"Những khuôn mặt văn hóa VN Paris"
Nguyễn Mây Thu
Chủ nhật ngày 18-09-2016, Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris (CLBVHVN) đã tổ chức một buổi Sinh Hoạt Văn Học Nghệ Thuật với mục đích ra mắt Tuyển tập 1 “Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris”và chương trình Nhạc Thính Phòng mang chủ đề “Quê Hương” nhằm tưởng niệm những nhạc sĩ có những nhạc phẩm vang bóng một thời, những nhạc sĩ này đã từng sinh hoạt trong CLBVHVN Paris , tại thính phòng nằm ngay trung tâm khu Á Châu. Phòng Hermès (salle de conférence Hermès, là một hội trường khang trang dành cho những cuộc diễn thuyết), số 11 đường Vistule, Paris quận 13. Khách mời tham dự rất đông đảo có khoảng 200 người, là những khuôn mặt quen thuộc trong giới văn hóa và sinh hoạt cộng đồng ở Paris đồng thời với sự đóng góp hỗ trợ của các hội đoàn và nhân sĩ: Hội Ái Hữu Đại Học Sư Phạm SG, Hội Ái Hữu Gia Long, Gia đình KH Cao Niên, Nhóm FAVIC.
Chương trình bắt đầu vào lúc 14 giờ với lễ chào quốc kỳ và một phút mặc niệm do KS Lê Minh Triết điều hành. Trưởng và phó ban tổ chức là nhà thơ Đỗ Bình và nhà văn hóa, dịch giả Phượng Anh Nguyễn Quý Toàn nói vài lời cảm tạ quan khách và các hội đoàn bằng hữu.
Mở đầu phần văn học là tác giả và tác phẩm.
Đây là những phát biểu của một số tác giả về thông điệp suy tư về văn hóa Việt Nam hải ngoại: KS Kim Thu trình bày vài nét về BS Nguyễn Bá Hậu, nhà thơ Phương Du. Ông sinh năm 1923 tại làng Phương Canh, tỉnh Hà Đông, tốt nghiệp y khoa bác sĩ năm 1951, là một trong những hội viên của Ba Lê Thi Xã, ông đã cho xuất bản nhiều thi tập, CD thi nhạc và nhạc Thánh Ca. Hôm nay ông có đôi lời nhắn gửi cùng các bạn trẻ: “Chúng ta những người Việt ở hải ngoại, dù mang thân phận tha hương nhưng vẫn thiết tha đến nền văn hóa dân tộc. Với dòng thời gian nhiều người nay đã ra đi, ít người còn sống thì trở nên già yếu. Trong khi đó, ở quê nhà, chính quyền Cộng sản vẫn còn cấm đoán, chưa thực lòng tìm hiểu, phục hồi những tinh hoa của nền văn hóa xưa do ông cha để lại. Do đó những bạn trẻ ở hải ngoại nên cố gắng thi hành những điều sau đây: 1 / Bảo tồn và vun bồi nền văn hóa nước nhà. 2 / Mở mang dân trí, nâng cao óc suy luận của đồng bào bằng đủ mọi cách như phê bình, chỉ trích, tố cáo những hành vi thất đức để tránh bị lường gạt bởi sự tuyên truyền xảo trá của Việt Cộng. Nếu ta không lên tiếng, mọi người tưởng rằng ta đồng ý, phương ngôn Tây Phương đã nói: “Im lặng là đồng ý”. 3 / Đặc biệt những thanh niên sinh trưởng ở hải ngoại nên gắng trau dồi tiếng Việt để khi nào Việt Nam thật sự có tự do dân chủ sẽ về nước tham gia vào công việc kiến thiết xứ sở”.
Tiếp theo, KS Lê Minh Triết giới thiệu LS Trần Thanh Hiệp. LS Trần Thanh Hiệp sinh năm 1927 tại Hà Tĩnh, Trung phần. Cựu luật sư Tòa Thượng Thẩm Sài-Gòn và Tòa Thượng Thẩm Paris. Ông nguyên là Tổng thư ký Việt Nam Văn Bút (thời VNCH), Cựu chủ tịch Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và là sáng lập viên của Nhóm Sáng Tạo gồm có Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền. LS Trần Thanh Hiệp giải thích thêm về bài viết của mình đăng trong tuyển tập Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris: "...Bài viết Đức Lý của Người Luật Sư đã đề xuất một mẫu người luật sư lý tưởng như sản phẩm của những xã hội văn minh tiến bộ tôn trọng nhân quyền, dân quyền và trân trọng nhân phẩm. Chế độ cộng sản hiện hành ở Việt Nam, tuy bề ngoài mang danh toàn trị đã được đổi mới theo chiều hướng văn minh tiến bộ, nhưng trong thực chất vẫn là một hệ thống quyền lực bạo hành áp bức, tham nhũng, bất công. Tức là một xã hội không thể thông qua Luật sư tạo dụng Công Lý cho người dân. Trái lại nó là một môi trường trong đó người luật sư chỉ được coi là công cụ của chính quyền cai trị theo đường lối phi nhân quyền, dân quyền phi công lý.
Do đó tôi thiết nghĩ những luật gia nào còn thiện tâm muốn hành nghề để tạo dựng Công Lý hãy nên tạm gác nghiệp vụ bào chữa để, trước tiên, chuyển hóa bộ máy cầm quyền từ độc tài đảng trị sang dân chủ tự do. Có góp công, góp sức thỏa mãn được nhu cầu tiên quyết này thì mới mong có đất đứng để hành nghề luật sư như trong các xã hội đích thực văn minh..." (1)
Ts Phan Thị Hải trình bày vài nét về GSTS Lê Mộng Nguyên: GSTS Lê Mộng Nguyên sinh năm 1930 tại Phú Xuân (Huế), tốt nghiệp Tiến sĩ quốc gia, Lauréat de l'Université Paris 1 Panthéon Sorbonne (1er prix de Thèse d’État) với ba bằng Cao học Droit public, Science politique & Droit privé (avocat à la Cour de Paris), được bầu làm Viện Sĩ Hàn Lâm Viện Khoa Học Hải Ngoại của Pháp năm 1997 và là tác giả của ca khúc vang bóng một thời Trăng Mờ Bên Suối. GSTS Lê Mộng Nguyên phát biểu: “VĂN HÓA LÀ GÌ? Văn hóa của một nước có thể định nghĩa là tất cả những hình thức đuợc hấp thụ về cư xử của những người dân trong xã hội mà họ sinh trưởng; văn hóa biểu lộ (bề ngoài) bằng cách thức sống, thói thường và nghi thức, liên quan nghệ thuật và tư tưởng, và trau giồi (bề trong) bởi giáo dục và kinh nghiệm xử thế làm cho họ có một sức tri giác triết lý và tôn giáo của thế gian… Văn hóa là những cái gì còn lại lúc ta đã quên hết tất cả, như Edouard Herriot đã nói (la culture c’est ce qui reste quand on a tout oublié).Văn hóa là mọi mặt trí thức của một quốc gia văn minh…
Nước Việt Nam giữa hai thế chiến (về phương diện này) không được Âu Tây hóa một cách vô hại, nhưng với nhiều hạnh phúc : hạng thượng lưu trí thức (élite intellectuelle) đã lợi dụng cơ hội này để giải thoát dân ta ra khỏi vòng Pháp thuộc. Nho giáo, và Đạo giáo (taoisme) cũng như Phật giáo là nguồn gốc của những học thuyết ngoại đạo (doctrines areligieuses). Chữ quân tử (hiền minh) thật đúng là định nghĩa của ba học thuyết này. Học thuyết của Lão tử làm nổi bật những quan niệm Trống Không, như tác giả Kaltenmark (Ed. du Seuil, 1965) đã viết: «… rất hiệu quả bởi vì nó có thể - tương tự cái bễ (thổi lò) - sản xuất hơi bao giờ và mấy cũng được»… Ở nước ta, triết lý này được xem như một tôn giáo, nhưng vì trong thực hành, « đạo » này đã mau biến thành phép phù thủy, lên đồng.
Phật giáo ảnh hưởng sâu xa văn hóa nước Việt Nam từ ngàn xưa, chia ra ba nhánh ngay lúc Phật (đồng thời với Khổng và Lão tử, sinh vào khoảng 560 trước Thiên Chúa) vừa mất lúc 80 tuổi: Tiểu thừa Hinayana), Đại thừa (Mahayana) và Phật giáo áp dụng ở Tây Tạng và Mông Cổ (Véhicule tantrique – Vajrayana). Đại thừa được tu hành ở Trung quốc, Triều tiên, Nhật bản và Việt Nam. Tuy nhiên, Tiểu thừa vẫn còn ứng dụng ở những vùng biên giới Việt Miên. Một điểm chung giữa Tiểu và Đại thừa: Phật giáo là một vô thần đạo và bất khả tri luận (agnostique: chủ trương rằng trí người không thể biết được tuyệt pháp, huyền học – métaphysique – không thể làm thí nghiệm). Hạnh phúc vĩnh cửu chỉ do chính ca nhân thực hiện một mình (không có sự can thiệp của thần linh) nhờ trầm tư mặc tương mà người ta gọi là thiền (méditation) đặ đạt được cái trạng thái không dục vọng và không hiềm kỵ (oán hận), có nghĩa là thanh lãng, yên tịnh, êm đềm.
«Là một dân tộc thấm nhuần văn hóa và văn minh Tàu tự ngàn xưa, người An Nam đã sống gần 20 thế kỷ trong vùng ảnh hưởng của Trung Hoa, lúc thì dưới sự lệ thuộc chính trị, lúc thì độc lập, nhưng bao giờ cũng bị ảnh hưởng tri thức và luân lý của Tàu » (trích Phạm Quỳnh trong Nouveaux essais franco- annamites, Huẻ 1938, tr. 2). Việt Nam đẵ hưởng thụ của Tàu một di sản đặc tính, sâu mạnh. Nho giáo (« chữ nho » - chữ của người Tàu – là chữ ta, tiếng Việt lại gọi là « tiếng nôm »), nhất là về mặt tinh thần, đạo đức. Văn chương Việt Nam « đã chịu đựng hơn nghìn năm sự ép uổng của hình thức và nghi thức trong giáo huấn cổ truyền, và bị hạn chế và kiểm soát bằng những cuộc thi cạnh tranh dùng toàn chữ Hán » (Nguyễn Văn Huyên, La civilisation annamite, Hanoi, 1944, tr. 273).
Trung trực với vua, hiếu thảo với cha mẹ, vợ trung thành với chồng, tận tình giữa bạn hữu…, đó là giảng dạy của Khổng tử, làm nền tảng cho giáo dục Việt Nam phong kiến, mà Phạm Quỳnh đã chỉ trích: « Không một cửa mở nào vào đời sống và thực tế, toàn là hình thức, tự hình giáo dục (verbalisme), hùng biện, văn chương » (Op. cit. ở trên). Cá nhân xem như không có, dường chỗ cho gia đình, thôn xóm mà họ nằm trong khuôn khổ.. Cựu quốc An Nam là một « thế giớỉ » hư ảo, chống khoa học. Nho giáo về mặt này có lẽ đã làm hại tương lai của một dân tộc bằng cách ngăn cản một cá nhân được ý thức về những quyền lợi căn bản quan trọng nhất của chính mình. Một nhà thuyết trình năm 1949 tại Sài Gòn, ông Đoàn Quan Tấn đã nói lớn: Trước đô hộ Pháp, văn minh Việt Nam là một văn minh của bổn phận » (L’évolution de la civilisation vietnamienne et le probblème franco - vietnamien, Saigon 1949).
Nước Việt Nam – nhìn dưới khía cạnh này – và trước khi bị Pháp chìếm đóng, là một « xã hội kín » (Société close) theo dụng ngữ của Bergson trong « Hai nguồn gốc của luân lý và tôn giáo » (Les deux sources de la morale et de la religion). Một xã hội riêng biệt, theo André Hauriou (Démocratie et forces religieuses, Paris 1958, tr. 147)… mà trong đó các thành viên tương thân tương trợ lẫn nhau, dửng dưng đối với kẻ ở ngoài, song lúc nào cũng sẵn sàng tự bảo vệ trước và chống tham vọng của nhóm khác, nhiều lúc không ngần ngại khởi sự khởi công. Cái xã hội kín này có một luân lý và một tôn giáo, mà chức vụ cốt yếu là gìn giữ liên hợp giữa các đoàn viên ».
Sự đụng chạm giữa hai nền văn hóa , giữa hai nển văn minh mà tất cả đều chia rẽ… làm rung chuyển những nền tảng của đế quốc An Nam. Bởi xâm lược Pháp không chỉ có mục đich truất phế các hoàng đế phản nghịch để thay thế bằng những kẻ tận tâm phục vụ thực dân, mà còn muốn và nhất là « thay thế văn hóa cổ truyền giữ kỹ từ xưa đến nay bằng một thứ bậc xã hội mới và một văn minh khác biệt, với nguồn gốc lấy tự khoa học Pháp để thay thế văn chương Tàu .» (Paul Mus, Problème de l’Indochine contemporaine, tr. 4).
Nước Việt Nam giữa hai thế chiến 1919-1939 sẽ sống trong một bầu không khí cách mạng chống thực dân, với ngọn đuốc sáng soi của những người đã hấp thụ những bài học của Pháp - tổ quốc nhân quyền và dân quyền, về ước vọng chính đáng của một dân tộc muốn hồi phục độc lập – và Tự do !
Ta có thể kết luận – như Philippe Devillers tác giả Sách Histoire du Viet-Nam de 1940 à 1952, Paris 1952) rằng chủ nghĩa quốc gia thật đúng « … là kết quả tốt đẹp nhất mà nước Pháp đã để lại cho Việt Nam, một kết quả mà nước Pháp có nhiều lý lẽ nhất để làm hãnh diện ». On peut considérer le nationalisme vietnamien « comme le plus beau fruit de la France au Vietnam, celui dont elle a le plus de raisons d’être fière ».
TS Võ Hùng Anh trình bày vài nét về GS Nguyễn Thùy: Sinh năm 1936 tại Huế. Nguyên là Hiệu Trưởng Tư Thục Chi Lăng ở Ngã Sáu Sài-Gòn, làm công chức (khế ước) tại Bộ Thông Tin VNCH. Nhớ Một Người Đi, Khung Trời Hướng Vọng là một trong số trên 20 tác phẩm đã xuất bản.
GS Nguyễn Thùy phát biểu: “Năm 1965, giữa lúc khói lửa mịt mù trên khắp đất nước, tập Dialogue của Giáo Hội Phật giáo VN Thống nhất ra đời gồm nhiều người viết. Nhà thơ Bùi Giáng trong bài ‘Lettre à René Char’ (thi sĩ Pháp) có đoạn xin dịch sang Việt ngữ như sau : ‘Với chúng tôi, Hy Lạp cổ, Trung Hoa xưa,…có nghĩa nước VN miên viễn, nơi thiết yếu cho Đạo thể mở phơi, thị hiện qua giấc ngủ mộng mị, khinh thanh của địa cầu’. Tôi không được đọc bài trả lời của René Char, nhưng sau nầy, Bùi Giáng luôn nhắc đến câu ‘Đồng hồ VN đang điểm giờ lên đỉnh Calvaire’ (l’horloge du VN sonne le Calvaire). Có thể nhà thơ Pháp vừa muốn báo cho nhà thơ VN biết rằng ‘VN còn phải trải chịu bao đoạn trường ghê khiếp để phải ‘chết’ như Chúa Jésus đã bị đóng đinh trên đồi Golgotha’, hay như cô Kiều đã phải trầm mình nơi sông Tiền Đường, đồng thời vừa an ủi và đem lại niềm tin tưởng cho nhà thơ VN là ‘VN sẽ hồi sinh’ như Chúa Jésus đã sống lại để được sống đời đời nơi nước Đức Chúa Trời và cô Kiều chúng ta được cứu để từ nay mọi đoạn trường chấm dứt và vui sống cảnh ‘duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào’.
Đấy là hình ảnh đất nước và dân tộc VN chúng ta. Trải suốt hơn 70 năm cầm quyền, Cộng sản VN đã biến đất nước ta thành bãi rác thối tha và dân tộc, nhân dân ta phải từng ngày, từng ngày gánh chịu thảm họa chập chùng. Bao nhiêu bẩn dơ, xấu xa, tanh thối, bao nhiêu thói hư, tật xấu, bất hảo, bất lương, tàn ác, phi nhân ghê tởm từ bao đời văn minh nhân loại hầu như được bàn tay Cộng sản tập trung, trút đổ vào đây để giết chết dân tộc nầy. Dân tộc VN đang chết và còn phải chết do bao nhiêu điêu linh, thống khổ đưa Nó vào cái chết lăng trì để dần dà đi vào hủy diệt. Do vị trí chiến lược của Nó, bao thế lực cường toan đã đến với Nó, cướp đoạt Nó hay lôi kéo Nó theo chúng. Các thế lực nầy gặp nhau, đối mặt, chạm trán, tranh chấp, đối kháng, tìm mọi cách sát hại nhau để gìành lấy cái vị trí chiến lược nầy, gây cho Dân tộc Việt dập dồn đổ nát đang chờ ngày bị đồng hóa, bị làm nô dịch cho tà quyền phương Bắc, bị mất tên tuổi trên bản đồ thế giới. Nhưng chính các thế lực cường toan cũng tan nát, rã rời, phá sản chính tại nơi đây. Chủ nghĩa và chế độ Cộng sản sẽ tiêu vong ; chủ nghĩa và chế độ Tư bản sẽ phải xoay chiều thế nào đó từ ‘Tư bản đế quốc’ capitalisme impéraliste) sang ‘Tư bản hào hiệp’ (capitalisme généreux). Từ đó, cả thế giới, cả VN sống lại’, đổi mới cuộc sống mình. Không do phép lạ nào đâu, cũng không phải do người VN thông minh, hay giỏi gì mà do dòng lịch sử thương đau đã đến giờ chấm dứt và do Sử mệnh của Nó và của Nhân loại bắt Nó phải tuẩn nạn cho dòng đi lịch sử của nhân sinh, nói theo lời Phật ‘Đau khổ là giải thoát’. Rõ hơn, lời Chúa Jésus :‘ Đến ngày phán xét, nữ hoàng Nam phương sẽ đứng dậy với dòng dõi nầy mà lên án nó vì người đã từ nơi đầu cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của Salomon,, mà đây nầy có người tôn trọng hơn Salomon’ (Ma :12-42). Lời nói chứa nhiều ẩn dụ : ‘Nữ hoàng Nam Phương’ không là ‘người đẹp làm vua’ mà là ‘người đẹp nhan sắc tàn phai’ vì bao dập dồn đổ nát phải trải chịu. Do đó, nàng là kẻ đủ kinh nghiệm và thẩm quyền để phán xét dòng lịch sử nghiệt ngã đã tàn phá nhan sắc nàng. ‘Từ đầu cùng trái đất’ : từ mức cuối của địa cầu. Lịch sử cho thấy Văn minh nhân loại từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, đến nay không còn trụ nơi một miền nào cũng không dời đổi địa bàn nữa mà đã lan rộng khắp toàn cầu để bắt đầu chuyển điệu thay cung. ‘Dòng dõi đó’ chính là bao nhiêu thế hệ giả hình luôn ‘vấp phạm vì cớ ta’ luôn gây oan nghiệt cho nhau và cho nàng. ‘Người lớn hơn Salomon’ là cái trí tuệ của Ngôi Lời, của Đạo Thể, cái Biết Bát Nhã Ba La mật theo Phật giáo.
Mai nầy, người đẹp phương Nam sẽ trong ánh sáng của Ngôi Sao phán xét diễn trình lịch sử thương đau, nói rõ lý do ‘cuộc đời bể khổ’ (lời Phật), lý do ‘Thiên địa bất nhân dĩ vạn vật vi sô cầu’ (lời Lão Tử), lý do ‘Thiên hà ngôn tai’ (Khổng Tử), lý do ‘Vì sự gây nên phạm tội phải có’ (lời Jésus), lý do ‘Thất bại chỉ có với tồn sinh’ (Karl Jaspers), ‘Thế giới gảy đổ, phi lý, bi đát’ (triết Hiện sinh), lý do ‘Đoạn trường là sổ thế nào, Bài ra thế ấy vịnh vào thế kia’ (Nguyễn Du), ‘Kẻ khác là địa ngục của tôi’ (J.P.Sartre), ‘Lịch sử là môn học về nỗi bất hạnh của người đời’ (R.Queneau) để nhìn ra hướng đi trong ngày tới, từ đó ‘Mở rộng chân trời hào quang tính thể’ (M.Heidegger),thấy rõ lẽ ‘Đồng quy nhi thù đồ’ (Khổng Tử), để ‘Đoạn trường sổ rút tên ra’ (Nguyễn Du), để ‘Đáo bỉ ngạn’, dắt dìu nhau về với cái Bản Lai Diện Mục của mình trong giờ phút Muôn vật đổi mới.
Và Em trẻ lại. Thời gian trôi qua, lịch sử có già nhưng người trẻ lại. Một chu kỳ biến dịch trôi qua, Em hân hoan chào mừng nhan sắc tàn phai giờ đây phục hồi nguyên thể để lại lên đường trên một hành trình không còn tê buốt cô đơn vì ‘Em không còn là Em của riêng Em tình lụy ‘ mà là nhân loại nói chung trên đường đổi mới:
Dưới ánh sáng của vì Sao nhảy múa
Em thẹn thùng như thuở mói lên duyên
Mắt ướt màu xanh lên óng ả
Mạch thắm sông dài mở kỷ nguyên”.
Kế tiếp, chị Phan Thu Thủy, Hội Trưởng Ái Hữu Gia Long đã giới thiệu GS Phạm Thị Nhung. Bà tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài-Gòn, ban Việt-Hán năm 1961, Giáo sư chuyên khoa các trường Nữ Trung Học Sài-Gòn: Gia Long (1961-75), Régina-Mundi (1969-75). Sau biến cố 75, cùng gia đình định cư tại Pháp. Bà đỗ bằng Âm Học và Ngữ Học (Diplôme de Phonétique et de Linguistique) tại Đại Học Sorbonne Paris III (1978).
GS Phạm Thị Nhung phát biểu: “Người dân ở hải ngoại phải làm gì để giúp phương tiện truyền thông? Thời đại này là thời đại truyền thông tiến bộ một cách vượt bực. Trước hết chúng ta có thể nhìn thấy, nghe, thấy tất cả những gì đã xảy ra ở quê nhà đồng thời ngược lại ở nước nhà cũng có thể tiếp nhận những ý kiến của chúng ta một cách nhanh chóng. Mặc dầu ai cũng nói văn hóa nước nhà quá xuống dốc nhưng chúng ta vẫn tin tưởng ở bản chất con người Việt Nam là con người hướng Thiện... Vậy thì văn hóa cốt lũy của dân Việt chúng ta là tính Thiện. Chính nhờ tính Thiện ấy, người ta tin chắc rằng người dân trong nước Việt Nam sẽ nhìn ra sự thật như thế nào… Chúng ta phải biết nuôi dưỡng tính Thiện. Ngoài xã hội phải thực thi đời sống dân chủ tự do và khai phóng. Có dân chủ tự do con người mới phát huy được tài năng và có khai phóng thì mới mong vượt lên để tiến với mọi người...”.
Tiếp tục chương trình, nhà thơ Đỗ Bình trình bày vài nét về nhà văn Hồ Trường An, và nhà văn Phan Thị Trọng Tuyến. Nhà văn Hồ Trường An sinh năm 1938 tại Vĩnh Long, là tác giả 76 tác phẩm, cựu sinh viên Dược Khoa sau đó học thêm ở Minh Đức về điện ảnh, cựu sĩ quan VNCH ngành Chiến Tranh Chính Trị, ban Báo chí, trước 1975 là ký giả kịch trường. Ông là em ruột của nhà văn nữ Nguyễn Thị Thụy Vũ. Nguyễn Thị Thụy Vũ đã được giải Văn Chương Toàn Quốc năm 1970 với tác phẩm Khung Rêu. Hôm nay nhà văn Hồ Trường An không phát biểu vì sau cơn bệnh tai biến ông phát biểu rất khó khăn. Nhà văn Phan Thị Trọng Tuyến sinh năm 1951 tại Bến Tre, du học năm 1969, Bác sĩ Nghiên cứu, hiện sống tại Pháp. Cộng tác với các tạp chí Văn, Văn Học, Hợp Lưu và một số tạp chí khác. Đã xuất bản: Mùa Hè, Một Nơi Khác (Văn Nghệ 1987), Một Trang Đời (An Tiêm 1991), Mùa Xuân và Những Con Dã Tràng (An Tiêm 1993). Sách in chung trong tuyển tập Những Mảng Rời (2012) của Họa sĩ Lê Tài Điễn. Nhà văn Phan Thị Trọng Tuyến phát biểu: “ Sống bên ngoài nước Việt, chi phối giới hạn tâm sức tất cả chúng ta là cuộc mưu sinh và vị thế công dân nơi quốc gia mình sống. Tôi không dám nói công dân hạng hai. Chỉ xin tạm gọi là công dân trên lý thuyết/trên giấy tờ. Sống đôi khi với ít nhiều thờ ơ hay thụ động với thời cuộc quốc tế, thậm chí với cả bản xứ. Sống nơi này là còn nghĩ đến việc trở về thăm gia đình bạn bè, nghĩ đến việc về quê hương sống nốt đời còn lại. Cho nên, tại nơi này, người ta tự giới hạn: không nói chuyện chính trị, ta chỉ thuần tuý nói về nghệ thuật, văn chương!
Còn đồng bào trong nước, đa số sống vất vả dưới guồng máy cường quyền dùng bạo lực và tuyên truyền trấn áp mọi mặt. Bị đánh gãy tay, vỡ đầu vì biểu tình, phản kháng đảng, bị 8, 10 hay 16 năm tù chỉ vì không đồng ý với thứ chủ nghĩa quốc tế mơ hồ, muốn đề nghị một con đường cho tương lai đất nước, vài thí dụ nhỏ trong trăm ngàn chuyện chỉ có trên đất nước Việt Nam, dưói chế độ độc tài.
Những cánh rừng rậm vây khổn cái nhìn chỉ thấy cây.
Trong hoàn cảnh ít nhiều nghiệt ngã ấy, có được bao nhiêu cách để vượt lên, thoát khỏi trùng vây? Tôi không thể lấy con số để suy xét mức độ thành công của hành động phản kháng như nói ở trên. Sáng tác văn thơ, âm nhạc. Biểu tình. Là những đường lối bày tỏ có văn hoá, dùng bất bạo động để đối kháng với bạo lực và vô minh, chưa nói đến những vận động của nhóm nhỏ hay cá nhân đơn lẻ với các tổ chức quốc tế hay nguyên thủ quốc gia khác đã gặt hái được những kết quả thực tiễn
Cái cây thờ ơ, bi quan sẽ không che lấp khu rừng già trẻ mấy ngàn năm thầm lặng lan rễ, vươn cành. Sáng tác những bài hát để xúc động tâm đắc khi nhìn thấy người dân oan trong nước hát giơ những tờ giấy nhỏ bé, đồng ca những lời Việt Dzũng, Trúc Hồ...Tác giả, dân oan không «làm chính trị». Mặc dù từ xa xưa Aristote đã nói con người là un animal politique! và như LS Trần Thanh Hiệp đã nói trong một bài thuyết trình, bất lực bi quan bởi vì rằng con người VN thiếu văn hoá ....chính trị.
Như vậy một trong các giải đáp để đi đến vận hội mở ra cho tương lai đồng bào và đất nước chúng ta là hành động với khả năng và lương tâm, đoàn kết, hỗ trợ nhau, cùng nuôi dưỡng vun bồi thêm phần văn hoá chính trị cần phải có… cho phần văn hoá ấy không còn ngầm chảy nữa mà trở thành rừng cây có thật. Hoặc như GS Phạm Thị Nhung vừa nói, bản tính thiện sẽ được đánh thức, dẫn đến tháo gỡ tốt đẹp cho đất nước.”
Tiếp theo nhà văn Nguyễn Thùy trình bày vài nét về GSTS Nguyễn Đăng Trúc. Ông sinh năm 1947 tại làng Hòa Lạc thuộc tỉnh Quảng Trị. Chủ nhiệm tập san Liên Lạc, Định Hướng và Định Hướng tùng thư. Đã cho xuất bản một số tác phẩm. Để gửi gấm về “Sứ điệp của văn hóa nơi cuộc sống tha hương”, ông phát biểu:
“Rằng: hay thì thiệt là hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào! (ĐTTT, 489-490).
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai! (ĐTTT, 1247-1248)
Nỗi xót xa đó của Kiều trong cuộc sống tha hương, hẳn nhiều người trong cộng đồng người Việt hải ngoại chúng ta đã từng cảm nhận. Nhưng, nếu đại thi phẩm của Nguyễn Du không phải chỉ là câu truyện tình cảm, mà còn là một sứ điệp văn hóa, thì hoàn cảnh xa quê của chúng ta hôm nay không chỉ là khổ đau, nhưng còn là cơ duyên để tiếp cận được một sứ điệp về ý nghĩa và thân phận con người.
Trong khổ đau của kẻ xa nhà, chúng ta khiêm tốn nhớ lại những bậc thánh hiền, những vị đã từng chuyển đạt những chân lý hướng dẫn nếp sống văn hóa của chúng ta. Chúng ta sẽ ngạc nhiên khi nhận ra rằng đời sống và chân lý mà các vị ấy chuyển đạt luôn gắn liền với hoàn cảnh lưu đày nơi thân phận làm người.
Thái tử Tất Đạt Đa đã từ biệt quê nhà và cung điện. Và nơi vùng đất xa lạ, sức mạnh Ánh Sáng bên kia bờ đã thốt nhiên đến với kẻ tha hương, tôn vinh người ấy thành Phật, dẫn đưa người giác ngộ đến gặp muôn người.
Lão Tử cảm hứng được Ánh Sáng kỳ bí vượt lên trên ánh sáng trí năng hiểu biết của “thiên hạ”, của bất cứ ai chỉ thấy việc trước mắt. Ngài mặc nhiên giới thiệu mình là người của vùng đất xa lạ, theo lối nói thi ca của các bậc thánh hiền còn gọi là “Cõi Bên Kia Bờ”, là “Tâm duy vi”, hoặc là “Thời Xa Xưa”. Đạo, hay nói cách khác là Con Đường hoàn thành nhân tính mà Ngài có phận vụ truyền đạt, không còn là tập tục nhất thời, lề luật giả tạo do trí óc và ý muốn chướng khí của con người bày ra, nhưng là Đạo Thường được soi dọi bởi Ánh Sáng của vùng đất “tha hương, xa lạ” nầy.
Khổng Tử không tự sáng chế, không tôn vinh nhân nghĩa do con người tùy nghi định đoạt, không cổ súy “cái tâm duy nguy” mà mỗi người tự tìm kiếm theo sở thích. Nhưng, Ngài chỉ truyền lại sứ điệp về ý nghĩa nhân tính của “Đạo Tâm duy vi”, của “Đạo Thời Thánh Hiền Ngày Xưa”, Thời mà tai con người không nghe được, mắt con người không thấy được.
Hầu như đồng thời với các thánh hiền Đông phương nầy, thi hào Sophocle của Hy Lạp đã nói rõ hơn nữa về thân phận lưu đày của con người, qua thi phẩm “Œdipe-Vua”. Œdipe là nguyên tượng con người tự mãn chỉ biết ỷ lại vào tài trí của mình để tự định nghĩa nhân tính. Mang ánh sáng trí năng trong tay, người “hiểu biết” Œdipe là “Vua”, kẻ tự mình làm nên chính mình và làm chủ quê hương mình. Nhưng Œdipe đó ngu muội không biết ngay cả lý lịch thật của mình, không biết chính mình đã giết cha ruột và lấy cả mẹ ruột làm vợ. (Mẹ ở đây tiêu biểu cho nguồn suối yêu thương sinh thành của cha, Mẹ sinh thành ấy nay bị biến làm vợ, là hình ảnh của dục vọng muốn mình là chúa tể cho chính mình). Con đường tìm lại ý nghĩa nhân tính linh thiêng và chân thật, con đường giúp Œdipe nhận ra lý lịch của mình trong mối tương giao phụ-tử với người cha mà mình không thấy, con đường cứu độ đó chính là con đường tha hương, lưu đày ra khỏi vùng đất mà kẻ lầm lạc tưởng là quê thât của mình. Với ánh sáng kỳ diệu của đôi mắt mù lòa, ánh sáng “huệ nhãn” vượt lên trên ánh sáng của hiểu biết con người, Œdipe rời xa quê cũ, khiêm tốn lần mò từng bước trong cuộc sống tha hương, nhớ nhà, nhớ quê nơi cư ngụ của người cha ẩn mặt, để hoàn thành trong khổ đau nhân tính kỳ bí và linh thiêng.
Và Socrate, người thầy của văn hóa Tây phương, lại là kẻ lưu đày ngay trên quê hương Athènes. Vì truyền bá sứ điệp về ý nghĩa nhân tính thần thánh mà ông đã trực giác được nhờ nguồn Ánh Sáng đến từ Bờ Bên Kia, Socrate bị xã hội đương thời, nhất là giới tự xưng là tài trí khôn ngoan, kết tội là kẻ làm hư hỏng con người, bôi nhọ Thần Thánh mà họ sùng bái. Cuối cùng vì trung kiên với sứ mệnh truyền đạt chiều kích “linh ư vạn vật” của nhân tính mà người hiền Socrate bị tòa án của chính quê hương mình tuyên án phải chết.
Abraham trong Kinh Thánh, Abraham tổ phụ của những ai tin vào mối Giao-Ước thần thánh giữa Thiên Chúa siêu việt và con người, mối tương giao kỳ bí làm nên yếu tính linh thiêng của nhân tính, Abraham đó là người dứt bỏ quê nhà cũ để tiếp nhận ân phúc làm kẻ tha hương và lưu đày, làm kẻ vượt qua cuộc sống tự nhiên để đi vào mầu nhiệm của con người được nâng lên hàng thần thánh.
Và hiện thân của kẻ tha hương lưu đày nỗi bật là Con Người Giêsu, Người từng nói: “Chim có tổ, chồn có hang, riêng Tôi là kẻ không có chổ tựa đầu”. Người đó tha hương nơi quê mình, bị dân mình ruồng bỏ. Người đó bị treo lên khỏi đất và kêu lên “Tôi khát, Tôi nhớ Thiên Chúa Cha tôi”. Và trong Cơn Khát, Nỗi Nhớ đó, Ngài “hoàn thành công trình cứu độ nhân loại”, giúp con người vượt qua thân phận chỉ là “thể phách” hay chết, đi vào nguồn Sinh Lực của chiều kích “tinh anh”, siêu nhiên. Sinh Lực đó là Sinh Lực yêu thương làm cho con người trở thành thần thánh.
Trong khổ đau của hoàn cảnh tha hương hôm nay, chúng ta nhớ quê nhà, và hơn hết nhớ nguồn sinh lực làm nên hồn sống của Hồng Bàng Thị, dòng tộc của chúng ta, dòng tộc cao cả, to lớn (Hồng) và toàn vẹn, chung khắp (Bàng). Trong bản văn huyền thoại khai sinh dân tộc nầy, người Mẹ Âu Cơ được Thần dấu mặt Lạc Long Quân đưa ra khỏi vùng đất của một Đế-Lai chỉ biết say mê kim ngân, châu ngọc…, và cho làm kẻ tha hương ở Long Trang, quê hương thần thánh. Từ mối tương giao “Thần-Người” ấy phát sinh ra dòng tộc cao cả và chung khắp, dòng tộc con người “linh ư vạn vật” qua hình ảnh một trăm con phi thường : không ăn , không uống mà tự nhiên trường đại. Người Mẹ Âu Cơ và trăm con phi thường ấy múc lấy nguồn sống linh thiêng cao cả nơi nhân tính mình khi ngày đêm biết quay về nơi Tương Dạ, nơi Tâm Duy Vi “Thần gặp Người”, khi ngày đêm khao khát và thương nhớ Thần dấu mặt Lạc Long Quân cư ngụ Bên Kia Bờ.
Nỗi nhớ nhà, nhớ quê của cuộc sống tha hương chúng ta hôm nay mong sẽ cống hiến một cơ duyên giúp người đồng bào trong cũng như ngoài nước nhớ lại sứ điệp của nỗi nhớ căn nguyên nơi tâm sâu kín của mỗi người, nhớ lại giá trị thiêng liêng của yêu thương và tình nghĩa làm nên hồn dân tộc và hơi thở của văn hóa.
Quang cảnh thính phòng
Đến đây GSTS Nguyễn Đăng Trúc giới thiệu GSTS Trần Văn Cảnh, chủ biên cuốn “Những Khuôn Mặt Văn Hóa VN Paris”. GSTS Trần Văn Cảnh sinh năm 1943 tại Tân Chính thuộc tỉnh Thanh Hóa. Biên tập viên báo Chiến Hữu, Dân Chúa Âu Châu, và Giáo Xứ Việt Nam. Tác giả một số giáo trình bằng pháp văn về phương pháp học tập, làm việc, điều hành xí nghiệp, kinh tế, quản trị và phương pháp viết tiểu luận. Tác giả một số sách điện tử phổ biến trên mạng.
GSTS Trần Văn Cảnh nói về nội dung cuốn sách: “ CLBVHVN Paris đã được thành lập vào năm 1994, thành viên CLB đa số thuộc giới trí thức văn nghệ sĩ trong đó có một số người thuộc Văn Bút Việt Nam hải Ngoại, hội thơ Ba Lê Thi Xã, VNS tự do Paris… Mỗi năm CLB sinh hoạt ít nhất 4 lần, về các chuyên đề: đạo lý, triết lý, văn chương, khoa học, hội họa, điêu khắc v.v. Được tái tín nhiệm đảm trách CLBVHVN Paris vào tháng 04-2014. Nhà thơ Đỗ Bình biết rằng mình đã lãnh một trách nhiệm nặng nề: “Làm sao giữ vững và phát triển CLBVHVN Paris? Trong buổi sinh hoạt VHNT “Hương Mùa Hạ 29-06-2014, một cuộc thảo luận phong phú và hào hứng đã diễn ra giúp cho các hội thảo viên ý thức được về ý nghĩa của từ “Văn hóa” và đi đến quyết định đưa ra một đường hướng với ba mục tiêu chính: Góp phần xây dựng văn hóa Việt Nam và lưu tâm gìn giữ phát triển sự trong sáng của tiếng Việt. Giới thiệu và phổ biến những tác phẩm giá trị dựa trên tiêu chuẩn cách viết có lưu tâm gìn giữ và phát triển sự trong sáng của tiếng Việt. Các tác phẩm được phổ biến gồm nhiều loại: sáng tác, phê bình văn học, biên khảo, dịch thuật v.v. Kế tiếp, trong buổi sinh hoạt VHNT “Paris, Chiều Tưởng Nhớ” 29-10-2014, các thành viên tham dự đã chấp thuận thiết kế một dự án nhằm áp dụng những mục tiêu và đường hướng văn hóa của mình vào việc thực hiện một tác phẩm lấy tên “Tuyển Tập Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris 1995-2015. Cấu trúc xoay quanh những khía cạnh sáng tác văn chương, luận khảo văn học, nghiên cứu văn hóa… Công việc tổ chức thực hiện được bàn thảo và quyết định ngày 05-11-2014 tại tư gia nhà thơ Đỗ Bình và ngày 14-03-2015 tại tư gia nhà thơ BS Phương Du Nguyễn Bá Hậu. Ba ban làm việc đã được đề nghị: Ban điều hành chung, Ban biên tập, Ban thực hiện. Trong chiều sinh hoạt VHNT ngày 02-04-2016, kết quả về nội dung cuốn sách đã được công bố với 37 bài gồm 16 bài giới thiệu những tác giả và tác phẩm, 21 bài giới thiệu một số sáng tác về thơ, văn và nghiên cứu về văn học, văn hóa. Cuối cùng có 26 tác giả được chọn, một số tác giả khác vì gửi bài trễ mà sách đã đem in nên sẽ dành lại cho tuyển tập 2 kế tiếp. 26 tác giả đó là Nhà văn Hồ Trường An, GSTS Hà Ngọc Bích, Nhà văn nhà thơ Đỗ Bình, Nhà thơ Hương Bình, GSTS Trần văn Cảnh, TS Phạm Trọng Chánh, BSGS Phạm Tu Chính, Thi sĩ BS Phương Du Nguyễn Bá Hậu, LS Trần Thanh Hiệp, Nhà báo Nguyễn Bảo Hưng, GS Trịnh Khải, GSTS Phạm Đình Liên, Nữ sĩ Quỳnh Liên, GSTS Lê Mộng Nguyên, Nhà văn Trần Tam Nguyên, GS Phạm Thị Nhung, Thi sĩ GS Hàm Thạch, Nhà biên khảo Nguyễn Thanh, GSTS Vũ Quốc Thúc, Nhà văn GS Nguyễn Thùy, Nhà văn Từ Thức, Nhà báo Lê Trân, GSTS Từ Trì, GSTS Nguyễn Đăng Trúc, Nhà phê bình Liễu Trương, GS Phan Thị Trọng Tuyến. Như vậy nhìn chung vào nội dung kết quả thâu lượm được của các tác phẩm vào ngày 02-04-2016, đã đi theo đúng đườngg hướng của nội dung tiên liệu ngày 29-06-2014 và ngày 26-10-2014. Nội dung chủ yếu cụ thể và đặc trưng mà người đọc chăm chú sẽ dễ dàng khám phá và nhận ra, đó là “chân dung chung của người làm văn hoá trong “Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015”. Nhiều đề tài và nhiều tiếp cận khác nhau, nhưng tất cả mọi tác giả đều đã đề cập, nhiều ít, xa gần, đến chủ đề “Tha Hương”, là nét chân dung đặc trưng chính yếu chung, với ba mầu rất đậm và rõ nét. Một cái tha hương hiện thực của tâm tình hoài nhớ, thương mến, mong chờ quê hương tươi sáng và của cảnh sống giữ thơm quê mẹ, bảo trì và phát triển văn hóa dân tộc, hội nhập quê người. Một cái tha hương vươn lên của tình thương, đi từ tình thương gia đình, đến tình thương Nước Việt, Người Việt, Tiếng Việt, tiến lên tình thương nhân loại. Và một cái tha hương thăng tiến về tâm linh, tìm về chân, thiện, mỹ, hướng lên tâm linh và thiêng liêng. Rõ rệt “Những khuôn mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015” đã hoà nhập với những tác phẩm văn, thơ, nghiên cứu về văn học và văn hóa Việt Nam khác trên thế giới, mà khai phá ra một nội dung mới trên diễn đàn văn học Việt Nam cho thời hậu chiến, 1975-2015. Khác với văn thơ thời tiền chiến 1930-1945 và văn thơ thời chiến 1945-1975, văn thơ thời hậu chiến 1975-2015 nở rộ ra ở hải ngoại, trong đó có Paris, với dòng văn thơ THA HƯƠNG và TÌNH THƯƠNG Nước Việt, Người Việt, Tiếng Việt”.
Phần thứ hai của chương trình văn học để tưởng niệm đến đa số những tác giả và tác phẩm đã từng sinh hoạt trong CLBVHVN Paris mà nay đã qua đời. Vì thời lượng có hạn nên ban tổ chức chỉ nêu danh một số người. GSTS âm nhạc Quỳnh Hạnh trình bày vài nét về Học giả TS Thái Văn Kiểm, bút hiệu Hương Giang, sinh năm 1922 tại phường Trung Hậu (Huế). Ở hải ngoại thường cộng tác với các báo Tự Do, Việt Nam Hải Ngoại, Làng Văn, Quê Mẹ v.v. Tác giả tập Au Pays du Nénuphar, giải nhất Cosmos (1977, Montréal). Được huy chương Hàn Lâm Viện Pháp Quốc năm 1982. Nhà Giáo Tuyết Dung trình bày vài nét về Nữ sĩ Vân Nương và đọc thơ của bà. Nữ sĩ Vân Nương (1919-2015) là phu nhân của Luật sư Lê Ngọc Chấn. Bà là hội viên của Thi đàn Quỳnh Dao, Hội Thơ phái nữ đầu tiên thành lập năm 1962 tại Sài-Gòn. Họa sĩ Nguyễn Đức Tăng trình bày vài nét về nhà thơ Hương Bình, nhà thơ Hàm Thạch và đọc thơ. Nhà thơ Hương Bình Cao Văn Chiểu sinh quán tại Cố Đô Huế. Nguyên Hiệu Trưởng trường Phú Xuân (Huế). Dân biểu, Nghị sĩ thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa. Nhà thơ Hàm Thạch Nguyễn Xuân Nhẫn (1921-1996), Cử nhân Cao Học đại học Luật Khoa. Đầu thập niên 60, làm Chủ tịch Nghiệp Đoàn Xuất Nhập Cảng kiêm Phó Chủ tịch Phòng Thương Mãi Saigon. Nhà giáo Nguyễn Thanh trình bày vài nét về GS Võ Thu Tịnh (1920-2010), bút hiệu Thu Tâm, là một nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc, chuyên biên khảo về văn học Việt Nam cho các tạp chí Pháp ngữ, Việt ngữ tại Pháp, Hoa Kỳ, Đức, Thụy Điễn, và đã xuất bản 20 tác phẩm Pháp Việt. Nhà giáo Thúy Hằng trình bày vài nét về Nữ sĩ Minh Châu và đọc thơ. Bà sinh năm 1922 tại Huế, tốt nghiệp Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật và Sư Phạm Hội Họa. Bà là Giáo sư các trường trung học kỹ thuật Huế, Sài-Gòn, Régina Mundi. Là tác giả những bức tranh lụa nổi tiếng của Việt Nam trước năm 1975 và là tác giả nhiều tập thơ trong đó có tác phẩm Thi Họa Hương Lòng. Nhà thơ Từ Thạch trình bày vài nét về Nữ sĩ Thân Thị Ngọc Quế và đọc thơ. Bà sinh năm 1918 tại Thừa Thiên (Huế), những năm cuối đời đi tu lấy pháp danh Tâm Mãn, bà mất năm 2007, thọ 90 tuổi. Tác giả của những tập thơ: Giọt Nước Cành Sen, Thư Gửi Muôn Trùng, Mây Trắng Đường Về, Trắng Cả Hoàng Hôn. Ngọc Xuân trình bày vài nét về GSTS Phạm Đình Liên, sinh năm 1935 tại Huế. Nguyên Giáo sư tại đại học Minnesota (Hoa Kỳ) và đại học Grenoble (Pháp). GSTS-Nhạc sĩ Phạm Đình Liên đã ra đi vĩnh viễn vào tháng 8 năm 2016, để lại nhiều thương tiếc cho các bạn hữu, là thành viên của CLBVH VN Paris trong ngót 14 năm, các CD Việt Nam Mến Yêu 1 và 2, CD Tình Khúc Tha Hương (với sự cộng tác của ba nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên, Phạm Đình Liên và Đỗ Bình), CD Tình Khúc Phạm Đình Liên, đều được tổ chức ra mắt trong các buổi sinh hoạt của CLB. Đặc biệt Nữ sĩ Quỳnh Liên tuổi đã ngoài 90 hiện diện hôm nay. Mây Thu trình bày vài nét về Nữ sĩ và đọc bài thơ “Cô Liêu” của bà. Nữ sĩ Quỳnh Liên tên thật là Công Tằng Tôn Nữ Quỳnh Liên thuộc hoàng tộc, dòng dõi Tuy Lý Vương, bà là phu nhân của thi sĩ Hương Bình, tác giả của một số thi tập.
Phần văn nghệ: được bắt đầu bằng bản hợp ca Những Nẻo Đường Việt Nam của Thanh Bình do Gia đình KH Cao Niên trình bày. Chương trình nhạc thính phòng chủ đề “Quê Hương” hôm nay đặc biệt dành để tưởng niệm các nhạc sĩ đã từng sinh hoạt trong CLB và nay đã vĩnh viễn ra đi, nhóm FAVIC với nhạc phẩm Lối Về Xóm Nhỏ để tưởng nhớ cố Nhạc sĩ Trịnh Hưng, Đỗ Quyên với nhạc phẩm Tình Hoài Hương của Phạm Duy, Minh Nguyệt với Chiều Làng Em của Trúc Phương, Đình Thy với Hình Bóng Quê Nhà của Thanh Sơn. Ca sĩ Đình Đại với ca khúc Lửa Tù, thơ của Nguyễn Chí Thiện được phổ nhạc. GSTS âm nhạc Quỳnh Hạnh trình bày ca khúc Nhạt Nắng của Xuân Lôi, ca sĩ Tuyết Dung trình bày Tình Quê Hương của Việt Lang. Sau đó ca sĩ Ngọc Trâm và Phương Khanh tiếp nối chương trình với bài ca cổ, trích đoạn Hồn Thiêng Sông Núi và Triệu Trinh Nương. Điệu Lưu Thủy Hành Vân và Lý Con Sáo nghe thật mùi mẫn làm xao xuyến thổn thức bao trái tim của các thính giả. Tiếp theo với giọng phụ họa của các ca sĩ Hải Yến và Minh Nguyệt, ca sĩ Ngọc Xuân trình bày nhạc phẩm Thôn Trăng của nhạc sĩ Mạnh Bích và cũng để tưởng nhớ đến nhạc sĩ Việt Dzũng, nhạc sĩ Khắc Dũng đã trình bày nhạc phẩm Mời Em Về. Nhạc phẩm Suối Mơ của Văn Cao được ca sĩ Sơn Khôi trình bày và ca sĩ Mỹ Hằng với nhạc phẩm Chiều Mưa Biên Giới của Nguyễn Văn Đông. Nghệ sĩ Thúy Hằng trình bày Tiếng Sáo Chiều Quê của Thu Hồ.
Điều khiển chương trình với quá nhiều tiết mục mà thời gian lại giới hạn dành cho mỗi tác giả chỉ có vài phút, không đủ để diễn đạt hết ý nghĩ nhưng MC gồm có anh Nguyễn Quang Huy, Bác sĩ Nguyễn Bá Linh và Họa sĩ Nguyễn Đức Tăng đã thật khéo léo dàn xếp để cho những tác giả hiện diện đều có thể gửi gấm những thông điệp văn hóa của mình, tuy cô đọng nhưng sâu sắc, có giá trị lâu dài trong việc góp phần vào những suy tư về văn hóa Việt Nam ở hải ngoại. Hội Ái Hữu Gia Long với áo dài tím đồng màu trang nhã trong nhiệm vụ tiếp tân. Các tác giả và khách mời dù tuổi hạc đã cao, ngoài 90, 80, vẫn hiện diện đông đủ. Hầu hết các bạn ở xa từ nhiều nơi trên đất Pháp đều đến tham dự: ở Marseille có GS Nguyễn Thùy; Montpellier có nhà thơ Mây Thu và nhà biên khảo Mỹ Phước Nguyễn Thanh; Strasbourg có GSTS Nguyễn Đăng Trúc và phu nhân; Troyes có nhà văn Hồ Trường An và Bernard; Rouen có Khắc Dũng, nhà văn Phan Thị Trọng Tuyến và phu quân; Lyon có ca sĩ Sơn Khôi và phu nhân, Tuyết Vân, Khúc Duy Tường; Hoa Kỳ có nhà văn Phan Nhật Nam. Tất cả đều góp công sức để cho buổi sinh hoạt được thành công. Tất cả đều do tấm lòng yêu văn hóa Việt Nam. Chủ tịch CLBVHVN Paris, nhà thơ Đỗ Bình đã nói trong thư cảm ơn: “ Chữ tín, một trong những đức tính cao quý nhất trong nhân phẩm của con người. Chúng ta là những người xa quê hương, thương quê hương, yêu văn hóa dân tộc. Chúng ta tìm đến với nhau bằng những thứ tình thiêng liêng đó, và lời hứa đến với nhau đã xác tín nhân cách, do đó buổi sinh hoạt được thành công mỹ mãn”.
Kết thúc chương trình vào lúc 18 giờ 30 phút. Gia đình KH Cao Niên do BS Phạm Hữu Thành là hội trưởng mời tất cả các quan khách trong hội trường cùng đồng ca bài Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy.
Nguyễn Mây Thu
(Montpellier, 30-09-2016)
(1) Xin xem bài phát biểu bổ sung dưới đây của Ls Trần Thanh Hiệp trong buổi ra mắt tuyển tập NKMVHVNP.
Phát biểu bổ sung của Ls Trần Thanh Hiệp
Thưa quý vị,
Thưa các bạn,
Bài « Ghi chú về Đức lý của người luật sư » mà quý vị sẽ đọc thấy trong Tuyển Tập ra mắt quý vị ngày hôm nay, tôi đã viết cách đây 10 năm. Cho nên, theo tôi, nó đã không còn tính thời sự của nó trước đây. Vì vậy tôi xin có vài lời phát biểu ngắn để cùng qúy vị coi xem chúng ta nên đánh giá bài đó như thế nào cho đúng.
Trước hết qúy vị tất sẽ hỏi tại sao lại có chữ « ghi chú » trong tưạ đề bài viết. Tôi xin nói là vì bài viết này chỉ là tóm lược của nội dung nhiều bài nói chuyện của tôi, qua mạng internet, với một số anh chị em nam nữ sinh viên luật học ở trong nước, vào giữa những năm 2000, thời điểm mà nghề luật sư bị nhà cầm quyền cộng sản bãi bỏ từ năm 1975 nay được thiết lập lại.
Tôi cho rằng đó là một dịp tốt để tôi đề xướng một mẫu người luật sư lý tưởng Việt Nam, cho thế hệ luật gia trẻ tuổi ở trong nước. Mẫu người luật sư lý tưởng này dựa trên truyền thống của những luật sư đoàn người Việt đã hành nghề trên đất Việt, từ thời Pháp thuộc cho đến thời hai nền cộng hòa tại miền Nam Việt Nam. Truyền thống mà tôi đã đúc kết, nhờ vào di sản tinh thần nghiệp vụ và kinh nghiệm hành nghề của chính mình.
Không phải là tôi không biết rằng với chính quyền độc tài đảng trị cộng sản là một chế độ phi nhân quyền, dân quyền, chà đạp nhân phẩm, thì truyền thống này không thể đem ra thực hiện. Nhưng nhu cầu cần có Công Lý trong xã hội đòi hỏi vẫn phải thiết lập, bằng cách này hay cách khác, định chế Quyền Bào Chữa để cho luật sư, trên cương vị cá nhân cũng như tập thể, bênh vực cho những nạn nhân của áp bức và bất công. Mặt khác, không thể chờ đợi sẽ có toàn những anh hùng luật sư dưới chế độ độc tài đảng trị. Mà chỉ nên hy vọng có được những người luật sư tài giỏi, biết cách vượt đủ mọi thứ rào cản của cường quyền để tồn tại mà thi hành nghiệp vụ.
Muốn giữ được vai trò này, nghề luật sư phải đặt dưới sự chỉ đạo của một Đức Lý, hay nói một cách nôm na, người luật sư phải có đủ tài, đủ đức làm tròn nghiệp vụ người xây dựng công lý. Tức là phải có kiến thức chuyên môn giỏi, điều người ta thường nói là có tay nghề cao. Lại phải có đức lớn để không phản lại chức năng của mình, có đởm lược không khiếp sợ để chống lại cường quyền cộng sản, thể hiện của bạo lực trần trụi.
Nhưng công lý không phải là sự nghiệp riêng của những người luật sư mà là công trình tập thể của cả phía những người cầm quyền lẩn những người trong xã hôi dân sự.
Bài viết Đức Lý của Người Luật Sư đã đề xuất một mẫu người luật sư lý tưởng như sản phẩm của những xã hội văn minh tiến bộ tôn trọng nhân quyền, dân quyền và trân trọng nhân phẩm. Chế độ cộng sản hiện hành ở Việt Nam, tuy bề ngoài mang danh toàn trị đã được đổi mới theo chiều hướng văn minh tiến bộ, nhưng trong thực chất vẫn là một hệ thống quyền lực bạo hành áp bức, tham nhũng, bất công. Tức là một xã hội không thể thông qua Luật sư tạo dụng Công Lý cho người dân. Trái lại nó là một môi trường trong đó người luật sư chỉ được coi là công cụ của chính quyền cai trị theo đường lối phi nhân quyền, nhân quyền, phi công lý.
Do đó tôi thiết nghĩ những luật gia nào còn thiện tâm muốn hành nghề để tạo dựng Công Lý hãy nên tạm gác nghiệp vụ bào chữa để, trước tiên, chuyển hóa bộ máy cầm quyền từ độc tài đảng trị sang dân chủ tự do. Có góp công, góp sức thỏa mãn được nhu cầu tiên quyết này thì mới mong có đất đứng để hành nghề luật sư như trong các xã hội đích thực văn minh.
Trên đây là những lý do vì sao bài viết GCVĐLCNLS chỉ là một tiểu phẩm mang lại cho người đọc một ý niệm về việc tạo dựng công lý của một thời đã qua. Hay của một thời sắp tới, trong tương lai. Nó không thể là một một câu chuyện trao đỗi gì với hệ thống quyền lực phi nhân quyền, dân quyền phi công lý đương hành ở trong nước.
Nói tóm lại, bài viết GCVĐLCNLS không còn tính thời sự của nó khi nó được viết cách đây 10 năm để vận động mở đường cho sự ra đời, ở trong nước, của những người luật sư tạo dựng công lý trong xã hội. Nhưng nhà cầm quyền cộng sản đã ngang nhiên bít lối để chỉ cho được phép hành nghề những người luật sư chịu làm tay sai cho bạo quyền không đếm xủa gìa đến Công Lý. Cho đến nay nhà cầm quyền cộng sản vẫn giữ vững đường lối cai trị phi nhân quyền, dân quyền này. Vì vậy bài GVVĐLCNLS không thích hợp với một phong cảnh chính trị trong đó không có bóng dáng người luật sư tạo dựng công lý. Do đó tôi mới nói bài viết này đã mất đi tính thời sự của nó. Nhưng không vì thế mà có thể coi như bài viết ấy đã chẳng còn giá trị gì nữa. Mà phải coi nó như đã trở thành một bản luận tội gián tiếp những chế độ không công nhận Quyền Bào Chữa.
Xin cảm ơn qúy vị và các bạn.
Trần Thanh Hiệp
Giới thiệu tác phẩm
Những Khuôn Mặt Văn Hóa VN Paris 1995-2015
do Câu Lạc Bộ Văn Hóa VN PARIS phát hành
Ngày ra mắt 18-09-2016, Salle Conférence Hermès, Paris XIIIe
Trong ngày ra mắt sách « NHỮNG KHUÔN MẶT VĂN HÓA VIỆT NAM PARIS, 1995-2015 » hôm nay, xin có đôi lời giới thiệu tác phẩm qua bốn câu hỏi do GSTS Nguyễn Đăng Trúc đặt ra.
- Những khuôn mặt Văn Hóa Việt Nam Paris đã được chuẩn bị và thực hiện thế nào?
« Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris » đã được thành lập vào năm 1994, qui tụ những thành viên đa số thuộc giới trí thức văn nghệ sĩ, trong đó có một số người thuộc Văn Bút VN Hải Ngoại, hội thơ Ba Lê Thi Xã, văn nghệ sĩ tự do Paris…
Được tái tín nhiệm đảm trách Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris vào tháng 04 năm 2014, Thi sĩ Đỗ Bình cảm thấy mình đã lãnh một trách nhiệm nặng nề, mà thách đố lớn nhất là vấn đề : « Làm sao giữ vững và phát triển Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris » ? Ông đã mời một số thành viên cộng tác, giúp ý kiến chuẩn bị tìm giải đáp.
Công việc suy tư và chuẩn bị này đã được thực hiện theo Phương pháp quản trị của Tôn Tử, của Hội Tiêu Chuẩn Pháp Quốc và của Chỉ Dẫn của Bộ Đại Học Pháp về trình bày và viết tiểu luận thạc sĩ hay luận án tiến sĩ.
Việc chuẩn bị thứ nhất là khẳng định đường hướng văn hóa của Câu Lạc Bộ Văn Hóa, theo ba ý nghĩa văn hóa của những nhà văn hóa truyền thống Việt Nam để lại : Góp phần xây dựng đất nước, quốc gia và văn hóa dân tộc của con người Việt Nam 1- như một kẻ sĩ (Nguyễn Trãi), 2- như người biên soạn sách vở (Lê Quí Đôn, Phan Huy Chú). 3- biên soạn sách vở về mọi vấn đề liên hệ đến cuộc sống thường ngày của người Việt Nam (Đào Duy Anh).
Việc chuẩn bị thứ hai là thiết kế một dự án làm việc trong môi trường văn hóa Việt Nam tại hải ngoại Paris trong hai thập niên 1995-2015..
Việc chuẩn bị thứ ba là thành lập một nhóm làm việc có tổ chức phân minh trong ba lãnh vực : 1- Ban Điều Hành tổng quát với Chủ Nhiệm Đỗ Bình, 2- Ban Biên Tập với Chủ Biên Trần Văn Cảnh và 3- Ban Thực Hiện với Trưởng Ban Nguyễn Quí Toàn.
Sau 6 tháng làm việc, nhóm đã qui tụ thêm được một số văn hữu nhiều khả năng, trách nhiệm và tích cực, tham gia. Nhờ đó, một dự án đã được thiết kế và thực hiện về một tuyển tập lấy tên là « Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015 ». - Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris ghi nhận những ai?
Trong phần đầu buổi chiều Văn Học Nghệ Thuật hôm nay, chúng ta vừa nghe và sẽ nghe những giới thiệu chi tiết và cá biệt về từng tác giả đã đóng góp vào tuyển tập « Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015 ». Trong phần giới thiệu chung này, chúng tôi xin giới thiệu một cách chung và tổng quát về chân dung tập thể của « Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015 ».
Tuyển Tập « Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015 » là một tác phẩm, sau hai năm chuẩn bị, đã ghi nhận chân dung của những nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học và văn hóa Việt Nam thuộc Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam tại Paris, trong những năm từ 1995 đến 2015. Không phải là chân dung kinh tế xã hội, theo kiểu « Chân dung kinh tế và xã hội của những tác giả viết sách ở Pháp », như bản phúc trình của Bộ Văn Hóa và Truyền Thông Pháp đã cho phổ biến ngày 16 tháng 03 năm 2016 [[1]] vừa qua. Nhưng là chân dung văn hóa.
Họ là ai ?
Nhóm thứ nhất, họ là những tác giả đã hay đang sinh hoạt trong Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris, đã đáp lời mời của Chủ Nhiệm Đỗ Bình và Chủ Biên Trần Văn Cảnh, mà gửi những công trình của họ để góp phần thực hiện tác phẩm « Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015 » này. Đó là 26 tác giả sau đây : Nhà văn Hồ Trường An, GSTS Hà Ngọc Bích, Nhà Văn Nhà Thơ Đỗ Bình, nhà thơ Hương Bình, GSTS Trần Văn Cảnh, TS Phạm Trọng Chánh, BSGS Phạm Tu Chính, Thi sĩ BS Phương Du Nguyễn Bá Hậu, LS Trần Thanh Hiệp, Nhà báo Nguyễn Bảo Hưng, GS Trịnh Khải, GSTS Phạm Đình Liên, Nữ sĩ Quỳnh Liên, GSTS Lê Mộng Nguyên, Nhà văn Trần Tam Nguyên, GS Phạm Thị Nhung, Thi sĩ GS Hàm Thạch, Nhà biên khảo Nguyễn Thanh, GSTS Vũ Quốc Thúc, Nhà văn GS Nguyễn Thùy, Nhà văn Từ Thức, Nhà báo Lê Trân, GSTS Từ Trì, GSTS Nguyễn Đăng Trúc, Nhà phê bình TS Liễu Trương, DS Phan Thị Trọng Tuyến.
Nhóm thứ hai, họ là những người đã hoặc đang ở Paris và đã hay đang biên soạn sách vở, mà nay, được những thành viên Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris tìm hiểu và nhắc nhớ đến, để vinh danh và ghi khắc tên tuổi họ vào lịch sử văn học. Đó là những vị sau đây : bác sĩ giáo sư thi sĩ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái, nhà văn Văn Bá bác sĩ Nguyễn Văn Ba, giáo sư thi sĩ bác sĩ Bằng Vân Trần Văn Bảng, bác sĩ thi sĩ Phương Du Nguyễn Bá Hậu, học giả tiến sĩ Thái Văn Kiểm, nhạc sĩ giáo sư Lê Mộng Nguyên, nữ sĩ Vân Nương, nữ sĩ Minh Châu Thái Thị Hạc Oanh, nhà văn học Võ Phiến ở Mỹ, nhà thơ Thân Thị Ngọc Quế, nhà văn Kiệt Tấn, nhà văn học Nguyễn Thùy, GS Võ Thu Tịnh, học giả Nguyễn Trường Tộ, nhà văn Tiểu Tử ; Những nhà văn nữ Paris hiện nay, như Mạch Nha, Miêng, Phạm Thị Trọng Tuyến, Trần Diệu Tâm, Đỗ Quỳnh Giao, Đặng Mai Lan, Mai Ninh. - Những nét nào là chân dung chung và chính yếu của Những Khuôn Mặt VHVN Paris ?
Đọc xong những bài trong tác phẩm « Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015 », không những một nội dung tổng quát của Văn Hóa Việt Nam đã được tỏ lộ về tinh thần kẻ sĩ, về công việc nghiên cứu và biên soạn sách vở và về cuộc sống hằng ngày hiện nay của người Việt Nam, đặc biệt là người Việt Nam hải ngoại ; Nhưng còn một nội dung chủ yếu cụ thể và đặc trưng mà người đọc chăm chú sẽ dễ dàng khám phá và nhận ra, đó là « chân dung chung của người làm văn hoá trong Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris ».
Nhiều đề tài và nhiều tiếp cận khác nhau, nhưng tất cả mọi tác giả đều đã đề cập, nhiều ít, xa gần, đến chủ đề « Tha Hương », là nét chân dung đặc trưng chính yếu chung, với ba mầu rất đậm và rõ nét. Một cái tha hương hiện thực của tâm tình hoài nhớ, thương mến, mong chờ quê hương tươi sáng và của cảnh sống giữ thơm quê mẹ, bảo trì và phát triển văn hóa dân tộc, hội nhập quê người. Một cái tha hương vươn lên của tình thương, đi từ tình thương gia đình, đến tình thương Nước Việt, Người Việt, Tiếng Việt, tiến lên tình thương nhân loại. Và một cái tha hương thăng tiến về tâm linh, tìm về chân, thiện, mỹ, hướng lên tâm linh và thiêng liêng.
Rõ rệt « Những khuôn mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015 » đã hoà nhập với những tác phẩm văn, thơ, nghiên cứu về văn học và văn hóa Việt Nam khác trên thế giới, mà khai phá ra một nội dung mới trên diễn đàn văn học Việt Nam cho thời hậu chiến, 1975-2015.
Khác với văn thơ thời tiền chiến 1930-1945 và văn thơ thời chiến 1945-1975, văn thơ thời hậu chiến 1975-2015 nở rộ ra ở hải ngoại, trong đó có Paris, với dòng văn thơ THA HƯƠNG và TÌNH THƯƠNG Nước Việt, Người Việt, Tiếng Việt. - Những dự án khác cho tương lai sau Những khuôn mặt Văn Hóa Việt Nam Paris?
Từ « Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015 », những viễn tượng tương lai như đã được mở ra cho những công trình văn học, văn hóa tương lai.
Trước nhất là những viễn tượng không gian địa lý, với những vấn nạn đã được gợi ra : Có cần phải nhìn ra « Những khuôn mặt Văn Hóa Việt Nam Hải Ngoại, 1975-2016 » ? Có cần phải nhận rõ « Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam trên toàn thế giới hiện nay, 1975-2017 » ?
Thứ đến là những viễn tượng thời gian lịch sử và những viễn tượng biến chuyển về nội dung và chủ đề văn hóa, văn học, mà những vấn nạn sẽ từ từ được ý thức, nhận ra và đặt thành vấn đề.
Paris, ngày 18.09.2016
Trần Văn Cảnh, Chủ biên
[1] Ghi nhận những đặc điểm về lợi tức đến từ việc viết sách của trên 100.000 tác giả viết sách ở Pháp. Xin xem : http://www.culturecommunication.gouv.fr/Politiques-ministerielles/Livre-et-Lecture/Actualites/Etude-sur-la-situation-economique-et-sociale-des-auteurs-du-livre-resultats
LÊ MỘNG NGUYÊN
Vọng về lời hẹn ước từ bờ suối xưa
Tùy Bút của Gs NGUYỄN ĐĂNG TRÚC
Giáo sư Trần-Văn-Cảnh và nhà văn Đỗ Bình ở Paris đề nghị tôi viết vài hàng giới thiệu về nhà văn Lê Mộng Nguyên để đưa vào Tuyển tập Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris.
Thực ra viết về Lê Mộng Nguyên, có quá nhiều để viết. Những dòng chữ dưới đây chỉ là những chấm phá về những ngày có duyên được quen biết nhà văn tiền bối nầy.
Chưa đến tuổi vào đại học, người thanh niên xứ Huế đầy tài năng Lê Mộng Nguyên đã được dân chúng biết đến qua những ca khúc Xuân Tươi (1945) Vó Ngựa Giang Hồ, Mừng Khánh Đản – Rằm Tháng Tư, Một Chiều Thương Nhớ, Chiều Thu (1948), Vó Ngựa Giang Hồ (1948), Hoàng Hoa Thôn, Nhớ Huế, Bài Thơ Huế, Cô Gái Huế, Đôi Mắt Nhung, Về Chơi Thôn Vỹ, Mỵ Châu Trọng Thủy, Mơ Đà Lạt, Ly Hương (1950)… Xuân Tha Hương,Thu Trên Sông Seine, Thu Sầu, Tôi Sợ Chiều Thu, Chiều Vàng Năm Xưa, Em Có Về Làng Xưa, Giao Mùa, Việt Nam Thắm Tươi, Người Thơ Năm Cũ, Xa Rời Quê Hương… Nhưng hơn hết tình ca Trăng Mờ Bên Suối(13 -11-1949) là bản nhạc đã đi vào Đại Ký Ức thi ca của người dân việt.
Rời Việt-Nam đi du học ở Pháp năm 1950, chàng thanh niên nghệ sĩ nầy từng dự định ghi danh học ngành âm nhạc tại Conservatoire national supérieur de musique ở Paris, phản ảnh ước mơ của không ít người thanh niên Huế lúc bấy giờ[1], nhưng số phận đã đưa du học sinh nầy đến ghế trường Luật. Xa quê từ dạo ấy cho đến nay trên 65 năm, sáng tác âm nhạc của Lê Mộng Nguyên là tiếng vọng nhớ nước, nhớ non, nhớ nhà như lời của thi sĩ tiền bối đồng hương Sảng Đình Nguyễn Văn Thích có lần đã nhắn nhủ giới trẻ Việt Nam : Lá Thư Cho Mẹ, Sông Seine - Bao giờ Ta Về Nước Nam ? (1951), Xuân Về Nhớ Mãi Quê Hương (1981), Quê Tôi (1991), Kiếp Giang Hồ (1992), và tiếp đó : Tìm Lại Ngày Xưa, Thề Non Nước, Lời Cuối Của Anh, Quốc Hận 30 Năm…
Qua vô số tác phẩm âm nhạc mà danh mục trên chỉ là tượng trưng, có thể nhận ra rằng cảm hứng âm nhạc của Lê Mộng Nguyên trào vọt lên từ nguồn thi ca đến từ bờ bên kia theo lối nói của nhà Phật. Thật ra, nguồn thi ca đó đã được gợi lên một cách cô động nơi lời thơ nầy của chính tác giả trong tuyệt phẩm “Trăng Mờ Bên Suối” : Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa.
Thực ra, Lê Mộng Nguyên được giới thức giả, người trên thế giới cũng như đồng bào, biết đến nhiều, không phải vì các học vị bằng cấp hay chức vụ xã hội :
Lê Mộng Nguyên đã tốt nghiệp tiến sĩ quốc gia về luật khoa về ban công pháp với luận án “Giai cấp xã hội và phong trào chính trị tại Việt-nam từ 1919 đến 1939” ( luận án được Giải Thưởng Luận Án Đại Học Paris 1963), đã từng là giám đốc nghiên cứu và giáo sư công pháp quốc tế tại đại học Paris, luật sư Tòa Thượng Thẩm Paris , chuyên gia về các định chế Pháp và quốc tế, những vấn đề Đông Nam Á và đặc biệt là Việt-nam…, và là thành viên Hàn Lâm Viện Khoa học Pháp Quốc Hải Ngoại…
nhưng là vì giá trị của những biên khảo hàn lâm, những kiến thức uyên bác, những nhận định, phê binh về chính trị, về các định chế điều hành sinh hoạt cộng đồng và xã hội, về văn hóa… trong nhiều tác phẩn nghiên cứu được tái bản nhiều lần, tiêu biểu như :
La Constitution de la Ve République, de Charles De Gaules à François Mitterrand, STH, 4ème édition, 515 pages, Paris 1989 ; Les systèmes politiques démocratiques contemporains, 4ème édition actualisée, 228 pages, STHParis 1994, La constitution de 1958, L’Hermès, Paris 1996, Initiation au droit, L’Hermès, Paris 1996, Finances publiques, L’Hermès, Paris 1997, Les systèmes politiques démocratiques, Éditions Ledrappier, Paris 1987… Les agglomérations urbaines dans les Pays du Tiers Monde, Institut de Sociologie, Bruxelles, 1971, (100) Contes philosophiques d’Asie, L’Harmattan, Paris 2005…
Ngoài những tác phẩm viết bằng pháp ngữ về luật pháp, xã hội, thi ca, văn hóa, Lê Mộng Nguyên đã viết bằng việt ngữ nhiều bình luận văn chương (đặc biệt là thơ và tiểu thuyết), âm nhạc, về các sáng tác của các tác giả người Việt trong và ngoài nước. Chưa kể đến những biên khảo về chính trị, những nhận định về tình hình Việt nam được phổ biến trong các tạp chí, tuyển tập phát hành trong cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại. Đây không chỉ là những kiến thức uyên bác khách quan, nhưng còn phản ảnh những nỗi thao thúc, những tình tự của người con xa xứ, khao khát muốn sớm thấy tổ quốc Việt-Nam sớm được dân chủ và tự do.
Nhưng bên trên, bên ngoài một Lê Mộng Nguyên tài ba, thành đạt đó, điều đáng cho những người tiếp cận ghi nhớ chính là con người và cung cách « kẻ sĩ » của anh.
Người xa khi nghe đến tên tuổi và sự nghiệp của Lê Mộng Nguyên hẳn sẽ ngạc nhiên khi trực tiếp cận qua liên lạc thư từ, trò chuyện, tâm sự hay sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật với anh. Có duyên gặp anh rất trễ từ sau năm 2000, nhưng qua cách nói, nơi thái độ niềm nở ân cần, và nhất là với nụ cười và cái nhìn thiết thân của anh ngay trong lần đầu tiếp xúc, tôi giật mình đối diện với một « kẻ sĩ »[2] mà tôi tưởng chỉ có thể hình dung trong ước lệ văn chương. Thái độ khoan thai, cách ăn mặc nghiêm túc nhưng dung dị, lời nói cẩn trọng nhưng hết sức chân thành ấm áp, vẽ ra trước mắt tôi chân dung một nhà nho trong văn hóa truyền thống. Nụ cười dễ dàng và cái nhìn rất hồn nhiên của anh như sao chép hình ảnh một chân nhân của đạo học hoàn đồng. Phải, nơi anh, có vết tích nét thanh cao, bình dị của văn hóa Á Châu, có tác phong lắng nghe, lối tiếp cận tự nhiên, thẩng thắn, tinh thần bình đẳng và sẳn sàng phục vụ của tinh hoa văn hóa Tây Phương. Nói theo kiểu nói của người Pháp, anh là « sinh loại họa hiếm » trong một xã hội thích tôn vinh những con người phô trương, cao ngạo và hời hợt nhất thời.
Có một điểm làm cho người tiếp cận ngạc nhiên nữa đó là sự tha thiết gần như quá mức của anh về những sáng tác thơ văn và âm nhạc, những tiểu thuyết, truyện, tùy bút, hồi ký, luận văn …của người Việt sống kiếp lưu vong. Trong lời nói đầu cuốn sách của anh tựa đề Nhà Văn Hải Ngoại do Nắng Mới, Đức Quốc, xuất bản năm 2006, anh từng thổ lộ :
« Tôi đã viết với quả tim, hơn là theo lý trí, và với nhiều cảm xúc, rung động của tâm hồn, tôi muốn quí độc giả chia xẻ nhũng giây phút hạnh phúc hay nhớ nhung mà thơ văn, nhạc viễn xứ đã đem lại cho tôi. » (trang 7)
Mối thâm tình thân thuộc đối với đồng hương xa quê, nỗi nhớ nhung kỳ lạ đã chi phối chính con người anh, văn phong trong các sáng tác, tất cả như cũng chỉ là những biểu hiện phát xuất từ nguồn suối thi ca mà chúng ta đã ghi nhận qua nhạc của Lê-Mộng-Nguyên : Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa.
Văn hóa Hy-lạp gọi Suối Xưa (ẩn kín) nơi bản nhạc Trăng Mờ Bên Suối là Đại Ký Ức (Μνήμη), là nguồn hứng của thi ca đến từ bên kia bờ, là nơi mà Lão Tử trong Đạo Đức Kinh gọi là Huyền Môn[3]. Suối Xưa đó chính là tên gọi của Lời sâu kín cư ngụ nơi tâm hồn của mỗi người.
Theo như lối định nghĩa thi ca của Socrate[4], từ Nguồn Suối Xưa , Lời Người hẹn từ muôn thủa làm tan biến những hiểu biết của trí khôn tính toán so đo, và đồng thời thổi vào « người thi sĩ » một hồn thơ, một linh khí giúp « kẻ ngộ duyên » ấy có thể nói lên chiều kích thần thiêng của nhân tính. Lời Người hẹn đó cũng là « Thi » hay lời thơ giúp lời « kẻ sĩ » nói lên được lời nhân nghĩa như trăn trối của Khổng Tử cho con của Ngài là Bá Ngư[5]. Và cũng do tác động của Nguồn Suối Xưa, nguồn suối bên bóng trăng mờ,mà trong đại tác phẩm Prométhée bị trói, thi hào Eschyle hứng khởi loan tin về nét cao cả của nhân tính nơi mối tương giao kỳ bí (relation nocturne, mystérieuse) với Thần giấu mặt :Những giấc mơ đêm đêm ghé giường trinh nữ của tôi, và thì thầm bên tai : « Hởi nhi nữ đầy ơn phúc, tại sao mãi ở không, khi nàng có thể có được người chồng là Đấng Tối Cao ? Nàng có biết Thần Zeus, vì nguồn tình yêu nồng cháy của Ngài, đã say đắm nàng: xin nàng chớ từ chối thần duyên nầy (γάμου… μεγίστου)! (Eschyle, Prométhée bị trói, c. 645-651).
Chính vì cảm hứng từ Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa mà ca khúc Trăng Mờ Bên Suối đã làm sống lại Đại Ký Ức hay Nguồn Suối thần thiêng nơi tâm hồn của người Việt chúng ta. Cảm hứng kỳ lạ, hẳn không phải do tài gì của chàng thanh niên Lê-Mộng-Nguyên mà phát sinh, nhưng là Duyên thi ca đến với anh. Cảm hứng đó là hồn thơ người Việt lên tiếng nói, một hồn thơ đã đến với Vũ-Quỳnh (trong Lĩnh Nam chích quái, 1492), Nguyễn-Du (trong Kiều, đầu thế kỷ XIX), Tản Đà Nguyễn-Khắc-Hiếu (trong Thề Non Nước ,1922) … trước đây. Hồn thơ đó làm rung động người dân Việt, làm nên nét tinh hoa văn hóa Việt, và đủ sức đưa văn hóa đó vào gia sản chung của văn hóa nhân loại.
Thực thế, trong truyện huyền thoại dựng nước Họ Hồng Bàng của cuốn Lĩnh Nam chích quái do Vũ Quỳnh hiệu chính, Âu Cơ là mẹ muôn người, là nguồn của người « linh ư vạn vật », khi người nữ nầy là hiện thân của nổi nhớ Lạc Long Quân và là người gặp « Người hẹn cùng ta » ấy ở Tương Dạ (Đêm gặp gỡ hay Tâm hồn sâu kín nối kết Trời, Người và mọi người với nhau):
Bố ở phương nào, nên mau về cứu nhân dân (…) Bố ở phương nào,làm cho mẹ con ta thương nhớ. Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp hai mẹ con ở Tương Dạ.[6]
Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa cũng là lời Đạm Tiên - người mà thủa xưa ai cũng khao khát mến chuộng, nhưng nay vì « má đào, tài sắc » của thân phận con người vốn hay lãng quên đã vất bỏ bên lề cuộc sống -, là Lời đến từ bên kia bờ đến với Kiều trong « giấc mộng ban đêm » tiên đoán cơn đau của cuộc chiến Tài-Mệnh, cuộc chiến làm người hướng đến Duyên cứu độ (Giác Duyên) trên sông Tiền Đường.
Lời hẹn ước từ bờ Suối Xưa là Lời Thề Non-Nước, lời thề giữa con người bị cuốn trôi bởi lo toan thế sự và con người phát sinh từ cội nguồn cao cả của nhân tính linh thiêng. Non của Tản Đà không phải là Người hẹn cùng ta của Lê-Mộng-Nguyên hay sao ?
Nước Non nặng một lời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng Non
Nhớ lời nguyện nước thề Non
Nước đi chưa lại Non còn đứng không (trích Tản Đà, Thề Non Nước)
Người hẹn cùng ta đến bên bờ suối
Rừng chiều mờ sương ánh trăng mờ chiếu
Một đêm thiết tha rồi đây xa cách
Rồi đây hai ngả biết tới phương nào?
(…)
Một ngày xa nhau xoá bao hình bóng
Trời bày chia ly chi cho lòng héo
Giờ đây cách xa người quên hay nhớ
Ngày xưa còn đó trăng nước mong chờ.( Lê-Mộng-Nguyên, Trăng Mờ Bên Suối)
Không thể không thấy rằng các sáng tác của Lê-Mộng-Nguyên thể hiện lối văn chương và thi ca tiếp liền các trào lưu thời tiền chiến, nhưng nguồn thi hứng và văn phong của tác giả không chìm vào những giấc mộng « ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây » của các tác phẩm khác chịu ảnh hưởng phái lãng mạng Pháp. Con người và văn phong của Lê-Mộng-Nguyên, đặc biệt trong kiệt phẩm Trăng mờ bên suối có một nét độc đáo vượt lên trên các trào lưu.
Một âm hưởng, một lời thơ nào đó lạc bước đi vào văn chương và con người của anh. Phải chăng âm hưởng và lời thơ đó tiếp cận được điều mà triết gia Karl Jaspers nói là dư âm tiếng gọi con người thời đại vượt cảnh vực thế sự để suy tư về cõi linh thiêng muôn thủa của tâm hồn mình.[7]
________
[1] Điều đáng lưu ý là đa số các đạo diễn điện ảnh Việt-Nam vào các thập niên 50, 60,70 là gốc người Huế, trong đó có đạo diễn Lê Mộng Hoàng là anh ruột của Lê Mộng Nguyên.
[2] Nhận xét nầy của người viết chỉ là phản ảnh những cảm tưởng của các giáo sư, các nhân sĩ, các sinh viên…, tóm lại là các tham dự viên các khóa Đại Học Hè VNHN (khóa 6 - tháng 07/ 2002 tại Oslo, Na-Uy, khóa 7, tháng 08/2003 tại Violau, Đức), Ngày gặp gỡ các tôn giáo Viễn Đông, tháng 03/2004, tại Centre St. Thomas, Strasbourg, Pháp), Ngày gặp gỡ văn hóa thường niên VNHN (tháng 08/2008, tháng 08/2009 ở Bruxelles) do Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn-Trường-Tộ tổ chức.
[3] Lão Tử, Đạo Đức Kinh, ch 1. : Huyền chi hựu Huyền, Chúng diệu chi Môn.
[4] PLATON, Ion. 534 c-d; 534 e :.. Socrate.- Không phải do tài năng nào của mình mà các thi sĩ làm thơ, nhưng là do cảm hứng từ một quyền năng của Thần. Vì nếu dựa vào một tài năng trình bày lưu loát như người ta thường làm được trong các bộ môn nào đó, thì phải chăng thi ca cũng chỉ là một bộ môn nào bất kỳ hay sao! Bởi vậy, Thần đã xóa hết tài năng lý trí con người để dùng họ làm thi sĩ, cho họ nhập Thần và trở nên những tiên tri của Trời. Nhờ thế khi nghe lời thơ của các thi sĩ, thì chúng ta hiểu được rằng không phải do chính tài năng họ mà họ có được những giá trị cao cả, bởi lẽ lúc ấy họ đã bị tước hết tài trí của mình rồi; nhưng chính Thần nói, Thần chuyển lời của Thần đến với chúng ta qua trung gian các thi sĩ !
[5] Luận Ngữ, XVI-13 : Bất học Thi, vô dĩ ngôn - Không học Thơ, không có lời để nói.
[6] Vũ Quỳnh, Lĩnh Nam Chích Quái, bản dịch Lê Hữu Mục, Huế, 1960, tr. 43-44.
[7] Khi mô tả sứ điệp văn hóa của các thánh nhân, Karl Jaspers viết : Vĩ nhân không chỉ là người nắm bắt thời đại bằng tư duy của mình, mà còn giúp con người nơi cõi nầy đụng chạm đến vô tận. Vi thế tự căn nét siêu việt trong tác phẩm và nơi cuộc sống người ấy cống hiến một tấm gương soi dẫn mọi thời đại, mỗi một người trong toàn thể nhân loại (Les grands philosophes, tome 1, trad. C. Floquet et autres, Plon, Paris, 1989, tr. 36)
RA MẮT SÁCH
“NHỮNG KHUÔN MẶT VĂN HÓA VIỆT NAM PARIS”
Trong chiều Văn Học Nghệ thuật hôm ngày 18/09/2016, tại quận 13 thành phố Paris, một sứ điệp văn hóa Việt Nam đã được suy nghĩ, thực hiện và gửi đi. Một chương trình rất dồi dào đã được chuẩn bị, xoay quanh bốn chủ đề : 1- Giới thiệu các tác giả, 2- Sứ điệp văn hóa của các tác giả; 3-Giới thiệu sách ra mắt hôm nay và 4- Văn nghệ.
Ban tổ chức trao cho tôi hai công việc :
- Giới thiệu Gs Trần Văn Cảnh, chủ biên sách “Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris 1995-2015” ra mắt hôm nay và
- Phỏng vấn Gs Cảnh về việc chuẩn bị, thực hiện, nội dung và về sứ điệp của cuốn sách này.
I- GIỚI THIỆU GS TRẦN VĂN CẢNH
Giáo sư Trần-Văn-Cảnh, Tiến Sĩ Khoa học Giáo dục Đại Học Lyon, Giáo sư và Giám Đốc nghiên cứu trường Kỹ Sư ECOTEC, là chủ biên cuốn sách “NHỮNG KHUÔN MẶT VĂN HOÁ VIỆT NAM PARIS, 1995-2015” được ra mắt hôm nay.
Sự nghiệp giáo dục:
Năm 1967, tốt nghiệp triết lý Giáo Hoàng học viện Đà Lạt với tiểu luận “Quân tử, lý tưởng giáo dục cổ truyền Việt Nam”, anh được mời dậy Triết ở trường Trung Học Bình Tuy, rồi Việt Văn trong một số trường trung học ở Đà Lạt.
Năm 1972, sau khi đậu thủ khoa sư phạm, anh được bổ nhiệm làm giáo sư Triết Lý Giáo Dục và Động Lực Đoàn Thể, kiêm phụ tá Khoa Trưởng đặc trách học vụ tại Đại Học Sư Phạm Đàlat (1972-1973). Một năm sau, anh được Viện Đại Học Đà Lạt cử sang Pháp tu nghiệp, với học bổng của Bộ Quốc Gia Giáo Dục Cộng Hòa Việt Nam.
Tại Pháp, năm 1976 anh tốt nghiệp Cao Học Triết tại Đại học Sorbonne Paris I, và Thạc sĩ khoa học và kỹ thuật quản lý thư liệu ở trường Consevatoire National des Arts et Métiers Paris. Cùng năm ấy, anh được mời giảng dậy tại trường cao đẳng chuyên nghiệp canh nông thực phẩm ANFOPAR trong tỉnh OISE, 60 cây số phiá bắc PARIS về các môn: Phương pháp luận, Kinh tế, Tổ chức Hành chánh, Lịch sử Văn chương và phương pháp viết tiểu luận ra trường, đồng thời làm giám đốc học vụ. Năm 1981 anh trình luận án Tiến Sĩ Giáo Dục – “Nghiên cứu sư phạm, từ Alfred BINET’ đến ngày nay, và những khó khăn của nó” 1981; Đại Học Lyon, 415 tr. A 4, và vẫn tiếp tục dậy tại trường ANFOPAR.
Năm 1996, anh xin theo học một khóa đào tạo liên tục về quản lý chất lượng tại trường Kỹ sư cơ khí ISMCM ở Saint-Ouen. Năm 1997, sau khi tốt nghiệp Thạc sĩ Quản lý chất lượng anh đổi trường. Ở đây, anh vừa làm giáo sư, dạy kinh tế, quản lý chất lượng, quản lý tri thức, quản lý nhân viên, và phương pháp viết tiểu luận, vừa làm giám đốc học vụ, rồi giám đốc nghiên cứu. Đó là Trường Kỹ sư và Thạc sĩ Xây dựng ECOTEC Paris. Đồng thời, anh làm tư vấn chất lượng cho 12 trường chuyên nghiệp (CFA) vùng Paris.
Sinh hoạt phục vụ cộng đồng:
Từ thời còn thanh niên và ngay cả bây giờ, lúc đã về hưu trí, ngoài giờ học, giờ làm, cuộc sống của anh Trần Văn Cảnh là một chuổi dấn thân không mệt mõi cho các sinh hoạt phục vụ cộng đồng, đặc biệt cho giới trẻ. Anh đã lập và điều hành tráng đoàn Mây Tào ở Bình Tuy năm 1967, tráng đoàn Trường Sơn năm 1968 trong đạo Lâm Viên, Đà Lạt, bầy sói Phù Đổng ở Paris năm 1976.
Và như chúng ta chứng kiến hôm nay, anh luôn có mặt trong các sinh hoạt văn hóa, xã hội của cộng đồng người Việt hải ngoại tại Paris này. Tháng 05. 2014, anh được Thi Sĩ Đỗ Bình mời tham dự Câu Lạc Bộ Văn Hóa tích cực hơn, được đề nghị làm Chủ Biên để thiết kế và thực hiện một tác phẩm chung cho Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris. Anh đã điều hành một cách có phương pháp, có tổ chức và thành thạo mọi công việc chuẩn bị, từ định hướng, thiết kế, mời cộng tác, tuyển chọn bài, sửa lỗi chính tả, trình bày, lên khuôn, đến in ấn. Và hôm nay chúng ta được nhìn thấy một tác phẩm có giá trị về nội dung và có thẩm mỹ về trình bày qua tuyển tập « NHỮNG KHUÔN MẶT VĂN HÓA VIỆT NAM PARIS, 1995-2015 ».
Sáng tác:
Song song với những sinh hoạt cộng đồng, những tác phẩm nghiên cứu về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, văn chương, thi ca của Gs TVC đã xuất hiện thường xuyên trên các diễn đàn. Và một số sách cùng chủ đề đã được sáng tác và xuất bản.
Thay lời kết cho phần giới thiệu Gs Trần Văn Cảnh, người huynh trưởng mẫu mực của tôi, tôi xin đọc vài câu thơ của chính tác già Trần Văn Cảnh nói lên nguyện vọng dấn thân phục vụ văn hóa và giáo dục của mình:
Giáo dục thụ nhân, trọn cuộc đời,
Đi theo mọi giới, khắp nơi nơi.
Răn phường trẻ nhỏ học ăn nói,
Dậy lớp thanh niên hiểu thói đời.
Mở trí khai tâm luật phép nước,
Minh thành tri nhất uy quyền trời.
Dẫn ban hào kiệt tâm an định,
Đưa bậc lão thành đức sáng ngời.
II- PHỎNG VẤN GS TRẦN VĂN CẢNH VỀ NỘI DUNG CUỐN SÁCH «NHỮNG KHUÔN MẶT VĂN HÓA VIỆT NAM PARIS, 1995-2015 »
Nhân dịp ra mắt cuốn sách « Những khuôn mặt Văn Hóa Việt Nam Paris », để giúp quí độc giả hiểu rõ hơn việc chuẩn bị và thực hiện cuốn sách, cũng như nội dung cuốn sách và những dự án biên khảo tương lai của Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris, chúng tôi xin phép được đặt với Gs Trần Văn Cảnh dăm ba câu hỏi.
- Gs Nguyễn Đăng Trúc: Kính chào Gs Cảnh. Xin Gs cho biết « Những khuôn mặt Văn Hóa ViệtNam Paris đã được chuẩn bị và thực hiện thế nào » ?
- Gs Trần Văn Cảnh: « Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris » đã được thành lập vào năm 1994, qui tụ những thành viên đa số thuộc giới trí thức văn nghệ sĩ, trong đó có một số người thuộc Văn Bút VN Hải Ngoại, hội thơ Ba Lê Thi Xã, văn nghệ sĩ tự do Paris…
Được tái tín nhiệm đảm trách Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris vào tháng 04 năm 2014, Thi sĩ Đỗ Bình cảm thấy mình đã lãnh một trách nhiệm nặng nề, mà thách đố lớn nhất là vấn đề: « Làm sao giữ vững và phát triển Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris»? Ông đã mời một số thành viên cộng tác, giúp ý kiến chuẩn bị tìm giải đáp.
Công việc suy tư và chuẩn bị này đã được thực hiện theo «Phương pháp quản trị của Tôn Tử» ở giai đoạn thiết kế [1], của «Hội Tiêu Chuẩn Pháp Quốc về viết và trình bày tiểu luận thạc sĩ hay luận án tiến sĩ »[2], và của «Chỉ Dẫn của Bộ Giáo Dục, Đại Học và Nghiên Cúu về viết và trình bày luận án tiến sĩ »[3].
Việc chuẩn bị thứ nhất là khẳng định đường hướng văn hóa của Câu Lạc Bộ Văn Hóa, theo ba ý nghĩa văn hóa của những nhà văn hóa truyền thống Việt Nam để lại: Góp phần xây dựng đất nước, quốc gia và văn hóa dân tộc của con người Việt Nam 1- như một kẻ sĩ (Nguyễn Trãi), 2- như người biên soạn sách vở (Lê Quí Đôn, Phan Huy Chú). 3- và biên soạn sách vở về mọi vấn đề liên hệ đến cuộc sống thường ngày của người Việt Nam (Đào Duy Anh).
Việc chuẩn bị thứ hai là thiết kế một dự án làm việc trong môi trường văn hóa Việt Nam tại hải ngoại Paris trong hai thập niên 1995-2015.
Việc chuẩn bị thứ ba là thành lập một nhóm làm việc có tổ chức phân minh trong ba lãnh vực: 1- Ban Điều Hành tổng quát với Chủ Nhiệm Đỗ Bình, 2- Ban Biên Tập với Chủ Biên Trần Văn Cảnh và 3- Ban Thực Hiện và Phát Hành với Trưởng Ban Nguyễn Quí Toàn.
Sau 6 tháng làm việc, nhóm đã qui tụ thêm được một số văn hữu nhiều khả năng, trách nhiệm và tích cực, tham gia. Nhờ đó, một dự án đã được thiết kế và thực hiện về một tuyển tập lấy tên là «Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015». - Gs Nguyễn Đăng Trúc: Được chuẩn bị kỹ như vậy, cuốn sách « Những Khuôn Mặt Văn Hóa ViệtNam Paris » ghi nhận những ai?
- Gs Trần Văn Cảnh: Trong phần đầu buổi chiều Văn Học Nghệ Thuật hôm nay, chúng ta vừa nghe và sẽ nghe những giới thiệu chi tiết và cá biệt về từng tác giả đã đóng góp vào tuyển tập « Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015 ». Trong phần giới thiệu chung này, chúng tôi xin giới thiệu một cách chung và tổng quát về chân dung tập thể của « Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015 ».
Tuyển Tập « Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015 » là một tác phẩm, sau hai năm chuẩn bị, đã ghi nhận chân dung của những nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học và văn hóa Việt Nam thuộc Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam tại Paris, trong những năm từ 1995 đến 2015. Không phải là chân dung kinh tế xã hội, theo kiểu « Chân dung kinh tế và xã hội của những tác giả viết sách ở Pháp », như bản phúc trình của Bộ Văn Hóa và Truyền Thông Pháp đã cho phổ biến ngày 16 tháng 03 năm 2016 [4] vừa qua. Nhưng là chân dung văn hóa.
Họ là ai ?
Nhóm thứ nhất, họ là những tác giả đã hay đang sinh hoạt trong Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris, đã đáp lời mời của Chủ Nhiệm Đỗ Bình và Chủ Biên Trần Văn Cảnh, mà gửi những công trình của họ để góp phần thực hiện tác phẩm « Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015 » này. Đó là 26 tác giả sau đây: Nhà văn Hồ Trường An, GSTS Hà Ngọc Bích, Nhà Văn Nhà Thơ Đỗ Bình, nhà thơ Hương Bình, GSTS Trần Văn Cảnh, TS Phạm Trọng Chánh, BSGS Phạm Tu Chính, Thi sĩ BS Phương Du Nguyễn Bá Hậu, LS Trần Thanh Hiệp, Nhà báo Nguyễn Bảo Hưng, GS Trịnh Khải, GSTS Phạm Đình Liên, Nữ sĩ Quỳnh Liên, GSTS Lê Mộng Nguyên, Nhà văn Trần Tam Nguyên, GS Phạm Thị Nhung, Thi sĩ GS Hàm Thạch, Nhà biên khảo Nguyễn Thanh, GSTS Vũ Quốc Thúc, Nhà văn GS Nguyễn Thùy, Nhà văn Từ Thức, Nhà báo Lê Trân, GSTS Từ Trì, GSTS Nguyễn Đăng Trúc, Nhà phê bình TS Liễu Trương, GS Phan Thị Trọng Tuyến.
Nhóm thứ hai, họ là những người đã hoặc đang ở Paris và đã hay đang biên soạn sách vở, mà nay, được những thành viên Câu Lạc Bộ Văn Hóa Việt Nam Paris tìm hiểu và nhắc nhớ đến, để vinh danh và ghi khắc tên tuổi họ vào lịch sử văn học. Đó là những vị sau đây: bác sĩ giáo sư thi sĩ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái, nhà văn Văn Bá bác sĩ Nguyễn Văn Ba, giáo sư thi sĩ bác sĩ Bằng Vân Trần Văn Bảng, bác sĩ thi sĩ Phương Du Nguyễn Bá Hậu, học giả tiến sĩ Thái Văn Kiểm, nhạc sĩ giáo sư Lê Mộng Nguyên, nữ sĩ Vân Nương, nữ sĩ Minh Châu Thái Thị Hạc Oanh, nhà văn học Võ Phiến ở Mỹ, nhà thơ Thân Thị Ngọc Quế, nhà văn Kiệt Tấn, nhà văn học Nguyễn Thùy, GS Võ Thu Tịnh, học giả Nguyễn Trường Tộ, nhà văn Tiểu Tử ; Những nhà văn nữ Paris hiện nay, như Mạch Nha, Miêng, Phạm Thị Trọng Tuyến, Trần Diệu Tâm, Đỗ Quỳnh Giao, Đặng Mai Lan, Mai Ninh. - 3. Gs Nguyễn Đăng Trúc: Qua 37 bài viết của 26 tác giả, những nét nào là chân dung chung và chính yếu của Những Khuôn Mặt VHVN Paris ?
- Gs Trần Văn Cảnh: Đọc xong những bài trong tác phẩm «Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015», không những một nội dung tổng quát của Văn Hóa Việt Nam đã được tỏ lộ về tinh thần kẻ sĩ, về công việc nghiên cứu và biên soạn sách vở và về cuộc sống hằng ngày hiện nay của người Việt Nam, đặc biệt là người Việt Nam hải ngoại. Nhưng còn một nội dung chủ yếu cụ thể và đặc trưng mà người đọc chăm chú sẽ dễ dàng khám phá và nhận ra, đó là «chân dung chung của người làm văn hoá trong Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris».
Nhiều đề tài và nhiều tiếp cận khác nhau, nhưng tất cả mọi tác giả đều đã đề cập, nhiều ít, xa gần, đến chủ đề «Tha Hương», là nét chân dung đặc trưng chính yếu chung, với ba mầu rất đậm và rõ nét. Một cái tha hương hiện thực của tâm tình hoài nhớ, thương mến, mong chờ quê hương tươi sáng và của cảnh sống giữ thơm quê mẹ, bảo trì và phát triển văn hóa dân tộc, hội nhập quê người. Một cái tha hương vươn lên của tình thương, đi từ tình thương gia đình, đến tình thương Nước Việt, Người Việt, Tiếng Việt, tiến lên tình thương nhân loại. Và một cái tha hương thăng tiến về tâm linh, tìm về chân, thiện, mỹ, hướng lên tâm linh và thiêng liêng.
Rõ rệt «Những khuôn mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015» đã hoà nhập với những tác phẩm văn, thơ, nghiên cứu về văn học và văn hóa Việt Nam khác trên thế giới, mà khai phá ra một nội dung mới trên diễn đàn văn học Việt Nam cho thời hậu chiến, 1975-2015.
Khác với văn thơ thời tiền chiến 1930-1945 và văn thơ thời chiến 1945-1975, văn thơ thời hậu chiến 1975-2015 nở rộ ra ở hải ngoại, trong đó có Paris, với dòng văn thơ THA HƯƠNG và TÌNH THƯƠNG Nước Việt, Người Việt, Tiếng Việt.
Đó là nét chân dung chính yếu của các tác giả, là nội dung của cuốn sách và là sứ điệp gửi đến quí độc giả Việt Nam. - Gs Nguyễn Đăng Trúc: Sự hiện diện đông đảo của các văn hữu và đồng bào nơi đây, hôm nay là một dấu hiệu thành công cụ thể của cuốn sách « Những khuôn mặt Văn Hóa Việt Nam Paris ». Giáo sư có thể hé mở cho biết những dự án khác cho tương lai không ?
- Gs Trần Văn Cảnh: Từ « Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam Paris, 1995-2015 », những viễn tượng tương lai như đã được mở ra cho những công trình văn học, văn hóa tương lai.
Trước nhất là những viễn tượng không gian địa lý, với những vấn nạn đã được gợi ra: Có cần phải nhìn ra « Những khuôn mặt Văn Hóa Việt Nam Hải Ngoại, 1975-2016 » ? Có cần phải nhận rõ « Những Khuôn Mặt Văn Hóa Việt Nam trên toàn thế giới và ở Việt Nam hiện nay, 1975-2017 » ?
Thứ đến là những viễn tượng thời gian lịch sử và những viễn tượng biến chuyển về nội dung và chủ đề văn hóa, văn học, mà những vấn nạn sẽ từ từ được ý thức, nhận ra và đặt thành vấn đề. - Gs Nguyễn Đăng Trúc: Xin cám ơn Gs Trần Văn Cảnh đã trả lời những câu hỏi một cách rõ rệt và xin cám ơn quí vị quan khách và văn hữu đã lắng nghe.
Paris, ngày 18.09.2016
Nguyễn Đăng Trúc
Phụ chú:
[1] Tôn Ngô Binh Pháp, 1996 ; NXB Thanh Hóa ; Thiên 1 : Tính toán, tr. 23- 28
[2] AFNOR NF Z 41-006 (Présentation des thèses et documents assimilés, Paris, octobre 1983).
[3] Ministère de l’Education Nationale, Enseignement Supérieur, Recherche – Guide pour la rédaction et la présentation des thèses à l’usage des doctorants (2007).
[4] Ghi nhận những đặc điểm về lợi tức đến từ việc viết sách của trên 100.000 tác giả viết sách ở Pháp. Xin xem:http://www.culturecommunication.gouv.fr/Politiques-ministerielles/Livre-et-Lecture/Actualites/Etude-sur-la-situation-economique-et-sociale-des-auteurs-du-livre-resultats.
Đọc thơ «Tha hương»
của Phương Du Nguyễn Bá Hậu
Trần Văn Cảnh
Chào đời năm Giáp Tý, 1924. Sống thời «Niên ấu tại Phương Canh», một làng thuộc tỉnh Hà Đông, bác sĩ Nguyễn Bá Hậu đã ra «Thăng-Long nơi đèn sách» để học tập và đã tốt nghiệp y khoa bác sĩ vào năm 1951 ở Hà Nội. Ông đã phục vụ trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ 1951 đến 1956, ba năm đầu, 1951-1954 ở Hà Nội và hai năm sau, 1954-1956 ở Sài Gòn. Rồi ở đây, ông mở phòng khám bệnh tư, từ năm 1956 đến năm 1970. Trong thời gian này, Bác sĩ Nguyễn Bá Hậu đã có dịp đi tu nghiệp thêm về khoa châm cứu ở Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, và Trung Hoa lục địa.
Nhờ vậy, chẳng những ông đã tu bổ thêm được nhiều kiến thức nghề nghiệp mà ông đam mê, mà còn am hiểu tình thế quốc gia và quốc tế hơn. Cho nên, năm 1971, « vì thời cuộc ra đi », ông đã mang gia đình di cư sang Pháp, cư ngụ tại thành phố Jouy-en-Josas, gần Versailles và mở phòng khám bệnh tư tại thành phố Montrouge, ngoại ô phía nam Paris.
Chính trong hoàn cảnh di cư, lưu lạc xứ người này, ở thành phố Jouy-en-Josas, mà ông đã sáng tác thơ, như ông viết trong bài thơ đầu của tập Tha Hương : « Đương hành nghề y –sĩ, Vì thời cuộc ra đi. Mưu sinh trên đất Pháp, Không sao lãng văn thi. Du-y nơi cư ngụ. Lắm lúc sống trong mơ, Thả hồn theo mây gió, Vui sống với nàng thơ ». Bác sĩ Nguyễn Bá Hậu lấy bút hiệu là Phương Du để ghi nhớ sinh quán ở làng Phương Canh và nơi ở hiện nay là Jouy-en-Josas.
Phương Du đã xuất bản bốn tập thơ : «Tha Hương», (TH) 1986 ; «Tình thương», (TT) 1991, «Tình thương II», (TT2) 1993 và «Hoa Tâm, Thi Văn Nhạc» (HT) 2002. Tập thơ thứ tư này đã được tái bản phong phú hơn vào năm 2008. Như vậy toàn tập của thơ Phương Du đã được thực hiện qua bốn thi phẩm, và xoay quanh ba đề tài chính : «Tha Hương», «Tình Thương» và «Hoa Tâm».
Tha Hương là chủ đề thứ nhất của thơ Phương du, được trình bày trong thi phẩm Tha Hương, xuất bản năm 1986, khổ A5, dầy 156 trang.
Từ bài thơ đầu tiên mở đầu đến bài thơ cuối cùng kết luận, có 138 bài thơ, trình bày trong ba phần : 1- Sáng tác của Phương Du với 93 bài thơ đủ loại ; 2- Thơ xướng họa với 33 bài thơ, trong đó 21 bài của Phương Du, và 12 bài của những thi sĩ khác ; 3- Thơ Phương Du dịch với 12 bài, trong đó 6 bài từ chữ Hán và 5 bài từ chữ Pháp và 1 bài thơ cuối cùng.
Tập thơ «THA HƯƠNG» của Phương Du dày 156 trang. Bố cục và tổ chức trình bày văn bản đã được thể hiện một cách rất nghiêm chỉnh, theo những nguyên tắc viết luận văn phổ thông, viết tiểu luận thạc sĩ hay viết luận án tiến sĩ.
Bố cục này gồm ba nhóm yếu tố. Thứ nhất là nhóm những yếu tố tiền đề, với «Những lời kính tặng» đầy tình quê hương gia đình, xác định rõ rệt nguồn gốc của mình : «Kính tặng quê hương Việt Nam yêu dấu. Kính tặng hương hồn Nghiêm-đường và Từ-mẫu», với «Lời cám ơn» các bạn hữu, với «Lời tựa» của giáo sư Nguyển Đình Hòa và với một bài kiểu như lời phi lộ «Sau khi đọc bản thảo Tha Hương» của giáo sư Bùi Văn Tuyền.
Thứ hai là nhóm những yếu tố chính đề, với «Lời mở» để nói về điều mình sẽ nói bằng cách giới thiệu ý hướng, đề tài và dàn bài ; với «Thân bài» để nói về những điều mình muốn nói là «tâm tình và cảnh sống tha hương ở Paris ; Và với «Lời kết» để tóm tắt những điều đã nói và kết thúc mở hướng.
Thứ ba là nhóm những yếu tố hậu đề, với bản «Mục lục», ghi rõ rệt tên của tất cả những bài thơ trong thi tập và với một tranh vẽ ở trang cuối cùng, trang 155. Đó là bức tranh vẽ về nơi hành hương Medjugorje ở Nam Tư. Ở giữa hình và chiếm chỗ cao nhất có tượng Đức Kitô chịu nạn trên thập giá, dựng trên đỉnh núi Crnica ; Thấp hơn vài ly về phía trái có Đức Mẹ Maria ban ơn ; Thấp hơn đến dăm bảy phân về phía phải, là ngôi thánh đường. Bên dưới đề câu : «Chúa xưa rao giảng tình thương, Mẹ nay soi sáng con đường thờ Cha». Phong cảnh này do họa sĩ Vĩnh Ấn phác họa trong một cuộc hành hương cùng đi trong đoàn hành hương Việt Nam. Phải chăng đây là đích điểm, và là kết cục của cuốn sách và của cuộc đời tha hương, tha hương theo nghĩa thế gian, và tha hương theo nghĩa đời đời kiếp người ? Hay đây là lời mở ra dẫn vào hai đề tài thứ hai, và thứ ba là «Tình thương» và «Hoa Tâm» ?
Giới thiệu tất cả những yếu tố của tập sách như vậy, sau đây chúng ta sẽ đi vào ba yếu tố chính đề căn bản của tập thơ.
Lời mở của thi tập với bài thơ «Thay lời tự tự"
Chào đời năm Giáp-Tý.
Niên ấu tại Phương-Canh.
Thăng-Long nơi đèn sách.
Giáp-Ngọ tới Nam Thành.
Đương hành nghề y–sĩ,
Vì thời cuộc ra đi.
Mưu sinh trên đất Pháp,
Không sao lãng văn thi.
Du-y nơi cư ngụ.
Lắm lúc sống trong mơ,
Thả hồn theo mây gió,
Vui sống với nàng thơ.
Với nghề tuy bận rộn,
Nhưng vẫn quá say mê
Vun bồi văn chương Việt,
Và hoài niệm làng quê.
Nhiêu khi lòng se lại,
Nghĩ tới cảnh đau thương
của đồng bào trong nước,
Quằn quại với tai ương.
Ngày xuân nhè nhẹ đến,
Hy vọng lại chứa chan :
Tất cả con dân Việt
Sớm thoát cảnh lầm than.
Gian-lao nơi đất khách,
Phiêu bạt khắp năm châu,
Nhưng không quên hồn nước
Ngày về chẳng xa đâu.
Vài bài thơ thô thiển
Gửi tặng bạn bốn phương
Đọc chơi khi nhàn rỗi
Để tưởng nhớ quê hương.
(Thay lời tự tự, TH, tr. 9)
Bài thơ ngũ ngôn này quả là «Lời mở» của thi tập. Chẳng những thế, bài thơ này còn có thể được coi như «Lời mở» của toàn thể bốn thi tập của Phương Du. Lý do vì trong đó những yếu tố căn bản về chính đề đã được giới thiệu rõ rệt. Hoàn cảnh nào viết ? Thưa trong hoàn cảnh ra đi đến nước Pháp. Viết gì và về gì ? Thưa viết thơ và về tha hương ? Mục đích để làm gì ? Thưa để «Không xao lãng văn thi», «Vui sống với nàng thơ», «Vun bồi văn chương Việt», để dẫu có «Gian lao nơi đất khách, Phiêu bạt khắp năm châu», «Nhưngkhông quên hồn nước» và để «Gửi tặng bạn bốn phương, Đọc chơi khi nhàn rỗi, Để tưởng nhớ quê hương». Qua những đề tài nào ? Thưa qua hai phần chính của tha hương : tâm tình của người tha hương và cảnh sống trên đất tha hương.
- Nội dung của thi tập «THA HƯƠNG» với 138 bài thơ
Đặt tên cho thi phẩm thứ nhất là «Tha Hương», có phải Phương Du muốn nói về một nơi sống và cảnh sống «tha hương» của mình ?
Nói đến tha hương là nói đến làng xóm, xứ sở của người khác, không phải của mình. Làng xóm này không phải là bản quán, chỗ đất nguyên tịch của mình, không phải là nơi mình quen biết, cũng không phải là bản quốc, nước của mình, quê hương của mình.
Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh định nghĩa tha thương là «Đất khách quê người». Tha hương là một nơi sống và lối sống của người khác. Nó khác với nơi sống và cách sống quen thuộc của mình. Nơi tha hương thì không có hương âm, tiếng nói quen thuộc của mình, không có hương ẩm, với những lễ làng quen thuộc, với những dịp gặp gỡ ăn uống giữa những người thân quen. Nơi tha hương có lẽ cũng có những hương đảng, người cùng làng và những hương hào, người hào mục trong làng, những hương lân, hàng xóm láng diềng ; nhưng không phải là những người của quê hương mình, mà là của tha hương.
Có một điều đặc biệt là nơi sống và lối sống tha hương của Phương Du không phải là cái tha hương của những người bình thường. Cái tha hương của Phương Du không phải là một nơi sống và lối sống bó buộc, cùng túng ; nhưng là một tha hương tự do chọn lựa, một chọn lựa tốt đẹp và thuận lợi.
Cụ thể thì cái tha hương của Phương Du gồm hai địa điểm sống thường ngày. Một nơi là chỗ làm nghiệp vụ bác sĩ tổng quát và có chuyên ngành châm cứu ở Montrouge, một thị trấn ngoại ô phía Nam, sát cạnh Paris. Một nơi là chỗ ở của gia đình, ở Jouy-en-Josas, một thị trấn ngoại ô xa về phía Đông Nam, cách Điện Versailles khoảng 4 cây số, và cách Paris, khoảng 19 cây số. Cả hai thị trấn Montrouge và Jouy–en-Josas đều là những nơi có đời sống phồn thịnh, khá giả.
Nhưng Jouy-en-Josas là thị trấn xanh và nên thơ hơn, với một diện tích khoảng 500km2, mà hơn một nửa là rừng cây xanh tốt, có nhiều cung điện, từng là nơi sống của những nhân vật lịch sử, như Victor Hugo, Léon Blum, và hiện là nơi có nhhững trường học danh tiếng, như Cao đẳng Thương Mại HEC, Viện Quốc Gia Nghiên Cứu Canh Nông INRA. Cái tha hương ở đây có cái nét độc đáo là cái tha hương của những người thành đạt. Có lẽ thành phố này đã là một môi trường thiên nhiên thuận lợi, gợi hứng và biến đổi bác sĩ y khoa Nguyễn Bá Hậu thành thi sĩ Phương Du, như lời ông tâm tình trong đoạn đầu bài thơ đầu sách vừa trích trên đây.
Và cụ thể nữa, Thơ Tha Hương của Phương Du là thơ đi tìm cái chân trong hai lãnh vực : cái chân của tâm tình tha hương và cái thật của cảnh sống tha hương.
2.1. Tâm tình tha hương
Như tên đã được đặt cho thi phẩm, 138 bài thơ đều rõ rệt hoặc bàng bạc, gần xa đề cập đến một hay nhiều khía cạnh của đời sống và lối sống «THA HƯƠNG», mà khía cạnh thường thấy nhất, ray riết và tha thiết nhất, cũng như mạnh mẽ và tràn ngập nhất, là tâm sự người tha hương. Đây là khía cạnh «chân» thứ nhất, là nguồn cảm hứng sáng tác dồi dào trong nhiều thể loại thơ khác nhau, nhưng với thể nào mặc lòng, thì văn phong cũng rất «chân», theo nghĩa «chân tình», «chân thật» và «chân chính».
Tâm sự người tha hương mạnh nhất có lẽ là tâm tình «hoài», hoài hương và hoài cố hương. Tâm tình hoài hương trong thơ Phương Du là một tâm tình tự nhiên bột phát của người tha hương, là nội dung chính của thi phẩm «Tha hương», mà Phương Du gọi là «hoài niệm làng quê», «tưởng nhớ quê hương».
Trong khắp tập thơ, lướt qua mục lục, đâu đâu thơ của Phương Du cũng ẩn nấp tâm tình hoài hương : Hoài hương trong thơ sáng tác : Thu xa quê, Thu mong chờ, Nhớ quê, Làng tôi, Đông xưa đông nay, Hận ly hương, Đất nước tôi, Việt nam đau thương, Tâm trạng kẻ tha hương, Thu xưa thu nay, Nhớ Tổng Thống, Buồn thế sự, Sầu chia ly, Nhớ thu xưa, Xuân tha hương, Gửi hương hồn anh. Hoài hương trong thơ xướng họa : Bài họa sống cảnh di cư, Kỷ niệm lục tuần, Bài họa Tết tha hương, Việt nam sầu thương, Cuộc sống tha hương, Tết thời nay, Thuyền nhân, Thuyền nhân ngoài biển cả, Đất nước ngày nay, Buốn quốc sự. Và hoài hương cả trong thơ dịch : Khúc hát Lương châu, Phong kiều dạ bạc, Sơn phòng xuân sự, Đề tích sở kiến xứ, Nhạc thu, Cố hương, Lẻ loi, Đêm đại dương, Tri ân Hội Y Sĩ Thế Giới.
Thành ra, đối với kẻ tha hương, cảnh, vật, người, …nơi, chốn, …lúc, giờ, mùa, … cái gì nơi tha hương cũng có thể là dịp, là hoàn cảnh, là đối tượng, là lý do, là tác nhân gợi lên tâm tình hoài cố hương : «Nhắc tới làm chi tiếng cố hương, Tim ta rung động chốn tha phương. Từ xa vang dội vào tâm khảm, Như tiếng chân đi, tiếng bạn vàng. Non cao mây phủ lúc thu sang, Đồi cỏ bình minh ướt đẫm sương, Rặng liễu xén tròn thơ thướt lá, Chiều tà tháp cổ rạng tươi vàng…Ánh lửa bùng lên rọi sáng lều, Mái nhà tuôn khói khách mơ theo, Vô tri vật ! có hồn chăng tá ? Lưu luyến hồn ta gợi mến yêu». (Cố hương, TH, tr.144-145).
Như vậy, hoài hương không phải là cảm xúc về cảnh thực đang có trước mặt, nhưng là một cảm xúc mà cảnh hiện thực nơi tha hương gợi ra, bùng lên trong tâm tư người tha hương viễn xứ. Nó là một cảm xúc vì và về một cái gì thiếu thốn, nhưng đậm kỷ niệm xưa : «Xuân phong từng lớp dạt dào, Nhậm ngùi chạnh nhớ ngày nào xuân xưa : Nửa đêm tiếng pháo giao thừa, Cây nêu, cung, khánh ngăn ngừa quỉ ma. Đền, chùa tấp nập vào ra, Tiếng chuông, tiếng mõ vang xa xóm làng» (Nhớ xuân xưa, TH, tr.89). Sự thiếu thốn ở đây không phải vì không có, nhưng là sự có lại ở một nơi khác. Hoài hương là hoài niệm về một quê hương có đấy nhưng biệt ly, xa cách : «Chia ly đau xót cuộc đời, Người đi người ở buồn ơi là buồn ! Xa nhà lìa nước rời non, Thuyền nhân lòng dạ héo hon rã rời» (Sầu chia ly, TH, tr.82). Hay có đấy, nhưng đã đổi khác rồi : «Thu xưa đời sống thần tiên, Thu nay thiên hạ buồn phiền lo âu. Người đi phiêu bạt năm châu, Còn người ở lại khóc sầu chia ly» (Nhớ thu xưa, TH, tr. 83.
Tâm tình hoài hương lại càng thiết tha, khi những cảnh thân thương của kỷ niệm thiếu thời lại rõ rệt hiện ra trong tâm tư, với rặng bàng, cây gạo, cây sung, …với những cảnh sống thanh bình vui vẻ của đầu xuân, của ngày mùa. Tâm tư hoài hương lại càng xoắn xít hơn nữa khi lòng quặn đau, không chỉ vì vắng bóng, xa xôi cách trở, nhưng vì đã đổi khác, không còn thanh bình vui vẻ nữa, nhưng đầy lăm le lo sợ, đầy nguy hiểm chiến tranh nổ bùng. Ở điểm này, bài thơ «Nhớ quê» là một tuyệt phẩm về tha hương nhớ quê, nhớ và vẽ lại đầy đủ bức tranh quê thanh bình thủa xưa, nhưng cũng rớm đau, chạnh buồn, vì lo sợ chiến tranh ngày nay:
«Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Sống trong hoàn cảnh Việt kiều,
Lòng ta phảng phất trăm điều nhớ nhung.
Rặng bàng, cây gạo, cây sung,
Bụi tre khóm trúc, cây tùng cây giang.
Cây đa cổ thụ đầu làng,
Tháp chùa cao vút giữa hàng cau thanh.
Bao nhiêu kỷ niệm ngày xanh,
In sâu vào óc những hình cố hương :
Thầy đồ kiêm cả thầy lang,
Sáng ngày mang sách cầm nang gõ đầu,
Bắt trò phải đọc lầu lầu,
Những trang chữ hán ngõ hầu tiến thân.
Ngày rằm mùng một đầu xuân,
Ông sư bà vãi lầm rầm tụng kinh.
Dân làng hội họp bên đình,
Trai thanh gái lịch rập rình ghẹo nhau.
Các bà bỏm bẻm nhai trầu,
xum xoe thằng mõ theo hầu các ông.
Ngày mùa vui vẻ trong đồng,
kẻ cầy, người cấy, kẻ trồng người câu.
Mục đồng chễm chệ lưng trâu,
Chiều tà về xóm gọi nhau ời ời.
Mấy cô tát nước yêu đời,
Mặt trời gác núi tươi cười về thôn.
Xa xa vọng tiếng ốc dồn,
Chuông chùa thánh thót thả hồn theo mây.
Buồn thay hoàn cảnh ngày nay,
Chỉ lo cùng sợ suốt ngày suốt năm.
Hòa bình viễn ảnh tối tăm,
Chiến tranh nguyên tử lăm lăm nở bùng».
(Nhớ quê, TH, tr.28-29)
«Hoài» ở đây đã nhuốm mầu và trở thành «Thương», thương cố hương, thương cố quốc, thương cố quận. Tâm tình thương cố hương, «thương đồng bào trong nước, quằn quại với tai ương» là tâm tình thứ hai của người tha hương, gắn liền với tâm tình hoài hương. Cái thương thứ nhất là thương buồn : «Buồn thay nước Việt ngày nay, Bất đồng chính kiến là rày xéo nhau. Trong khi các nước Tây Âu, Sống trong dị biệt tránh sầu nội tranh. Tự do kinh tế đua ganh, Mọi ngành đều tiến tiến nhanh kịp thời. Dân ta đói khổ ngập trời. Thiếu ăn thiếu mặc cuộc đời lầm than». (Ba mươi tháng tư, TH, tr.73). Từ thương buồn tới thương cảm, thương tủi : «Dân khổ cực thiếu ngô thiếu gạo, Đảng độc tài vô đạo vô luân. Thương thay muôn vạn thuyền nhân, chịu bao đau khổ vì cần tự do. Người ở lại âu lo nạn đói….Ăn thì đói, ốm đau thiếu thuốc. Thật tủi buồn cho quốc dân ta. Dưới thời xã hội cộng hòa, Không ngờ lại khổ hơn là thời xua». (Cảm nghĩ Đông Nhâm Tuất, TH, tr. 68-69). Tâm tư người tha hương, thương nước, thương dân thành ra não nuột, pha trộn nỗi hận buồn. Hận buồn vì nhân dân ngèo khổ lầm than; Hận buồn vì độc tài, đảng trị; Hận buồn vì không có tự do, dân chủ ; Hận buồn vì con người không còn nhân cách; Hận buồn vì cái gì cũng bị cưỡng bách, từ vật chất đến tinh thần; Hận buồn và oán trách, đành «Phiêu lưu sinh sồng quê người».
«Việt Nam xã hội cộng hòa,
Nhân dân ngèo khổ thật là lầm than.
Nhiều người chán đảng cả gan,
Trùng dương rẽ sóng vượt màn Mác-Lê.
Ôi độc tài! ôi đảng trị!
Nhân dân ta toàn bị những đau thương.
Mười lăm năm nội chiến do Bác chủ trương,
Nay tuy thống nhất, vẫn khổ trăm đường,
đời càng đen tối.
Gấm vóc giang sơn đang đỏ ối,
Tiên rồng nòi giống hết xanh tươi.
Tự do, dân chủ hết thời.
Với cộng sản, con người không còn nhân cách.
Từ vật chất đến tinh thần đều bị cưỡng bách.
Nên nhiều người oán trách ra khơi.
Phiêu lưu sinh sống quê người.
(Việt Nam đau thương, TH, tr. 48).
Dính liền với chữ «Hoài» và chữ «Thương» là chữ «Vọng», vọng hết chiến tranh, vọng phú cường, vọng hồi hương. Tâm tình vọng gắn liền với tâm tình thương. Bao nhiêu điều thương tiếc là bấy nhiêu điều hy vọng, mong ước. Nếu thương cho quê hương tràn ngập trong chiến tranh, hận thù, đau khổ, thì vọng sẽ là hết chiến tranh, giảm hận thù, bớt đau khổ. Đó là một niềm ước mong mạnh mẽ không chỉ cho người ở lại, mà cả cho người tha hương : «Máu chảy, thịt rơi, ruột rã rời. Đấu tranh chém giết mãi không ngơi. Hòa bình, hạnh phúc bao giờ đến» (Thú xoa mùa đông, TH, tr. 71) ? Đó cũng là điều rõ rệt «Ước vọng ngày xuân» : «Năm Hổ cầu mong hết chiến tranh. Khắp nơi mọi chốn hưởng thanh bình, Tiên rồng nòi giống thêm tươi đẹp, gấm vóc giang sơn lại tốt xanh. Tranh đấu, hận thù không khuyến khích, Khoan dung bác ái được đua ganh. Mậu thân, Ất mão bao đau khổ, Năm Hổ cầu mong hết chiến tranh». (Xuân Bính Dần, TH, tr. 10).
Nếu thương cho quê hương bị chính sách Mác Lê bạo tàn, nước kém mở mang, dân nghèo nàn, thì vọng sẽ là một nước Việt phú cường, thịnh vượng : «Nay thời chính sách bạo tàn, Nặng phần đảng trị, nhẹ phần lợi dân. Cho nên nước quá nghèo nàn, Kinh tài suy xụp lần lần thảm thương. Ngày nào nước Việt phú cường, Đề huề mạnh tiến trên đường thịnh hưng. (Ba mươi tháng tư, TH, tr. 74).
Nhưng điều mong ước lớn nhất cho người tha hương, biệt ly, có lẽ là ngày trở về, ngày vui xưa : «Người đi bèo dạt mây trôi, Khiến người ở lại bồi hồi nhớ thương…
Chia ly lòng quá mông lung,
Vì đâu lại xẩy ra khung cảnh này?
Trời cao biển rộng đất dầy,
Bao giờ lại thấy những ngày vui xưa»?
(Sầu chia ly, TH, tr. 82).
Diễn tả tâm tình vọng của người tha hương một cách đầy đủ nhất có lẽ là tuyệt phẩm đầy cung giọng Việt Nam «Bài hát xẩm» sau đây:
Non nước ơi !
Kể từ khi ta dấn thân ra đi lưu lạc chốn quê người,
Sầu chia ly sao chưa cạn
Mà cuộc đời buồn bã cứ qua trôi.
Hôm nay đây, lòng dạ quá bồi hồi,
Trèo lên con rồng sắt,
Ta ngồi, lướt thẳng về viếng quê hương
Non nước ơi!
Dân tình ta trông thật là đói rách, thảm thương:
Ăn chẳng đủ no, mặc không đủ ấm,
Đau yếu thời thường chẳng có thuốc thang.
Vật giá càng ngày nó lại càng tăng,
Làm cho dân chúng ngỡ ngàng, kêu than
Đời sống mỗi ngày một quá gian nan.
Non nước ơi!
Chẳng lẽ nào ta chịu mãi cảnh lầm than :
Thực dân rồi cộng phỉ,
Họ làm nát tan nòi giống Tiên Rồng.
Tình thương, than ôi không có dưới chế độ cộng đồng !
Hàng vạn người tránh nạn quỉ hồng,
Đã phải đau lòng, lữ thứ tha hương.
Non nước ơi !
Nhìn nước người,
Tự do và dân chủ, văn minh tiến bộ khôn lường,
Nông công giầu mạnh, kỹ nghệ thịnh cường,
Dân chúng no nê.
Trông lại nước ta, than ôi là thoái hóa!
Cộng phỉ tham nhũng trăm bề,
Chuyên môn dao búa,
Họ chẳng biết gì về tế thế kinh bang.
Nước non oi!
Luồng gió tự do,
Mai đây thổi tới, sẽ quét sạch phỉ phường,
Tha hương ta lại lên đường trở về kiến thiết quê cha.
Cùng nhau tô điểm sơn hà;
Toàn dân đoàn kết,
Sẽ hưởng an hoà, yên sống vui tươi.
Non nước ơi!
Tương lai rồi sẽ sáng ngời.
(Bài Hát Xẩm, TT, tr. 138-139).
2.2. Cảnh sống tha hương
Bên cạnh và song song với ba tâm sự tha hương, còn có những sinh hoạt hằng ngày của cuộc sống, rút tâm trí kẻ tha hương ra khỏi thế giới tâm tư, mà đi vào thực tế sinh hoạt hằng ngày, tách nhà thơ ra khỏi những tình cảm bi, hoài, vọng của người tha hương, mà đưa thi sĩ vào cái chân thực của đời sống hiện tại nơi quê người, đất khách. Cái chất liệu «chân» của nhà thơ không chỉ là chân chủ quan của tình cảm, mà còn là chân khách quan của thực tại, một thực tại bao gồm những cảnh sống khác nhau. Có lẽ ở đây, cái tinh thần khoa học khách quan của nhà khoa học bác sĩ Nguyễn Bá Hậu đã ảnh hưởng nhiều trên thi sĩ Phương Du. Sống tha hương, mà không bị tha hóa. Sống tha hương, mà vẫn «không quên hồn nước», vẫngiữ được căn tính, bản ngã thực của mình.
Cảnh sống gia đình hoà thuận êm ấm. Tha hương thực tế một mặt là sống trên đất khách quê người, mình có cảm giác bị tha hóa. Nhưng mặt khác mình vẫn là mình, nhà mình vẫn là của mình, gia đình mình vẫn là lãnh địa riêng của mình, với lối sống cá biệt riêng của mình. Xuân Tân Dậu, 10 năm sau khi đến Pháp, từ nhà nhìn ra vườn xuân của mình, trong niềm hạnh phúc, nhà thơ tha hương của chúng ta đã an bình bầy tỏ : «Ước gì cảnh đẹp bao quanh, Ngôi nhà tôi ở tốt xanh lâu dài, Giúp cho cuộc sống Hậu lai, Tiếng tăm, Hạnh Phúc không phai không mờ» (Vườn Xuân, TH, tr.11). Niềm tự hào không chỉ là cảnh đẹp bao quanh, nhưng là «nhà tôi», hiểu theo nghĩa đen và nghĩa bóng, không chì là cái nhà của tôi, mà còn là «nhà tôi», là «em tôi», là «vợ hiền» của tôi nữa :
«Ba chục năm vàng sống cạnh em,
Đời tuy vất vả vẫn êm đềm.
Hai trai một gái vui đầm ấm,
Cháu nội, dâu hiền ấm cúng thêm.
Em là sao sáng dẫn đường anh,
Trong việc mưu sinh để tiến hành.
Khăn gói ly hương năm bảy mốt,
Gia đình sớm tránh họa tương tranh
Tha hương khởi thủy phận long đong,
Sống cảnh phiêu lưu nát cõi lòng.
Tằn tiện mua nhà tiền trả góp,
Nợ nay trang trải cũng gần xong.
Em thường lui tới Mẹ Maria,
Khấn nguyện Mẹ Hường rọi bước đi.
Tháng tháng hành hương sang nước Ý,
Cầu xin thế giới hết phân ly.
(Tặng Em, TH, tr. 93)
Cảnh sống nghề nghiệp thành đạt. Cảnh sống tha hương cụ thể nhất có lẽ là cảnh sống nghề nghiệp, nhất là khi nghề nghiệp này đã gắn liền với cuộc đời, trở thành đời tôi, dẫu có mỏi mệt, cũng luôn mải mê, ham thích : «Phần ba thế kỷ sống xa quê, Từ Á sang Âu phụng sự nghề. Thuở trước, bệnh tình dân Việt sợ, Giờ đây, thân chủ bạn Tây chê. Chương trình y dược từng ham thích, Học thuyết âm dương lại mải mê. Thiết, vọng, vấn, văn rồi chẩn đoán, Châm hoài, cứu mãi, mỏi tay ghê. (Đời tôi, TH, tr. 13)
Y khoa châm cứu là một nghề rất bận rộn, nhưng cũng mang lại nhiều say mê và niềm vui khi đạt những kết quả kỳ lạ.
«Từ sáng tới chiều mải cứu châm,
Sau khi tìm hiểu mạch nhu trầm.
Say mê điều trị nhiều căn bệnh,
Y học Tây phương chẳng để tâm.
Nhiều bệnh cứu châm khỏi rất nhanh,
Chữa không cần thuốc lại mau lành.
Đông y trị pháp kỳ lạ thật,
Biển Thước, Hoa Đà quá nổi danh»
(Nghề tôi, TH, tr. 30-31)
Nghề không chỉ bận để thực hành, mà còn bận để học hỏi, trao đổi, lưu truyền. Bác sĩ Nguyễn Bá Hậu, vì yêu nghề châm cứu, đã để tâm và dành nhiều thời giờ vào việc nghiên cứu và dự hội thảo quốc tế, để nghe chia sẻ và chia sẻ, phổ biến những kỹ thuật thực hành. Yêu nghề thành yêu phát triển nghề và tận tụy với những khách hàng và với những người cùng nghề. Và nhà thơ Phương Du đã ghi lại cái sinh hoạt vừa thích thú «xả hơi», vừa lôi cuốn «chăm chú», vừa thúc đẩy «hăng hái» này. «Nhâm Tuất đầu xuân viếng Mỹ chơi, Y khoa hội thảo, chốn xa vời, Hàng trăm thính giả nghe châm chú, Mấy chục danh sư nói xả hơi. Lên tiếng trình bày kỳ-huyệt-vị, Dang tay chỉ dẫn chính-kinh-ngôi.Đăng đàn giảng dạy lòng hăng hái, Phổ biến khoa châm tới mọi ngưới». (Dự hội nghị Nữu Ước, TH, tr. 50)
Cảnh sống ăn ở hàng ngày, mà việc «cơm áo gạo tiền» là một nỗi lo âu, phải chạy ngược xuôi, cũng là một cảnh sống thực khác, gắn liền với cảnh sống nghề nghiệp : «Ta nhớ đông xưa thuở thiếu thời, Hay cùng bè bạn họp vui chơi. Đông nay ta thấy bâng khuâng quá ! Mỗi kẻ mưu sinh một góc trời. Mỗi kẻ mưu sinh một góc trời, Với bao gánh nặng vác trên vai : Nuôi con dưỡng cháu hầu cha mẹ, Thuế má nợ nần trả mãi thôi. Thuế má nợ nần trả mãi thôi. Xưa vô tư lự dễ vui cười, Giờ đây lắm mối lo ấu đến, Lo kiếm ra tiền chạy ngược xuôi…. (Đông xưa, đông nay, TH, tr.37)
Kiếm tiền là một lo âu, tiêu tiền lại là một loay hoay khác. Chi tiêu phải cân nhắc, tính toán, nhất là khi phải chi tiêu lớn và cho những việc quan trọng, như mua nhà trả góp : «Ta là kẻ mua nhà trả góp, Phải lo tiền để nộp nhà băng. Chi tiêu sẽ bớt lố lăng, Sống đời tằn tiện khỏi tăng nợ nần. Nhà để ở ta cần phải có. Túi không tiền bị bó buộc vay. Nhiều năm cặm cụi loay hoay, Ba mươi cuối tháng phải xoay ra tiền…. (Mua nhà trả góp, TH, tr. 75).
Cảnh sống bạn bè văn hóa thi nhạc vui tươi. Trong công việc hằng ngày, không chỉ có «cơm áo gạo tiền» của thế giới vật chất kinh tế, làm ăn, sinh sống. Thế giới văn hóa xã hội, gặp gỡ, giải trí hơn, say mê hơn, với một giọng thơ vừa «diễu cợt», vừa «chân chất» hơn: «Giải trí gì bằng mã chược chơi ? Nhiều pha kỳ thú sướng quên đời. Đỏ đen cao thấp tùy hôm cả. Thua được hên xui có bữa thôi. Chì mó suốt ngày vui thích quá, Xuyên phình đôi lúc khoái mê tơi. Phát sồi bạch bản đều ưa hết. Xoa mãi sờ hoài chẳng muốn thôi» (Xoa mã chược, TH, tr. 21).
Trong thế giới văn hóa, ngoài những công việc giải trí, còn những công việc văn nghệ, văn chương, văn học. Những công việc chia sẻ giữa những bạn bè cũng là một thế giới hiện thực mà lời thơ mô tả cái chất «chân» có phần thích thú hơn, nhẹ nhàng, thanh thoát và êm đềm hơn. «Nhà tôi trúc mọc đầu vườn, Trên khu đồi vắng xanh rờn cỏ cây. Những ngày gió thổi hây hây, Ong bay bướm lượn vui vày vờn hoa. Những ngày nắng ấm chan hòa, Oanh ca yến hót quanh nhà mừng xuân. Hè về bóng ngả đầy sân, Anh em bạn hữu quây quần vui chơi. Chuyện trò nhàn ngắm hoa tươi, Bình thơ nghe nhạc quên đời cạnh tranh. (Nhà tôi, TH, tr.23).
Với những thành viên của Balê thi xã và của Câu lạc bộ Văn hóa Việt nam Paris, phòng mạch của bác sĩ Nguyễn Bá Hậu đã nhiều lần, nhất là vào những dịp minh niên, biến thành nơi trình diễn văn nghệ, với ca hát, ngâm thơ, xướng họa, hay phòng họp thuyết trình, trao đổi về văn hóa, khoa học, mà nhà thơ Phương Du và gia đình niềm nở tiếp đón mọi người. Nhà thơ Hương Bình Cao Văn Chiểu đã ghi lại một kỷ niệm trong những kỷ niệm rất đẹp ấy:
«Khai bút chào xuân vịnh thủy tiên,
Quây quần hội hữu đón minh niên.
Phương Du hội chủ lời trang trọng,
Thi bá Đào nương gợi xéo xiên.
Song Thái, Bằng Vân câu trác tuyệt,
Liên Trang, Bình Lãnh tứ hồn nhiên.
Thi ca ngâm vịnh mừng năm mới.
Tâm trí thanh tân giải hận phiền»
(Hương Bình Cao Văn Chiểu : Hội thơ đầu xuân, TH, tr. 123).
Trong bốn tập thơ của mình, Phương Du đã ghi lại 132 bài thơ xướng họa : 33 bài trong Tha Hương. 40 bài trong Tình Thương. 25 bài trong Tình thương 2 và 32 bài trong Hoa Tâm. Nhiều lần Phương Du đã làm «Thơ phóng sự» ghi lại những hội ngộ «thi nhạc» ấy, mà tiêu biểu nhất là hai bài sau đây.
Một bài ghi lại sinh hoạt
«Một chiều thi nhạc» :
«Chiều nay thi nhạc giao duyên,
Đàn ca quên tạm ưu phiền tha hương.
Tao nhân nào quản dặm trường,
Cùng nhau xum họp văn chương luận bàn.
Chiều nay mặc khách hân hoan,
Vịnh ngâm, xướng họa, muôn phần vui tươi.
Vướn thơ năng tưới, năng bồi,
Cây xanh, lá thắm, nảy chồi, đâm bông.
Chiều nay men tỏa đầy phòng,
Giọng ngâm ấm áp sưởi lòng thi nhân.
Êm đềm, truyền cảm, nhẹ nhàng,
Hồn thơ diễn tả rõ ràng từng câu.
Chiều nay bên cõi trời Âu,
Tiếng hò, điệu hát, tăng màu vườn thơ.
Phỉ lòng mặc khách mong chờ,
Giao duyên thi nhạc, giấc mơ trong đời»
(Chiều thi nhạc, HT, tr. 65).
Một bài tổng kết 20 năm thi nhạc vào năm Quý Mùi 2003:
Hai chục năm qua mỗi dịp xuân,
Ba lê mặc khách họp quây quần
Chung lưng vun bón vườn thơ Việt,
Gọt rũa từng câu, xướng họa vần.
Tạm gác ngoài tai những chuyện đời,
Ưu tư, phiền muộn, mặc đầy vơi.
Thả hồn bay bổngtheo mây gió,
Cùng với Nàng Thơ xướng họa chơi.
Viễn ảnh chiến tranh luống ngậm ngùi,
Bao người lâm nạn mất niềm vui.
Thi nhân coi nhẹ trò chanh chấp,
Chú trọng chia đau, xẻ ngọt bùi.
Bao kẻ cầm quyền sính chiến chinh,
Tác phong, tác quái, thích hư vinh.
Nguyệ cầu Thượng Đế xin soi sang
Cho họ thay tâm tạo thái bình.
Chân thành cảm tạ các thi nhân,
Đã đến Hồng Sơn (Montrouge) trả nợ vần.
Nhân dịp xuân sang mừng chúc bạn
Tràn đầy sáng tác, hưởng nhiều ân.
(Thi hội xuân Quý Mùi, HT, tr. 77)
Cảnh sống thế giới du lịch sống động. Với quyết tâm «Không sao lãng văn thi», «Vui sống với nàng thơ», «Vun bồi văn chương Việt», để «Không quên hồn nước», và «Tưởng nhớ quê hương», sinh hoạt văn hóa thi văn đã là sinh hoạt đặc biệt ưu đãi và quan trọng của Phương Du và đã dẫn ông đến một sinh hoạt khác, cũng thích thú và quan trọng không kém, đó là sinh hoạt du lịch hoàn cầu sống động để gặp gỡ bạn bè, khám phá cảnh đẹp, người tài.
13 bài thơ đã được viết về đề tài này, trong bốn tập thơ của Phương Du. 11 trên 13 bài đã được viết trong tập thơ Tha Hương về những cảnh du lịch khác nhau : Vịnh thác Niagara, Mỹ du ký (Nữu ước, Kansas, Houston, Texas, California, Mount Vermon, Arlington cemetery, sông Potonac, Virginia), Đông du (Hoa Trung), Bãi biển hè (Saint Tropez) Dự hội nghị Nữu Ước, Tháp Effel, Non nước Salzbourg (Cộng Hòa Áo), Kinh thành Vienne, Vịnh Hạ Long, Leo đèo Ngoạn Mục. Trong tập Tình Thương, chỉ có 1 bài về Du hành Canada (Montréal). Trong tập Hoa Tâm cũng chỉ có 1 bài về Tháp World Trade Center. Sau đây, xin mời độc giả làm một cuộc Mỹ Du, qua vài đoạn trích từ bài “Mỹ Du Ký”, và thưởng thức lời thơ lục bát bình dân, lối tả đơn sơ, nhẹ nhàng, sống động và đầy tình đất, tình người của Phương Du:
Bao năm vất vả đấu tranh,
Hè này ta rảnh du hành Mỹ chơi.
Cưỡi con rồng sắt lưng trời,
Vượt non, vượt biển xa vời lướt trôi.
Xuyên mây, nhả khói tơi bời,
Ào ào rẽ gió, xé trời ầm vang
….
Đương trong giấc điệp triền miên,
Bỗng rồng ngừng lướt ta liền tỉnh ra.
Là ta đã đến sơn hà,
Mỹ châu Nữu Ước ta đà đặt chân.
Thoạt tiên ta đến trung phần,
Thăm con, thăm cháu ở gần Kan-sa.
Thăm vài thị trấn gần xa,
Thăm mồ da đỏ, thăm nhà Ai –dăng.
….
Chặng nhì ta xuống Hiu-Tan,
Thăm giàn hỏa tiễn, phi đoàn không gian.
Ở đây đông đảo Việt Nam.
Mọi người vui vẻ chăm làm đua ganh.
Trời tuy nóng bức hoành hành,
Nhưng nhờ máy lạnh, hạ thành ra đông.
Tếch-xa đồng cỏ mênh mông,
Nhiều mì, nhiều lúa, nhiều bông, nhiều dầu.
Là nơi nổi tiếng từ lâu,
Về ngành điện tử đứng đầu vẻ vang.
Rồi ta tiếp tục lên đàng,
Bay qua sa mạc, bay sang tây miền.
Ca-li giải đất thần tiên,
Nắng tươi, gió mát triền miên tứ thời.
Công viên du khách ngập trời,
Dọc đường xa lộ xe hơi quá nhiều.
Khen thay di tản Việt-Kiều,
Tới đây lập nghiệp được nhiều thành công.
…..
Nghẹn ngào ly biệt miền tây,
Anh em thơ thẩn giơ tay vẫy chào.
Lại con rồng sắt ngày nào,
Đưa ta đến gặp kiều bào miền đông.
Thăm đồi lịch sử Véec-nông,
Thăm tòa Bạch Ốc, Linh-tông mộ sầu,
Bâng khuâng ta đứng trên cầu,
Sông Pô-tô-mắc xem tầu lướt trôi.
Lặng lờ dòng nước chia đôi,
Bên là thành phố, bên là Gi-na.
Hỏi thăm bè bạn gần xa,
Đều là hạnh phúc làm ta vui mừng.
Bõ công di chuyển ngàn trùng,
Ta về sẽ hẹn trùng phùng mai đây.
Ngẫm xem con tạo vần xoay,
Nay đây, mai đó, sum vầy lại xa.
Ơn trời rộng lượng bao la,
Ở cho có đức là ta toại nguyền.
(Mỹ du ký, TH, tr. 16-18)
Cảnh sống tâm linh hành hương cầu nguyện. 12 bài thơ đã được Phương Du viết về đề tài này. Trong tập Tha Hương có 5 bài : Hành hương San Damiano (Nơi Đức Mẹ hiện ra nhiều lần ở Bắc Ý), Hành hương San Damiano lần thứ 2, Hành hương Lamã, Hành hương Medjugorje (nơi Đức Mẹ đã hiện ra hơn 1000 lần từ 1981, ở Nam Tư), Hành hương Lộ Đức.
6 bài được viết trong Tình Thương là : Thánh đường Montmartre, Hành hương La Salette, Hành hương Jérusalem, Hành hương Fatima, Hành hương Boitsfort (nơi Chúa hiện ra với ông André, ngoại ô Bruxelles), Hành hương Carthage (Một tỉnh nhỏ ở Missouri, Mỹ, nơi hành hương hàng năm của người Việt Nam). Và 1 bài trong Tình thương 2 về Medjugorje. Trong tập thơ Hoa Tâm, 3 bài về hành hương đã được trình bày, nhưng đều là những bài lấy lại trong tập Tha Hương.
Tâm tình mở rộng về tâm linh, vãn cảnh, hành hương, cầu nguyện. Trong cảnh sống này, thơ phong của Phương Du không khác xa thơ phong du lịch thế giới sống động bao xa. Cũng bình dân, nhẹ nhàng, đơn sơ, sống động và đầy tình cảm. Nhưng thơ phong du lịch nhuộm mầu tình đất, tình người. Còn thơ phong hành hương thắm sắc tin cậy, nguyện cầu, xin ơn.
Đoàn người già trẻ vui mừng,
Xuyên sơn vượt biển băng rừng hành hương.
Ngày đêm giong ruổi dặm trường,
Sau hai ngày tới Thánh Đường Mét-Dư.
Trong vùng đồi núi Nam Tư,
Nơi đây Mẹ hiện đã từ ba năm.
Chiều chiều mẹ đoái xuống thăm,
Mấy em sơn cước đăm đăm bái chờ.
Trong gian phòng cạnh bàn thờ,
Mẹ khuyên đừng có hững hờ lời răn :
Hãm mình, cầu nguyên, ăn năn,
Phải hoà hợp lại, đừng hằn thù nhau.
Đừng làm Chúa phải buồn rầu,
Đừng nghe ác quỷ mắc sầu chiến tranh.
Chúng con xin Mẹ ơn lành,
Xin cho nhân loại thoát vành quỷ ma.
Tình thương Mẹ quá bao la,
Chúng con xin Mẹ ban hoa Hoà Bình.
(Hành hương Medjugorje, TH, tr. 98)
«Tha Hương» là tập thơ thứ nhất của Phương Du. Đó là một tập thơ, trong đó Phương Du đi tìm cái «Chân» của «Tâm Tình tha hương» và cái «Thật» của «Cảnh sống tha hương». Tâm tình tha hương cảm xúc với ba chân tình đậm là «hoài, thương và vọng» cố hương Việt Nam. Cảnh sống tha hương ghi nhận năm cảnh sống thực là gia đình hoà thuận êm ấm, nghề nghiệp thành đạt, bạn bè văn hóa thi nhạc vui tươi, thế giới du lịch sống động và tâm linh hành hương nguyện cầu. Tâm tình và cảnh sống tha hương, đó là hai khía cạnh nổi bật về nội dung “Tha Hương” chính thức đã được loan báo ở «Lời mở» của thi tập «Tha Hương».
Thực ra trong thi tập Tha Hương, một số không nhỏ những bài thơ đã vượt ra khỏi nội dung tha hương, để vươn lên hay nói trước về «cái tốt», «cái thiện», là đề tài chính của hai thi tập «Tình thương» và «Tình thương II». Không những thế, mà nhiều bài thơ ở tập «Tha Hương» còn đề cập cả đến «cái đẹp», «cái mỹ», là đề tài chính của thi tập thứ tư «Hoa tâm».
Và ngược lại, nhiều bài thơ về «tâm tình và cảnh sống tha hương» đã được tiếp tục trong ba tập thơ «Tình Thương», «Tình Thương II» và «Hoa Tâm».
- Lời kết của thi tập với bài thơ «Tri ân Hội Y sĩ thế giới» và bài thơ «Cảnh già»
Theo sổ mục lục tập thơ «Tha Hương» in trong bốn trang 150-153, thì bài thơ cuối cùng là «Tri ân Hội Y-sĩ Thế Giới», trình bày ở trang 147 và bản dịch sang thơ Pháp ngữ với đầu đề “Aux Médecins du Monde hommage & Reconnaissance” ở trang 148.
Bài thơ này rõ rệt là lời kết của thi tập, mở ra một đường mới, đường Tình Thương. Nó ghi nhận những quyết chí, những hy sinh, những cứu vớt mà những đoàn y sĩ của hội “Y-sĩ Thế Giới” Pháp đã dành cho những thuyền nhân Việt Nam vượt biển đi tìm tự do, và đã tiếp nhận họ trên lãnh thổ Pháp, chính thức từ năm 1979, và trước đó, từ năm 1975.
Không nói hết ra, nhưng ngầm ý, Phương Du muốn cám ơn cả xã hội Pháp, từ những người bình dân, đến những đại trí thức Jean-Paul Sartre, Raymond Aron, Michel Foucault, André Glucksmann, và những nhân vật quốc gia, như Tổng thống Valéry Giscard d’Estaing, Đức Hồng y François Marty, nhà chính trị Michel Rocard, ca sĩ kiêm diễn viên Yves Montand…
”Tri ân nghĩa cử từ bi,
Cứu người vận hạn, chẳng gì đẹp hơn”.
Tri ân Hội “Y sĩ thế giới”
Quý trọng thay !những đoàn y –sĩ,
Bỏ phồn hoa quyết chí ra khơi,
Hy sinh đến chốn xa vời,
Biển sâu Nam Hải vớt người trầm luân.
Họ tìm cứu thuyền nhân lâm nạn,
Vì tự do mạnh dạn ly hương,
Trốn đi nguy hiểm trăm đường :
Công an rình rập, đại dương song ngầm.
Vừa thoát khỏi gong cùm đảng bác,
Phải đương đầu hải tặc quỷ xanh,
Giết người, cướp của, bạo hành
Thuyền nhân bao kẻ bỏ mình ngoài khơi.
Để bày tỏ long người vượt biển,
Vài vần thơ gởi đến lương y,
Tri ân nghĩa cử từ bi,
Cứu người vận hạn, chẳng gì đẹp hơn.
(Tri ân Hội “Y sĩ thế giới”, TH, tr. 147)
Thực ra, sau bài thơ «Tri ân hội Y-sĩ Thế giới» còn có bài thơ «Cảnh già». Bài thơ này, dẫu không được ghi trong sổ mục lục của tập thơ, nhưng thực sự là bài thơ cuối cùng của tập thơ, được ghi ở trang 149. Cảnh già là lối mở thứ hai của tập thơ Tha Hương, dẫn vào ý tưởng nhân sinh của Việt Nam «Sinh ký, tử qui», dẫn vào tâm linh, có thề được coi như lời kết chẳng những của thi tập «Tha Hương», mà còn là của cả toàn thể bốn thi tập của Phương Du. «Cảnh già» là điểm tới, là kết cục, là lúc «sửa soạn ngày mai về với Chúa» và đường vào tâm linh theo «Những điều Mẹ dạy gắng làm theo».
«Cảnh già»
Càng già, thể xác lại càng teo,
Tuổi trẻ ngày xanh đã lướt vèo.
Mắt kém, lưng còng, tai nghễnh ngãng,
Răng long, đầu bạc, má nhăn nheo.
Chân tay lẩy bẩy nên lười bước,
Gân cốt lung lay hóa ngại leo.
Sửa soạn ngày mai về nước Chúa,
Những điều Mẹ dạy gắng làm theo.
(Cảnh già, TH, tr. 149)
VÀI CẢM NHẬN VỀ THƠ PHƯƠNG DU
Đọc hết 138 bài thơ trong thi tập «Tha Hương», một sự kiện khách quan ai cũng nhận thấy là, về thể thơ, Phương Du là một nhà thơ đa dạng, làm đủ mọi thể thơ, từ đường thi, thất ngôn, ngũ ngôn, tứ tuyệt, qua lục bát, song thất lục bát, ca trù, hát xẩm, đến thơ mới, thơ tự do.
Hầu như hết mọi thể thơ đều đã được xử dụng trong tập thơ Tha Hương. Trên tổng số 138 bài thơ, thơ Đường, với thất ngôn bát cú, ngũ ngôn và tứ tuyệt, gồm 86 bài, chiếm tỷ số 62%. Thơ Việt Nam, gồm 52 bài, chiếm tỷ số 38%, trong đó có 35 bài thơ lục bát, chiếm 25%; 10 bài song thất lục bát, chiếm 8% và 7 bài hát nói, chiếm 5%.
Trong bài viết này, theo nội dung cảm xúc, nhận định và tư tưởng của Phương Du, dẫu không chủ ý, cùng với những câu trích rải rắc, chúng tôi cũng đã trích hầu như trọn vẹn 13 bài thơ, trong đó nhiều thể thơ đã được nhận ra : 7 bài là đường thi thất ngôn hay ngũ ngôn, 3 bài lục bát, 1 bài song thất lục bát, 1 bài hát nói, và 1 bài hát xẩm.
Cái đa dạng về hình thức thể loại thơ dẫn theo cái phong phú về ý tưởng. Qua một chủ đề nội dung là Tha Hương, Phương Du đã đề cập đến rất nhiều khía cạnh của nó : từ những cái chân của cảm tình chủ quan với quê hương, quốc gia, đất nước, đến những cái thật của cảnh sống khách quan, từ những sinh hoạt thực tại cá nhân gia đình, nghề nghiệp, qua những sinh hoạt thực tế xã hội, bạn bè, du lịch thế giới, đến hành hương tâm linh, cầu nguyện. Từ những nhận định về nếp sống, về tình đời, đến những suy tư về tình thương, về cái hay, cái tốt của tình thương, của tình người. Từ những khám phá vẻ đẹp thiên nhiên, qua những chiêm ngưỡng và tuân giữ nếp sống nhân nghĩa truyền thống đến những học hiểu, thán phục và ca ngợi những cái đẹp của các giáo lý Khổng, Lão, Phật, Chúa, Mẹ.
Cái đẹp đầu tiên và chính yếu, căn bản của thơ Phương Du là cái đẹp nội tại, đẹp từ trong cái nội dung, cái tâm tình hoài hương, thương dân, thương nước, ước vọng thanh bình, phú cường cho quốc gia, dân tộc. Cái đẹp này là một sự cảm xúc, rung động chân thực, bột phát và tức khắc của một tâm hồn Việt Nam chân nhất, đơn sơ, trào ra mỗi khi «chiều đến, ra đứng ngõ sau, trông về quê mẹ» ! Cái đẹp này là sự thương mến cảm thông «Dân ta đói khổ ngập trời, Thiếu ăn thiếu mặc cuộc đời lầm than» ! Cái đẹp này là lòng ước vọng, mong sao «Ngày nào nước Việt phú cường, Đề huề mạnh tiến trên đường thịnh hưng».
Sống «Tha Hương», chẳng những không bị tha hóa, mà vẫn giữ được bản tính của mình, nếp sống gia đình truyền thống của mình, chung thủy, thuận hoà, từ hiếu. Chẳng những không bị thất truyền, mà còn phát triển và thành đạt được trong nghề của mình. Duy trì và thăng tiến được liên lạc bạn bè của mình, trung tín, lễ nghĩa. «Không quên hồn nước», không quên tiếng việt của mình, mà còn làm cho trong sáng hơn, phong phú hơn, vui tươi hơn trong giao thiệp hằng ngày và trong thi ca xướng họa. Không bị cô đơn, mà hoà đồng, kiêm ái, tứ hải giai huynh đệ ; mà giữ gìn truyền thống nhân ái «thương người như thể thương thân». Không bị tha hóa, vong thân, cũng chẳng bị đồng hóa, mà vẫn giữ được căn tính của mình, chủ thể tính của mình.
Cái đẹp này là cái đẹp được thấy «Cháu nội, dâu hiền ấm cúng thêm». Được chứng kiến «Nhiều bệnh cứu châm khỏi rất nhanh». Được tham dự «Hai chục năm qua mỗi dịp xuân, Ba lê mặc khách họp quây quần, Chung lưng vun bón vườn thơ Việt, Gọt rũa từng câu, xướng họa vần». Được «Bao năm vất vả đấu tranh, Hè này ta rảnh du hành Mỹ chơi». Được «Ơn trời rộng lượng bao la, Ở cho có đức là ta toại nguyền. Và được «Sửa soạn ngày mai về nước Chúa, Những điều Mẹ dạy gắng làm theo».
Đây là cái đẹp chủ thể làm chủ động, vừa biết vượt trên thực tại vật chất để rung cảm với những tâm tình bột phát, những cảm xúc thiên nhiên, thoát tục, tâm linh, vừa biết đi vào thực tại, để ghi nhận những dữ liệu thực tế, thẩm lượng, định giá, hầu thực hiện sáng tạo. Cái đẹp này bao hàm một cái gì là chân, là thật, gói ghém một cái gì vừa tốt, vừa thiện và đưa tới một cái gì vừa cao, vừa siêu, vừa cao cả, vừa tâm linh. Đẹp, Tốt, Thật ; Mỹ, Thiện, Chân là ba cực ôm quấn vào nhau của một vòng tròn Thái Cực đồ «Thơ Phương Du».
Về nội dung mới này, ta có thể bảo rằng Phương Du là một trong những người đã khai phá ra một thế hệ mới trên thi đàn văn học Việt Nam cho thời hậu chiến. Khác với thơ thời tiền chiến 1930-1945 và thơ thời chiến 1945-1975, thơ thời hậu chiến 1975-2015 nở rộ ra ở hải ngoại với dòng thơ THA HƯƠNG. Chính Phương Du đã là người đầu tiên ấn hành 4 thi phẩm : «Tha Hương» vào năm 1986, «Tình Thương» vào năm 1991, «Tình thương II» vào năm 1993 và «Hoa Tâm» vào năm 2002 và tái bản năm 2008. Trong tất cả bốn thi phẩm này, ngay cả trong ba tập thơ về chủ đề Tình Thương và Hoa Tâm, đều tràn trề những bài thơ, những lời thơ Tha Hương.
Sau đó, dần dà, những đề tài về «lưu vong», «lưu dân xa xứ» đã được một số tuyển tập thơ hải ngoại giới thiệu và phổ biến. Năm 2003 tuyển tập Một phần tư (1975-2000) thế kỷ Thi Ca Việt Nam Hải Ngoại đã được Võ Đức Trung [1] xuất bản ở Pháp. Cùng năm 2003 một tuyển tập thơ hải ngoại khác, tên là Lưu Dân Thi Thoại, đã được Diên Nghị & Song Nhị [2] cho xuất bản ở Mỹ. Tuyển tập thứ ba đã được Nguyễn Thùy [3] biên soạn dưới tựa đề Khung trời hướng vọng và xuất bản ở Pháp năm 2005. Tuyển tập thứ tư dưới tựa đề Kỷ yếu 20 năm văn học Cội Nguồn 1993-2013 đã được cơ sở Thi Văn Cội Nguồn [4] xuất bản ở Mỹ vào năm 2013.
Nhiều ý ắt phải nhiều lời. Lời của Phương Du rất bình dân, giản dị, nhưng cũng rất phong phú, rất tự nhiên và chân thật, và cũng rất dồi dào âm sắc và nhạc tính ; chân thật và truyền cảm về ghi nhận, sắc sảo phân biệt tốt xấu về phê phán, súc tích phong phú về sáng tạo đẹp tươi ; trong sáng và dễ hiểu về tâm linh.
Ngoài cái đẹp về ý, thơ của Phương Du còn có cái đẹp về lời thơ. Nét đặc sắc và độc đáo về lời đẹp của thơ Phương Du là lời của ông có nhiều chất dân gian, bình dân. Những đề tài của 138 bài thơ trong «Tha Hương» đều có chất dân gian. Vì hầu hết các đề tài này đều là những đề tài gắn liền đến cuộc sống và lời nói hằng ngày của người bình dân. Đời tôi, Nhà tôi, Nghề tôi, Làng tôi, Đất Nước Tôi. Vườn Xuân, Vui Xuân, Chào Hè, Bãi biển Hè, Thu Về, Thu Xa Quê, Thu Xưa Thu Nay, Đông Về, Đông xưa Đông nay. Nhớ Quê, Hận Ly hương, Nhớ Bạn, Buồn Thế Sự, Sầu Chia Ly,…
Đề tài gắn liền đến cuộc sống dân gian, bình dân đã vậy, mà ngữ liệu, ngôn từ xử dụng, đều rất gần với tục ngữ, ca dao, là thứ ngôn ngữ thường ngày của dân gian, quần chúng, bình dân.
Để chứng tỏ và thưởng thức nét đẹp của lời thơ có nhiều chất dân gian, bình dân và phong phú này của lời thơ Phương Du, và đồng thời để chấm dứt bài «Đọc Thơ Tha Hương của Phương Du» này, xin mời độc giả đọc bài «Làng tôi», mà tôi nghĩ rằng Phương Du rất ưa thích. Lý do vì trong lá thơ Phương Du vừa gửi cho tôi ngày 14.01.2016, ông đề nghị với tôi rằng : «Bài lục bát nhan đề «Làng Tôi» ở trong Tha Hương, trang 35, tôi muốn đổi vài chữ và thêm hai câu ở cuối bài, để đưa vào hình ảnh rất đẹp của làng Việt Nam ta». Xin mời Độc giả đọc bài thơ đã phổ biến từ năm 1986, mà nay, 2016, đúng 30 năm sau, đã được tác giả đọc lại và thêm vào đó hai chữ ở câu thứ tám «Ưa nuôi gà vịt, thích trồng bưởi cam» và hai câu mới cuối cùng ở cuối bài «Là nơi hè sáng tinh sương, Trông như xanh tổ ánh dương chan hòa».
Làng tôi ở tỉnh Hà Đông,
Thôn trên xóm dưới, ruộng đồng bao quanh.
Làng tôi có lũy tre xanh,
Con ngòi nước chảy long lanh dưới cầu.
Làng tôi dân chúng không giầu,
Cấy cầy mùa hạ, làm mầu mùa đông.
Làng tôi đa số tiểu nông,
Ưa nuôi gà vịt, thích trồng bưởi cam.
Làng tôi có gió nồm nam,
Chiều hè đàn trẻ mê ham thả diều.
Làng tôi có tiếng chuông chiều,
Ngân dài một điệulàm xiêu tâm hồn.
Làng tôi có tiếng ốc dồn,
Giục dân về xóm, hoàng hôn xuống dần.
Làng tôi chùa đẹp bội phần,
Hồ sen bán nguyệt, nằm gần tháp chuông.
Làng tôi có lắm chim muông,
Sáng kêu ríu rít như tuồng gọi nhau.
Làng tôi san sát vườn cau,
Ông già bà lão ăn trầu nhuộm răng.
Làng tôi có hội hoa đăng,
Trai thanh gái lịch tung tăng sân đình.
Bao nhiêu cảnh vật hữu tình,
In sâu vào óc những hình ảnh quê.
Nay tuy bận rộn trăm bề,
Nhưng luôn tưởng nhớ hướng về cố hương.
Là nơi hè sáng tinh sương,
Trông như xanh tổ ánh dương chan hòa.
(Làng tôi, TH, tr. 35, cập nhật theo thư ngày 14.01.2016)
Paris, tháng 02 năm 2016
Trần Văn Cảnh
PHỤ CHÚ :
(1). Võ Đức Trung (với sự cộng tác của Đỗ Bình và Nguyễn Thùy): Một phần tư (1975-2000) thế kỷ Thi Ca Việt Nam Hải Ngoại 2 (toàn bộ có 7 tập) ; Hallennes-Lez-Haubourdin (Miền Bắc nước Pháp) : Nhóm Văn Hóa Pháp Việt ; 2003 ; 372 trang. «Toàn Bộ Tập Hợp Thi Ca này nhằm mục đích duy nhất bảo tồn và lưu trữ cho mai sau một sinh hoạt tinh thần tuyệt vời và phong phú của người Việt Nam hải ngoại, những người đã đành lòng phải xa rời cái «Khung Văn Hóa» để mang chở nơi mình cái «Hồn Văn Hóa» âm ỉ đêm ngày ray rứt thân phận lưu vong, xem như một «gia tài Văn Hóa Việt Nam» đích thực vậy». Tập 2 này tuyển thơ của 30 thi sĩ Việt Nam hải ngoại.
(2). Diên Nghị & Song Nhị : Lưu Dân Thi Thoại, bút luận 25 năm thơ hải ngoại (1975-2000) ; San Jose : Cơ sở Thi văn Cội Nguốn ; 2003 ; 584 trang. «Luận giải về 48 nhà thơ được chọn lọc và giới thiệu một số bài thơ của họ, Lưu Dân Thi Thoại là tác phẩm kết tụ từ những trăn trở, thao thức, là tiếng nói của hàng triệu người con lưu dân Việt, là nhịp cảm xúc của thi ca, vọng về từ nghìn trùng cách trở đại dương của những người con, lưu dân xa xứ».
(3). Nguyễn Thùy : Khung trời hướng vọng ; Paris : Nắng Mới ; 2005 ; 564 trang. Là một tâm tình «Hướng vọng về Khung trời» cố hương chuẩn bị cho một «Ngày về» đem sức, đem khả năng cùng đồng bào trong nước xây dựng lại đất nước thực sự an lành tươi sáng sau bao tháng ngày bi thảm. Là một tập khảo luận thơ của 16 tác giả, đã phục vụ trong Quân đội miền Nam, đại diện cho người Việt Nam hải ngoại đã trưởng thành trên «Mẹ Đất» quê hương và trên «Mẹ Đất» của miền khách địa, lúc nào cũng vọng hoài «Cha Trời» cố quận.
(4). Cơ sở Thi Văn Cội Nguồn: Kỷ yếu 20 năm văn học Cội Nguồn 1993-2013 ; San Jose : Cơ sở Thi văn Cội Nguốn; 2013 ; 646 trang. Đây là một kỷ yếu ghi lại dấu mốc 20 năm sinh hoạt văn chương và văn học của các văn thi sĩ và thân hữu của Cơ Sở Thi Văn Cội Nguồn. Bốn phần đã được trình bày : 1- Quan điểm, nhận định, phê bình (12 bài); 2- Sáng tác, văn thơ (28 tác giả và giới thiệu một số sáng tác văn thơ của họ) ; 3- Tản văn (10 tác giả và giới thiệu một vài tản văn (và thơ) của họ ; 4- Hình ảnh (sinh hoạt Cội Nguồn).
Đăng ngày 14 tháng 10.2016
Bổ túc ngày 19 tháng 10.2016