tiếng xin lỗi
Mea culpa, mea maxima culpa, Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng …
Không, Đại Cách mạng Pháp vẫn chưa chết! Các xác chết do Đại Cách mạng Pháp và bóng ma của Đại Cách mạng vẫn ám ảnh đất nước Pháp.
Thế còn những đệ tử của Cách mạng quốc tế Cộng sản Lénine, Staline, Mao, Hồ và đồng bọn? Có bị ám ảnh bởi hàng trăm ngàn nạn nhơn không?
Hỏi chơi thôi. Chúng ta ai ai cũng rõ câu trả lời rồi.
29-09-2017
Hồi Nhơn Sơn, chiều cuối Thu
Phan Văn Song
Nhân các bạn đang xem phim The Vietnam war, (có nhà văn Bảo Ninh tỏ lòng trong đó, mời đọc lại bài của THT- xin phép người đồng khóa cũ THT) - Luân Hoán
Đối thoại với nhà văn Bảo Ninh
Trần Hoài Thư
Từ lâu, người ta đã chờ đợi những tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam bằng ngòi bút trung thực, vượt khỏi định kiến, guồng máy, lập trường, từ những nhà văn miền Bắc. Tại sao là miền Bắc? Bởi vì, những người viết của miền Nam ít ra, đã thả dàn biểu lộ hầu hết những gì mà họ đã tham dự hay nhân chứng, mà không bị ràng buộc bởi bất cứ một ai, bất cứ một thế lực nào. Chính vì sự mong mỏi ấy, những tác phẩm của Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, vân vân... đã được đón nhận từ trong nước, đến ngoại quốc, và cả người Mỹ lưu tâm về Việt Nam và đã được xem là hiện tượng. Trong số những tác phẩm này, tôi được đọc hai truyện dài: Ly thân của Trần Mạnh Hảo, và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Tôi xin được góp ý về Nỗi buồn chiến tranh (NBCT) vì truyện này đã nhắc thường trực về những người lính thám báo VNCH, mà tôi là một thành viên. Hơn nữa NBCT hiện nay là một đề tài thảo luận sôi nổi trên internet, qua những Newsgroups và Usernet. Ngoài ra, truyện đã được dịch sang tiếng Anh (Bao Ninh, The Sorrow of War. Vietnamese original Hanoi, 1991; English translation London: Martin Secker & Warburg, 1993; New York: Pantheon), phổ biến trong các đại học Mỹ, tác động nhiều trong tâm trí của những người tuổi trẻ hải ngoại, không đủ khả năng đọc Việt ngữ. Nguyên bản bằng tiếng Việt đã được in ở Mỹ do Nam Việt xuất bản, Phạm Việt Cường viết tựa, với kết luận như sau:"Nỗi buồn chiến tranh là một thành tựu văn học vô cùng lớn lao, là một tác phẩm sâu sắc nhất về chiến tranh Việt Nam từ trước đến giờ, và chắc chắn sẽ tồn tại lâu dài trong kho tàng văn học Việt Nam".
Thưa nhà văn Bảo Ninh,
Trước hết tôi phải cám ơn anh vì nhờ đọc Nỗi buồn chiến tranh tôi mới hiểu rõ hơn về tâm tư của một thế hệ và giai đoạn mà tôi cũng như anh là những người trong cuộc. Anh viết về sự đổ vỡ và phá sản bi thảm của tuổi trẻ miền Bắc trong cuộc chiến đấu mà chế độ từng nói là cuộc chiến đấu thần thánh chống Mỹ cứu nước. Anh đã kể về những đồi ma chập chùng ở miền cao nguyên nồng nặc tử khí. Lính Mỹ. Lính miền Nam. Lính miền Bắc. Anh viết về những chiếc T54 nghiến trên những người lính sư đoàn 18. Anh viết về những lưỡi dao găm thọc vào tim máu phụt thành tia vòi. Anh viết về nỗi tuyệt vọng của những người lính trinh sát qua Kiên, hay của những bè bạn của anh ta, đào ngũ, dao động, hoang mang cùng cực. Anh lại kể về trận đánh ở Ban Mê Thuột vào một trung tâm cảnh sát, cùng những người nữ cảnh sát viên thuộc hàng ngũ miền Nam, và nhất là sự có mặt hầu như ám ảnh suốt truyện về những toán thám báo. Anh đã tả lại một toán thám báo vào mật khu, bắt theo 3 cô gái, hãm hiếp và sau đó giết họ rồi vất xuống sông. Anh nêu đích danh tay chỉ huy là một trung úy.
Nói tóm lại anh đã lột tả trần trụi nỗi kinh hoàng của chiến tranh, không che đậy, giấu giếm. Ngoài ra anh cũng vén cái màn dối trá từ lâu đã bao trùm cả xã hội và tuổi trẻ miền Bắc. Đó là điều hiếm có cho nền văn học trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thưa nhà văn Bảo Ninh,
Tôi đã rưng nước mắt trên những trang giấy về nỗi chán chường cùng cực của một thế hệ bị đẩy vào lò nướng, nhưng tôi không thể không phẫn nộ khi anh dùng nỗi buồn chiến tranh ấy để cố ý xuyên tạc bôi nhọ một hàng ngũ thất thế.
Xin đọc lại đoạn tả một trung úy thám báo bị phe các anh bắt làm tù binh: "Tên nom to con nhất trong bọn, mắt trái bị báng súng dộng lòi ra, máu hòa nước mưa nhuộm đỏ nửa mặt, đưa con mắt lành nhìn Kiên cười khẩy, và khàn khàn nói, nhe hàm răng trắng ởn. - Ba nhỏ đó trình quí anh, tụi này làm thịt cúng hà bá rồi... Mấy nhỏ la khóc quá trời..." (NBCT, trang 51, 52). Rõ ràng anh có một trí óc sáng tạo có một không hai. Anh tốt nghiệp khóa 3 trường viết văn Nguyễn Du mà. Nhưng anh đã không hiểu gì về vai trò của thám báo. Nhiệm vụ của thám báo là dò thám, lấy tin. Trinh sát, viễn thám, thám báo, biệt kích, những danh xưng, dù có khác nhau, nhưng nhiệm vụ là phải tuyệt mật. Chúng tôi chỉ dùng tai và mắt để nghe ngóng và rình mò và báo cáo về Bộ Chỉ huy. Toán trưởng thường thường mang cấp bậc thiếu úy hay chuẩn úy. Riêng cấp bậc trung úy chỉ dành cho trung đội trưởng mà cấp số thường trên hai mươi người. Như vậy, không tên lính thám báo nào lại ngu độn đến nỗi xâm nhập vào một mật khu, lại bắt mang theo ba cô chị nuôi, để cho các anh theo dõi bắt lại. Riêng anh cho người chỉ huy là trung úy, thì rõ ràng anh có một chủ ý thấy rõ. Cứ tưởng tượng đến một nhóm bảy người dưới sự chỉ huy của một tên trung úy vào mật khu để bắt ba con mồi, thúc súng đằng sau, hét hò, bận bịu để mang ra khỏi rừng, giữa lúc quân chính qui các anh thì dầy đặc, rõ ràng là một câu chuyện hoang tưởng và xuyên tạc có chủ ý. Trung úy ở hàng ngũ chúng tôi cũng học nhiều trường, từ trường học, đến trường lính. Tối thiểu họ cũng có tú tài. Họ có học thức. Với cấp bậc trung úy, ít ra họ cũng có kinh nghiệm chiến trường. Họ không ngu độn như vậy đâu. Ngay lời nói của viên trung úy tù binh kia cũng đủ cho biết cái dối trá, phóng đại. "Ba nhỏ đó tụi này làm thịt cúng hà bá rồi. Mấy nhỏ la khóc quá trời". Nội câu trả lời kia cũng đủ cho thấy cái chủ ý, cái căm thù hằn học, mà chỉ có những cai tù trong trại học tập mới dành cho những con người thất thế. Hễ là thầy giáo thì phải hãm hiếp nữ sinh. Hễ là sĩ quan tác chiến là phải mổ mật mổ tim nhân dân cách mạng. Thì ra đầu óc anh vẫn còn bị nhồi sọ bởi cái luận điệu tuyên truyền của chế độ. Hay cũng vì nhờ những đoạn này mà nhà nước đã cho NBCT được xuất bản và được cho phổ biến rộng rãi?
Cái tàn bạo trong cuộc chiến là lẽ dĩ nhiên. Tôi không khẳng định ai ai trong hàng ngũ miền Nam cũng đều là anh hùng quân tử. Tuy nhiên sự tàn bạo ấy anh đã vẽ nên không phải lúc, phải chỗ, không phải vai trò, khiến bất cứ người nào đã từng tham dự vào cuộc chiến cũng phải phì cười.
Xin anh hãy công bằng khi viết. Hơn nữa chính anh đã kể về người tù binh thám báo mời lính trinh sát các anh hút thuốc Ruby. Nịnh hay là một bản tính đôn hậu, chân thật, thân ái của những người trẻ tuổi miền Nam chúng tôi?
Thưa nhà văn Bảo Ninh,
Trong bất cứ một tập thể nào cũng có kẻ xấu người tốt. Tuy nhiên, tôi xin nói với anh một điều, chúng tôi có học, học từ tình yêu thương của Chúa và Phật, chứ không phải học từ Ban Tuyên huấn, từ ông Tố Hữu hay Chế Lan Viên, chỉ biết ngợi ca sắt máu, căm thù người cùng màu da như anh và tôi. Họ còn đấu tố cả cha mẹ họ huống hồ đối với những người khác hàng ngũ. Anh đã không can đảm để nói lên sự thật như Trần Mạnh Hảo đã nói trong Ly thân. Tại sao, sau chiến tranh, một nhà thơ trẻ tài ba - một thương binh cũng nguyên gốc trinh sát là Trần Khuất Nguyên, lại tìm được một người bạn tri kỷ cuối đời là một người thương binh thuộc hàng ngũ chúng tôi? Tại sao anh ta không có một người bạn nào khác trong một tập thể thắng trận là các anh?
Thứ hai, khi đề cập đến nỗi chán nản cực độ, anh đã cho nhân vật Kiên đi như đi vào chỗ không người, khi đụng trận với thám báo (lại thám báo): "Kiên chẳng buồn khom người xuống, thong thả đi tới, vẻ khinh miệt đầy uể oải.Tên địch hấp tấp bắn. Hắn cuống. Đạn nổ đinh tai. Song cả ba chục viên đạn quạt căng rát kỳ thay không một viên gãi vào Kiên. Anh không bắn trả, chỉ còn cách con mồi vài bước nữa, vẫn không bắn. Tuồng như anh muốn ban cho tên địch cơ hội sống còn: kịp thay băng, nhắm kỹ mà bắn gục anh. Nhưng chính sự chán chường táo tợn của Kiên đã làm xiêu lạc hồn phách hắn. Run bần bật, hắn đánh rơi khẩu tiểu liên. - Đồ cứt đái! Kiên chửi gằn và khinh bỉ siết cò. (NBCT, trang 31, 32).
Đúng là nhà văn Bảo Ninh lại mâu thuẫn với chính anh. Trong phần trên, anh đã vẽ nên toán thám báo tung hoành trong mật khu, đằng đằng sát khí, sau khi bị bắt, vẫn lạnh lùng, thách thức, gan dạ, tàn bạo thì bây giờ anh lại cho những người lính thám báo kia quá tội nghiệp, thỏ đế, con gà nút dây thun. Anh dựng nhân vật rất hay nhưng quá giả tạo như kiểu cao bồi cải lương. Có tên lính nào ngu đần khi hắn vào thám báo. Có tên lính nào cách kẻ địch vài buớc (nhắc lại: vài bước) quạt M16 mà sợ đến độ té đái trong quần. Và có tên lính nào vừa đi vừa đếm 30 viên đạn như Kiên. Thưa anh Bảo Ninh, hắn đã tha mạng Kiên đấy. Hắn đã tội nghiệp giùm cho một người tuổi trẻ miền Bắc đấy. Hắn đã tha như tôi và bè bạn tôi đã tha đồng đội các anh. Chúng tôi đã mời họ những điếu thuốc. Chúng tôi đã băng vết thương họ, kêu trực thăng mang họ về bệnh xá. Anh nhớ lại xem, những tù binh phe các anh, sau khi các anh vào, người nào người nấy mập và trắng, tiêu chuẩn đầu người bốn, năm đô la mỗi ngày, và luôn luôn được chiếu cố bởi hội Hồng Thập tự Quốc tế...
Vâng, những người lính mà anh rẻ rúng khinh miệt ấy, trong ấy có tôi, họ không hèn đâu. Chính trong NBCT, anh cũng đã thú nhận, năm Mậu Thân, hàng ngũ của anh đã tơi tả, tả tơi, có đơn vị thiệt hại đến 70, 80 phần trăm. Mắt tôi thấy các anh chạy như một lũ chuột thoát thân, mà chẳng cần xin pháo dập theo, hay đuổi tiếp. Ngay cả những người nữ cảnh sát viên (lại phóng đại nữa, trời ạ. Ban Mê Thuột tôi đã từng ở mấy năm, đi tìm nát nước, nào thấy một người nữ cảnh sát viên nào đâu. Nhưng cũng xem là thật đi.) mà anh viết, họ là đàn bà phụ nữ, nhưng họ vẫn chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Chiến đấu bằng súng lục (như anh kể trong truyện) trước quân đội chính qui của các anh. Đàn bà yếu đuối mà còn dũng cảm như beo hùm, huống hồ là đám thám báo chúng tôi. Họ tha Kiên chết đấy. Và anh phải thay mặt Kiên để cảm ơn họ mới phải. Đó là lý do tại sao nhà thơ Trần Khuất Nguyên trong Ly thân đã tìm đến người thương binh của hàng ngũ chúng tôi mà kết bạn trong những ngày đen tối nhất của đời ảnh, mà không tìm đến các anh.
Đã hai mươi năm sau chiến tranh, những tên đồ tể buôn bán xương máu tuổi trẻ Việt Nam đã ló dạng trước ánh sáng của lịch sử. Dù kẻ bại dù kẻ thắng, chúng ta cũng vẫn là nạn nhân từ những mỹ từ, nhân danh, mà những chuyên viên xúi giờ đây đang uống sâm nhung để chờ ngày thoi thóp. Lẽ ra chúng ta không nên khơi dậy những thảm kịch của quá khứ, nhất là gây thêm cái khoảng cách giữa những người thuộc hai phe, dù Bắc, dù Nam.
Tôi cũng viết lai rai, và có trăm ngàn chuyện để viết về mấy năm làm trung đội trưởng thám kích. Nhưng mỗi lần đặt bút lên là lòng tôi lại quặn đau. Tôi không dám kể hết về những gì mà chiến tranh đã gây nên. Tôi không thể không quằn quại khi khui lại, mở lại những sợi gân đã buộc chặt vết thương. Tôi sợ mang nỗi buồn cho con cháu tôi. Bởi vậy tôi phục anh vì anh dám mở toát loát cái vết thương. Tôi đã đau từng dòng anh viết. Tôi yêu văn nồng nàn chất liêu trai của anh. Anh quả là một nhà văn tài hoa chữ nghĩa. Có điều, một nhà văn có tài, không phải là tài ở những chuyện bịa đặt, phóng tác có chủ ý, để lường gạt những người ngây thơ nhẹ dạ, hay không có kinh nghiệm. Ông ta phải biết thành thật, cho chính ông, và độc giả của ông và cả kẻ từng thù địch với ông nữa.
Xin đừng dùng nỗi buồn mà thóa mạ một cách cố ý những kẻ bị thất thế.
Trần Hoài Thư
(Đại đội cũ và trang sách cũ, Thư Ấn Quán xuất bản, 2002)
Chị ơi chị ngủ cho ngon
Chị ơi chị ngủ cho ngon
Đừng lo mấy vụ cỏn con làm gì!
Dân đen mắt toét, chân chì
Chúng ngu không hiểu mới đi kêu trời
Chuyện buôn thuốc giả kiếm lời
Bở ăn như thế mấy người bỏ qua?
Vụ này xui xẻo lộ ra
Coi như kinh nghiệm lấy đà...vụ sau
Bà Nguyễn Thị Kim Tiến, Bộ trưởng Y tế đi họp
Chúng kêu bác sĩ tiêm đau
Bởi không đút lót cũng đâu đáng phiền!
"Lương Y" đâu phải thánh hiền
Làm gì cũng phải có tiền trao tay
Chuyện cưa chân lộn mới đây
Ui da- ai đúng tối ngày được đâu?
May chưa cưa lộn lên đầu
Phúc cho "chúng nó" khỏi chầu Diêm Vương
Bệnh nhân bốn mạng một giường
Hoặc nằm dưới đất - bình thường mà thôi
Tại vì dân số sinh sôi
Người đông nên phải ghép đôi, nằm sàn...
Chuyện tiêm nhầm thuốc chết oan
Nhỏ như con kiến! Chớ bàn chị nha!
Trứng kia còn lộn nữa là
Con người cũng vậy - ai mà chẳng sai
Dạo này chúng hét điếc tai:
"Bà nên từ chức"- kêu hoài cũng thôi!
Ghế to mình vẫn cứ ngồi
Chúng kêu khản cổ thế rồi cũng câm
Chị ơi chị cứ yên tâm
Quyền uy chị hãy cứ cầm trong tay
Đợi qua cơn sóng gió này
Chị em mình lại đến ngày bội thu
Ngủ ngon nhé chị.
Đăng ngày 04 tháng 10.2017