banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

TỔ QUỐC GHI ƠN - VỊ QUỐC VONG THÂN

Danh sách các Tướng, Chỉ huy, Chiến sĩ, Quân , Cán chính và Đồng bào đã tuẫn tiết, hy sinh trong những ngày tháng vào 30 tháng tư năm 1975. (Dưới đây chỉ là những trường hợp được biết đến. Còn rất nhiều chưa được bổ sung, cập nhật).

Những ngày sau chót của cuộc chiến, để không rơi vào tay cộng quân. Họ đã hiên ngang đi vào hồn thiêng sông núi. Đất nước Việt Nam anh hùng hào kiệt đời nào cũng có. Những tiền nhân tiên liệt đã vị quốc vong thân. Thế hệ con cháu chúng ta cần ghi nhớ công đức, đó mới gọi là hiếu nghĩa vẹn toàn.

1- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú
cựu tư lệnh Quân Đoàn II
Tự sát 30/4/1975

2- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam
tư lệnh Quân Đoàn IV
Tự sát 30/4/1975

3- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng
tư lệnh phó Quân Đoàn IV
Tự sát 30/4/1975

4- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai
tướng tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh Tự sát 30/4/1975

5- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ
tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh
Tự sát 30/4/1975

6- Đại Tá Nguyễn Hữu Thông
trung đoàn trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh- khóa 16 Đà Lat
Tự sát tại Quy Nhơn 31/3/1975

7- Đại Tá Lê Cầu
trung đoàn trưởng 47 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh
Tự sát ngày 10/3/1975

8- Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn
(bào đệ của Trung Tướng Lê Nguyên Khang)
Tự sát ngày 31/3/1975

9- Thiếu Tá Không Quân Nguyễn Gia Tập
đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ
Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ

10- Trung Tá Nguyễn Văn Long
Cảnh Sát Quốc Gia
30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Sài Gòn

11- Trung Tá Nguyễn Đình Chi
Phụ Tá Chánh sở 3 ANQĐ – Cục An Ninh Quân Đội
Tự sát 30/4/1975 tại Cục An Ninh Quân Đội

12- Trung Tá Phạm Đức Lợi
phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM
Tự sát ngày 30/4/1975

13- Trung Tá Vũ Đình Duy
trưởng Đoàn 66 Đà Lạt
Tự sát ngày 30/4/1975

14- Trung Tá Nguyễn Văn Hoàn
trưởng Đoàn 67 Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu, Tự sát ngày 30/4/1975

15- Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương
Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang
Tự sát ngày 28/4/1975 cùng vợ, 2 con và cháu (bằng súng)

16- Thiếu Tá Đặng Sỹ Vĩnh
trưởng Ban Binh Địa P2 Bộ TTM, sau biệt phái qua Cảnh Sát
Tự sát cùng vợ và 7 con ngày 30/4/1975

17- Thiếu Tá Mã Thành Liên (Nghĩa)
tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu- khoá 10 Đà Lạt.
Tự sát cùng vợ ngày 30/4/1975

18- Thiếu Tá Lương Bông
phó ty An Ninh Quân Đội Cần Thơ- Phong Dinh
Tự sát ngày 30/4/1975

19- Thiếu Tá Trần Thế Anh
đơn vị 101
Tự sát ngày 30/4/75

20- Đại Úy Vũ Khắc Cẩn
Ban 3, Tiểu Khu Quảng Ngãi
Tự sát ngày 30/4/1975

21- Đại Úy Tạ Hữu Di
tiểu đoàn phó 211 Pháo Binh Chương Thiện
Tự sát ngày 30/4/1975

22- Trung Úy CSQG Nguyễn Văn Cảnh
trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8
Tự sát ngày 30/4/1975

23- Chuẩn Úy Đỗ Công Chính
TĐ 12 Nhảy Dù
Tự sát ngày 30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản

24- Trung Sĩ Trần Minh
gác Bộ Tổng Tham Mưu
Tự sát ngày 30/4/1975

25- Thiếu Tá Đỗ Văn Phát
quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên
Tự sát ngày 1/5/1975

26- Thiếu Tá Nguyễn Văn Phúc
tiểu đoàn trưởng, Tiểu Khu Hậu Nghĩa
Tự sát ngày 29/4/1975

27- Trung Tá Phạm Thế Phiệt
Tự sát ngày 30/4/1975

28- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân
Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2 /Bộ TTM
Tự sát ngày 1/5/75

29- Trung Tá Phạm Đức Lợi
Phòng 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả, nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh: Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội
Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975

30- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu
trưởng Ban Văn Khố P2/Bộ TTM
Tự sát sáng 30/4/75 tại P2/Bộ TTM

31- Thiếu Úy Nguyễn Phụng
Lực Lượng Cảnh Sát Đặc Biệt
tự sát tại Thanh Đa, Sài Gòn ngày 30/4/1975

32- Thiếu Úy Nhảy Dù Huỳnh Văn Thái
khoá 5/69 Thủ Đức
tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã 6 Chợ Lớn ngày 30/4/1975

33- Trung Úy Đặng Trần Vinh
(con của Thiếu Tá Đặng Sĩ Vinh), P2 BTTM
Tự sát cùng vợ con ngày 30/4/1975

34- Trung Úy Nghiêm Viết Thảo
An Ninh Quân Đội, khóa 1/70 Thủ Đức
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Kiến Hoà

35- Thiếu Úy Nguyễn Thanh Quan (Quan Đen)
phi công PĐ 110 Quan Sát (khóa 72)
Tự sát chiều 30/4/1975

36- Hồ Chí Tâm B2
TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau)
Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau

37- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh
trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu

38- Thượng Sĩ Bùi Quang Bộ
trường Truyền Tin Vũng Tàu
Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu.

Và còn rất nhiều rất nhiều tấm gương dũng liệt của những người anh hùng Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Đó chỉ là danh sách tạm thời, cần bổ túc, Danh sách này do một cựu SVSQ khoá 3/73 Thủ Đức sưu tầm từ những tài liệu không được đầy đủ, cần có một cơ quan nào đó làm việc cập nhật bản danh sách các anh hùng của QLVNCH để được đầy đủ và chính xác nhằm lưu danh cho hậu thế.

Richard Nguyễn


 

Có ngược đãi hay không hậu 30/04/1975?

Câu hỏi được đặt ra sau bốn thập niên khi có ý kiến mới công bố gần đây của phó giáo sư Vũ Quang Hiển từ Đại học quốc gia Hà nội cho rằng 'không có ngược đãi' với cựu binh lính, sỹ quan, nhân viên và quan chức Việt Nam Cộng Hòa sau ngày 30.4.1975 và hòa hợp, hòa giải dân tộc đã 'cơ bản giải tỏa' trong nội bộ Việt Nam.



40 năm hỗn danh “ngụy”

và những trận đòn thù của ác quỷ!

Lê Thiên

Con người Việt Nam vốn nặng tình quê hương Tổ Quốc. “Bỏ nước” là bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, là bỏ mồ mả ông bà cha mẹ, bỏ quê cha đất tổ… Thế mà, sau 30/4/1975, người dân Miền Nam Việt Nam, hàng triệu người hăm hở ra đi, cách này hay cách khác, bằng mọi giá, kể cả cái giá của chính sinh mạng mình: Vượt biên, vượt biển đầy hiểm nguy, bất trắc, chín mất một còn, vẫn lao vào cõi chết để tìm sự sống! Từ 400 đến 500 ngàn người mất xác giữa biển cả làm mồi cho cá mập vì bị hải tặc sát hại hay bão tố đánh chìm tàu ghe! Hoặc bị phanh thây bởi thú rừng nơi hiểm hóc xa xôi không ai biết. Vì sao?

Những nạn nhân bị triệt đường sống
Cách đây 40 năm, ngày 30/4/1975! Việt Nam Cộng Hòa, tức Miền Nam Việt Nam rơi vào tay quân cộng sản Bắc Việt. Vô sản chuyên chính ngự trị! Quả không có tắm máu, nhưng tang thương bao trùm! Toàn Miền Nam Việt Nam rướm máu! Bế quan tỏa cảng! Lao động khổ sai quần quật! Đói rách triền miên! Bắt bớ! Dọa dẫm! Hiếp đáp! Tù đày! Khủng bố trắng kéo dài, năm này sang năm khác! Không ít người bị thủ tiêu, mất tích!
Người dân Miền Nam Việt Nam bị tròng vào cổ cái ách nô lệ thời đại mới với bao điều thống khổ, sống dở chết dở, ngoại trừ một số rất nhỏ những phần tử nằm vùng tiếp tay cho CS phá hoại Miền Nam. Không ai còn lựa chọn nào khác để bảo đảm một cuộc sống an bình về tâm hồn, lành mạnh về thể xác, một cuộc sống trong đó lẽ ra mọi người đều bình đẳng cùng hưởng những quyền tự do tối thiểu như nhau.
Suốt chặng đường dài 30-40 năm, người Việt Nam nơi đất khách, như trên đất nước Hoa Kỳ chẳng hạn, ai mà chẳng trải nghiệm đôi lần bị kỳ thị, bị phân biệt đối xử? Ở bên nhà, mỗi lần vớ được một tin tức kỳ thị tại Hoa Kỳ, CSVN không bỏ cơ hôi khai thác, phóng đại thành những hình ảnh vô cùng đen tối và ghê rợn. “Nước Mỹ là thế đấy! Bạo hành! Cướp giật! Kỳ thị nhan nhản!” Trong khi đó, trên thực tế, các vụ kỳ thị ở Mỹ phần lớn mang tính cá nhân hay bè nhóm riêng lẻ ở một xứ sở gọi là Hợp Chủng Quốc – nước của nhiều chủng tộc, nhiều sắc dân từ khắp thế giới tấp nập dồn về hàng ngày, hàng giờ! Làm sao tránh khỏi những va chạm về màu da chủng tộc hay văn hóa, ngôn ngữ và tập quán? Nhưng hoàn toàn thua xa chính sách, chủ trương phân biệt đối xử do chế độ CS tại Việt Nam dựng lên từ 1975 đến nay, mà nạn nhân đứng đầu bị kỳ thị là những người cộng tác với chính thể VNCH cùng thân nhân của họ!

Kỳ thị tại Việt Nam dưới chế độ cộng sản
CSVN luôn vỗ ngực tự cho mình “ưu việt”, là “đỉnh cao trí tuệ loài người”, là lực lượng “bách chiến bách thắng dưới ngọn cờ Mác-Lê vĩ đại”! Từ cái não trạng kiêu đảng (tự tôn mặc cảm) này cộng với nỗi sợ mất đi độc quyền đảng trị (do tư ti mặc cảm), nhà cầm quyền CSVN càng đẩy mạnh chính sách phân biệt đối xử tới chỗ kỳ thị không khoan nhượng qua chiêu bài đấu tranh giai cấp và phân biệt lằn ranh đảng-ngụy!

Kỳ thị giai cấp
Thấy gì trong đấu tranh giai cấp của CSVN?
Năm 1954, CSVN dưới tên gọi là Việt Minh (VM) cấu kết với thực dân Pháp chia đôi đất nước Việt Nam thành hai miền. Qua Hiệp Định Genève 1954, CSVN hiến dâng Miền Nam cho thực dân Pháp, VM thống trị Miền Bắc. Quốc gia Việt Nam tẩy chay Hiệp định vì nó vi phạm nguyên tắc “toàn vẹn lãnh thổ” của quốc gia dân tộc.
Tại Miền Bắc, VM nhận lệnh của quan thầy Mao Trạch Đông bên Tàu, thực hiện Cải Cách Ruộng Đất, phát động những cuộc đấu tố man rợ nhắm vào các thành phần “trí, phú, địa, hào, tư sản”. Hàng trăm ngàn người Việt Nam bị tố oan, tù oan, giết oan. Dân chúng quê mùa chất phác và cả trẻ em bị cán bộ VM lùa đi, ép phải dự những phiên đấu tố mất tính người, phải hò hét “Giết nó! Giết nó đi!”
Thực hiện khẩu hiệu “giết lầm hơn bỏ sót”, đảng cộng sản chẳng phải chỉ hô hào “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ” (Tố Hữu)mà còn xúi giục và cả bức bách con cái đấu tố cha mẹ, vợ chồng đấu tố lẫn nhau, bà con, hàng xóm láng giềng rình rập nhau, tố cáo lẫn nhau, buộc tội cho nhau, kết án nhau và dìm nhau chết để cho “vô sản chuyên chính” lên ngôi toàn trị!
Một trận càn quét mang tính kỳ thị vô nhân đạo được thực hiện dưới danh nghĩa “đấu tranh giai cấp” như Xuân Diệu hô hào:
Anh em ơi! Quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù
Địa hào, đối lập ra tro
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương.
Mọi giềng mối quan hệ tình nghĩa luân lý tốt đẹp bị đảo lộn và triệt tiêu hoàn toàn.
Lôi cổ bọn nó ra đây,
Bắt quỳ mọp xuống đọa đày chết thôi!...
Sách báo đã nói nhiều về Cải Cách Ruộng Đất cùng với những hệ lụy của nó. Người ta ước tính có hơn 160 ngàn người là nạn nhân của những cuộc đấu tố sắt máu dã man trên.

Kỳ thị đảng - ngụy
Ngoài Bắc thì kỳ thị giai cấp như vậy. Trong Nam thì sau khi thắng cuộc, CSVN đánh vào toàn thể quân-dân-cán-chính Miền Nam Việt Nam bằng một cuộc đấu tranh khác. Đó là Kỳ thị đảng - ngụy. Kể cả khi cần tranh thủ nhân tâm như thời Tết Mậu Thân 1968 ở Huế cũng như sau khi đã thắng trận (1975), CSVN luôn đặt chính sách kỳ thị đảng – ngụy lên hàng đầu hầu bảo đảm sự sống còn và vai trò thống trị độc quyền độc đảng trên cả nước.
Những ai phục vụ trong Chính quyền VNCH dù ở đẳng cấp nào từ Trung ương xuống xã ấp, như thư ký xã, chạy công văn cũng đều làNGỤY QUYỀN. Tham gia Quân lực VNCH dù là anh binh nhì, chú Nghĩa quân cũng là NGỤY QUÂN. Người dân có thân nhân dính líu tới “ngụy quân”, “ngụy quyền” thì là DÂN NGỤY!
Sức tuyên truyền, nhồi sọ kiểu tẩy não của CSVN thật là khủng khiếp! Cái từ “NGỤY” trở thành một thứ khắc tự nung lửa đóng vào đầu, vào trán và sau lưng hàng triệu nạn nhân như thế. Cả đám trẻ nít mới cắp vở tới trường cũng bị nhét vào đầu những từ ngữ mất dạy để chúng “vô tư” hỗn xược với các bậc cha ông của chúng: thằng ngụy, tên ngụy, bọn ngụy, lũ ngụy….
“Đánh cho ngụy nhào”! Chưa hả hê sao? Hạ nhục và nhận sâu người ta xuống hàng chó ngựa từ bao chục năm, vẫn chưa thỏa lòng sao? Tiếp tục gây hận thù, hiềm khích đến bao giờ mới thôi trong khi mồm cứ lải nhải “hòa hợp hòa giải”  láo toét?

Có kỳ thị không trong cách gọi tên?
Có một thời, tại Miền Nam Việt Nam, người ta thỉnh thoảng nghe tới những từ “Cộng phỉ” và “Cộng nô”. Nhưng rồi hai nhóm từ ấy vắng bóng dần. Sau 1975, tại hải ngoại, có người gợi ý dùng lại từ “Cộng phỉ” để nói lên bản chất ăn cướp và gian ngoa của CSVN. Hay từ “Cộng nô”để nói về tính chất nô dịch, tôi đòi của CSVN đối với Tàu Cộng và Liên Xô. Hoặc gọi là “Cộng tặc” để chỉ cái căn tính gian ác, điêu ngoa, đạo tặc của CSVN. Rất chính xác! Nhưng người dân Miền Nam Việt Nam vốn xởi lởi khoan dung, nặng tình người, nên những từ ấy không còn phổ biến tuy ai cũng biết PHỈ, NÔ và TẶC là cốt cách, là bản chất của CSVN. Lại những từ ngữ ấy không hề là chủ trương hay mệnh lệnh xuất phát từ những nhà lãnh đạo quốc gia VNCH trước năm 1975, mà chỉ là những “hỗn danh” mang tính đối phó dân gian mà thôi.
Còn cái tên gọi “Việt Cộng” thì chỉ là viết tắt từ Cộng sản Việt Nam! Nó không hề ngụ ý hạ nhục. Cộng sản Việt Nam trước kia đã chẳng tự nhận mình là Việt Minh sao? Việt Minh là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội đấy. Những từ ngữ viết tắt kiểu như vậy đâu xa lạ gì với ngôn ngữ Việt Nam! Việt Cách là Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội. Việt Quốc là Việt Nam Quốc Dân Đảng. Việt Tân là Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng, vân vân.
Về tên người cũng thế, người dân VNCH thể hiện tấm lòng độ lượng của mình trong cả cách gọi tên. Chẳng hạn, họa hoằn mới thấy có một bài báo hay một người nào đó gọi tắt Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh… là Minh, Duẩn, Chinh… Đó không hề là chủ trương của nhà cầm quyền VNCH trước 1975! Trong khi đó đối với các nhà lãnh đạo VNCH, nhà cầm quyền CSVN luôn buộc cả cán bộ lẫn dân chúng phải dùng một lối gọi hoàn toàn vô văn hóa, mất dạy, như Mỹ-Diệm, Mỹ-Thiệu…hoặc “thằng” này, “con” nọ, “tên” kia, với các bậc đáng tuổi cha, tuổi mẹ, ông, bà. Nhà văn Vũ Thư Hiên, tác giả quyển Đêm Giữa Ban Ngày, xác nhận: Báo chí, sách vở tại miền Bắc đều được lệnh phải gọi tất cả những nhà lãnh đạo các nước không theo Cộng Sản là “thằng” để tỏ ra là có lập trường giai cấp. Theo ông Hiên, cái thói gọi bằng “thằng” là do chính ông Hồ Chí Minh đặt ra, chẳng phải chỉ gọi nhà lãnh đạo VNCH là “thằng Ngô Đình Diệm”, (sau này là “thằng Thiệu”, “thằng Kỳ”), mà còn cả với nhà lãnh đạo Singapore, cũng là “thằng - thằng Lý Quang Diệu” chỉ vì các vị trên đều chống chủ nghĩa Cộng sản.

“Ngụy”! Còn từ nào độc địa hơn?
Cái từ “ngụy” mà CSVN gán cho quân-dân-cán-chính VNCH rõ ràng là từ ngữ bộc lộ cách gọi hoàn toàn vô giáo dục xuất phát từ miệng lưỡi bệnh hoạn hôi hám của phường bất lương hạ cấp! Bộ máy tuyên truyền CSVN phổ biến cái “hỗn danh” mất dạy ấy, cấy nó vào đầu óc người dân, để ai nấy khi nói tới “ngụy” là nói tới những thứ ghẻ lở cùi hủi gớm ghiếc. Trong khi trên thực tế, những người bị đóng khắc tự “ngụy” chẳng làm gì phản dân hại nước cả. Chính nghĩa họ sáng ngời trong việc họ hy sinh xương máu để bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc từ nội địa tới tận các vùng biển đảo xa xôi!
Trái lại, ai hèn với giặc, ác với dân, cả nước đều rõ! Bằng chứng rành rành! Thậm thụt nộp đất, dâng đảo cho Hán tặc, là ai, ai là thủ phạm? Còn biết bao điều bí mật, rồi đây trước sau gì cũng sẽ “thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coi”! Cái bọn mại quốc cầu vinh ấy, cứ theo phép nước của vua Lê Thánh Tôn mà tru di chúng là vừa!
Khốn nạn thay! Tất cả những nạn nhân bị gán cho cái nhãn NGỤY đều bị loại ra khỏi dòng sinh hoạt của dân tộc, bị chặn đường sống, chặn đường tiến thân, cả gia đình bị dìm vào cái án “lý lịch đen” muôn năm với từ “ngụy” tô đậm!
Là “ngụy” thì đâu có quyền sống cuộc sống yên hàn. Đâu có quyền sở hữu tài sản đáng giá, nhất là bất động sản ở thị xã, thành phố. Đâu được quyền có công ăn việc làm xứng hợp với khả năng, kiến thức hay sở trường chuyên môn. Và dĩ nhiên cũng mất đi quyền có một chỗ đứng xứng đáng trong xã hội! Nông thôn sẽ là nơi cư trú cố định cho “thành phần ngụy” với sự giám sát và quản lý của HTX/NN và chính quyền địa phương. Chỉ cạp gốc rạ, ăn tro mò trấu! Con cháu của “ngụy” phải chịu chung một số phận cha ông của chúng! Suối đời mang bản án “ngụy” cùng mọi hệ quả mà bản án chung thân truyền đời ấy định đoạt!

“Ngụy ác ôn”
Xin ghi lại đây lời kể của một bà mẹ: Năm 1983, đứa con trai 10 tuổi của tôi theo học tại trường học xhcn ở vùng nông thôn. Một hôm, sau buổi học, về nhà cháu bỗng lăn ra vật vã trên giường, khóc sướt mướt. Hỏi mãi điều gì đã xảy ra. Nó cứ lắc đầu và không hết khóc. Cuối cùng, nó hỏi tôi: “Ba ác ôn lắm hở mẹ? Ác ôn làm sao?”
Tôi lờ mờ đoán ra được điều gì, nhưng vẫn hỏi lại con mình: “Ác ôn thế nào? Ai bảo thế?” Thằng con tôi nói: “Cô giáo, cô giáo người Bắc kêu học trò trong lớp hãy cảnh giác lánh xa cái thằng con của ‘tên Cảnh sát ngụy ác ôn’; nếu không, điểm đạo đức sẽ bị hạ xuống loại kém!”
Tôi nghẹn ngào chảy nước mắt cùng với con mình!
Điều đáng buồn là ngay sau biến cố trên, trường học xhcn ở Việt Nam trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng cho đứa con trai tôi. Bạn bè nó nhìn nó bằng những con mắt khác, nghi ngờ trộn lẫn khinh chê! Nó mặc cảm với hết mọi người ở đó, luôn tìm cách vắng lớp, bỏ học. Nhà trường thì coi đó là dịp để loại trừ một phần tử nguy hiểm cho chế độ - con của “cảnh sát ngụy ác ôn”!
Cái án dành cho “con ngụy” không phải chỉ chừng ấy thôi. Nó bao trùm nhiều mặt trong mọi lãnh vực, hận thù đằng đẳng vô cùng dã man.



Phân loại đối tượng trong giáo dục
Chẳng hạn, CSVN tổ chức xây dựng đoàn-đảng trong trường học, dùng học sinh “con cái cách mạng” như là “hạt nhân đỏ” nắm giữ các chức vụ chi ủy đảng/đoàn nhà trường, hoặc trưởng lớp, trưởng trường, mà nhiệm vụ chính là bám sát, theo dõi, báo cáo mọi hành vi của đám học sinh đối tượng - “con cái bọn ngụy ác ôn”.
Từ hồ sơ nhập học tới phiếu điểm, sổ điểm, học bạ, mọi thứ đều thông qua chính sách phân loại đối tượng (gồm 14, 15 cấp đối tượng khác nhau). Những học sinh thuộc diện “Thứ nhất con lai, Thứ hai con ngụy, Thứ ba Thiên Chúa giáo” 2 đều là đối tượng từ số 11 tới 15, đứng cuối bảng vì… “lý lịch đen”!
Còn cái nhóm gọi là con nhà cách mạng dĩ nhiên “ưu tiên 1”. dù học hành, đạo đức chẳng ra gì, hầu hết u mê dốt nát, đầu trộm đuôi cướp, lưu manh, ngỗ ngáo! Vẫn ngồi trên đầu thiên hạ!
Tội nghiệp cho thân phận các em con lai, con ngụy, Thiên Chúa giáo, trở thành những đứa trẻ bên lề xã hội, chúng buộc phải bỏ trường, bỏ lớp, cù bơ cù bấc, cu li cu liếc, lang thang bươi rác nhặt ve chai hay lao vào những ổ ma túy, trộm cắp, du côn du đảng! Để rồi người ta vin vào đó mà la toáng lên: chúng nó đó, “tàn dư văn hóa đồi trụy Mỹ-ngụy”.

Thú nhận có phân biệt đối xử
Năm ngoái, ngày 03/4/2014, người ta đọc thấy trên báo Đất Việt một bài của tác giả Thuận Hòa nhan đề Trăn trở về hòa hợp dân tộc của cố Thủ tướng. Bài viết cố ý gợi nhắc lời phát biểu của ông Võ Văn Kiệt rằng “Có một thời kỳ sự hẹp hòi, thành kiến và đố kỵ đã làm tổn thương tình cảm của dân tộc... Thay vì phải làm sao giảm bớt nỗi đau của những gia đình Việt Nam có người thân… phải cầm súng... và đã tử trận, thì cho đến bây giờ vẫn còn nhiều trường hợp bị phân biệt đối xử. Không ai lựa cửa để sinh ra. Vì vậy, chúng ta không nên khoét sâu thêm vết thương trong lòng mỗi người Việt Nam.”.
Tác giả lại trích lời ông Gs Cao Huy Thuần (cán bộ CSVN tại Pháp) nói rằng “Đã gọi là dân tộc, sao còn phân biệt ngoài với trong, sao còn chia năm xẻ bảy hạng người Việt này với hạng người Việt kia?”
Thuận Hòa còn trích dẫn lời phát biểu của ông Võ Văn Sung, cựu đại sứ CSVN tại Pháp: “Những người bị ép cầm súng vì không trốn lính được đó phải mang cái án suốt đời, đó là án ‘ngụy quân’. Còn người làm trong chính quyền cũ cũng mang cái án ‘ngụy quyền’... Sự phân biệt đối xử kéo dài nhiều năm và khó có thể kể hết những tổn thất từ đó sinh ra. Sự tổn thất không chỉ đối với cá nhân mà đó là thiệt hại chung cho cả xã hội.”
Võ Văn Sung còn nêu rõ: “Duy chỉ chủ nghĩa lý lịch thôi cũng vùi dập không biết bao nhiêu nhân tài hoặc người có năng lực. Có không ít học sinh thi đậu đại học nhưng không được học. Các em không thể ‘lựa cửa để sinh ra’ nhưng phải chịu trách nhiệm về việc làm của cha mẹ mình”.
Những trích dẫn trên cho thấy những điều chúng tôi trình bày trong bài này là sự thật, không hề tô vẽ, thêm bớt.

Phân biệt đối xử tài năng
Sự đối xử mang tính loại trừ và triệt tiêu đường sống “thành phần ngụy” không là chuyện riêng lẻ cá biệt, mà là một sách lược trường kỳ của cái đảng không có tính người, chủ trương đày đọa đến cùng hết mọi đối phương! Nghĩa là hàng triệu người dân Miền Nam Việt Nam đã là “ngụy”, thì muôn đời cứ là “ngụy”, là kẻ thù của chế độ CS, là những kẻ hoặc phải vất ra bên lề xã hội, hoặc phải chết thôi!
Nhớ lại sau năm 1975, có vài nhân vật “gốc ngụy” được CS tái sử dụng trong một ít lãnh vực chuyên môn, như ngành y tế, giáo dục và ngành khoa học kỹ thuật. Nhưng việc lưu dụng ấy chỉ mang tính giai đoạn tạm thời khi mà “người rừng về phố” còn cần đến! Được việc rồi, khi người rừng đã biết mặc chiếc áo thị thành thì lập tức họ giở quẻ chơi trò tráo trở lưu manh, thay trắng đổi đen, đạp người tài xuống tận đáy cùng của xã hội sau khi vắt cạn kiệt ngón nghề của người tài! Gán cho họ một cái tội “phản động” vu vơ nào đó rồi tống vào tù! Thầy giáo tháo giầy! Kẻ sĩ vào chuồng khỉ!
Với CS, ngụy là ngụy! Mà ngụy thì chỉ có loại trừ và đày đọa! CIA cài lại cả đấy! Trừ một ít viên chức VNCH cấp thấp trong ngành giáo dục và y tế tuy được chế độ mới tái sử dụng, nhưng luôn bị canh chừng và nhiều khi bị đặt vào những vị trí lệch với khả năng chuyên môn của mình. Khốn nạn nhất là, khi các viên chức ấy đến tuổi hưu, “thâm niên công vụ” của họ chỉ được xem xét để cho hưởng chế độ hưu bổng kể từ sau 30/4/1975; còn thời gian phục vụ trước đó thì đều là công dã tràng, bị xóa hoàn toàn, dù trong thực tế dưới chế độ cũ lẫn chế độ mới, họ cũng đều miệt mài trong lãnh vực giáo dục tuổi thơ, mầm non của Tố quốc và phục vụ bệnh nhân!
Thế nên, nơi thiên đường CS, chuyện trọng dụng nhân tài, chuyện chiêu hiền đãi sĩ là chuyện không tưởng! Ai cho phép chiêu hiền đãi sĩ để bọn hiền sĩ chiếm lĩnh quyền đảng? Đảng ta ưu việt! Đỉnh cao trí tuệ! Cho nên tiến sĩ, thạc sĩ, giáo sư, phó giáo sư đều phải từ đảng mà ra! Đảng độc quyền trong mọi lãnh vực! Nhưng trên thực tế, mấy ông “sĩ” bà “sư” trong đảng lại nhờ đến đô-la Mỹ mới có được mấy mảnh bằng trương lên lòe chức sư, chức sĩ, để được tăng lương và thăng chức! Toàn bằng mua, bằng giả, hoặc bằng thật học giả! Khiến cho bầy trẻ nít dung dăng dung dẻ bài đồng dao “Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”. Vậy mà người ta vẫn vênh vênh tự đắc… đại trí thức, trưng bằng, trưng chức, trưng học vị ào ào! “Trí thức – cục phân”, có lẽ lời của Mao Trạch Đông áp dụng đúng nhất cho loại trí thức “ngu” và “dốt” này!

Kỳ thị là căn tính và là sự sống còn của đảng CSVN
Sau 30/4/1975, cả triệu công chức, cán bộ, quân nhân VNCH bị tống vào các trại tù gọi là “trại cải tạo” sau khi bị đóng khắc tự “ngụy”, bị ép lao động khổ sai quần quật năm này sang năm khác chẳng hề được xét xử. Không bản án, nhưng không biết ngày nào, tháng nào, năm nào ra khỏi nhà tù!
Đảng hô hào “cải tạo tốt, về sớm”! Nhưng đố ai biết được như thế nào là tốt, tốt tới đâu, lúc nào thì được nhìn nhận là đã “cải tạo tốt”? Năm năm, sáu năm, bảy năm, mười năm, mười lăm năm, hai mươi năm, ba mươi năm, “quyền họa phúc đảng tranh mất cả”. (nhại Kiều)! Vợ con ở ngoài xã hội thì luôn bị khủng bố dọa dẫm: “Các người ở ngoài mà lộn xộn không chấp hành tốt, thì chồng con các người đừng hòng được tha về”.Khốn nạn chưa cái án ngụy? Ngụy trong nhà tù, ngụy ngoài nhà tù đều điêu đứng!
Nhiều nạn nhân “cải tạo” ngã chết tức tưởi trong trại tù: Chết vì thiếu ăn, bị bỏ đói? Chết vì ngộ độc? Chết vì đau bệnh không được chữa trị? Chết vì bị hành hạ, đánh đập, bức tử? Mặc kệ! Ngụy chết, hết chuyện! Một manh chiếu rách, mấy tấm gỗ cưa xẻ thô, sai tù hình sự mang xác vùi chôn giữa rừng già, không để lộ dấu vết! Một tờ khai tử “chết vì sốt ác tính”! Thế là xong!
Những người may mắn sống sót trở về, kẻ thì thân tàn ma dại, bệnh hoạn tật nguyền, kẻ khác mắc chứng tâm thần, xóm làng dè bỉu… Khốn nạn nhất là ở tù về, người cựu tù lại cứ mãi mang cái khắc tự “ngụy” không gỡ ra được, không xóa được! Tù quản chế!

 


Thương phế binh “ngụy”
Tội nghiệp nhất là các anh em Thương Phế Binh VNCH. Các anh bị “chung thân ngoài đời” do sự tật nguyền của mình. Vì thương tật, các anh không sinh lãi mà có thể báo cô cái chế độ toàn trị là CSVN, các anh TPB/VNH không bị lôi vào nhà tù cùng với đồng đội, nên các anh không được coi là cựu tù nhân chính trị. Các anh không đi tị nạn chính trị. Nhưng tội nghiệp thay! Ở lại Việt Nam, các anh vẫn là “ngụy”, những “tên ngụy” nguy hiểm cho chế độ CS. Các anh đối diện với sự ngược đãi, sống lay lất trên đất nước giữa những người đang phân biệt đối xử nhân danh ý thức hệ, coi khinh, giày xéo các anh, dù thân thể của các anh chẳng còn gì khác ngoài những mảnh hình hài dị dạng lê lết thảm thương trên những nẻo đường vắng thôn quê hay phố phường. Tên các anh bị liệt vào sổ bìa đen; và dĩ nhiên “lý lịch đen” của các anh là: phần tử phản động cần theo dõi!
Bạn bè từ hải ngoại nhớ thương bạn đồng đội xấu số, gửi về chút quà! Quà bị đoạt sạch! Các anh bị hạch sách, gây khó dễ! Những xe lăn, gậy chống, chút ít đô la ăn sáng đều bị lên án có “yếu tố nước ngoài”, có “bàn tay lông lá CIA”, hoặc do “bọn ngụy quân, ngụy quyền cực kỳ phản động” chuyển về, nuôi hận thù, kích động âm mưu lật đổ! Tấm thân tàn các anh còn gì nữa để mà tiếp tay cho ai đến nỗi bị đối xử tàn nhẫn đến như vậy?
Truyền thống đạo lý của dân tộc ta nay hết rồi cái lý tưởng của một dân tộc “đạo nghĩa”, “chí nhân”, hay “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”! (Bình Ngô đại cáo). Rõ ràng CSVN không hề thuộc về dân tộc Việt Nam mà chỉ là bầy tôi của cái đảng cướp mang danh quốc tế vô sản chuyên gây ác mà nhân loại đã đào thải từ hơn 20 năm nay!

Kinh tế mới, nơi nhốt gia đình “ngụy”
Chồng làm, vợ chịu, con mang! Đó là lý lẽ và luật lệ của Cộng sản. Cứ theo cái lý và cái luật ấy mà trừng trị: Lùa gia đình “ngụy” vào các nơi khỉ ho cò gáy được gọi là Vùng Kinh Tế Mới (KTM), cô lập khỏi cộng đồng xã hội trong nước. KTM lập ra không hề có mục đích phục vụ kinh tế-xã hội như Khu Trù mật, Khu Dinh điền của thời đệ nhất Cộng hòa hay những Ấp Tân sinh thời đệ nhị Cộng hòa! Vùng KTM của CSVN là nhà tù kiểu mới, nơi đày ải, cô lập gia đình “ngụy” cùng một số “đối tượng” thù địch của chế độ! Tù nhân không án chôn vùi đời mình ở đó, mãn đời mãn kiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác, theo kế hoạch đảng đã vạch.
Đằng sau sách lược đày ải này, CSVN còn bộc lộ lòng tham vô độ hết sức bẩn thỉu: Lợi dụng khai mở vùng KTM mới, CSVN còn nhằm mục đích tư lợi, tư túi, phá rừng, đoạt gỗ, nhất là các loại danh mộc, bất chấp hậu quả của việc xâm hại môi trường, gây bão lụt thiệt hại mùa màng và đời sống người dân. Lùa đẩy người dân thành thị về nông thôn hay đi KTM đều là mánh khóe bọn quan chức CS bày ra để đoạt nhà, cướp đất, vơ vét tài sản của “ngụy” và của “tư sản” trong thành phố một cách ngang nhiên vô liêm sỉ. Hoảng hốt trước sự đối xử tàn bạo của nhà cầm quyền CS, người dân tìm cách thoát thân. Nhà cầm quyền CS âm mưu lợi dụng những cuộc trốn thoát ra khỏi nước bằng đường vượt biên vượt biển để tiếp tục đoạt vàng, cướp của và chiếm hữu nhà cửa, đất đai của những người trốn chạy ấy. Người rừng phút chốc bỗng trở nên giàu to, chẳng phải mất một giọt mồ hôi, nước mắt!
Ngoài những người đã trốn thoát thành công bằng đường vượt biên, nếu từ Liên Xô, Gorbachov không thổi lên luồng gió đổi mới và mở cửa vào cuối thập niên 1980, chẳng biết đến bao giờ các gia đình “ngụy” mới thoát khỏi cảnh ngục tù mang tên Kinh Tế Mới ấy, và số phận họ chẳng biết sẽ bị đẩy vào đâu. Tuy nhiên, thoát khỏi nhà tù KTM, các bà mẹ, người vợ và con cái “nhà ngụy” chưa hẳn đã được yên. Nhà cửa, đất đai của họ trong thành phố trước đây nay đã thuộc về chủ mới! Quyền cư trú của họ cũng đã bị tước đoạt. Họ đành thất tha thất thểu chui nhủi nơi các khu lầy lội tối tăm trong thành phố hay lẫn trốn quanh các công viên, vỉa hè… “ăn lậu ở lậu”, đi nhặt từ mảnh giấy vụn và ve chai để đổi lấy miếng cơm manh áo sống lay lất qua ngày. Muốn có sổ hộ khẩu, phải chạy chọt lâu dài và mua bằng vàng! Trong khi cái bản án “ngụy” thì cứ bám chặt vào thân phận bọt bèo của những người đã bị xô ngã, nhận chìm!



40 năm chưa hết hằn học sỉ vả “ngụy”
Có người phản bác rằng, đã 40 năm rồi, làm gì còn có chuyện phân biệt “ngụy” hay không “ngụy”? Xin dẫn ra 2 bằng chứng mới nhất ở đầu năm 2015 này. Đó là 2 bài báo, một trên tờ Quân Đội Nhân Dân, và một trên báo Đời Sống & Pháp Luật dưới đây:
Bài 1 (báo QĐND ngày 02/01/2015) của tác giả Hương Ngọc “Nhà tình báo kể chuyện... gặp may” ghi lại lời tường thuật của chính “Đại tá, Anh hùng Tình báo Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) ở Sài Gòn”.
Một bài báo ngắn mà từ “ngụy” trải dài từ đầu tới cuối: ngụy, lính ngụy, tên ngụy, tên sĩ quan ngụy, bên ngụy, quân ngụy, thằng sĩ quan (ngụy).
Bài 2 (báo Đời Sống & Pháp Luật ngày 22/02/2015) của tác giả Chí Công: “Đại tá tình báo và cuộc chiến cân não với ‘toà án Ngụy quyền’ Tết 1972” có những câu chữ như “Ngụy, Ngụy quyền, Bọn an ninh Ngụy quyền, Vùng I chiến thuật Ngụy, thành phố Sài Gòn (sào huyệt của Mỹ -Ngụy)” vân vân.
Tất cả từ Ngụy ở đây đều viết N (chữ hoa)! Không hiểu ông đại tá tình báo hay tác giả bài viết có ý đồ gì cho từ Ngụy (ngụy viết N hoa) ở đây?
“Tên riêng” của một nhóm người đó chăng? Hay là ngầm ý bày tỏ sự trân trọng như từ Nhân dân (với N viết hoa) trong bản Hiến pháp 2013 mà các báo luồng đảng đều tung hô là “lầu đầu tiên, từ Nhân dân (N viết hoa) được Hiến pháp ta trân trọng”. Nhưng, đọc hết bài báo, mới hay từ “Ngụy” (N viết hoa) chỉ dùng cốt để thóa mạ, hạ nhục, dìm “ngụy” xuống tận đáy cùng xã hội, phe thắng cuộc vẫn chưa hả dạ!

Rõ ràng, lời hô hào “hòa hợp hòa giải” từ trước đến giờ của tập đoàn CSVN chỉ là những lời lừa phỉnh dối trá để che mắt thiên hạ chứ không hề là một thiện chí, một “thái độ biết điều của kẻ ở thế thượng phong”. Đã đánh ai là đánh cho chết; mới hả hê với lời thề “phanh thây, uống máu”.Một tay giơ cao búa đập vào đầu “ngụy”, tay kia dùng liềm cắt cổ vợ con “ngụy”! Búa vẫn lơ lửng trên đầu, liềm mãi kề sát cổ đối phương! Suốt 40 năm cứ thế! Có là bậc thánh tu rừng thời thượng cổ tự bịt tai bịt mắt mới không hận, không căm bọn quỷ khát máu.
Búa và liềm không phải chỉ nhắm vào “ngụy” mà còn là vũ khí hiểm độc đánh vào toàn dân Việt Nam. Mỗi khi có dịp, cụ thể mỗi năm, khi gần tới ngày 30/4, truyền thông CS luôn moi ra cho được một vài hình ảnh xấu xa xưa nào đó của vài cá nhân để làm bằng chứng kể lể “tội ác của Mỹ-ngụy”! Nhưng tập đoàn CSVN lại cố tình làm ngơ trước bao hình ảnh chứng minh cụ thể người dân Việt Nam sợ hãi, trốn chạy CS và quyết cùng sống chết với những người mà phe CS bôi xấu! Sợ loài ác quỉ hiện hình thành bầy ác thú ăn thịt người! Mỗi lần ác thú xuất hiện ở đâu, dù núp dưới chiêu bài “giải phóng dân tộc” gì gì đi nữa,nhân dân cũng đều khiếp hãi tháo chạy trối chết! Cuộc di cư 1954 từ Miền Bắc, Mùa hè Đỏ lửa 1972 ở Quảng Trị, biến cố 1975… là những chứng tích sống động! Người dân không tháo chạy vì “bị VNCH tuyên truyền” như CS xuyên tạc, mà là phản ứng tự nhiên từ kinh nghiệm bản thân của mỗi người về những hành động gian ác của CS đối với mọi tầng lớp dân chúng trong vô vàn trường hợp trước đây.
Hàng triệu người “được cách mạng giải phóng”, sướng quá đi chứ! Sao dân không ở lại với CS, không chạy theo CS để sống cõi “thiên đàng CS”? Trái lại, ai nấy đều ùn ùn chạy theo “Mỹ-ngụy” bất chấp CS truy đuổi, bắn giết bằng đại pháo, bằng súng liên thanh, súng trường và lựu đạn cá nhân? VNCH tuyên truyền đó ư? Hãy xem kìa: Người dân Đông Đức xô ngã bức tường Bá Linh có phải do Tây Đức tuyên truyền không? Dân Đông Âu và cả Nga cùng các nước chư hầu Liên Xô cùng vùng lên quật ngã thần tượng Lê Nin và cái sản phẩm Cộng sản chủ nghĩa thối tha kia là do đâu?
Sau 30/4/1975, Miền Bắc từng được ơn mưa móc của Đảng hơn 20 năm ròng, thế sao dân Miền Bắc (người của xhcn đấy) lại theo chân dân “ngụy” Miền Nam trốn chạy, ào ào vượt biên, vượt biển tìm tới những thứ “nước tư bản đang giãy chết”? Hoặc ùn ùn “di cư” vào Nam hít thở chút bầu khí thị trường tự do đang còn le lói chút ánh sáng trước khi bị CS tìm cách thủ tiêu!
Chế độ xhcn ưu việt lắm! Thế sao đến bây giờ vẫn chưa dứt những cuộc tháo chạy hối hả kinh hoàng? Tháo chạy qua đường dây xuất khẩu lao động! Tháo chạy trong thân phận cô dâu Đài Loan, Đại Hàn và cả Trung Cộng…, nhục nhã ê chề! Tháo chạy trong nỗi nhục nô lệ tình dục qua buôn bán phụ nữ, trẻ em! Tháo chạy bằng núp bóng hôn nhân ghép, giả. Tháo chạy bằng đường du học Mỹ, Nhật, Úc, Pháp, Đức, Canada…học xong không về! Và cả tháo chạy bằng tổ chức vượt biên lậu sang Pháp, sang Úc, sang Anh, sang Mỹ những năm gần đây, mỗi đầu người “đi lậu” mất hàng chục ngàn đô la Mỹ, bất kể bao tai họa chờ đợi họ! Nghĩa là thà chọn “ngụy” hơn là sống với quỷ!

Thế lực thù địch
Khi từ “ngụy” trở thành “gậy ông đập lưng ông” đối với CSVN, nhà cầm quyền chế độ CS chuyển sang độc chiêu khác, thâm độc không kém. Mỗi khi có dấu hiệu tình hình bất lợi cho chế độ là mỗi lần CSVN gán tội cho một thế lực vô hình có tên gọi là “thế lực thù địch”. Và bất cứ người nào “khả nghi” cũng đều là thế lực thù địch. Thế lực thù địch không chỉ ám chỉ “ngụy quân, ngụy quyền” chế độ cũ, mà còn với cả những ai không a dua, đồng tình với Đảng CSVN về một khía cạnh nào đó.
Dân oan đòi hỏi giải quyết nỗi oan chồng chất của mình: thế lực thù địch!
Dân phản đối chặt cây thành phố Hà Nội cũng bị vu là thế lực thù địch! Chính Phạm Quang Nghị, Bí Thư TP Hà Nội phát ngôn chắc nịch:“Nhân danh bảo vệ cây xanh nhưng thực ra là chống chế độ, chống lại chính quyền các cấp. Tôi nói đây là cái kích động từ bên ngoài chứ không nhầm lẫn với cái bức xúc của người dân phê bình chúng ta chính đáng.” (Người Buôn Gió - Bản lĩnh lãnh đạo của Phạm Quang Nghị qua vụ chặt cây xanh, 31/3/2015.
Trung Cộng xâm lăng biển đảo VN, dân uất ức biểu tình phản kháng quân xâm lược: thế lực thù địch. Thế lực bá quyền xâm lược nước ta không là thế lực thù địch, mà nhân dân bày tỏ lòng yêu nước lại bị gán là thế lực thù địch, là làm sao?
Dân phản đối những hành vi bức hiếp của chính nhà cầm quyền hay bọn tay sai nhà cầm quyền: thế lực thù địch.
Dân tổ chức vinh danh những chiến sĩ vị quốc vong thân ở Hoàng Sa và Trường Sa cũng bị quy kết là thế lực thù địch. Trong khi bọn thảo khấu côn đồ được chính các cơ quan đảng-nhà nước CSVN sử dụng làm công cụ mang tên “dư luận viên” đánh phá dã man những cuộc tưởng niệm yêu nước thì lại được tuyên dương, cổ võ!
Cả những cuộc biểu tình đấu tranh cho nhân quyền và dân quyền cho Việt Nam hay cho quyền tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng cũng là “phản động”, là “thế lực thù địch”.
Biểu tình vì “Hoàng Sa-Việt Nam, Trường Sa-Việt Nam” cũng bị ghép là “thế lực thù địch”. Đàn áp bằng lực lượng chính quy (Công An) chưa đủ, nhà cầm quyền sử dụng tới cả côn đồ đàn áp thô bạo!

Kiêu đảng, loạn quan, bán nước...
Làm sao không căm hận khi trước mắt mình vẫn tái hiện cái cảnh kiêu binh trấn áp dân lành. Suốt 40 năm thống trị, CSVN không ngừng tổ chức ăn chặn, cướp giật tổ chức có hệ thống quy mô từ trên xuống, từ dưới lên. Họ vỗ ngực khoe khoang thành quả phục vụ công ích xã hội với những công trình cầu cống, đường sá, dinh thự “hoành tráng”! Nhưng đều là từ vốn ODA! Vốn viện trợ hay vay mượn từ các nước tư bản Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật! Dùng vốn ấy cho công trình công ích chỉ một phần, rút ruột chia chác nhau đến hai ba phần! Cho nên rút cuộc, công trình nào cũng vỡ, cũng đổ ngay sau khi khánh thành, chưa kịp đưa vào sử dụng. (Những PMU 18, Xa lộ Đông Tây, Dự án Đường Sắt, Đường Cao tốc, Đập Thủy Lợi… là bằng chứng).
Rồi đến những “công ty quốc doanh” núp dưới cái vỏ bọc “kinh tế thị trường định hướng xhcn” để cướp giật, chia nhau trắng trợn hàng tỉ tỉ bạc. Chỉ mới lòi ra 2 đại công ty quốc doanh Vinashin và Vinalines trong hàng chục, hàng trăm công ty đội lốt quốc doanh chuyên rút ruột, ăn cướp, ăn giật mà đã lộ ra hàng triệu, thậm chí hàng tỉ đô-la thâm lạm. Hệ lụy của “kinh tế thị trường định hướng xhcn” đấy! Thế mà, kẻ nào dám bảo thị trường định hướng xhcn là quái thai, kẻ ấybị quy kết ngay là “thế lực thù địch”.

Cái đuôi định hướng xhcn
Thử đọc bài báo nhan đề “Chỗ cần nhà nước thì không thấy đâu” trên tờ VietNamNet để xem người ta nói gì về cái gọi là “kinh tế thị trường định hướng xhcn”?
Đây lời giáo đầu bài báo trên: “Các chuyên gia kinh tế hàng đầu VN thừa nhận thực tế suốt gần 30 năm đổi mới, đã có nhiều cuộc thảo luận, nghiên cứu về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng câu trả lời vẫn chưa rõ ràng”.
Trong phần 1 bài giới thiệu “cuộc phỏng vấn bàn tròn với TS Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển, Bộ Kế hoạch Đầu tư và TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế VN”, VietNamNet nêu ra lời nhận định xót xa của TS Trần Đình Thiên như sau:
“Trước kia, chúng ta mới chỉ hiểu về kinh tế thị trường, còn thực tiễn nó vận hành như thế nào thì còn khá mơ hồ. Tất nhiên, thực tiễn cũng có. Ví dụ như sau giải phóng, kinh tế thị trường vốn rất phát triển từ phía nam đã âm thầm lan dần ra bắc theo mạch vận động ngầm của người dân trong bối cảnh cấm đoán, ‘ngăn sông cấm chợ’. Nhưng ngược lại, lúc đó cũng có một luồng quan điểm về CNXH đóng đinh về mặt nguyên lý trong nhận thức chúng ta là gắn với kế hoạch hóa tập trung, sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể mà về bản chất là công hữu. Luồng tư duy này tràn vào nam theo con đường quốc doanh hóa.
Hai làn sóng ngược chiều này trên thực tế đã xung đột nhau dữ dội và càng chứng tỏ cho chúng ta thấy CNXH và kinh tế thị trường không thể tương dung được, đến mức chúng ta phải đổi mới. Luận đề đổi mới là chấp nhận kinh tế thị trường.”
Lời nhận định trên đây cho thấy cái đuôi “định hướng xhcn” lòng thòng lừa bịp vô nghĩa nay không còn lý do gì tồn tại được nữa!

Kết: Thà Vẫn Ngụy như Ngụy Văn Thà!
Chúng tôi kết thúc bài viết với lòng bùi ngùi nhớ thương người anh em chiến sĩ anh dũng của VNCH Ngụy Văn Thà, Thà Vẫn Ngụy, cùng với 73 chiến sĩ đồng đội liều hy sinh vì Tổ Quốc Việt Nam yêu dấu hơn là sống ô nhục liếm gót giặc phương bắc như bọn CSVN tham tàn!
Tin chắc hết thảy quân-dân-cán-chính VNCH cùng một lòng Thà Vẫn Ngụy như Ngụy Văn Thà chứ không chịu khuất phục tà quyền Cộng sản hèn với giặc ác với dân, đang tâm bán nước cho Hán tặc.3
Thiết tưởng cũng cần nói rõ rằng, qua chứng cứ lịch sử, không hề có bút tích văn tự nào cho thấy có bất cứ một quân-dân-cán-chính Việt Nam Cộng Hòa giao nộp cho bất kỳ thế lực ngoại lai nào một rẻo đất nhỏ từ nội địa cho tới hải đảo xa xôi của quốc gia. Trái lại, ai nấy cùng một lòng hy sinh xương máu bảo vệ từng tấc đất bờ cõi non sông Tổ Quốc trong mọi hoàn cảnh và mọi biến cố của lịch sử. Trong khi giấy trắng mực đen từ văn kiện chính thức cấp nhà nước (Công hàm 1958, rồi Hiệp định Biên giới 1990) đến sách giáo khoa (bản đồ sách Địa lý) và truyền thông (báo nhân Dân 1956 & 1958)… là bằng chứng mạnh mẽ xác quyết CSVN công khai nộp đảo, dâng đất thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam cho Tàu Cộng.
Người quốc gia VNCH không bao giờ là “ngụy” đối với Tổ quốc mình dù bọn Cộng sản cố tình gán cho cái từ NGỤY sỉ vả nham nhở hạ cấp đầy khiêu khích, hòng che đậy bản chất tà quyền của họ, một chế độ CS vô Tổ quốc buôn dân bán nước trắng trợn mà nhân dân cả nước đang vạch trần!

Lê Thiên
(Tháng Tư 2015)

1. Chế độ phân biệt đẳng cấp ưu tiên đến nay vẫn tồn tại tuy rằng có phần giảm nhẹ hơn phần nào so với trước đây . Báo VNExpress ngày 28/2/2015 nêu rõ: “Điểm ưu tiên để xét công nhận tốt nghiệp THPT được tính theo 3 diện (1, 2 và 3)”. Trong đó diện 2 con ông cháu cha được cộng thêm điểm…

2. Giai đoạn 1975 tới 1991, CSVN chưa liệt kê các tôn giáo khác vào nhóm đối tượng nguy hiểm như với Thiên Chúa Giáo (Công Giáo và Tin Lành).

3. Ngụy Văn Thà là Thiếu tá Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, Thuyền trưởnghộ tống hạm Nhựt Tảo HQ-10, dũng cảm chết theo tàu (hy sinh cùng với 73 chiến sĩ Hải quân VNCH) trong trận hải chiến Hoàng Sa chống quân Trung cộng xâm lược ngày 19 tháng 1 năm 1974 và được truy phong Trung tá Hải quân VNCH.

http://bacaytruc.com


 

Ngược đãi sau 30/04/75 là bi kịch lịch sử

Nam Nguyên - RFA

Đánh dấu 40 năm chiến tranh Việt Nam kết thúc, một vấn đề lại được đem ra mổ xẻ, đó là có hay không câu chuyện phân biệt đối xử ngược đãi quân dân cán chính VNCH sau khi miền Bắc thống nhất đất nước và đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Công dân hạng hai trên đất nước mình
Sau khi chiến tranh Quốc-Cộng kết thúc vào ngày 30/4/1975, quân dân cán chính của chế độ VNCH chịu nhiều thống khổ và bị phân biệt đối xử. Tình trạng này chỉ được cải thiện vào cuối thập niên 1980 khi Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tiến hành đổi mới.
Theo nhà báo Lê Phú Khải, nguyên thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) tại Đồng bằng sông Cửu Long thì dùng các từ “ngược đãi” “phân biệt đối xử” là chưa chuẩn xác, vì thực tế nó ghê gớm và kinh khủng hơn thế rất nhiều. Từ Saigon ông Lê Phú Khải nhận định:
“Đây là một đường lối sai lầm làm cho nhiều người khốn khổ, thậm chí có những người phải sống dở chết dở thì đây là bi kịch chứ không phải là ngược đãi, nó là bi kịch của cả một đất nước.”
Trong khoảng một thập niên kể từ ngày 30/4/1975,  nếu nói quân dân cán chính VNCH và gia đình của họ trở thành công dân hạng hai ngay trên đất nước mình thì cũng có nhiều phần đúng. Bởi vì chính sách của Đảng Cộng sản đã thay đổi tận gốc nền tảng xã hội ở Nam Việt Nam, quyền tư hữu đất đai không còn, các đợt cải tạo công thương nghiệp tư doanh đã quốc hữu hóa đồng loạt khối doanh nghiệp tư nhân dù là doanh nghiệp lớn hay nhỏ. Ngoài ra rất nhiều tài sản và nhà ở của sĩ quan cao cấp, viên chức VNCH bị tịch thu với những lý do mơ hồ như có nợ máu với nhân dân, hoặc bị chụp mũ là tư sản.

Những sai lầm chết người
Ông lê Phú Khải nhận thức từ hiểu biết qua công tác nhà báo của mình, ngay trong những năm đầu khi Miền Nam khởi sự được nếm mùi xã hội chủ nghĩa. Ông nói:
“Ngoài Hà Nội tôi đã chứng kiến rồi, chứ trong Nam đương nhiên là như thế, người ta nóng vội đi lên chủ nghĩa xã hội không tưởng, cái chủ nghĩa xã hội mà ông Nguyễn Phú Trọng nói là đến cuối thế kỷ này chưa chắc đã hình thành đấy. Người ta muốn đi lên thì người ta phải cải tạo, đó là một sai lầm chết người cho nên bao nhiêu là chủ xưởng, chủ nhà máy là những người lao động giỏi, của cải của họ bị tich thu hết, công tư hợp doanh hết, đi vào làm ăn đưa cho những người không biết quản lý lên quản lý thì nó đã làm tan nát hết nền kinh tế từ năm 1975-1976 cho tới đại hội Đảng lần thứ 6 năm 1986, sau đó là đổ mới thì mới bắt đầu có khá lên được.”
Ngay cả những người đã mất cũng bị kỳ thị. Nghĩa trang quân đội Biên Hòa bị bỏ hoang mộ bia bị đập phá...
Ngay cả những người đã mất cũng bị kỳ thị. Nghĩa trang quân đội Biên Hòa bị bỏ hoang mộ bia bị đập phá...
Nhà báo Lê Phú Khải qua thời gian làm phóng viên, rồi thường trú Đài Tiếng nói VOV ở Đồng bằng sông Cửu Long, nhớ lại một thời kỳ đảo điên ở miền Nam Việt Nam sau khi đất nước thống nhất. Ông nói: “Tôi chứng kiến nhiều lắm, ví dụ một ông chủ tiệm giày bị đuổi đi khai hoang ở Tây Ninh, nhưng khi ông thấy “đổi mới” cán bộ bắt đầu đi giày rồi, bắt đầu nhảy đầm rồi thì ông ấy kéo cả gia đình về; bây giờ ông lại có tiệm giày. Hay là ông chủ ô tô chẳng hạn, ông ấy bảo tôi có chiếc xe chở khách họ biến thành công tư hợp doanh, tôi biết công tư hợp doanh sau này dứt khoát sẽ phải trả lại tôi. Vì sao, ông ấy bảo họ đến lấy cái ô tô nhưng phụ tùng chả ông nào lấy, tôi để phụ tùng dưới gầm giường. Tôi biết mấy ông này ở nhà quê ra chẳng biết gì về ô tô, ô tô cũ phải có phụ tùng để sửa chữa. Y rằng sau này phải trả lại ô tô cho chủ cũ. Như vậy nói là ngược đãi là chưa đúng phải nói là đường lối sai lầm dẫn đến những bi kịch, những thảm họa của đất nước.”
Mặc dù hệ thống tuyên truyền của Nhà nước Việt Nam cố gắng viết lại lịch sử theo quan điểm chính trị chứ không phải những sự thật đã xảy ra, nhưng sự kiện hơn 100.000 sĩ quan và viên chức VNCH bị đưa vào các trại tù khổ sai được gọi một cách mỹ miều là tập trung cải tạo thì không thể nào chối cãi và nói khác đi được. Tất cả những quân cán chính VNCH bị đi cải tạo tập trung sau 30/4/1975 nói chung đều đã bị giam cầm cả chục năm, người ít nhất thì cũng từ 3 năm tới 5 năm.
Ông Nguyễn Ngọc Tiên, cựu Trung úy Quân lực VNCH từng bị tù cải tạo 6 năm và sau khi được thả lại bị thêm 2 năm tù về tội phản động phát biểu từ San Jose Bắc California Hoa Kỳ: “ Lịch sử của thế giới chưa bao giờ thấy một chính sách gọi là cải tạo nào mà giống như chính sách cải tạo của những người cộng sản từ ở bên Liên Xô, bên Tàu hay Việt Nam. Đó chỉ là những hình thức ngược đãi tù tội để mà hành hạ những người mà đi ngược lại với chủ trương của họ. Chúng tôi không thấy một hình thức nào gọi là muốn đào tạo cho người ta tốt hơn mà giống như hình thức của họ hết.”
Ông Đỗ Mạnh Trường cựu viên chức VNCH đã bị cải tạo tập trung 8 năm và hiện định cư ở  Wesminster Quận Cam California phát biểu: “Tôi đã nghe rất nhiều câu chuyện, những người ở Miền Nam có gia đình họ ở Miền Bắc vào thăm thì họ cũng khuyên câu đầu tiên là các bác các chú ráng cải tạo cho tốt để được về với gia đình. Nhưng mà sau một thời gian thì những người này không dám nói điều đó nữa, đó là sự ngụy biện hoàn toàn, bởi vì nếu không có áp lực của thế giới thì chắc chắn là tất cả cựu quân nhân dưới danh nghĩa đi tù cải tạo sẽ chẳng còn được mấy người mà về. Xin nhấn mạnh rằng cho đến năm 1979 có một số người được chở vào Thanh Phong Thanh Hóa để biến thành trại viên thay vì phạm nhân theo danh nghĩa họ nói. Họ đã được trả lại đồng hồ được phép đi ra khỏi trại mà không phải có tụi nó dẫn theo thì họ lại được khuyến khích là trong một thời gian ngắn nữa các anh sẽ đưa vợ con các anh ra ngoài này. Thử  hỏi giả sử chính sách đó kéo dài thì thế hệ hay giai cấp có còn hay không hay tất cả con cái chúng ta đã trở thành người Thượng hết chỉ sau một thời gian rất ngắn.”

Trong khi người chủ gia đình theo lệnh Chính quyền đi học tập cải tạo, thực chất là đi tù thì vợ con họ ở nhà trở thành công dân hạng hai, không thể xin việc làm, con cái những người sĩ quan, viên chức VNCH đi cải tạo bị tước đoạt cơ hội vào đại học. Vì chính quyền phân loại các thí sinh thi vào đại học thành 4 nhóm và mỗi nhóm còn chia tới 14 thành phần. Con “ngụy” thời đó gọi là như thế, muốn vào đại học phải có điểm thi nhiều gấp đôi con cán bộ đảng viên mới có thể trúng tuyển, thí sinh đại học thời đó từng chế câu “học tài thi phận” thành “học tài thi lý lịch”. Một sự thật không thể chối cãi là sau khi đất nước thống nhất, đã chẳng có hòa hợp hòa giải gì, mà ngay trong giáo dục cũng đã phân biệt đối xử giữa con cán bộ và con “ngụy quân-ngụy quyền.”
Nhà báo Lê Phú Khải nhận định: “Không chỉ ở miền Nam mà ở miền Bắc trước kia gia đình trí thức tiểu tư sản, địa chủ tư sản còn bị phân biệt đối xử nữa là sau này ‘giải phóng miền Nam thống nhất đất nước’. Cho nên việc thi vào đại học rồi đối xử không công bằng giữa các thành phần là chuyện hiển nhiên ai cũng thấy… Chuyện phân biệt đối xử lấy giai cấp công nông làm gốc rồi phân biệt đối xử với các giai cấp khác là sai lầm từ gốc rồi, cái này là có thật…mấy ông sử gia chẳng qua là bồi bút thôi, nói để vui lòng bè đảng để thăng quan tiến chức thôi. Chứ bản thân tôi là gia đình toàn cán bộ, thậm chí là cán bộ cao cấp của Đảng, nhưng khi ở Hà Nội ở xóm tôi mấy ông về hay đi xe máy, xe đạp do vậy xã nó phê cho là gia đình tư sản thế là 2 năm trời tôi không được vào đại học. Bản thân tôi đã chịu cái cảnh đó cho nên cái đó là có thật chứ không phải người ta bịa ra".

Sau chiến thắng 30/4/1975, nếu không bỏ lỡ một thập niên u mê đem chính sách cải tạo năm 1954 ở miền Bắc vào áp dụng ở miền Nam, thì có lẽ Việt Nam đã tiến xa hơn nhiều và nếu đảng Cộng sản thực tâm muốn hòa hợp hòa giải thì đã không có làn sóng vượt biển tìm tự do kéo dài từ giữa năm 1975 đến 1990. Nhiều người đã tìm được bến bờ tự do nhưng hàng trăm ngàn người không may đã vùi thây đáy biển.
40 năm sau khi kết thúc cuộc chiến, ở đâu là nỗi vui mừng của người chiến thắng và ở đâu là tiếng thở dài u uất của người dân Việt.
2015-04-22
http://www.rfa.org/vietnamese/



Chuyện tù cải tạo: vay và trả

FB Nguyễn Tuấn
 
Nhân phát biểu của ông phó giáo sư tiến sĩ Vũ Quang Hiển (không có ngược đãi quân cán chính miền Nam sau 1975) tôi muốn giới thiệu một bài mang tính hồi tưởng của BS Võ Tam Anh viết về thời gian trong các trại tù cải tạo. Đây chỉ là 1 trong số hàng ngàn câu chuyện. Câu chuyện, nói theo ngôn ngữ của Karl Popper, là một minh chứng cho thấy ông Vũ Quang Hiển đã phạm phải một sai lầm lớn. Ông cũng đã xúc phạm hàng triệu người Việt Nam.
Phát biểu của ông Vũ Quang Hiển làm tôi nhớ đến sử gia người Anh tên là David Irving. Ông Irving nổi tiếng với danh xưng “Holocaust denier” vì ông phủ nhận rằng Holocaust là chuyện không có thật, rằng mấy lò gas là do người Do Thái phịa ra. Ông Irving nổi tiếng đến nỗi bị Chính phủ Úc cấm không cho vào Úc, và sau này thì bị toà án Áo phạt tù 3 năm về tội xuyên tạc sự thật lịch sử. Kể ra thì ông Vũ Quang Hiển còn may mắn chán vì ông không chịu sự chi phối của luật pháp nước ngoài.
Không biết có khi nào ông Vũ Quang Hiển tự hỏi tại sao các lãnh đạo cao cấp của VN ra nước ngoài là bị biểu tình dữ dội? Suốt 40 năm qua, biểu tình vẫn xảy ra mỗi khi các vị ấy đến thăm các nước phương Tây. Một trong những lí do là những người mà chính quyền hiện hành từng bỏ tù họ và hành hạ họ qua nhiều năm trong các trại “cải tạo”. Cho dù họ đã chết, nhưng con cháu họ thì không quên. Chính vì thế mà họ biểu tình. Tôi không thích việc làm như thế, nhưng tôi hoàn toàn hiểu và thông cảm cho sự tức giận của họ.
Người phương Tây có thành ngữ “What goes around comes around”. Câu này có thể hiểu là “Cuộc đời có vay thì có trả “. Những gì mà chính quyền ngược đãi những tù nhân cải tạo thì bây giờ chính quyền phải nhận lãnh hậu quả. Tưởng là ông Vũ Quang Hiển thừa biết câu đó chứ.
19-04-2015



Lương y như... từ mẫu
 
BS Võ Tam Anh
 
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, nhân dân Miền Nam Việt Nam lâm vào một tâm trạng hoang mang tột độ, mịt mù trước tương lai, lo âu cho cuộc sống hằng ngày. Tại Bệnh viện Vĩnh Long, mặc dầu tôi đã không còn trách nhiệm gì nữa mà anh chị em nhân viên cứ bám lấy tôi để dò hỏi, làm như tôi có phép mầu nhiệm gì để giải tỏa được những thắc mắc đang quay cuồng trong trí óc mọi người.
Những người thay thế tôi cố sửa đổi bộ mặt của bệnh viện bằng cách cho sơn vẻ khắp nơi những khẩu hiệu cách mạng mới, mà đắc ý nhất là câu “Lương Y như Từ Mẫu”, không biết lượm được ở đâu, mà cứ nhan nhản khắp nơi, từ ngoài cổng, cầu thang, hành lang cho đến phòng thay áo, nhà tắm…như cố nhét vào đầu óc mọi người để tranh thủ cái độc quyền đạo đức nhân từ mà chỉ riêng người thầy thuốc cách mạng mới xứng đáng với hai chữ lương y.
Một hôm, tôi bước vào phòng trực y tá để thăm hỏi, thì thấy anh chị em đang quây quần tán gẫu, lẽ tất nhiên cũng không ngoài đề tài số một là gạo cơm lương bổng sẽ ra sao. Bên cạnh là bàn thờ tổ quốc, một thứ trang trí mới trong tất cả các phòng, bất luận là chuyên môn hay hành chánh, bên trên vẫn là cái câu nhân từ bất hủ đó. Một nữ hộ sinh chỉ vào khẩu hiệu, ngao ngán bảo với tôi: ” Ông Thầy biết không, chúng em bị một phen mừng hụt vì nó đấy “, rồi lấm lét nhìn ra của, nói tiếp: “Chiều nay khi mấy chú cán bộ vào kẻ khẩu hiệu, khi ngang tới chữ “Lương y như…” chúng em mừng quá reo lên vì cứ tưởng là lương y như tháng trước, không ngờ nó lại là như…từ mẫu!”.
Thế rồi vì không hiểu duyên nợ nghề nghiệp gắn liền hay đạo đức cách mạng chu đáo lo cho chúng tôi mà các bậc từ mẫu đó, tuy khoác áo lương y nhưng lại cư xử theo tư cách một… cai ngục, đã đeo đẳng mãi chúng tôi trên suốt đoạn đường dài “cải tạo”.
Sau những năm dài da diết trong rừng sâu Sơn La, trên biên giới Hoa Việt, cuối cùng, vì có chiến tranh với Trung quốc, chúng tôi được áp tải về một trại giam gần Hà Nội, một trại giam “kiểu mẫu”, một thứ “cây kiểng” để chế độ trình diễn chính sách khoan hồng nhân đạo với thế giới bên ngoài. Trong cái tủ kính bày hàng đó, lẽ tất nhiên săn sóc sức khỏe cho tù là “ưu tư hàng đầu” của Ban Giám thị và vị lương y phải được đóng vai kép chính.
Trại Nam Hà, cách Chùa Hương không xa, được thời cuộc nâng lên hàng danh lam thắng cảnh để cho quan khách ngoại quốc lui tới viếng thăm, từ Hội Ân Xá Quốc Tế, báo chí Tây phương, các nghiệp đoàn cộng sản Pháp cho tới cả “đồng chí” Chandra Chủ tịch Hội đồng Hòa bình Thế giới v.v… Từ trại nhìn ra, cảnh đẹp như tranh, xa xa những núi đá vôi nho nhỏ, đủ hình đủ dạng, nổi lên trên một mặt nước phẳng lì thơ mộng trông như Vịnh Hạ Long. Cái mặt nước phẳng lì hiền hòa đó, không ai ngờ là một thứ hàng rào thiên nhiên vô cùng độc hại, là những đầm sình lầy cát lở đã nuốt sống biết bao là tù nhân trốn trại.
Bệnh xá nằm dưới chân đồi, trước sân có hòn non bộ với Lã Vọng ngồi câu, bên dưới là bể cá vàng lừ đừ lội nhìn chúng tôi bằng cặp mắt thờ ơ chán ngán, trên mái hiên treo đầy lồng chim đủ màu đủ loại, suốt ngày hót líu lo như để mỉa mai tâm trạng héo hắt tơi bời của chúng tôi.
Tất cả cái thú xa xỉ trưởng giả đó đã được đánh đổi bằng xương thịt của chúng tôi qua sự cắt xén tiền thực phẩm vốn đã vô cùng đói rách. Cá thia vàng, chim hoàng yến, chim họa mi tung tăng bay nhảy, đã được mấy ngàn cặp mắt tù sâu hoắc và phờ phạt vì thiếu ăn, thèm thuồng nhìn qua giá trị của mấy chục gờ ram prôtêin mà vô cùng tiếc rẻ, vì nó đang nằm trong tầm tay mà lại ngoài tầm… bao tử. Cây kiểng trước sân được chăm sóc tỉ mỉ mà mỗi lần gọt tỉa là một dịp cho chúng tôi lượm lá rụng nấu thành một bữa rau để dành giựt nhau, tuy vừa dai vừa đắng nhưng màu đỏ của nước lá dền cũng cho chúng tôi ảo tưởng bổ dưỡng của chất sinh tố B12. Cái quang cảnh thần tiên của bệnh xá đó đã được lên hình trên báo Liên Xô và được tô điểm đến độ mỗi lần thuyết trình cho phái đoàn ngoại quốc, viên giám đốc trại cũng không bao giờ quên luyện giọng một cách thành thực: “Tôi chỉ mơ ước được sống như những trại viên (ý nói từ chúng tôi)”. Tiếc thay!!!
Đến đây tôi mới hiểu tại sao anh em tù Nam Hà gọi cán bộ bằng “Chèo” (phường chèo), trắng trợn đến độ ban giám thị phải gọi lên chỉnh: “Cán bộ thì có nam có nữ, cớ sao các anh lại gọi bằng “chèo đực, chèo cái”, nghe chẳng “văn hóa” tý nào”.
Trại có một mật độ chuyên viên y khoa cao nhất thế giới, trong số hai ngàn người (tù) thì có đến hai mươi bác sĩ (cũng tù). Tất cả đều phải lao động khổ sai như nhau, đập đá, đốn củi, ngâm mình dưới nước để kéo cày thay trâu…, trong khi trên bờ đê, cán bộ cầm cái roi dài quất qua quất lại khiến cho tù ở dưới ruộng không hiểu là mình đang còn ở kiếp người hay đã đầu thay qua kiếp khác làm trâu bò.
Phần điều trị được nhường lại cho những người ngoài ngành y tế được lựa chọn theo tiêu chuẩn hạnh kiểm và mức độ hợp tác. Tuy nhiên, bất đắc dĩ bệnh xá phải giữ lại một vài bác sĩ tù để vừa giúp đỡ trong việc chuyên môn, để đọc các tên thuốc bằng ngoại ngữ, vừa để làm kiểng cho phái đoàn ngoại quốc xem, vừa để dạy cho các bác sĩ (không phải y khoa) cách mạng ống nghe, cách bắt mạch v.v…
Người được chọn ở lại bệnh xá là một đồng nghiệp đàn anh, từng tốt nghiệp đại học Paris khi tôi chưa vào trường y khoa, từng giữ nhiều chức vụ điều khiển trong ngành y tế miền Nam, nay đã lớn tuổi được anh em rất nể nang nên tôn làm “đại ca”. Đại ca còn có thêm biệt hiệu nữa là “Vua cháo heo” vì thỉnh thoảng được anh em nuôi heo cho cán bộ, thương tình làm ngơ để cho múc một lon cháo heo (dĩ nhiên là béo bổ hơn cơm tù ) rồi vụt chạy cho cán bộ khỏi thấy. Thế là tối hôm đó được một đêm huy hoàng. Sau khi chiếc khóa sắt nặng nề rột rạt khóa kín cửa chuồng lại, chúng tôi bao quanh đại ca, bên cạnh lon cháo heo bốc khói thơm phức, vừa xem đại ca lim dim đôi mắt thưởng thức từng hạt bo bo cháy khét mà tưởng chừng như ăn trứng caviar, vừa để đại ca kể lại cho đàn em nghe những ngày vàng son còn du học trên đất Pháp, những đêm liên hoan trên đường phố Montmartre Paris…
Chỉ huy bệnh xá là một bác sĩ ngành công an, luôn luôn nhìn chúng tôi bằng cặp mắt nghi ngờ đầy mặc cảm, có lẽ đã đọc được trong phiếu lý lịch của chúng tôi một tội danh lạ đời: “Can tội: bác sĩ”. Một hôm tịch thu được hộp dụng cụ tiểu phẫu trong đó có cây kềm Michel giống cái kéo, dùng để gỡ các móc da, bác sĩ loay hoay mãi không biết làm sao, cuối cùng chê: “Kéo với kiết, thế này thì làm sao cắt được, dốt thế!”. Mắt bác sĩ đã quen nhìn những lọ Pénicilline Trung quốc làm bằng một thứ chai đục ngầu, bọt lỗ đỗ, nút lọ được khằn kín bằng sáp như thuốc “cao đơn hoàn tán”, nên khi gặp một lọ Pénicilline bào chế ở miền Nam, rất kinh ngạc vì kỹ thuật sai biệt, và khi thấy trên lọ mấy chữ: “Laboratoires Ténamyd Thủ Đức”, bèn mừng rỡ khoe với chúng tôi: “Thuốc của Đức đấy, xã hội chủ nghĩa anh em ta đấy”.
Dưới trướng của vị luơng y này là một ban chuyên môn (không phải y khoa) gồm đủ thành phần. Một anh có hoa tay đục đẽo, chạm trỗ, biến các lon sữa Guigoz thành những hộp thuốc lá, cái lược, cái vòng, tinh vi như những nữ trang thứ thiệt để lương y đem về tặng thân nhân hoặc… đổi chác. Một anh ngành quân cụ lo bảo trì chiếc xe đạp “hữu nghị” mà người cỡi cũng hãnh diện như lái chiếc xe Mercedes vậy. Một họa sĩ có biệt tài biến hóa những gương mặt trong gia đình lương y từ một tấm ảnh nhăn nheo vàng khè thành những chân dung sạch sẽ khôi ngô, và lương y cũng không dấu được sự hài lòng khi thấy khoác lên ông cụ thân sinh chiếc khăn nhiễu, cái áo gấm, trông rất “quan “, còn phu nhân và ái nữ cũng được mặc chiếc áo dài mà ngoài đời họ chưa bao giờ sờ tới. Riêng bản thân lương y, khi đề nghị mặc bộ âu phục cho oai thì lưỡng lự hồi lâu rồi buồn rầu trả lời: “Chớ! không nên, nhỡ trên biết được thì khốn”, nên đành chấp nhận bộ đồng phục công an vậy.
Về phần điều trị, có lẽ Đảng đã sáng suốt thấy rõ sự lúng túng của lương y, nên chỉ thị cho quốc doanh cung cấp dược phẩm dưới hình thức “viên” hết sức đơn giản, hễ đau ở bộ phận nào thì đã có những viên tương ứng: viên gan, viên dạ dày, viên phổi, viên tim, viên xương, viên khớp v.v… Ban đêm nếu có tiếng kêu cứu từ các phòng vọng ra, thê thảm xé nát sự im lặng nặng nề của trại tù về đêm, rồi cứ lặp đi lặp lại mãi như dội qua vách núi, cho đến khi lương y khệnh khạng đến, cho ống nghe qua một khe nhỏ để khám bệnh nhân ở trong phòng rồi hoặc phát cho vài “viên”, hoặc bắt bệnh nhân dán mông đít vào song cửa sắt chích cho một mũi thuốc để chờ tới sáng. Cũng trong hoàn cảnh đó, một Thượng Nghị Sĩ nổi tiếng ở Sài gòn, bị trúng độc vì ăn sắn sống, trộm được lúc ban chiều khi đi lao động, đã phải chờ mãi cho tới sáng hôm sau, khi được đưa ra khỏi phòng thì đã quá trễ.
Một buổi chiều nọ, khi đi lao động về, anh em ngạc nhiên chứng kiến một hiện tượng lạ thường: trại được sơn phết lại trắng xóa, trên vách tường lại vẽ thêm những bông hoa màu mè sặc sỡ, có lẽ vì cây cảnh thật đã bị tù bứt lá bẻ hoa không đủ đem lại vẻ vui tươi cho nhà tù. Giữa sân lại có cảnh nhóm chợ trời, cán bộ bày bán thịt tươi, rau sống cho anh em tù nào còn dấu đút được chút tiền còm tung ra mua ăn bồi dưỡng. Những người giàu tưởng tượng cho truyền ngay một câu sấm, không biết có phải của Trạng Trình không:
“Bao giờ tường đá nở hoa,
Nhà tù nhóm chợ thì ta…ra về”
Về đâu chẳng thấy nhưng truớc mắt là phải ráo riết chuẩn bị doanh trại để đón tiếp một phái đoàn ngoại quốc quan trọng, một công tác làm đảo lộn hẳn nếp sống hằng ngày, để được đền bù bằng một chút an ủi mơ hồ là còn được người đời biết tới.
Ngay tối hôm đó, một số nhạc cụ kể cả cây dương cầm nặng nề được hì hục chở về từ Hà Nội để cho ban nhạc tha hồ tập dượt mãi tới khuya. Tiếng nhạc vang lên từ một góc núi làm khuây khỏa trong chốc lát những u uẩn của tù nhân. Thỉnh thoảng một vài bản “nhạc vàng” được chơi lén, tiếng réo rắc của “Diễm Xưa”, “Nắng chiều” gợi lên một nỗi nhớ nhà vô biên, mà lỡ cán bộ có hỏi tới thì anh em đã sẵn câu trả lời: “Nhạc Cuba đấy”, thế là yên.
Căn phòng chật chội hôi hám trong đó hằng mấy trăm mạng người chen lấn giành giựt từng ly, từng phân trên cái tiêu chuẩn hai bàn tay cho mỗi người, nay được thu dọn thành ba mươi chỗ nằm rộng rãi tươm tất, với chiếu hoa mới toanh, chăn len thơm phức, sắp xếp thẳng tắp như trong một quân trường.
Từ mờ sáng, ngoài thành phần ở lại để trình diễn, còn tất cả phải lũ lượt kéo nhau thành từng đàn qua các đường mòn khúc khuỷu để vào trốn sâu trong núi. Các anh em bệnh nặng thì được cõng, gánh hoặc khấp khểnh lết đi thật xa để khuất khỏi tầm mắt trong sáng của người ngoại quốc cái hình ảnh vẩn đục thê thảm đó.
Bệnh xá này nhường lại cho những con bệnh mới, không có bệnh nhưng có một thể xác chưa tàn tạ nhờ có thăm nuôi, lúng túng học thuộc lòng những căn bệnh thời đại do “tàn dư Mỹ Ngụy để lại”: sơ gan vì rượu chè, lên máu vì nhậu nhẹt, nghẽn mạch máu vì xì ke, ma túy… Gọn gàng sạch sẽ trong những bộ đồ ngủ mới toanh, trên mỗi đầu giường có chưng thêm một hộp sữa cũng “kiểng” như bệnh nhân, nghĩa là sẽ được thu hồi ngay sau khi phái đoàn ra về.
Ban thể thao, bóng chuyền, bóng bàn, trong đồng phục gọn ghẽ vui mắt, ra sức “tranh thủ” để được bồi dưỡng thêm mấy củ khoai. Từ sáng sớm ban nhạc đã inh ỏi trổi lên những bản nhạc hùng khối cộng sản, gây không khí vui nhộn làm cho quan khách có cảm giác là đi chơi chợ phiên hơn là đi thăm nhà tù.
Không hiểu là một phần thưởng hay là một cực hình tủi nhục cho những ai được chọn để ngồi ăn một bữa cơm “xoàng” mà trong suốt cuộc hành trình cải tạo họ chưa bao giờ được nếm. Thực đơn, được dán ở cửa, gồm có cơm trắng (một hiếm hoi trên đất Bắc) và thịt lợn, rau muống (một điều lạ trong nhà tù). Bữa cỗ được diễn tiến theo một lịch trình khắt khe: ngồi vào bàn khi phái đoàn rời Hà Nội (8 giờ sáng), cầm đũa khi họ đến cổng trại (10 giờ sáng) để cho bao tử cồn cào tiết chất chua, nước mắt nước mũi chảy dài vì ngỡ ngàng trước mấy món ăn thơm phức béo bổ, cứ thế mà chịu đựng cái cực hình sinh lý đó suốt mấy tiếng đồng hồ, hai tay thì cứ tuyệt vọng vùng vẫy trong một thứ còng vô hình cho đến khi bóng dáng của phái đoàn cứu tinh xuất hiện ở ngưỡng cửa mới được lệnh cho thức ăn vào miệng (1 hoặc 2 giờ trưa).
Phần trình diễn của bệnh xá được mở màn khi phái đoàn đặt chân vào trại. Bác sĩ trưởng, trong bộ áo bờ lu lụng thụng, chiếc nón vải che khuất chân mày, trịnh trọng đặt ống nghe vào bệnh nhân ngồi trước mặt, rồi cứ giữ tư thế đó như một pho tượng sáp cho tới khi phái đoàn đi qua. Lẽ cố nhiên “đại ca” của chúng tôi cũng có mặt tại bệnh xá với một chỉ thị nghiêm khắc: không được nói tiếng ngoại ngữ và cố tránh mặt phái đoàn chừng nào hay chừng đó. Một nhà báo Pháp hỏi đại ca: “Anh biết tiếng Pháp không?”. Vì đã được dặn trước, đại ca phải chờ cho thông dịch viên Bộ Nội vụ dịch xong để chứng tỏ rằng mình không hiểu được câu hỏi, rồi mới trả lời “Không”. Nhà báo hỏi tiếp: “Anh tốt nghiệp ở đâu?”. Câu hỏi bất ngờ này không được ban giám thị cho học tập trước, nhưng cũng vẫn chờ được dịch xong như thường lệ, đại ca mới trả lời: “Y khoa Đại học Paris”. Nhà báo bàng hoàng, ngạc nhiên như khám phá được một điều gì bí ẩn, một cái gì bất thường, tò mò hỏi tiếp thì được biết vợ anh là người Pháp, hiện sinh sống ở Paris, nên mừng rỡ chụp cho một tấm hình rồi ân cần thêm: “Tuần sau vợ con anh sẽ nhận được”, lòng hân hoan phấn khởi vì vừa làm được một nghĩa cử trọng đại.
Chưa kịp mừng thì tai họa đến ngay. Sau khi phái đoàn ra về, thì ông bạn già của chúng ta, nạn nhân của lòng vị tha nhân đạo kiểu Tây phương, bị bác sĩ trưởng bệnh xá và ban giám thị gọi lên mắng nhiếc thậm tệ, bắt kiểm điểm lên kiểm điểm xuống, để rồi, bắt đầu từ hôm sau, hằng ngày phải ra lao động, đập đá, kéo cày, ngâm mình dưới ruộng như hàng ngàn, hàng vạn anh em tù khác. Ngày tôi về, đại ca còn ở lại, tiễn đưa tôi bằng cặp mắt đã hết nước mắt và hẹn tôi ở… kiếp sau!
Dư âm nặng nề của cuộc viếng thăm và vì tấn tuồng đóng vụn, làm cho cơn lôi đình của lương y đã trút hết lên đầu chúng tôi, nay không còn khoác áo Từ Mẫu nữa mà lại đội lốt… Ác Mẫu.

Phương Vũ Võ Tam Anh
 




"Không có ngược đãi sau 30/4" - phó giáo sư Vũ Quang Hiển

Bs Hồ Hải

Hôm nay nghe bài phỏng vấn của BBC với ông phó giáo sư Vũ Quang Hiển về chuyện chính quyền cộng sản Bắc Việt đã đối xử với nhân dân của Việt Nam Cộng Hòa sau ngày 30/4/1975 một cách láo toét, thì mới thấy hết chính sách tuyên truyền của chế độ công sản là bản sao của cựu bộ trưởng tuyên truyền Phát Xít Đức Joseph Goebbels: "Chân lý là hàng ngàn lần nói láo" (Joseph Goebbels).

Một thời người Đức Quốc Xã nói láo, và chính quyền của Hitler đã bị cả thế giới 2 phe tả hữu phải cùng nhau tiêu diệt.
Thế thì người cộng sản còn muốn nói láo đến bao giờ, khi những câu chuyện ở Trại Cổng Trời, và bao nhiêu trại huấn nhục cải tạo khắp các tỉnh thành với chữ K, Z, etc mang bí số như K1, K2, K3, K4... Kn, Z30-D, etc. Những con người đã bị tù đày, hãm hại cả chục năm, gia đình ly tán, bất hạnh. Sau đó buộc phải thả ra vì cả thế giới lên án chế độ cộng sản tàn độc, vô nhân tính. Họ đã được Hoa Kỳ thực hiện chính sách nhân đạo cho đi di tản theo diện HO - Humanitarian Organization (Tổ chức nhân đạo) - vẫn còn đó, thì ông phó giáo sư trả lời như thế nào với những câu: "Tôi nghĩ..." của ông?
Trại giam Cổng Trời từ năm 1959 và sau đó là 1976 dành cho các chính khách và nhân dân miền Nam Việt Nam sau 30/4/1975
Trại Cải-Tạo Hàm Tân Z30-D của CSVN & Cố Thiếu Tá Lê Hữu Cương vào năm 1984, và sau đó ông đã chết không rõ lý do, và chết ở đâu?
Hơn 1 triệu người Việt phải bỏ đất nước ra đi từ 30/4/1975 đến 1990, mà trong cuộc nội chiến trước đó có thể chết vì bom đạn, họ vẫn không bỏ đất nước ra đi, là vì cái gọi là, "không có ngược đãi sau 30/4" của ông phó giáo sư Vũ Quang Hiển đấy chăng?
Ông phó giáo sư Vũ Quang Hiển là một nhà khoa học lịch sử của trường đại học quốc gia Hà Nội, nhưng khi ông trả lời phỏng vấn ông không đem chứng cứ lịch sử thật ra để trả lời, mà ông lập đi, lập lại nhóm từ: "Tôi nghĩ...". Tôi/anh/chị/ông/bà nghĩ là cụm từ cảm tính, chủ quan, phi khoa học, chứ không phải là cụm từ dành cho khoa học, khách quan và biện chứng ông Vũ Quang Hiển ạ. Thế thì ông trả lời dùm tôi nước mắt, và hình ảnh Ông Cựu Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh – Cựu SVSQ/TVBQGVN/K5 sau 13 năm bị chính quyền Bắc Việt bỏ tù, và được thả ra năm 1988 như tấm hình đầu tóc bạc phơ này như thế nào?
Và người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu là chuyện gì đây ông Hiển?
(Ngày 20/04/15 - PHÓNG SỰ TỪ VIỆT NAM: Tâm tình của người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu)
Ông phó giáo sư Vũ Quang Hiển trả lời như thế nào về lịch sử thuyền nhân Việt Nam phải bỏ đất nước ra đi, rồi bị cướp biển, cá biển giết hại, đến bây giờ vẫn còn những nghĩa địa của họ ở khắp các quốc gia Đông Nam Á, đến nỗi trong tiếng Anh phải có thêm từ: Boat People - thuyền nhân vượt biển của Việt Nam - như phim tài liệu lịch sử sau đây:

Lịch sử dân tộc Việt hơn 2600 năm, chiến tranh chiếm hơn một nửa thời gian, nhưng chưa bao giờ dân Việt bỏ nước ra đi, dù có ngàn năm đô hộ giặc Tàu, hay 100 năm đô hộ giặc Pháp, và 30 năm nội chiến từng ngày. Chỉ sau 30/4/1975, người Việt cộng sản cai trị dân Việt, mà dân Việt thà hy sinh mạng sống trên biển cả, trước cướp biển để ra đi là lý do gì, hỡi ông phó giáo sư Vũ Quang Hiển nghĩ? Ông có biết đây là một vết nhơ, nỗi nhục của dân tộc Việt suốt lịch sử dân tộc không bao giờ rửa sạch không, thưa ông Hiển?
Cho đến hôm nay, tháng tư đen của 40 năm sau ngày 30/4/1975 ấym vẫn có 50 người Việt phải vượt biển, bỏ nước ra đi, để người Úc phải trả về, không biết ông Hiển có thấy nhục không?
Ông Vũ Quang Hiễn nghĩ cảm tính rằng không có ngược đãi đối với dân miền Nam Việt Nam, nhưng bao nhiêu thế hệ thanh niên Việt Nam bị đuổi ra khỏi trường học, đẩy đi kinh tế mới nơi rừng sâu, nước độc với bút phê vào tấm lý lịch cá nhân là: "thành phần không hợp tác với cách mạng, không được đào tạo!", mà chính ngay người viết bài này là nhân chứng cụ thể?
Tôi cũng không hiểu sao với cách làm việc phi khoa học của ông Vũ Quang Hiển, mà ông lại lấy được học hàm phó giáo sư? Với cái học hàm ấy, ông sẽ còn phá nền giáo dục Việt Nam đến bao giờ nữa, khi nó đã tụt hậu từ 1-2 thế kỷ? Và những thế hệ được ông Hiển đào tạo sẽ là những con người hay con gì?
Là phó giáo sư ông nói láo trắng trợn, trơ trẽn, không còn liêm sĩ như thế này trước cộng đồng thế giới, không biết về nhà ông sẽ nói và dạy bảo gì với con cháu của ông, hả ông Vũ Quang Hiển?
Nếu đem bằng chứng khoa học khách quan ra để chứng minh ông phó giáo sư Vũ Quang Hiển nói láo, và làm khoa học lịch sử theo cảm tính, chủ quan không giá trị thì vô số bằng chứng, mà không thể đưa ra hết được. Nên tôi chỉ muốn nói với chính quyền cộng sản Việt Nam đương đại rằng, nhân chứng lịch sử bao thế hệ vẫn còn sống. Tài liệu lịch sử với thời đại thông tin toàn cầu vẫn còn lưu mãi đến khi nào trái đất còn sự sống rằng, chính quyền cộng sản Việt Nam đã đối xử tồi tệ với người dân Việt Nam như thế nào? thì đừng nói láo nữa. Khi nói láo trở trẽn thì công cuộc dân vận, địch vận của chính quyền cộng sản chỉ đi đến sụp đổ không lâu, vì mất lòng tin dân chúng.
 
Nói láo nó đã là điều tai hại làm cho đất nước Việt sau 40 năm bị xâm lược bởi cộng sản đã tụt hậu xuống hàng thấp nhất khu vực Đông Nam Á, mà ông thủ tướng đương đại phải công nhận. Nói láo nó đã làm ra nhiều thế hệ Việt Nam là những con cừu không có tư duy, chưa đủ hay sao mà ông Vũ Quang Hiển còn tiếp tục làm sử công nói láo?
Mỗi lần ngày quốc nhục 30/4/1975 đến là mỗi lần những người đại diện cộng sản ở Việt Nam lại nói láo. Nói láo đã trở thành hành động phản động chống lại nhân dân và lịch sử đất nước, và nó cũng là mồ chôn chính những người cộng sản trong tương lai gần.

Tôi gọi ngày 30/4 là ngày quốc nhục bởi vì thoát khỏi nội chiến và thực dân Pháp, thì dân ta lại vào tay đế quốc cộng sản Liên Xô từ 1976 đến 1990, sau hiệp định Thành Đô 1990 thì dân và nước ta lại rơi vào tay đô hộ kiểu mới của Trung Cộng, mà lịch sử hôm nay đã quá rõ trên từng sự kiện chính trị, kinh tế và cả văn hóa.
Dân nâng thuyền cộng sản lên trong sóng gió, thì dân cũng là người lật thuyền cộng sản trong biển lặng bình yên. Hỡi bè lũ cộng sản phản động, đừng nói láo nữa.
 
Asia Clinic, 8h35' Chúa nhựt, 19/4/2015
http://bshohai.blogspot.com.au/

 



Đăng ngày 25 tháng 04.2015
Đăng lại ngày 10 tháng 05.2020