ĐƯỜNG THI - CỔ THI
Cao Nguyên tuyển dịch
20.
Tiền Khởi
暮春歸故山草堂
谷口春殘黃鳥稀,
辛夷花盡杏花飛。
始憐幽竹山窗下,
不改青陰待我歸。
錢起
Mộ xuân quy cố sơn thảo đường
Cốc khẩu xuân tàn, hoàng điểu hy,
Tân di hoa tận, hạnh hoa phi.
Thỉ liên u trúc sơn song hạ,
Bất cải thanh âm, đãi ngã quy.
Tiền Khởi
Dịch thơ :
Cuối xuân, về nhà tranh ở núi cũ
Oanh vắng, xuân tàn nơi cửa động,
Mộc lan rơi rụng, hạnh hoa bay.
Chỉ thương bụi trúc bên song cửa,
Vẫn đợi ta về chẳng đổi thay.
Cao Nguyên
--------------------------------
谷口書齋寄楊補闕
泉壑帶茅茨,
雲霞生薜帷。
竹憐新雨後,
山愛夕陽時。
閒鷺棲常早,
秋花落更遲。
家童掃羅徑,
昨與故人期。
錢起
Cốc khẩu thư trai ký Dương Bổ khuyết
Tuyền hác đới mao tì,
Vân hà sinh tệ duy.
Trúc lân tân vũ hậu,
Sơn ái tịch dương thì.
Nhàn lộ thê thường tảo,
Thu hoa lạc cánh trì.
Gia đồng tảo la kính,
Tạc dữ cố nhân kỳ.
Tiền Khởi
Dịch thơ :
Trong nhà đọc sách ở Cốc Khẩu
Làm thơ gửi quan Bổ khuyết họ Dương
Suối treo trên mái nhà tranh
Ráng mây in nổi trên cành đằng-la
Yêu thay khóm trúc la đà
Cơn mưa vừa tạnh, nắng tà sườn non
Cánh cò ban sớm chon von
Cành hoa thu muộn vẫn còn chậm rơi
Gia đồng quét cỏ dọn nơi
Đêm qua hẹn bạn đến chơi thăm nhà
Cao Nguyên
----------------------------
送崔十三東游
千里有同心,
十年一會面。
當杯緩箏柱,
倏忽催離宴。
丹鳳城頭噪晚鴉,
行人馬首夕陽斜。
灞上春風留別袂,
關東新月宿誰家。
官柳依依兩鄉色,
誰能此別不相憶。
錢起
卷236_14
Tống Thôi thập tam đông du
Thiên lý hữu đồng tâm ,
Thập niên nhất hội diện .
Đương bôi hoãn tranh trụ ,
Thúc hốt thôi ly yến .
Đan Phượng thành đầu táo vãn nha ,
Hành nhân mã thủ tịch dương tà .
Bá thượng xuân phong lưu biệt duệ ,
Quan Đông tân nguyệt túc thùy gia .
Quan liễu y y lưỡng hương sắc ,
Thùy năng thử biệt bất tương ức .
Tiền Khởi
Dịch thơ :
Tiễn Thôi thập tam đông du
Nghìn dặm lỏng vẫn cùng
Mười năm mới gặp lại
Nâng ly phím tơ chùng
Tiệc chia tay vội vã
Đầu thành Đan Phượng quạ kêu chiều
Người ngựa lên đường giữa tịch liêu
Sông Bá chia tay chừng bịn rịn
Quan Đông trăng sớm ngụ nơi đâu
Hai quê liễu rủ một màu
Biệt ly ai chẳng nhớ nhau hỡi người
Cao Nguyên
--------------------------
送僧歸日本
上國隨緣住,
來途若夢行。
浮天滄海遠,
去世法舟輕。
水月通禪寂,
魚龍聽梵聲。
惟憐一燈影,
萬里眼中明。
錢起
Tống tăng quy Nhật Bản
Thượng quốc tùy duyên trụ,
Lai đồ nhược mộng hành.
Phù thiên thương hải viễn,
Khứ thế pháp chu khinh.
Thuỷ nguyệt thông thiền tịch,
Ngư long thính Phạm thanh.
Duy liên nhất đăng ảnh,
Vạn lý nhãn trung minh
Tiền Khởi
Dịch thơ :
Tiễn sư về Nhật Bản
Tùy duyên nơi thượng quốc
Như mộng thuận đường trôi
Biển xa trời mây biếc
Thuyền Pháp nhẹ xa khơi
Ý Thiền soi trăng nước
Lời Kinh cá lắng nghe
Chỉ một đèn một bóng
Soi thấu đến muôn đời
Cao Nguyên
21.
Tô Đông Pha (Tô Thức)
梅花-其一
春來幽谷水潺潺,
的落梅花草棘間.
一夜東風吹石裂,
半隨飛雪度關山.
蘇東坡
Mai hoa (kỳ 1)
Xuân lai u cốc thủy sàn sàn,
Đích lạc mai hoa thảo cức gian.
Nhất dạ đông phong xuy thạch liệt,
Bán tùy phi tuyết độ quan san.
Tô Đông Pha
Dịch thơ :
Hoa mai ( bài 1)
Xuân về góc núi, nước tuôn tràn.
Trong đám cỏ gai, mai héo tàn.
Gió thổi một đêm rung núi đá.
Hoa bay theo tuyết đến quan san.
Cao Nguyên Minh
------------------------------
別歲
故人适千里,
臨別尚遲遲。
人行猶可復,
歲行那可追。
問歲安所之,
遠在天一涯。
已逐東流水,
赴海歸無時。
東鄰酒初熟,
西舍彘亦肥。
且為一日歡,
慰此窮年悲。
勿嗟舊歲別,
行與新歲辭。
去去勿回顧,
還君老與衰。
蘇軾
Biệt tuế
Cố nhân quải thiên lý,
Lâm biệt thượng trì trì.
Nhân hành do khả phục,
Tuế hành na khả truy.
Vấn tuế an sở chi,
Viễn tại thiên nhất nhai.
Dĩ trục đông lưu thuỷ,
Phó hải quy vô thì.
Đông lân tửu sơ thục,
Tây xá trệ diệc phì.
Thả vi nhất nhật hoan,
Ủy thử cùng niên bi.
Vật ta cựu tuế biệt,
Hành dữ tân tuế từ.
Khứ khứ vật hồi cố,
Hoàn quân lão dữ suy.
Tô Thức (Tô Đông Pha)
Dịch thơ :
Giã biệt ( tháng) năm
Người đi còn có ngày về,
Nhưng năm gấp ruổi khó bề đuổi theo.
Thử hỏi thời gian đi đâu?
Theo dòng nước chảy đổ vào biển đông.
Viễn du tận cuối trời không.
Rượu ngon đúng độ xóm đông dậy mùi,
Xóm tây lợn béo no đầy,
Hãy vui cho hết trọn ngày hôm nay.
Bù cho sầu héo năm dài,
Đừng quên từ giã tháng ngày đã qua.
Đừng quay về, hãy đi xa,
Mang theo cùng với tuổi già lão suy.
Cao Nguyên
-----------------------------------
江城子,乙卯正月二十日夜記夢
十年生死兩茫茫,
不思量,
自難忘。
千里孤墳,
無處話淒涼。
縱使相逢應不識,
塵滿面、
鬢如霜。
夜來幽夢忽還鄉,
小軒窗,
正梳妝。
相顧無言,
惟有淚千行。
料得年年腸斷處,
明月夜、
短松崗。
蘇軾
Giang thành tử -
Ất Mão chính nguyệt nhị thập nhật dạ ký mộng
Thập niên sinh tử lưỡng mang mang
Bất tư lường
Tự nan vong
Thiên lý cô phần
Vô xứ thoại thê lương
Túng sử tương phùng ưng bất thức
Trần mãn diện
Mấn như sương
Dạ lai u mộng hốt hoàn hương
Tiểu hiên song
Chính sơ trang
Tương cố vô ngôn
Duy hữu lệ thiên hàng
Liệu đắc niên niên trường đoạn xứ
Minh nguyệt dạ
Đoản tùng cương.
Tô Thức
Dịch thơ :
Mười năm tử biệt sinh ly,
Dù không nghĩ đến dễ gì quên đây?
Nấm mồ trơ trọi lất lây,
Hoang sơ lạnh lẽo đã đầy xót xa.
Gặp nhau chắc có nhận ra,
Mặt hoen cát bụi tóc đà tuyết sương.
Đêm qua trong mộng hồi hương
Bên song lại thấy nàng đương chải đầu.
Lặng yên chỉ biết nhìn nhau,
Nghìn dòng lệ ứa bấy lâu nát lòng.
Trăng khuya bóng ngả đồi thông ...
Cao Nguyên
-------
遊西菩提寺
路转山腰足未移
水清石瘦便能奇
白雲自占东西嶺
明月谁分上下池
黑黍黄粟初熟候
朱柑绿橘半甜時
人生此樂须天付
莫遣兒曹取次知
蘇軾
Du tây Bồ Đề Tự
Lộ chuyển sơn yêu túc vị di
Thủy thanh thạch sấu tiện năng kỳ
Bạch vân tự chiếm đông tây lãnh
Minh nguyệt thùy phân thượng hạ trì
Hắc thử hoàng lương sơ thục hậu
Chu cam lục quất bán kiềm thì
Nhân sinh thử lạc tu thiên phó
Mạc khiến nhi tào thủ thứ tri
Tô Thức
Dịch thơ :
Đi về hướng tây thăm chùa Bồ Đề
Đường quanh eo núi khó dời chân
Đá mảnh, nước trong cảnh lạ thêm
Mây trắng đông tây liền một dải
Hồ in trăng sáng nước chia phân
Ngô vàng , thóc mật đương mùa chín
Quýt đỏ, cam xanh ngọt bội phần
Trời phát lộc cho người hưởng thụ
Cháu con nhớ lấy đó đừng quên
Cao Nguyên
-----------------------------------
留別釋迦院
春風 小 院 卻 來 時
壁間 惟 見 使 君 詩
應問 使 君 何 處 去
憑花 說 與 春 風 知
年年 歲 歲 何 窮 已
花似 今 年 人 老 喜
去年 崔 護 若 重 來
前度 劉 郎 在 千 里
蘇軾
Lưu biệt Thích Ca Viện
Xuân phong tiểu viện khước lai thì
Bích gian duy kiến sứ quân thi
Ưng vấn sứ quân hà xứ khứ
Bằng hoa thuyết dữ xuân phong tri
Niên niên tuế tuế hà cùng dĩ
Hoa tợ kim niên nhân lão hỉ
Khứ niên Thôi Hộ khước trùng lai
Tiền độ Lưu Lang tại thiên lý
Tô Thức
Dịch nghĩa :
Nếu ngọn gió mùa xuân đi tới nơi chùa nhỏ,
Hẳn là chỉ thấy bài thơ của sứ quân đề trên vách.
Có lẽ sẽ hỏi sứ quân đi đâu
Nhờ hoa nói cho ngọn gió biết
Năm này rồi năm khác, bao giờ cùng tận nổi;
Nhưng hoa vẫn còn như là hoa năm nay,
Mà người thì đã cằn cỗi ra rồi.
Nếu chàng Thôi Hộ năm xưa có trở lại lần nữa,
Thì chàng Lưu đã đi ngoài xa diệu vợi
Dịch thơ :
Lưu biệt Thích Ca Viện
Nếu gió xuân qua ngôi chùa nhỏ
Chỉ thấy thơ đề trên vách thôi
Sẽ hỏi sứ quân giờ đâu nhi?
Nhờ hoa cho gió biết khúc nôi
Năm này năm nữa bao giờ hết
Người già đi nhưng hoa vẫn tươi
Thôi Hộ năm xưa mà trở lại
Thì chàng Lưu đã tít mù khơi
Cao Nguyên
Chú thích:
Năm 1078, Tô Thức (8/1/1037–24/8/1101) được 42 tuổi, vào tháng 4, đổi từ Mật Châu 密州 (Sơn Đông) sang Từ Châu 徐州 (Bành Thành), ông có làm bài thơ:
Lưu biệt Thích Ca Viện Mẫu Đan trình Triệu Thối:
留别释迦院牡丹呈赵倅
Năm 1078 tức năm Mậu Ngọ 戊午 hay năm đầu niên hiệu Nguyên Phong 元丰元年
Bài này về sau được khắc trên tường chùa (Thích Ca Viện Mẫu Đan).
Triệu Thối là bạn của Tô Thức, người đã giới thiệu Tô Thức với Vương Triều Vân 王朝云, sau này là vợ của Tô Thức; Vương Triều Vân đã đi theo Tô Thức trên suốt bước đường lưu đày. Vì vậy Tô Thức làm thơ tặng Triệu Thối và cũng có ý muốn nhắc lại chuyện tình của mình với Vương Triều Vân.
Lưu Lang tức Lưu Vũ Tích, Tô Thức muốn nói Lưu Vũ Tích trước đây bị đày đi đất Thục xa ngàn dặm, cũng như mình hiện nay, nếu chàng Thôi Hộ có trở lại thì Lưu Lang cũng đã ở rất xa rồi (từ Mật Châu sang Từ Châu)
Trích từ:
1. 苏轼诗全集-卷八
2. 苏轼年表上_载酒问字_百度空间
-----------------------------------
春江晚景
竹外桃花三兩枝,
春江水暖鴨先知。
蔞蒿滿地蘆芽短,
正是河豚欲上時。
蘇軾
Xuân giang vãn cảnh
Trúc ngoại đào hoa tam lưỡng chi,
Xuân giang thuỷ noãn áp tiên tri.
Lâu hao mãn địa lô nha đoản,
Chính thị hà đồn dục thượng thì.
Tô Thức
Dịch thơ :
Cảnh chiều sông xuân
Ngoài dậu, hoa đào vài nhánh nở,
Nước ong xuân ấm, vịt hay rồi.
Cỏ tranh đầy đất, mầm lau nhú,
Lũ cá lòng tong muốn rỉa mồi.
Cao Nguyên
Cảnh chiều sông xuân
Ngoài song, vài nhánh hoa đào,
Nước ong xuân ấm lao nhao vịt trời.
Mầm lau nhú, cỏ xanh tươi,
Lũ lòng tong muốn loi ngoi rỉa mồi.
Cao Nguyên Minh
Chú thích :
河豚 (hé tún )hà đồn = cá nóc ( Thiều Chửu )
có thể là cá lòng tong một loài cá nhỏ ở sông thường ngoi lên mặt nước rỉa mồi
22.
Trần Tử Ngang 陳子昂
感遇
蘭若自春夏,
芊蔚何青青.
幽獨空林色,
朱蕤冒紫莖.
遲遲白日晚,
嫋嫋秋風生.
歲花盡搖落,
芳意更何成.
陳子昂
Cảm Ngộ
Lan nhược tự xuân hạ
Thiên uất hà thanh thanh
U độc không lâm sắc
Chu nhuy mạo tử hành
Trì trì bạch nhật vãn
Niệu niệu thu phong sinh
Tuế hoa tận dao lạc
Phương ý cánh hà thành.
Trần Tử Ngang
Dịch thơ :
Cảm ngộ
Lan từ xuân qua hạ
Thật tươi tốt xanh xanh
Khoe mình riêng rừng vắng
Hoa đẹp vươn đỏ cành
Ngày hè qua chầm chậm
Gió thu thổi hanh hanh
Theo mùa hoa rơi rụng
Hương sắc thật mong manh.
Cao Nguyên
23.
Thôi Đạo Dung 崔道融
溪居即事
籬外誰家不系船,
春風吹入釣魚灣。
小童疑是有村客,
急向柴門去卻關。
崔道融
Khê cư tức sự
Ly ngoại thùy gia bất hệ thuyền,
Xuân phong xuy nhập điếu ngư loan.
Tiểu đồng nghi thị hữu thôn khách,
Cấp hướng sài môn khứ khước quan.
Thôi Đạo Dung
Dịch thơ :
Tả cảnh bên khe
Thuyền ai ngoài giậu quên neo,
Gió xuân thổi dạt trôi theo vào đầm.
Trẻ con ngỡ khách đến thăm,
Chạy ra mở vội gióng then cổng rào.
Cao Nguyên Minh
24.
Thôi Đồ
春夕旅懹
水流花謝兩無情,
送盡東風過楚城。
蝴蝶夢中家萬里,
杜鵑枝上月三更。
故園書動經年絕,
華髮春催兩鬢生。
自是不歸歸便得,
五湖煙景有誰爭。
崔塗
Xuân tịch lữ hoài
Thủy lưu hoa tạ lưỡng vô tình,
Tống tận đông phong quá Sở thành.
Hồ điệp mộng trung gia vạn lý,
Đỗ quyên chi thượng nguyệt tam canh.
Cố viên thư động kinh niên tuyệt,
Hoa phát xuân thôi lưỡng mấn sinh.
Tự thị bất quy quy tiện đắc,
Ngũ Hồ yên cảnh hữu thùy tranh
Thôi Đồ
Dịch thơ :
Lòng khách đêm xuân
Vô tình nước chảy cuốn hoa rơi
Theo gió đông về Sở viễn khơi
Vạn dậm quê nhà trong giấc bướm
Ba canh nguyệt tận cuốc cầm hơi
Thư nhà biền biệt lòng lo sợ
Xuân giục hoa khai tóc bạc rồi
Tự nhủ không về, về cũng được
Ngũ Hồ sương khói cứ rong chơi
Cao Nguyên Minh
---------------------------
漢室山河鼎勢分,
勤王誰肯顧元勳。
不知征伐由天子,
唯許英雄共使君。
江上戰餘陵是穀,
渡頭春在草連雲。
分明勝敗無尋處,
空聽漁歌到夕曛。
崔塗
Xích Bích hoài cổ
Hán thất sơn hà đỉnh thế phân,
Cần vương thùy khẳng cố nguyên huân.
Bất tri chinh phạt do thiên tử,
Duy hứa anh hùng cộng sứ quân.
Giang thượng chiến dư lăng thị cốc,
Độ đầu xuân tại thảo liên vân.
Phân minh thắng bại vô tầm xứ,
Không thính ngư ca đáo tịch huân.
Thôi Đồ
Dịch thơ :
Nhớ Xích Bích xưa
Thế chia nhà Hán ba chân vạc
Giúp nước phò vua há tính công
Phụng mệnh thiên triều đi đánh giặc
Anh hùng thiên hạ kể thêm ông
Bến xuân còn đó mây liền cỏ
Tàn trận trơ gò lũng bên sông
Tranh thắng chốn xưa thìm chẳng thấy
Chỉ nghe chài hát giữa chiều không
Cao Nguyên
鸚鵡洲即事
悵望春襟鬱未開,
重吟鸚鵡益堪哀。
曹瞞尚不能容物,
黃祖何曾解愛才。
幽島暖聞燕雁去,
曉江晴覺蜀波來。
何人正得風濤便,
一點輕帆萬里回。
崔塗
Anh Vũ châu tức sự
Trướng vọng xuân khâm uất vị khai,
Trùng lâm Anh Vũ ích kham ai.
Tào Man thượng bất năng dung vật,
Hoàng Tổ hà tằng giải ái tài.
U đảo noãn văn Yên nhạn khứ,
Hiểu giang tình giác Thục ba lai.
Hà nhân chính đắc phong đào tiện,
Nhất điểm khinh phàm vạn lý hồi.
Thôi Đồ
Dịch thơ :
Bãi Anh Vũ tức cảnh
Ngắm xuân uất hận vẫn chưa khuây
Thăm lại bãi sông Anh Vũ nầy
Đến lúc Tào Man không rộng lượng
Làm sao Hoàng Tổ dám nương tay
Nhạn Yên vỗ cánh trên hoang đảo
Sóng Thục ru bờ một sớm mai
Ai sẽ là người theo gió nhẹ
Đưa buồm vạn dặm trở về đây.
Cao Nguyên
25.
Tống Chi Vấn
題大庾北驛
陽月南飛雁,
傳聞至此回。
我行殊未已,
何日複歸來。
江靜潮初落,
林昏瘴不開。
明朝望鄉處,
應見隴頭梅。
宋之問
Đề Đại Dữu bắc dịch
Dương nguyệt nam phi nhạn,
Truyền văn chí thử hồi.
Ngã hành thù vị dĩ,
Hà nhật phục quy lai ?
Giang tĩnh triều sơ lạc,
Lâm hôn chướng bất khai.
Minh triêu vọng hương xứ,
Ưng kiến lũng đầu mai.
Tống Chi Vấn
Dịch thơ :
Đề trạm bắc Đại Dữu
Tháng mười nhạn thiên di,
Đến phương nam quày lại.
Sao ta phiêu bạt mãi,
Ngày nao về cố hương.
Sông vắng nước triều buông,
Rừng chưa mờ lam chướng.
Hướng về làng ban sớm,
Đầu lũng thấy nhành maị.
Cao Nguyên
------------------------------
陸渾山莊
歸來物外情,
負杖閱岩耕。
源水看花入,
幽林採藥行。
野人相問姓,
山鳥自呼名。
去去獨吾樂,
無然愧此生
宋之問
Lục Hồn sơn trang
Quy lai vật ngoại tình,
Phụ trượng duyệt nham canh.
Nguyên thuỷ khán hoa nhập,
U lâm thái dược hành.
Dã nhân tương vấn tính,
Sơn điểu tự hô danh.
Khứ khứ độc ngô lạc,
Vô nhiên quý thử sinh.
Tống Chi Vấn
Dịch thơ :
Sơn trang Lục Hồn
Về quê rũ bỏ việc đời,
Chống gậy thăm ruộng mà chơi.
Đầu nguồn xem hoa bên suối,
Rừng sâu hái thuốc thảnh thơi.
Gặp người thượng hỏi tên họ,
Chim núi kêu đó là mình.
Đi đi về về vui thú,
Không gì cho thỏa bình sinh.
Cao Nguyên