THÁNG TƯ
Ngũ Tướng Vi Thần
1- Nguyễn Khoa Nam
Sinh vi Tướng - Tử vi Thần
Miền Tây Tư Lệnh quân dân thương vì:
Thanh liêm, cương trực, gan lì
Vang danh Tướng trẻ Trí-Bi-Dũng toàn
Chẳng hàng tuẫn tiết hiên ngang
Cần Thơ giữ được bình an đổi cờ.
2- Lê Văn Hưng
Anh hùng An Lộc Bình Long
Quyết không sống nhục “Chín Rồng Miền Tây”
Bùi ngùi im lặng vài giây
Ôm con nhìn vợ... lưng quay súng rền
Hùng thiêng thanh sử nào quên.
3- Trần Văn Hai
Độc dược ra đi vẹn chí trai
Kiên cường kiện Tướng Trần Văn Hai
Vinh danh hào kiệt đời sau luận
Khí tiết hùng anh đã hiển bày
Khấn vái ngài Phan, linh chứng giám
Thì thầm cụ Diệu, hiểu lời này
Thế thời phải thế... thôi đành thế
Uống cạn đỉnh hồng hồn nhẹ bay.
4- Lê Nguyên Vỹ
Sinh bất phùng thời! Khổ quá ư
Lệnh trên “mật lệnh” thật hay hư
Lên tàu đi tản người chen chúc
Đổ bộ gánh gồng mệt ngất ngư
Những tưởng vờ thua, thành đại thắng
Nào hay mất đất, nhục thiên thu
Trời ơi Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ
Phát súng vi Thần hận Tháng Tư.
5- Phạm Văn Phú
Chẳng bỏ tinh binh chẳng bỏ dân
Thế cờ khốn đốn giữa mùa Xuân
Thắng/thua nào phải bày binh trận
Còn/mất đâu ngờ đã định phân
Tư lệnh mà không quyền tự lệnh
Cầm binh chẳng giống Tướng ra quân
Đành thôi “ hạt đỉnh hồng ” pha rượu
Nốc một hơi cay, gặp tử thần.
Kiều Mộng Hà
April 20th2020
THÁNG TƯ ĐẦU BẠC
Tháng Tư gấp vội khăn tang
Thấy trang sách cũ hai hàng lệ rơi
Ngó mây nước... dạ rối bời
Đi thời nghẽn lối, ở thời... đắng cay!
Tháng Tư ôi tháng Tư này
Đành thôi gãy súng... trắng tay chẳng ngờ!
Chồng đi cải tạo... Bơ vơ
Vợ nhà tần tảo đợi chờ héo hon!
Tháng Tư đen ngậm bồ hòn
Mất nhau từ đấy... Biển, con sóng gào!
Còn chăng sương gió trăng sao
Bể dâu tang tóc, non cao hận thù ?!
Tháng Tư lạc dấu thiên thu
Người thua kẻ thắng ngục tù đọa nhau!
Giờ đây mới rõ vàng thau
Thương ai đầu bạc qua cầu... Tháng Tư!
April 16th 2020
Hồ Công Tâm
NHỚ CHUYỆN THÁNG TƯ
(Nhớ bạn Dũng Hải quân)
Sấm chớp vang rền mưa chưa tới
Bom rơi sáng loé phía phi trường
Những lớp người đi về phía biển
Ta buồn sấp mặt giữa tang thương
Loạng quạng hoàng hôn đầy tiếng nổ
Ta ngồi run rẩy đợi chuyến bay
Bầu trời phành phạch cành cây đổ
Chấp cả hai tay cầu rủi may
Phố xá đùn lên dân hôi của
Máy móc thức ăn úa vỉa hè
Những chiếc xe lướt qua vội vã
Nửa đêm chờ đợi nằm nghiêng nghe
Có tiếng ai la trong bóng tối
Thiên hạ nhao nhao thoát ra ngoài
Ta bị đẩy ra rìa cánh cửa
Thiếu nước không cơm bỗng mệt nhoài
Người chia hai hướng đi hai ngã
Ta chán cuộc chơi bỏ trở về
Phố phường lác đác vài tiếng nổ
Cảm thấy lạc loài trong cơn mê.
***
Bạn lái chở ta ra Ba Son
Đêm qua người đợi đã mỏi mòn
Thời gian nguy cấp tàu đi sớm
Tuyệt vọng thoái lui đường chẳng còn
Qua cầu một đám mang băng đỏ
Giương súng giơ tay giọng lạnh lùng
Hai thằng lặng lẽ luồn qua ngõ
Không dám nhìn quanh bước đường cùng
Trưa nắng tháng tư cháy vỉa hè
Xe tăng rầm rập với còi xe
Lính cởi quân trang tràn ngập phố
Thất thểu băng qua mấy xác đè
Cờ màu xanh đỏ chen cây lá
Áo trận súng gờm pháo chĩa ngang
Người đưa tay vẫy người cúi mặt
Những xác không hồn miệng nín khe
Từ đấy ta làm người ở lại
Sáng sáng lang thang đứng góc đường
Xem người lính mới cười ngơ ngác
Làm kẻ man di giữa phố phường
Bạn ta lưu lạc phương nào mất
Năm tháng qua đi chẳng thấy về
Rồi mười năm nữa qua như mộng
Tin bạn lang thang nơi miền quê
Rồi nghe bạn chết vì quá đói
Khi gắng chuyến thồ rau cuối năm
Gục giữa phố đông mồm thổ huyết
Không có thân quen chẳng chỗ nằm
Ta tìm mộ bạn ở chốn quê
Không có ai biết chỗ bạn về
Ta đứng sông Hoài mà nhớ bạn
Thắp nén nhang trầm mắt đỏ hoe.
5.4.2018
DODUYNGOC
https://sangtao.org/2018/04/05/nho-chuyen-thang-tu/
https://www.facebook.com/doduyngoc
________________
THÁNG TƯ
Tháng Tư mà tuyết còn rơi
Còn mang cái lạnh của trời tháng Hai
Trái tim vong quốc lạc loài
Bừng sôi lửa hận u hoài tháng Tư
Còn đây vết chém quốc thù
Vết thương chưa kín thì chưa nguôi hờn
Ngược dòng ta vẫn cô đơn
Làm con én lẻ đợi nguồn gió xuân
Dù xuân đến đã bao lần
Bốn Lăm mùa đã ân cần hứa suông
Quê thì lệ đắng vẫn tuôn
Lời thề thì đã muôn phương nhạt mờ
Ra khơi lắm kẻ quên bờ
Có về người lại xây mơ với thù
Nên thơ đắng cả ngôn từ
Và lòng cô lữ tháng Tư nghẹn ngào
Quê hương muốn được tự hào
Thì quê dũng cảm lên nào, quê ơi!
Đừng mong, đừng dựa vào người
Chỉ quê mới thật xây đời cho quê
Tháng Tư tuyết vẫn tứ bề
Vẫn mang cái lạnh não nề tháng Hai
Bốn Lăm Năm với trần ai
Có ai chia tiếng thở dài Tháng Tư?
Ngô Minh Hằng
tháng tư 2020
THÁNG TƯ RỒI ĐẤY
Tháng Tư, lại tháng Tư rồi đấy
Bốn bốn năm sao hóa ngắn - dàỉ
Dài bởi ta chờ ngày phục quốc
Ngắn vì ta để ước mơ phai
Ngắn vì ta chạy theo nhung gấm
Theo bả phù hoa, bẫy bạo cường
Bỏ mặc quê mình cho Việt cộng
Dâng rừng đổi biển bán quê hương
Ngắn vì ta bỏ rơi nguồn cội
Thành Mỹ thành Tây ở xứ người
Áo gấm xênh xang tìm cỏ biếc
Chẳng từ con cháu tuổi đôi mươi
Ngắn vì ta mắc vòng lừa bịp
Ngân quỹ thời gian bị cạn dần
Mà chẳng nhìn ra loài phản tặc
Lại tôn minh chủ, nguyện vong thân
Ngắn vì ta bị ai bưng miệng
Nên đã không còn biết nói năng
Nếu nói, được bao lời chính nghĩa
Bao câu nhân bản, mấy công bằng?
Ngắn vì ta chẳng ngăn con cháu
Để vết chân xưa chúng bước vào
Chất xám, nhiệt tình và tuổi trẻ
Bị người vắt cạn vẫn chiêm bao!
Tháng Tư, lại tháng Tư rồi đấy
Quê mẹ than ơi lệ vẫn trào
Vẫn những mỹ từ không có thật
Bao giờ mới sạch bọn cờ sao?
Bao giờ mới sạch phường vong bản
Để nước dân ta được vẹn toàn
Để chẳng còn lo rồi Hán hoá
Hỡi nòi giống Việt, hỡi nhà Nam!
Ngô Minh Hằng
tháng tư 2019
______________
Dạo:
Dịch Tàu Vũ Hán dẫu kinh,
Nhưng so với dịch Ba Đình thấm chi!
HAI CƠN ĐẠI DỊCH
Dịch Vũ Hán như trời long đất lở,
Khắp năm châu đang khóc dở đêm ngày,
Y khoa nào cũng đành chịu bó tay,
Xác chết cứ chất đầy nhà hỏa táng.
Cơn đại dịch đã tung hoành mấy tháng,
Khiến mọi người phải hốt hoảng lo âu,
Từ Á, Âu tới Mỹ đến Úc châu,
Đâu đâu cũng thi nhau ào đóng cửa.
Dù lan tràn như bão lửa,
Nhưng áng chừng cũng chỉ nửa năm thôi,
Một khi cơn đại dịch qua rồi,
Tất cả sẽ lại phục hồi như trước.
Bệnh truyền qua nhiều nước,
Số tử vong vượt mức mấy mươi ngàn,
Dù với mình người chết chẳng liên quan,
Nhưng vẫn thấy ruột gan dường dao cắt.
Chạnh nghĩ đến quê hương giờ đã mất,
Lòng lại càng thêm chất ngất buồn đau,
Đất nước mình, dịch Vẹm có từ lâu,
Còn ghê gớm hơn dịch Tàu vạn bội.
Từ xác chết ở Ba Đình, Hà nội,
Dịch tràn bờ ồ ạt tới khắp nơi,
Bảy chục năm giết chết mấy triệu người,
Khắp đất nước là một trời bão táp.
Dịch trà trộn vào phong trào chống Pháp,
Đoạn dần dà tàn sát hết những ai
Còn sáng mắt sáng tai,
Thấy mặt trái của chiêu bài Cộng sản.
Năm năm bốn, quê nhà lâm đại nạn,
Nước chia đôi, tiếng than oán ngập trời,
Nam Tự do, được vui hưởng kiếp người,
Bắc Cộng sản, dân sống đời trâu ngựa.
Rồi cậy có Nga Tàu làm chỗ dựa,
Vẹm mưu đồ chiếm nốt nửa giang san,
Vạn gái trai phải bỏ xác trên ngàn
Cho tham vọng của tập đoàn quỷ đỏ.
Đau đớn nhẽ, cả miền Nam sụp đổ,
Vì mắc trò tráo trở của đồng minh,
Uổng công bao chiến sĩ đã hy sinh,
Để gìn giữ cho quê mình yên ổn.
Bên thất trận chịu muôn vàn khốn đốn,
Kẻ tù đày mất xác chốn rừng hoang,
Kẻ biển Đông gặp số kiếp phũ phàng,
Kẻ vuợt thoát lang thang nhờ đất khách.
Vẹm bắt chước Tần Thủy Hoàng đốt sách,
Bày đủ trò để bách hại lương dân,
Áp đặt lên một chủ nghĩa phi nhân,
Một chế độ vô luân và khắc bạc.
Vì mắc nợ quan thầy Tàu gian ác,
Chúng đang tâm hèn nhát bán non sông,
Dân mình ngay trên mảnh đất cha ông
Đành cam phận lưu vong không xứ sở.
Dân hết đường xoay xở,
Tranh giành nhau đi ở đợ khắp phương,
Mặc xác hồn, danh tiết bị tổn thương,
Miễn thoát khỏi chốn "thiên đường" cơ cực.
Thật chua xót thay cho nền đạo đức
Mà tổ tiên đã gắng sức vun bồi,
Nhân phẩm nay thành khái niệm lỗi thời,
Lương tâm cũng từ lâu thôi tồn tại.
Khi xã hội đã hoàn toàn băng hoại,
Thì tiền đồ cũng sẽ mãi tiêu tan,
Đạo đức là nền tảng của giang san,
Một khi mất, ngày tàn đà kế cận.
* * *
Tháng Tư đến, nhớ về ngày Quốc Hận,
Nghe bi thương lẫn căm phẫn chất chồng,
Buồn thấy người xưa thề thốt biển Đông,
Nay phủ gấm về rong chơi lũ lượt.
Hỡi trăm triệu người dân còn trong nước,
Nếu thật tâm muốn cứu được quê nhà,
Thì chính mình phải đổ máu xương ra,
Đừng trông đợi cái gọi là "quốc tế".
Họ ích kỷ lại tham hèn vô kể,
Nên Cộng nô với đồ tể Nga Tàu,
Bấy lâu nay tội ác đã ngập đầu,
Chẳng ai dám nói một câu hơn thiệt.
Dịch Vũ Hán chóng chầy rồi sẽ hết,
Dịch Ba Đình chẳng biết kiếp nào xong.
Chế độ này nếu không sớm tiêu vong,
Dòng giống Việt đừng mong còn chỗ đứng.
Nhìn dân tình hờ hững,
Buồn biết ngày diệt chủng chẳng còn xa.
Trần Văn Lương
Cali, đầu mùa Quốc Hận 2020
Đăng ngày 29 tháng 04.2020