banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn tạm ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Dân chủ? Vẫn là mơ thôi?


Cao Huy Thuần

Nam Dao giới thiệu:
Bác Cao Huy Thuần đã có một bài viết cực đỉnh, đỉnh về sự uyên bác, sự từng trải, lịch lãm ở đời. Không sống ở nước ngoài, không có cặp mắt nhìn thấu “bốn cõi” và không có khát vọng dân chủ thì không thể viết được như vậy. Lại nữa, văn bác rất hoạt, bác nói những điều khó nói, khó diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ dân chủ: giản dị, minh bạch, ai cũng hiểu.
Tuy nhiên, đọc bác chỉ thấy buồn và thất vọng cho câu chuyện dân chủ nhiều tập cho đến nay vẫn chưa rõ ràng gì cả và không hẳn là sẽ có một cái kết có hậu như nhiều người vẫn tưởng. Đó là chuyện của thế giới, còn chuyện nước mình, càng đáng buồn và đáng thất vọng hơn. Vừa qua bác Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố ở Mỹ rằng hiện tại nhân dân Việt Nam đang được sống trong một thời kỳ dân chủ nhất từ trước đến nay. Hẳn ý bác Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng muốn nói thứ dân chủ mà người dân Việt Nam được hưởng là dân chủ theo kiểu cộng sản (chứ không phải dân chủ là một thứ giá trị phổ quát của nhân loại) chăng? Là dân chủ tập trung chăng?
Dân chủ tập trung là một khái niệm mù mờ chưa ai duy danh định nghĩa chính xác được. Nó cũng khó hiểu và mù mờ như khái niệm làm chủ tập thể.
Người ta nói trong toán học có một bài toán (hình như gọi là fac ma fac mơ gì đó thì phải) tồn tại hàng trăm năm, nếu ai giải được hẳn là nhận giải Nobel. Đảng ta cũng nên mở một cuộc thi định nghĩa “tập trung dân chủ”. Ai định nghĩa hay nhất sẽ nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh. Hẳn đó là một Giải thưởng Hồ Chí Minh xứng đáng nhất từ trước đến nay.
Người viết những dòng này không dám giấu dốt, xin thưa thật rằng từ hồi sinh viên đến giờ trải qua mấy chục mùa lá vàng rơi rồi mà vẫn chưa hiểu khái niệm dân chủ tập trung là cái chi chi. Tuy nhiên có thể tạm hiểu một cách chung chung rằng dân chủ tập trung là một thứ bảo bối của Đảng ta dùng để cai trị dân ta giống như cái vong kim cô trên đầu Tôn Ngộ Không Đường Tăng dùng để “cai trị” con khỉ này. Không tự do ngôn luận, không tam quyền phân lập, không đa nguyên đa đảng chi hết, chỉ có dân chủ tập trung – gấp vạn lần dân chủ tư sản! Dân chủ tập trung muôn năm! Làm chủ tập thể muôn năm! Chuyên chính vô sản muôn năm!
Không biết nhà bác Cao Huy Thuần giờ này đang ở đâu, mời bác về quê nghiên cứu xem thế nào là dân chủ tập trung để còn dạy dỗ con dân đất Việt, chứ cứ ù ù cạc cạc cả đám thế này mãi thì không biết bao giờ mới lên đỉnh xã hội chủ nghĩa!

Bauxite Việt Nam

Các anh chị thân mến, vấn đề mà tôi đặt ra hôm nay đã cũ rích, cũ mèm, nghe nói đã mòn tai mà chính chúng ta cũng đã nói mòn lưỡi trong bao nhiêu năm Hội Thảo Hè này. Vậy tại sao lần này vẫn đem cái chuyện “dân chủ” cũ mèmấy ra mà nói nữa? Có lẽvì đề tài của Hội Thảo Hè năm nay: “Nhìn lại 40 năm” chăng? Nhìn lại thì phải nói chuyện cũ. Nhưng nhìn lại cũng phải để nói chuyện mới. Vậy thì cái chuyện gì mới phải nói lần này? Trong 40 năm qua, chúng ta vẫn chưa đi được bước nào trên con đường dân chủ. Vậy chuyện mới phải chăng chính là cái bước đầu phải đi? Nhưng đi thế nào? Thế nào để không xa thực tế?
Tôi đề nghị một cách đặt vấn đề mới. Một câu hỏi khác. Bốn mươi năm đã qua, ngay cả tình trạng dân chủ ở các nước Tây phương cũng đã biến chuyển cùng với thời đại toàn cầu hóa. Dân chủ ở đấy không tránh khỏi vài du nhập độc đoán. Ngược lại, các chính thể độc đoán, không nhiều thì ít, bị bắt buộc phải vay mượn vài cơ chế dân chủ. Một mặt, chính dân chủ cũng bất toàn, cho nên khái niệm “dân chủ hóa” cũng mất bớt đi tính chính xác. Một mặt, các chính thể độc đoán có đi vài bước dân chủ thật, nhưng không phải để tiến đến dân chủ mà để củng cố chế độ. Vậy nếu chúng ta cũng đi được vài bước như thế, chúng ta phải nghĩ như thế nào? Rằng: ta đang ở trên quá trình “dân chủ hóa”? Hay rằng: ta đang củng cố độc đoán? Rằng: ta cũng nên tạm bằng lòng? Hay rằng: ta nên thất vọng?
Tôi biết: cách đặt vấn đề và câu hỏi như thế này phát xuất từ một tâm trạng bi quan. Bi quan trước lo ngại khủng hoảng dân chủ ở Tây phương. Bi quan trước triển vọng dân chủ ở các nước độc đoán, triển vọng ấy có thể bị tương lai hứa hão. Bốn mươi năm rồi, chưa đi một bước mà lạc quan thì mới lạ. Nhưng chính phải bi quan như vậy để đừng bắt đầu với những mơ mộng cao xa, tách lìa thực tế.
Tôi bắt đầu với bi quan thứ nhất của tôi: vấn đề “dân chủ hóa” bị lu mờ, trên sân khấu thế giới cũng như trong học thuyết.

1.
Khi các nước Á Phi mới độc lập, vấn đề dân chủ hóa đã sôi nổi ngay, trong chính trị quốc tế cũng như giữa các lý thuyết gia. Từ đó cho đến gần đây, học thuyết về dân chủ hóa xoay quanh một câu hỏi: làm thế nào để các chếđộđộc đoán trở thành dân chủ? Câu hỏi đó hàm ý: độc đoán là tạm thời, dân chủ là cái đích. Trong khoảng một phần tư thế kỷ đầu, lý thuyết ngự trị trên tư tưởng dân chủ hóa mang tên là “phát triển chính trị” (political development). Lấy ý từ lý thuyết phát triển kinh tế, dân chủ hóa cũng phải trải qua nhiều giai đoạn mà giai đoạn đầu là “cất cánh”. Các lý thuyết gia vạch ra nhiều điều kiện tất yếu để cất cánh mà các nước dân chủ Tây phương đã hội đủ trong lịch sử phát triển chính trị của họ. Phát triển kiểu này, chắc chúng ta đành lắc đầu thôi, vì chẳng lẽ chúng ta phải để cả trăm năm để hội đủ điều kiện? Được tán dương hoặc bị chỉ trích, lý thuyết ấy tiếp tục sống dai cho đến khi khối Liên Xô sụp đổ, các nước Đông Âu cháy bỏng nhu cầu dân chủ hóa. Lý thuyết “phát triển chính trị” nhường chỗ cho một cao trào lý thuyết khác, ào ạt như thủy triều, mang tên là lý thuyết “chuyển tiếp“, có tham vọng trở thành cả một khoa học, cả một transitologie. Đồng thời với các nước Đông Âu, khắp nơi trong “thế giới thứ ba”, Á Phi, Trung Đông, nhất là Nam Mỹ, bùng lên nhiệt huyết dân chủ, thủy triều Đông Âu dâng lên thành triều cường của cả thế giới. Không còn tranh cãi gì nữa, vấn đề duy nhất còn lại là làm thế nào để chuyển tiếp. Chuyển tiếp là tất nhiên, giống như “lịch sử chấm dứt” của Fukuyama cũng là tất nhiên.
Nhưng lịch sử đã không chấm dứt như vậy. Nước Nga không chuyển tiếp. Phi châu không chuyển tiếp. Nếu có chuyển tiếp thì chuyển tiếp từ chính thể độc đoán này đến chính thể độc đoán khác. Nước Pháp có đem viện trợ ra để dọa phải dân chủ hóa thì mới viện trợ, chẳng nước nào tin. Chỉ Nam Mỹ là có thay đổi, nhưng chuyển tiếp lại không vững chắc, hoặc quân đội lại lên thay dân sự, hoặc dân sự khác lên thay nhưng dở hơn. Một tiếng thở dài thốt ra trên sách vở của Pháp: désenchantement!1 Vỡ mộng! Các lý thuyết gia của trường phái chuyển tiếp xoay giấy mực qua đề tài mà họ cho là then chốt của quá trình chuyển tiếp: củng cố. Làm sao củng cố thành quả của chuyển tiếp. Nhưng cách nhìn vấn đề của họ vẫn như từ đầu, nghĩa là: độc đoán là tạm thời, dân chủ là cái đích, và dân chủ đó là dân chủ Tây phương.

Thế nhưng, ngày nay, dưới áp lực của toàn cầu hóa, chính dân chủ Tây phương lại đang trăn trở trên tình trạng khủng hoảng của mình.Một mặt, dân chúng khinh khi giới chính trị, cử tri không thèm đi bỏ phiếu, đảng phái làm mất lòng tin, Quốc hội yếu kém, bất mãn diễn ra ngoài đường, dư luận thờ ơ trước chính sự. Một mặt, việc đối phó với khủng bố, với cực đoan tôn giáo, với làn sóng di tản từ khắp nơi tràn vào, làm các chính quyền Tây phương hụt hơi, giải quyết nạn an ninh và nạn thất nghiệp chưa xong, hơi sức đâu nữa mà lo toan dân chủ hóa cho thiên hạ. Thay vì dân chủ hóa, ngôn ngữ chính trị của Tây phương chuyển qua nhân quyền, mà cũng chỉ nhân quyền ở đầu môi chót lưỡi để hù kẻ yếu. Nước Pháp, quê hương của nhân quyền, thay kép chính trên sân khấu ngoại giao, cổ võ cho “ngoại giao kinh tế” để bán máy bay cho các nước độc tài. Trên sân khấu chính trị cũng như ở trong lòng xã hội Tây phương, các khuynh hướng cực đoan khuynh loát dư luận, ảnh hưởng lên chính trị, len vào Quốc hội, ngự trong các cơ quan dân cử. Dân chủ Tây phương, từ Aristote, đặt nền móng trên tinh thần ôn hòa (modération); ngày nay cực đoan đe dọa đánh cắp gia bảo ấy. Nguy cơ diễn ra trên chính nước Pháp. Ở Bắc Âu, nguy cơ đã thành sự thật. Tại Phần Lan, bầu cử tháng 4 vừa qua, 2015, các bác cực hữu đứng vào hàng thứ hai, bây giờ đã vào chính quyền. Tại Thụy Điển, cũng các bác mỵ dân cực hữu ấy trở thành lực lượng chính đảng thứ ba, chấm dứt mô hình dân chủ xã hội mà thế giới vẫn hằng ca tụng. Tại Đan Mạch, cực hữu đứng đầu trong bầu cử Quốc hội Âu châu năm ngoái 2014, đứng đầu trong bầu cử Quốc hội năm nay, 18-6-2015, đang chơi nước cờ đứng ngoài chính quyền để mặc cả chính sách với giá cao nhất. Tại Na Uy, ôi thôi, các bác ấy cũng đã dõng dạc kéo ghế chính quyền. Có cần phải nói thêm dân chủ nước Mỹ, gương mẫu cho cả thế giới? Có cần phải nhắc lại đạo luật Patriot Act 2001 biểu quyết để chống khủng bố nhưng gây phản cảm lớn trong giới bảo vệ tự do, nhân quyền? Phải chăng cái mầm độc đoán đã thâm nhiễm vào các chính thể dân chủ Tây phương? Tôi trích ở đây một câu của một luật gia danh tiếng Pháp, bà Mireille Delmas-Marty, cảnh báo về mối đe dọa mà khủng bố đang đè nặng trên chính dân chủ Âu Mỹ: “Chúng ta đã có thể phải sợ rằng Ben Laden đã thắng cuộc trong thách thức. Y muốn đánh đổ dân chủ, chí ít y đã thấy trước y sẽ ném dân chủ vào vòng tay của Big Brother”. Chứ gì nữa! “Chiến tranh chống khủng bố” mà ông Bush mở màn từ 2001 ngày nay đã hội đủ nguyên liệu để trở thành “một nội chiến toàn cầu và thường xuyên”, chữ của bà Delmas-Marty.2 Đã đi vào “chiến tranh”, mà lại là “nội chiến”, mà lại là “toàn cầu”, mà lại là “thường xuyên”, làm sao tự do, làm sao nhân quyền, làm sao dân chủ khỏi sa vào cái bẫy của những luật pháp ngoại lệ?

Từ tình trạng ấy, học thuyết bắt đầu bàn luận trên hiện tượng lai giống: chính thể dân chủ lai giống độc đoán. “Không một chế độ dân chủ nào, ngay cả ở châu Âu, được bảo vệ khỏi áp lực của độc đoán”,một tác giả có uy tín trong đại học Pháp khẳng định như vậy.3 Chính mình đã không còn nguyên chất nữa, dạy dân chủ cho ai? Trong sách vở, xuất hiện nhiều khái niệm kỳ quái: “dân chủ độc đoán”, “độc đoán dân chủ”.4 Toàn cầu hóa làm xâm nhập ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai loại chính thể vốn được coi là đối kháng, khiến dân chủ không còn trinh bạch mà độc đoán cũng không hẳn là sở khanh. Bên này có “dân chủ độc đoán” thì bên kia có “độc đoán dân chủ”. Vậy thì làm sao còn nói “quá trình dân chủ hóa” được nữa? Quá trình ấy có đưa đến “dân chủ” như mẫu mực cổ điển đâu? Vậy thì “độc đoán dân chủ” là tương đương với “dân chủ hóa”?
Lấy ví dụ Vénézuela. Cựu tổng thống Chavez là độc đoán chăng? Đúng thế. Nhưng ông được bầu lên hẳn hoi trong một cuộc bầu phiếu có tranh cử hẳn hoi. Hơn thế nữa, ông chấp nhận thất bại khi bị thiểu số trong trưng cầu dân ý. Vậy là độc đoán hay là đã dân chủ hóa rồi? Nước Nga hiện nay: dân chủ hay độc đoán? Sao không gọi là dân chủ được khi Putin thực sự được bầu lên, tam quyền phân lập là nguyên tắc? Nhưng sao không khỏi mang tiếng là độc đoán khi truyền thông bị áp lực, ký giả Anna Politkavskaïa bị ám sát ngay giữa thủ đô, khi Putin mạnh không thua gì Sa Hoàng, lấn lướt một Quốc hội yếu xìu, đẩy vào bóng tối các chính đảng? Ấy là độc đoán hóa? Ấy là dân chủ hóa? Iran là độc đoán chăng? Hiển nhiên. Mà còn độc đoán thần quyền. Nhưng cựu tổng thống Ahmadinejad được bầu lên trung thực rồi bị mất chức trung thực trong cuộc bầu cử tiếp theo. Ấy là gì? Dân chủ hóa? Đâu phải!
Các chính thể cứ lai nhau như vậy, đến nỗi học thuyết đã bắt đầu đặt câu hỏi: phải chăng mọi chính thể ngày nay đều là chính thể lai?5 Rồi sáng tác ra nhiều khái niệm mà nếu Montesquieu hay Rousseau sống lại chắc tưởng là quái vật. Về dân chủ thì: “dân chủ hậu toàn trị”, “dân chủ ủy nhiệm”, “dân chủ bán phần”, “dân chủ bầu cử”, “dân chủ bất tự do”… Về độc đoán thì: “bán độc đoán”, “độc đoán tự do hóa”, “độc đoán có chứa dân chủ”, “chuyên chế dịu dàng”, tyrannie douce, nghe rất nên thơ. Một bên thì xôi đậu. Một bên thì đậu xôi. Chỉ khác nhau ở chỗ bên này nhiều nếp hơn đậu, bên kia nhiều đậu hơn nếp. Nhưng nhiều nếp bao nhiêu cũng không phải là xôi. Chỉ là xôi đậu. Đâu nữa khái niệm nguyên thủy “dân chủ hóa”?

Có “dân chủ hóa” bởi vì có một bên là dân chủ, một bên là độc đoán, ranh giới phân minh. Ranh giới ấy, Raymond Aron đã vạch ra hồi 1965, khi thế giới còn phân ra hai khối. Ranh giới ấy là đa nguyên. Bên này bức màn sắt là đa đảng, bên kia độc đảng. Bên này là dân chủ, bên kia là toàn trị. Trong vòng 50 năm nay, quanh đi quẩn lại, học thuyết chính trị không ra khỏi khái niệm căn bản ấy. Nhưng ngày nay, anh nói: đa nguyên? Đâu chẳng có! Bên này hay bên kia đều có. Có thể, bên này có thật, bên kia có dổm, nhưng đều có. Có thật là dân chủ? Có dổm là dân chủ hóa? Bởi vì thà dổm còn hơn là độc một mình? Tiêu chuẩn đa nguyên đang bị khủng hoảng. Một tác giả danh tiếng, Juan Linz, cố hiện đại hóa tiêu chuẩn của R. Aron, sáng tác ra khái niệm “đa nguyên hạn chế”,6 nhưng không phải ai cũng nghe. Nhiều tác giả còn bác bỏ cả lối phân ranh lưỡng cực vì ranh giới đã nhoè nhoẹt khi hai bên xâm nhập lẫn nhau. Có tác giả, cũng danh tiếng không kém, bi quan thở dài: “Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của độc đoán”.7 Hết thật rồi chăngước mơ dân chủ hóa?

2.
Tôi tiếp theo với bi quan thứ hai của tôi. Bởi vì tôi sắp lấy ví dụ Trung Quốc để tự hỏi: chính thể Trung Quốc có phải là một chính thể lai? Một chính thể độc đoán đang lai giống dân chủ? Đang đi vào quá trình… dân chủ hóa? Hayđể củng cố chếđộ?
Tôi biết câu hỏi đó sẽ làm nhiều người phản đối vì một phản biện rất đúng: chế độ Trung Quốc là một chế độ riêng biệt, không giống ai, không theo mẫu mực nào, nếu có dính dáng gì đến dân chủ thì không phải là dân chủ hóa mà là “dân chủ với màu sắc Trung Quốc” như bất cứ sản phẩm chính trị nào khác. Vâng, đúng vậy, nhưng giả thuyết tôi sắp nói có phải là dân chủ hóa đâu? Lai thôi mà. Và lai để làm gì?

Không thiếu gì giới học thuật cũng như giới chính khách hoặc doanh nhân ở Mỹ đánh cuộc với tương lai rằng Trung Quốc của họ trước sau gì rồi cũng phải dân chủ như họ. Bao nhiêu lâu? Năm chục năm, trăm năm? Trước mắt, và ngay cả trung hạn, khó mà ngây thơ như họ. Tuy vậy, ai cũng phải nhìn nhận và ngả mũ chào khả năng chuyển biến để thích nghi với hoàn cảnh mới từ thời Đặng Tiểu Bình đến nay. Tất nhiên đó không phải là những canh tân chính trị, lại càng không phải là “đệ ngũ hiện đại hóa” (dân chủ) như Wei Jingshen đãkhản cổ kêu gào. Đó chỉ là những biện pháp cụ thể nhắm canh tân một vài cơ chế, nhưng có thể gây ảnh hưởng gián tiếp trên tiến trình của chếđộ. Xin kể sơ lược một vài biện pháp đó:8
Về bộ máy hành chánh: đào tạo hàng ngũ cán bộ có khả năng hơn; xây dựng một thế hệ công chức hữu hiệu hơn nhờ lương bổng cao hơn và quy chế ổn định hơn; đơn giản hóa thủ tục hành chính; sửa đổi thẩm quyền của các cơ quan chính phủ (bộ, ban, ngành…) không phải để quản lý trực tiếp nữa mà để chịu trách nhiệm về việc thực hiện các chính sách liên hệ… Về các cơ quan chuyên môn: hiện đại hóa các ngành thuế, ngân hàng, chứng khoán, hưu bổng, an sinh xã hội… Quan trọng hơn và liên quan đến vấn đề ta đang bàn cãi hơn: ban cấp cho các hội đồng nhân dân vài thẩm quyền – hạn chế– để góp phần vào quá trình lập pháp; thử nghiệm bầu cử ở cấp độ địa phương với ít nhiều cạnh tranh; sửa đổi luật lệ để đem lại nhiều bảo đảm hơn cho người dân và cho các doanh nghiệp ngoại quốc nhất là từ khi vào WTO; mở mang thêm các biện pháp giải quyết các tranh chấp xảy ra giữa xã hội và Nhà nước mà họ gọi là “Nhà nước pháp quyền”: trọng tài, hòa giải, thủ tục tố tụng, khiếu nại…; phát triển việc thăm dò ý kiến để tìm hiểu tâm lý, nguyện vọng của người dân. Xin kể đại khái như vậy thôi, không cần dông dài, các anh chị quá biết. Chỉ nói thêm về “pháp quyền”: đây là điều mà Tập Cận Bình được xem như đang quyết tâm thực hiện.

Kể như vậy để đặt câu hỏi: Các biện pháp ấy nhắm mục đích gì? Dân chủ hóa? Hayđể nắm vững trong tay tình trạng bất bình đẳng kinh tế và xã hội, để quản lý chặt chẽ hơn, giải quyết hiệu quả hơn, tránh trước những tranh chấp, những tình trạng nguy hiểm, cốt bảo đảm ổn định xã hội, quan tâm hàng đầu của Đặng Tiểu Bình? Dù sao đi nữa, dù chẳng liên quan gì đến “đệ ngũ hiện đại”, ai dám nói các biện pháp ấy không liên quan gì đến thể chế? Nó còn làm tăng tính chính đáng của chế độ trước mắt người dân thường và càng tăng hơn nữa trước mắt thế giới. Chỉ có điều là cách thức ổn định ấy tránh rất kỹ, không du nhập toàn vẹn một biện pháp nòng cốt của chế độ dân chủ: định chế hóa. Định chế hóa là để bảo đảm ổn định, an ninh của người dân đối với chính quyền. Ngược lại, cứ để mỗi biện pháp lửng lơ, tùy nghi áp dụng, tùy hoàn cảnh, tùy địa phương, là để bảo vệ an ninh của chính quyền, ổn định của chế độ. Thiếu định chế hóa, cho nên các quyết định đều làm trong bóng tối của bí mật và tùy tiện, chẳng ai biết tại sao vị này được bầu vào Bộ chính trị, vị kia lên chức bí thư, ai là “nhóm Thượng Hải”, ai là “nhóm Bắc Kinh”, ai tống ai xộ khám.
Ngoài các biện pháp kể trên, bất cứ ai cũng nói rằng phồn thịnh kinh tế đã làm xuất hiện một giai cấp xã hội mới, một loạt “tư bản đỏ” lớn nhỏ, một thế lực kinh tế làm ăn với chính quyền nhưng cũng cạnh tranh với chính quyền và với nhau, đưa đến hiện tượng mới là đa nguyên quyền lợi. Tây phương nghĩ rằng các thế lực kinh tế này càng ngày càng muốn thoát ra khỏi cái khung chật hẹp của chế độ chính trị, càng ngày càng muốn có tiếng nói mạnh hơn: đa nguyên kinh tế, đa nguyên xã hội sẽ đưa đến đa nguyên chính trị. Vậy thì, theo họ, dù muốn dù không, yếu tố trụ cột của dân chủ, đa nguyên, không hẹn vẫn đến.

Thế nhưng, lại thế nhưng, hai thế lực ấy ở Trung Quốc đang liên minh với nhau. Là thống soái, chính trị nói: anh liên minh với tôi, chúng ta cùng hưởng lợi. Kết quả là một thể chế chính trị nhiều tiếng nói tư vấn, nhiều hợp tác ý kiến hơn, nhưng tập trung ở quan hệ thượng đỉnh. Và chúng ta thấy gì? Ra đời lý thuyết chính trị “tam cá đại biểu” mà Giang Trạch Dân đã quảng bá hồi 2001. Từ nay, Đảng Cộng sản đại diện cho “những lực lượng sản xuất tiến bộ, văn hóa tiên tiến, và những quyền lợi thiết yếu của đa số quần chúng”. Đâu rồi, công nhân và nông dân? “Đa số quần chúng” đứng vào hạng bét. Đầu đàn là giai cấp quý tộc đỏ.
Giới quân tử đỏ ấy được ban cấp một thứ tự do ngôn luận nội bộ, tin tức không được lộ ra ngoài cho thứ dân. Đại gia, thê tử của các vị lãnh đạo nắm giữ các xí nghiệp công và bán công, cả một nomenklatura thượng tầng xã hội ấy sống trên pháp luật, được tập tục riêng của chế độ bảo vệ. Ngay cả doanh nghiệp tư và bán tư ở cấp địa phương cũng được chính quyền địa phương ưu đãi, ban phát cho thông tin riêng. Đứng vào hàng thứ hai trong bảng sắp hạng của Giang Trạch Dân, “văn hóa tiên tiến” cũng được ăn theo hưởng lợi chung: đại học, trung tâm nghiên cứu, think tank được ban cấp một thứ tự do hàn lâm rộng rãi, viết lách, tranh luận thoải mái nhưng cẩn thận không phát tán. Sinh viên được biểu tình, nhưng để rốc máu nóng dân tộc chủ nghĩa vào đấu tranh chống Mỹ Nhật, tuy rằng thỉnh thoảng cũng để phản đối bất an ninh trong khu đại học.

Đại học sản xuất ra chuyên gia, chuyên gia xuất hiện để được tư vấn. Còn gì vinh dự hơn được lãnh đạo nghiêng tai? Vậy là chuyên gia tranh nhau bày tỏ lời vàng tiếng ngọc, tuy rằng quyết định đã có trước rồi. Ngây thơ là bệnh kinh niên của trí thức, nhưng dù vậy chăng nữa, một khi khung cửa hẹp được mở ra cho ý kiến, một khi chính quyền biết nghĩ rằng mình không phải là ông thánh nắm hết mọi tri thức chuyên môn của thời đại, tư vấn với thiện chí học hỏi cũng giúp ích phần nào cho quá trình lấy quyết định hoặc để quyết định được trau chuốt hơn. Nóí khác đi, đa nguyên quyền lợi, đa nguyên ảnh hưởng, đa nguyên áp lực, đa nguyên thế lực, đa nguyên thương lượng, đa nguyên mặc cả… tất cả không khỏi đưa đến đa nguyên nội bộ, đa nguyên phenhóm, đa nguyên cấu xé nhau như thế giới đã thấy sau hậu trường của Tập Cận Bình. Bộ máy chính trị vẫn vận hành theo lối sắp xếp nội bộ, nhưng sắp anh hay sắp tôi tùy thuộc vào nhiều tiêu chuẩn mới làm bằng những quan hệ đan xen nhau giữa lãnh đạo chính trị và giai cấp tân quý tộc. Bề ngoài, bộ máy ấy vẫn vững như đồng, khó mà tin rằng những phần tử “thiên dân chủ” dám liều mạng đem quyền lợi đang hưởng của mình đánh đổi một cuộc phiêu lưu chính trị, nhưng ai dám nói chắc một biến đổi xã hội bất ngờ sẽ không bao giờ xảy ra trong bối cảnh bất bình đẳng cao độhiện nay?

Kết quả: một chế độ độc đoán đang thành công, thành công ở cấp trên nhờ ban cấp nhiều tự do và quyền lợi, thành công ở cấp dưới nhờ thành quả kinh tế và tự hào dân tộc được vuốt ve. Không ai chối cãi tính chính đáng của chế độ độc đoán ấy, tuy rằng tham nhũng vẫn hoành hành, truyền thông bị bóp nghẹt, nhân quyền bị coi rẻ, toà án và luật lệ bất công. Khó mà nghĩ rằng đa nguyên trong lòng chế độ sẽ đưa đến dân chủ. Thực tế mà xét, cái tài thích nghi của chế độ chỉ đưa ta đến kết luận rằng: trước mắt, cái thứ độc đoán có lai chút ít giống dân chủ ấy, dù có lai thêm đi nữa, cũng là để củng cố độc đoán thôi, đừng hòng nói dân chủ hóa với phát triển chính trị.

Tôi dông dài cho đến đây cũng chỉ để hỏi các anh chị một câu: Ví thử các anh chị sống trong chế độ ấy, tự hào với nó vì nó đưa đất nước lên địa vị thống soái thế giới, và ví thử các anh chị biết rằng đòi hỏi dân chủ chỉ đưa đến một chế độc tài được củng cố hơn, dễ chấp nhận hơn, mềm dịu hơn, các anh chị còn đòi hỏi dân chủ không hay bằng lòng như thế? Nói cho rõ hơn: phải chăng một chế độ độc đoán mềm dịu và hữu hiệu có thể thay thế đòi hỏi dân chủ hóa? Hay là cả hai là một, tương đương với nhau? Ngày trước, Voltaire ca tụng Cathérine II của nước Nga, nữ hoàng của một chếđộ mà lịch sử học thuyết chính trị gọi là “chuyên chế sáng suốt” (despotisme éclairé). Các anh chị nghĩ sao nếu bước chân đòi hỏi dân chủ của các anh chị dẫn đến một chếđộ mà tôi muốn bắt chước đểgọi là “độc đoán sáng suốt“?

3.
Nói vậy chứ tôi không bi quan. Bởi vì tôi biết rằng nước chúng ta là một nước trung bình, không lớn mênh mông như Trung Quốc, nên không có những vấn đề như Trung Quốc, không thể lấy mô hình chính trị của một nước cực lớn được. Từ trước đến nay, hễ nói đến chính thể độc đoán là ai nấy đều chỉ vào Singapore. Hễ hỏi có chính thể độc đoán nào thành công không, ai nấy cũng chỉ vào Singapore. Chỉ có nước ấy xứng đáng để gọi là thành công. Vậy, tôi đặt câu hỏi: họ có muốn dân chủ hóa không? Hay là bằng lòng thành công với độc tài sáng suốt? Tôi đặt câu hỏi tại một thời điểm thích hợp: trên sân khấuchính trị của Singapore không còn ông Lý Quang Diệu. Các lý thuyết gia muốn nghiên cứu chuyển tiếp, không đâu bằng đến đây. Các lý thuyết gia chủ trương “chính thể lai giống“, đến đây cũng tìm ra chất liệu.

Độc đoán: mẫu mực không ai đúng hơn ông Lý Quang Diệu. Một mình ông làm thủ tướng từ 1959, trước khi nước ông độc lập, cho đến 1991 mới nhường ghế kế vị cho người được ông lựa chọn. Ghế ấy lại trao cho con ông, năm 2004. Nhưng ông đâu có từ bỏ chính trường: chế độ gia trưởng mà ông mở đầu tiếp tục đi theo ông cho đến phút cuối. Cũng như ông, đảng PAP (People’s Action Party) của ông nắm quyền một mình. Mãi đến 1981, đối lập mới chiếm được một ghế trong Quốc hội. Một ghế! Vậy mà ông đã lo cảnh giác, siết chặt báo chí, kềm kẹp đối lập, ra luật cho phép bắt giữ không cần xét xử trong một thời gian vô hạn định. Dân biểu đối lập ChiaThye Poh nằm khám 32 năm mà chưa hề ra tòa. Năm 2010, trang nhất của báo chí quốc tếđồng loạt phản đối việc một nhà báo Anh bị bắt vì dám chỉ trích chính quyền. Trước đó, Singapore được sắp hạng 133 trên 175 nước vặt lông báo chí ưu tú nhất.

Thế nhưng, trong bàn tay sắt của ông, không phải không có vài yếu tố dân chủ. Có đa nguyên chăng? Có chứ, vì có một đảng đối lập hoạt động công khai, hợp pháp, đảng Worker’s Party. Đã đành, đảng ấy hiện hữu như một ngón tay thừa trong bàn tay năm ngón, nhưng trong suốt 56 năm cầm quyền, đảng PAP chịu tranh cử hẳn hoi và chưa bao giờ bắt chước trò hề suýt soát 100% như các đảng độc quyền trong các nước độc đoán khác. Tuyển cử cuối cùng, năm 2011, PAP chiếm tỷ lệ trên 66% số phiếu, con số cao nhất từ trước đến nay. Đồng thời, số ghế của đối lập trong Quốc hội tăng lên thành 6. Một dấu hiệu dân chủ được hân hoan chào đón như một rạng đông của lịch sử mới. Một vinh dự cho cảđảng PAP vì tính chính đáng của chế độ càng được xác nhận thêm. Không quan sát viên nào không tán dương những thành quả xuất chúng của Singapore: tư pháp độc lập, luật pháp được tôn trọng từ trên chóp bu, bộ máy hành chánh trong sạch, công chức có trình độ học thức cao, giáo dục tiên tiến, an sinh xã hội được bảo đảm, y tế phát triển, và nhất là, nhất là, sao giỏi thế, tham những bịquét sạch.

Một “chế độ lai” thành công đến mức ấy, tương lai sẽ cứ là “độc đoán sáng suốt” như vậy mãi hay là sẽ dân chủ hóa lần hồi để càng ngày càng dân chủ? Hỏi người dân: muốn củng cố cái gì, củng cố độc đoán hay củng cố từng bước đi của dân chủ, cam đoan chẳng mấy ai, kể cả ở bên Tàu, trả lời độc đoán. Bởi vì dân chủ là ước muốn tự nhiên của con người, nhất là sau khi cơm áo đã có. Ở tầng lớp dưới, người dân muốn dân chủ để thoát ra khỏi cường hào. Ở tầng lớp trên, phồn thịnh kinh tế đưa đến một xã hội trung lưu phức tạp, vừa trong cách sống, vừa trong cách suy nghĩ, và cách cai trị một xã hội đa dạng, đa diện, phức tạp, nếu muốn tiếp tục thành công, không thể là cách cai trịmột đàn cừu. Chính ông Lý Quang Diệu đã thấy điều đó. Chính ông nói: thế hệ trẻ không còn nhìn quan điểm của ông với cùng một trọng lượng và đồng tình như giới già đã nhất loạt quy tụ xung quanh ông trong giai đoạn khó khăn của thời độc lập.9 Giữa già với trẻ, giữa giới thủ cựu và giới tân tiến, quan điểm khác nhau, kể cả trên những vấn đề đạo đức. Đồng tính luyến ái, lưỡng tính, chuyển tính, dục tính, quan hệ nam nữ trước hôn nhân, vợ chồng không hôn thú, cái roi của đức Khổng mà ông Lý lăm lăm trong tay để biến nước ông thành con rồng không làm giới trẻ cúi đầu nữa. Một xã hội phức tạp không cần cây roi để lãnh đạo bằng cái còi. Cái còi của người trọng tài. Các người kế vị ông Lý không học ở ông nghệ thuật cầm roi bằng nghệ thuật trọng tài. Trọng tài giữa nhiều quan điểm, nhiều xu hướng khác nhau tất nhiên phải có trong một xã hội phức tạp.

Trọng tài để giải quyết những căng thẳng trong xã hội cũng là trọng tài cần thiết để giải quyết những căng thẳng trong chính trị chắc chắn phải xảy ra. Làm sao giải quyết trong ôn hòa? Làm sao tránh những vấp váp của thời chuyển tiếp mà các con rồng khác đã trải qua? Làm sao đừng thấy diễn ra cảnh hai ông cựu tổng thống Hàn Quốc, một ông vô tù, một ông tự tử? Làm sao để dân chúng khỏi xuống đường như ở cả ba con rồng kia? Trong quá khứ, dân trao trọn quyền cho ông Lý và khoanh tay chờ quyết định. Ngàyấy qua rồi, các trí thức Singapore quả quyết như vậy.”Chúng ta không bao giờ trở lui về lại được nữa sự nhất trí cao độ mà chúng ta đã được hưởng hàng chục năm qua. Rạn nứt sẽ xảy ra”.10 Xã hội mới, họ báo trước, chắc chắn sẽ đem lại nhiều phản đối. Làm thế nào để xuôi buồm giữa các chiều gió nghịch?

Trí thức Singapore đặt vấn đề như vậy. Họ tự hỏi: làm sao thuận buồm xuôi gió để qua bờ bên kia, bờ dân chủ? Họ đâu có tự hỏi: làm sao củng cố cái thuyền cho chắc đểở lại yên ổn với bờ bên này, bờ độc đoán? Họ đâu có muốn lai mãi lai hoài một thứ chính thể dù thành công vượt mức? GDP đâu phải là mục đích thiên thu của con người? Mục đích thiên thu của con người là tự do. Singapore là bài học đáng để chúng ta suy ngẫm hơn cả. Bởi vì, cũng như ta, họđang suy nghĩ về bước đi đầu tiên. Họđã chờ cho đến khi Lý Quang Diệu mất đểđặt vấn đề cái bước đầu tiên ấy. Họ có đủ điều kiện để bước: một xã hội tân tiến, một xã hội trọng luật, một xã hội có giáo dục cao, một xã hội lành mạnh, một xã hội phồn vinh. Vậy mà trí thức của họ rất khiêm tốn trong bước đi. E rằng ta cũng phải khiêm tốn như họ chăng?
Tôi chọn một người trí thức có uy tín ở Singapore và trên quốc tế đểđọc: đó là Kishore Mahbubani mà tôi vừa trích câu nói ở trên.11 Đọc ông, rồi đọc những bài viết đăng trên báo chí sau khi Lý Quang Diệu mất, tôi thấy có hai chữ sáng lên như một cặp đèn pha trong sương mù: “normal” và “consensus“. Bình thường và đồng thuận. Singapore sẽ, và sẽ phải là, một chính thể “bình thường”. Một chính thể bình thường là một chính thể không cần đến anh hùng vĩ đại. Vĩ nhân chỉ xuất hiện trong những giai đoạn bất bình thường. Xong nhiệm vụ bất bình thường, vĩ nhân bay lên trời như Phù Đổng, để mặt đất lại cho anh, cho tôi, cho chúng ta, những người bình thường. Những người bình thường cần định chế vững chắc để sống chung với nhau trong hòa bình. Định chế ấy phải được xây dựng trên nền tảng dung hòa, bởi vì đa nguyên quyền lợi là tình trạng bình thường trong xã hội. Nói đến dung hòa là nói đến đồng thuận. Nếu không thì là cưỡng chế và cưỡng chế là bất bình thường. Đồng thuận là đồng thuận trong xã hội và đồng thuận giữa chính quyền và người dân. Nếu không thì là áp bức và áp bức là bất bình thường, chẳng ai ưa áp bức cả, ai cũng muốn thở không khí tự do, vì tự do là bình thường.

Làm cách thế nào để “thoát Lee”, thoát ly ra khỏi tình trạng bất bình thường của một bàn tay sắt, khi cái roi “nhất trí” không còn hợp thời nữa, khi chính tinh thần nhất trí phải nhường chỗ cho đồng thuận? Tôi lắng nghe ông Mahbubani nói, bởi vì chẳng lẽ chúng ta cũng cứ ở mãi trong tình trạng bất bình thường từ bốn chục năm qua? Cứ chiến tranh với nhau hoài? Cứ hận thù hoài? Cứ đánh gục mọi ý kiến khác, dù đầy thiện chí, như nã súng cối vào kẻ thù? Cứ đặt vòng kim cô trên đầu xã hội với mệnh lệnh và khẩu hiệu? Tôi lắng nghe ông Mahbubani nói để xem ông có giải quyết được giùm tôi cái vòng luẩn quẩn mà một tác giả danh tiếng của đại học Mỹ cứ làm tôi khổ sở hoài: “Chỉ một Nhà nước dân chủ mới tạo ra được một xã hội dân chủ, chỉ một xã hội dân chủ mới nâng lên được một Nhà nước dân chủ“.12 Làm sao đi bước đầu trong cái vòng luẩn quẩn ấy? Tôi cám ơn ông bạn trí thức lân bang của ta, ông nói: Chỉ có cách phát triển một văn hóa chính trị mới, một political culture, lấy dung hòa làm căn bản thay cho mệnh lệnh. Khiêm tốn thế thôi.

Các anh chị thân mến, tôi chưa bao giờ mơ tưởng đa đảng như là bước đi đầu tiên. Cũng chưa bao giờ nghiêm túc sử dụng Hán văn “tam quyền phân lập”. Tôi không dám mơ tưởng xa xôi khi vấn đề định nghĩa chính xác thế nào là “đảng lãnh đạo” chưa được chính thức đặt ra để cả nước cùng góp ý kiến trong bầu không khí tin tưởng, cởi mở, tự do. Tôi chỉ có thể làm một người trí thức bình thường, khiêm tốn trongmơ ước. Văn hóa là chuyện bình thường của chúng ta. Và văn hóa dung hòa là chuyện quá bình thường trong văn minh của Việt Nam. Nhưng làm thế nào để nói lên cái văn hóa ấy? Làm thế nào để tháo ra cái vòng luẩn quẩn, để mở đầu với cái chìa khóa xã hội dân chủ? Đố ai có thể tìm ra được một câu trả lời nào khác: không có quyền ngôn luận thì không có cảvăn hóa, nói gì văn hóa chính trị. Đó là bước đầu, trước khi nói đến cái gì khác. Tôi đề nghị: Với quyền ngôn luận thẳng thắn, trong sáng, tự do, và với tinh thần trách nhiệm, hãy bước cái bước đầu sau 40 năm dằng dai, trên câu hỏi đầu tiên: thế nào là “đảng lãnh đạo”? Thế nào là “đảng lãnh đạo” trong tình trạng “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng” hiện nay, kể cả tận “cấp cao“?13 Đâu là biện chứng giữa lãnh đạo và đồng thuận trong bối cảnh không còn là bất bình thường nữa của chiến tranh? Thế thôi, khiêm tốn, bước đầu. Nhưng đó là bước đầu để đi đến dân chủ. Dù chỉ là giấc mơ, dân chủ vẫn là lý tưởng. Không ai mơ độc tài, dù là sáng suốt.

Vĩ thanh: Khi tôi viết bài này xong thì được GS Trần Ngọc Vương gửi cho bài viết của anh về Tập Cận Bình, trong đó tôi vô cùng thích thú thấy anh cùng đưa ra luận điểm “độc tài sáng suốt”. Xin đọc bài rất đặc sắc của GS Trần Ngọc Vương, “Thử giải mã Tập Cận Bình“, Tạp chí Người Cao Tuổi, số Tết 2015.
C.H.T.
© Thời Đại Mới

1 GuyHermet, Les désenchantements de la liberté. La sortie des dictatures dans les années 1990, Fayard, 1993.
2 La démocratie dans les bras de Big Brother, phỏng vấn Mireille Delmas-Marty, Le Monde, 6-6-2015.
3 Bertrand Badie, Aucune démocratie n’est à l’abri d’une poussée autoritaire, même en Europe, Le Monde.fr, 22-9-2009.
4Olivier Dabène, Vincent Geisser, Gille Massardier, Autoritarismes démocratiques et démocraties autoritaires au XXIè siècle. Convergence Nord-Sud, La Découverte, 2008.
5Lydie Fournier, Entre démocratie et autoritarisme vers des régimes hybrides? Sciences Humaines, n° 212, Février 2010.
6 Juan Linz, Totalitarian and Authoritarian Regimes, trích bởi Michel Camau, Remarques sur la consolidation autoritaire et ses limites, http://books.openedition.org/cedej/1111?lang=fr
7Ralf Dahrendorf, trích trong chú thích (4) ởtrên và www.editionsladecouverte.fr(giới thiệu quyển sách).
8Jean-Pierre Cabestan, La Chine évoluerait-elle vers un autoritarisme “éclairé” mais ploutocratique?, Perspectives chinoises, n°84, Juillet-Août 2004. Tôi lấy nhiều chi tiết và khái niệm “độc đoán sáng suốt” từđây.
9Ang Cheng Guan, Singapore and the Worldview of Lee Kuan Yew, The Diplomat, 3-3-2015.
10 Kishore Mahbubani, Nurturing the Art of Compromise, Straits Time, 13-92014.
11 Kishore Mahbubani, bài đã dẫn.
12 Michael Walzer, The Concept of Civil Society, trích bởi Michel Camau, xem chú thích (6) và (7).
13Ngàynay, chữ “suythoái” đã quá phổ thông trên mọi lĩnh vực, kể cả… kinh tế. Nhưng đặc biệt ởđây, trong bối cảnh của bài này, chữ ấy lại càng có ý nghĩa khi đi vào Nghị quyết 4 Trung ương: “một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên kể cả cấp cao, suy thoái vềtưtưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng”.
Nguồn: http://www.tapchithoidai.org/, số 33, tháng 7/2015

Ăn mày văn chương - http://amvc.fr


Đảng và Đĩ

Đinh Từ Thức

Theo một nguồn tin được loan tải rộng rãi trên Internet vào cuối tháng 10, đầu tháng 11, 2015, từ một tranh chấp về đất đai giữa nhà cầm quyền địa phương thuộc huyện Nghi Lộc, Nghệ An, và họ đạo Yên Lạc thuộc giáo xứ Xuân Kiều, đã đưa đến chỗ giáo dân biểu tình, và Linh Mục lên tiếng phản đối trong một thánh lễ vào ngày 10 tháng 10, 2015.
Theo ghi nhận của một Cộng Tác Viên trên mạng Dân Làm Báo, “Một vị linh mục tại Nghệ An đã công khai lên tiếng tố cáo chế độ cộng sản trong buổi thánh lễ có sự tham dự của hơn một vạn giáo dân địa phương”. Cùng với một Youtube dài 18 phút đi kèm, người ta được biết đó là Linh Mục Đặng Hữu Nam.

clip_image002
Cảnh LM Đặng Hữu Nam đang giảng trong thánh lễ (Hình Internet)

Trong bài giảng, có chỗ LM Nam nói nguyên văn như sau:
Có một lần Giáo dân của Giáo xứ chúng tôi hỏi Cha Xứ rằng: "Thưa Cha, tại sao Cha lại nói rằng theo quan điểm của Giáo hội, nếu đi theo đảng cộng sản vô thần thì hiển nhiên trở thành kẻ xấu?"
Tôi giải thích theo một cách đơn giản thôi, không cần rườm rà về niềm tin, không cần rườm rà về bản chất của cộng sản. Cộng sản vô thần là vô thần, nhưng tôi chỉ nói một điều, ‘đi theo đảng’, quý ông bà anh chị em thử nói xem rằng thế là tốt hay là xấu?
“Chỉ cần chúng ta lật ngược lại vấn đề: ‘đi theo đảng’ tức là ‘đang theo đĩ’. ‘Đang theo đĩ’ thì liệu điều đó tốt hay là xấu, tự quý ông bà anh chị em chúng ta sẽ biết!” (người viết tô đậm).

Ai phải ai trái trong vụ tranh chấp đất đai này, người viết xin miễn bàn, vì ở xa, không biết được. Nhưng lời so sánh của Linh Mục Nam về Đảng và Đĩ, dù ở đâu cũng có thể bàn.
Trước hết, phải công nhận Linh Mục Đặng Hữu Nam là người can đảm, không biết sợ. Nhưng cũng phải nói ngay, ngôn ngữ của ông như thế, so sánh Đảng với Đĩ và nói ngược nói xuôi tại toà giảng trong một thánh lễ, là không thích hợp. Đây là ngôn ngữ đường phố, hay quán nhậu, không phải nơi cung thánh.
Trong chuyến thăm Hoa Kỳ vào cuối tháng 9, 2015, sau khi gặp Tổng Thống Obama tại Bạch Ốc sáng 23, vào buổi trưa, lên tiếng tại Nhà Thờ Thánh Matthew ở Washington DC, Giáo Hoàng Francis nhắn nhủ hàng Giám Mục: “Đối thoại không sợ hãi” nhưng làm như vậy với sự khiêm nhường và hiểu biết. “Ngôn ngữ thô lỗ và chia rẽ không phù hợp với miệng lưỡi cha xứ” (To dialogue fearlessly, but to do so with humility and understanding. Harsh and divisive language does not befit the tongue of a pastor).

Ngoài sự không thích hợp về hình thức và nơi chốn, so sánh giữa Đảng với Đĩ của LM Nam, nếu xét kỹ, còn sai cả về nội dung, và tỏ ra thiếu hiểu biết. Xin đan cử những thí dụ cụ thể:

– Về tuổi thọ: Người ta vẫn nói, đĩ là nghề có tuổi thọ cao nhất, xuất hiện từ khi có loài người. Nhưng người ta chưa biết chắc loài người có từ bao giờ, nên cũng không thể nói chắc đĩ có từ bao giờ.

clip_image004
Nhà thổ (Lupanare), là một trong các trụ sở sinh hoạt của đĩ tại Pompeii từ thế kỷ thứ nhất
2000 năm sau, trụ sở Đảng mới xuất hiện tại đất tổ Nga-La-Tư

Có điều chắc chắn, tại thành phố Pompeii thuộc Đế quốc La Mã cũ, nay thuộc nước Ý, nơi từng bị núi Vesuvius phun lửa chôn sống năm 79 AD, đã có nhà thổ chính thức cho đĩ hành nghề công khai. Trong khi ấy, Đảng cộng sản mới chính thức hành nghề ở Nga từ đầu thế kỷ 20. Đảng trẻ hơn Đĩ hai mươi thế kỷ, đem Đảng so với Đĩ, khác nào đem đứa trẻ vừa lọt lòng so với ông già trăm tuổi. Hơn nữa, đảng tổ ở Nga, sống được có 70 tuổi đã quy tiên. Đảng Tầu và Việt tuy đã qua được tuổi này, nhưng đang bị ung thư tham nhũng hoành hành ở thời kỳ 4, chưa biết có thể chịu đựng được bao lâu. Trong khi ấy, đĩ vẫn sống mạnh, chứng tỏ lý do tồn tại của đĩ vững hơn đảng.

– Về đạo đức: Có hai câu truyện đã lan truyền trên Internet từ lâu, chứng tỏ về lòng nhân và sự công bằng, hay đạo đức nói chung, đĩ cũng hơn đảng:
Truyện thứ nhất kể rằng, có một cựu quân nhân VNCH đi cải tạo, bị thương trong tù, được ra về với đôi nạng gỗ. Vợ con đã vượt biên, không nơi nương tựa. Một buổi tối, còn mấy đồng tiền cuối cùng, anh lết tới khu vườn trước dinh Thống Nhất, định tâm “xả xui” một lần, hy vọng vận đen sẽ thay đổi. Nhác thấy bóng một “chị em ta” ở gốc cây, bèn đưa hết tiền cho chị, dự trù cũng chỉ đủ một chuyến “đi nhanh”. Tiền vừa trao, cháo chưa kịp múc, bỗng có bóng công an lù lù tiến tới. Chị dúi cho viên chức “chỉ biết còn đảng còn mình” cái gì đó. Anh công an bỏ đi, chị cũng bước theo hướng khác. Một lát, công an đi khuất, chị trở lại, đưa tiền trả anh. Cảm động, anh từ chối, bảo “cứ cầm lấy mà dùng”. Chị không nói gì, đút tiền vào túi anh, rồi đi.
Thứ nhì là truyện bán bến cho những người gốc Hoa “vượt biên” bán chính thức. Người đứng bán là công an, nhưng Đảng chấp thuận từ bên trên. Tuy vàng đã lấy đủ trước khi người đi lên tầu, nhưng khi tầu mới rời bến, công an bịt mặt hiện nguyên hình là cướp, mang súng lên tầu vét sạch tài sản của người đi, và để phi tang, bắn và làm cho chìm tầu.

– Về tiếp cận: Cái Nhà Nước do Đảng cầm quyền, có tên chính thức là “Chính quyền nhân dân”, nhưng dân rất khó gặp đảng viên cầm quyền. Bất cứ điều gì khi cần, dân tìm đến nhờ Đảng giải quyết đều bị chỉ quanh hết nơi này đến nơi kia. Khi nào dân bực mình quá, kéo nhau biểu tình phản đối, Đảng mới cho hốt thật nhanh. Trong khi ấy, Đĩ bao giờ cũng sẵn sàng, bất chấp ngày đêm, giờ nghỉ cũng như ngày lễ, luôn luôn niềm nở khi gặp ai cần đến mình. Xin nêu hai thí dụ cụ thể, đề thấy Đảng xa cách và Đĩ thân thiện như thế nào.
Triết gia Trần Đức Thảo, cho biết trong “Những Lời Trăn Trối” về cuộc gặp “Bác”, nhân vật số một của Đảng, vô cùng khó khăn. Năm 1952, Trần Đức Thảo bỏ sự nghiệp lẫy lừng ở Paris, về nước theo Đảng. Sau bao gian nan, về tới ATK (An Toàn Khu) ở Việt Bắc, trước khi được gặp “Bác”, Thảo phải gặp hết đồng chí giao liên tới đồng chí lễ tân để được học hỏi, chỉ dẫn những điều cần thiết, như theo ban lễ tân: phải thận trọng trong từng lời nói, từng cử chỉ khi gặp “Người”. Thứ nhất, phải đứng xa Người ít ra là ba mét. Khi “Người” ra dấu, ra lệnh mới được lại gần hơn. Thứ nhì, không được “nói leo”, khi “Người” hỏi mới được trả lời, và phải trả lời đúng câu hỏi, tuyệt đối không được nói thêm, nói ra ngoài câu hỏi. Thứ ba không được chào trước, nói trước. Thứ tư, không được xưng “tôi” như ngang hàng với “Người”.
Đến ngày gặp, Thảo dậy sớm, cả đi và đợi mất hơn nửa ngày. Sau bao hồi hộp, lo âu, cuối cùng, Thảo cũng được gặp, và “Bác” chỉ nói một câu:
– À này chú Thảo! Bác biết ở bên Tây, chú đã đọc nhiều sách vở, nhưng về đây thì chú phải gắng mà học tập nhân dân, nghe không! Thôi Bác có hẹn nên phải đi kẻo trễ.
Thế là hết!
Trong khi đó. Tại miền Nam, vào cuối thập niên 50, Ngô Tổng Thống thỉnh thoảng sai cận vệ chở ra ngoài trung tâm thành phố, xem dân sinh sống, no đói ra sao. Một buổi chiều, xe chở Cụ qua một vùng ở Gia Định, bây giờ có lễ mang tên một anh hùng cách mạng nào đó, ngày xưa quen gọi “Ngã Ba Chú Ía”; trung tâm sinh hoạt của giới “chị em ta”. Lúc nào chị em cững hiện diện đông đảo trước “nhiệm sở”, sẵn sàng phục vụ, không cần mời gọi hẹn hò hay lễ tân gì cả. Thấy chiếc xe hộp chầm chậm đi qua, tưởng khách xộp, chị em túa ra. Cụ thấy dân chạy tới, ra lệnh dừng xe. Gặp ngày ế khách, thỉnh thoảng chị em cũng đi xem xi-nê, mỗi đầu xuất đều chào cờ, thấy hình Cụ giữa quốc kỳ phấp phới. Nhận ra chính Cụ trong xe, chẳng cần ai bảo ai, chị em ù té chạy. Xe tiếp tục chuyển bánh, Cụ thắc mắc “Người ta là ai, và cần chi hè?” Cận vệ đáp: “Thưa Cụ, dân thấy Cụ đi qua, người ta chạy ra chào mừng”. Cụ đỏ mặt, cảm động, ra lệnh: “Mai nhớ nhắc Bộ Xã Hội xem xét, cấp vải để người ta may mặc cho đủ, hĩ!”

– Về lòng tham: Tham lam là sự ham muốn, hầu như ở đời ai cũng có, không ít thì nhiều. Về phương diện này, lòng tham giữa Đảng và Đĩ khác nhau một trời một vực.
Không phải tất cả, nhưng đa số đĩ vào nghề vì cần tiền. Cũng không phải tất cả, đa số đĩ khi kiếm đủ tiền, hay khi tự cảm thấy không còn ăn khách nữa, thì giải nghệ, trở lại cuộc đời thường, ít tai tiếng. Theo nhà văn nhà báo Mỹ gốc Pháp Bernard Fall qua tác phẩm Street Without Joy (Dẫy Phố Buồn thiu), để giải buồn cho đạo quân viễn chinh tại Đông Dương, quân đội Pháp có một đơn vị viết tắt là BMC (Bordel Mobile de Campagne – nhà thổ lưu động chiến trường). Thành viên đơn vị này là các cô gái tình nguyện thuộc vùng Oulad-Nail ở Bắc Phi. Các cô chỉ làm đĩ trong vòng ít năm, kiếm đủ tiền hồi môn rồi về quê, lấy chồng, sinh con, đóng vai vợ ngoan, mẹ hiền đến mãn đời. Rất hiếm có đĩ thuộc loại “lòng tham vô đáy”, chẳng những cố hành nghề tới tuổi hưu trí, còn xin gia hạn tuổi; trong khi ấy, chuẩn bị cho con cháu mình, những “công chúa đĩ” vào đóng chốt trong những nhà thổ, để khi mình hết thời thì dòng dõi đĩ vẫn tiếp tục.
Đảng thì khác. Không phải tất cả, nhưng phần lớn, ngày nay, đảng viên vào đảng, cũng như đĩ, vì ham tiền. Nhưng khác đĩ, không phải tất cả, đảng viên có lòng tham vô độ. Chẳng những không chịu từ chức hay về hưu đúng hạn, họ còn cài con cháu mình, gọi là thành phần “thái tử đảng” vào những chỗ ngon lành. Được bạn bè giới thiệu “Tay này đảng viên nhưng mà tốt,” có nghĩa đảng viên đều xấu, tốt là ngoại lệ, nhưng vẫn muốn con cháu ba bốn đời ngụp lặn trong cái tập thể xấu ấy.

– Về hiếu thảo: Như mọi người đều biết, phần lớn những cô gái bước vào nghề làm đĩ là vì lòng hiếu thảo, vì tình gia đình. Nếu sự thật không phải như thế, ít nhất, cũng được đa số các cô kể với khách như thế, mỗi khi được hỏi về thân thế sự nghiệp: Phải “đi làm” để phụng dưỡng cha mẹ già, nuôi em nhỏ v.v… Cũng có trường hợp nổi tiếng trong văn chương như Thuý Kiều, tuy khởi đầu không chủ trương làm đĩ, nhưng vì chữ hiếu, phải bán mình chuộc cha, đưa đến cảnh làm đĩ. Và khi thành đĩ rồi, nàng vẫn luôn nghĩ tới việc báo hiếu cha mẹ, không bao giờ có lời than trách.
Trong khi ấy, qua Cải Cách Ruộng Đất, Đảng đã hướng dẫn, thúc đẩy, cưỡng bách người dân đấu tố cha mẹ mình. Cả sau CCRĐ, trong nhiều thập niên, thay vì “tiên học lễ hậu học văn”, trẻ nhỏ đã được dậy phải theo dõi và tố cáo những lời nói việc làm “phản động” của cha mẹ mình.

– Về ân oán: Trong các điểm để so sánh, có điểm Đảng và Đĩ giống nhau, đó là các chị em ta, và các đồng chí lãnh đạo đều hay dùng biệt hiệu thay cho tên thật của mình. Đĩ dùng biệt danh cho đẹp, cho “văn minh”, cho dễ nhớ, Đảng viên dùng biệt danh để che đậy việc làm độc ác, hắc ám của mình. Nhưng ngoài điểm tương đồng này, còn lại khác nhau một trời một vực. Đó là sự trả ân báo oán. Không những khác về hành động, còn khác về tiêu chuẩn.
Đối với đĩ, tiêu chuẩn phân định ân oán rất rõ ràng: với người tốt, đã một lần làm ơn cho mình, sau này dù không tiếp tục giúp mình nữa, cũng vẫn là ân nhân, đáng được thưởng. Với người đã làm khổ mình, coi mình như kẻ thù, nhưng sau biết hối cải, sẽ được bỏ qua. Đó là cách hành xử của Thúy Kiều trong Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du. Sau khi lấy Từ Hải, từ “con đĩ” thành “bà tướng”, Kiều báo ân trước, trả oán sau: Giữa ba quân đằng đằng sát khí, trống dục cờ bay rợp trời, khách đa tình Thúc Sinh mặt xanh như chàm, run như cầy sấy được dẫn tới trước mặt Bà Lớn đầu tiên. “Còn nhớ em không?” (Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non, Lâm Truy người cũ chàng còn nhớ không?”). Hỏi rồi ra lệnh tặng chàng một trăm cuốn gấm và một ngàn lạng bạc. Theo “ký giả” Nguyễn Du: “Thúc Sinh trông mặt bấy giờ, mồ hôi chàng đã như mưa ướt dầm!” Người thứ nhì là quản gia Vãi Giác Duyên. Được mời lên ngồi cạnh Kiều xem xử án, bà được trả ơn một nghìn lạng vàng. Người thứ ba, “chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư”, nổi tiếng thế giới về lối đánh ghen cay độc. Theo tiêu chuẩn thường tình, nàng khó thoát chết. Nhờ thông minh, không phải luật sư, nhưng biết cách tự biện hộ. “Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca”. Rằng: “Tôi chút dạ đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”. Bà Lớn Kiều ngồi cạnh Ông Lớn Từ Hải, chỉ cần ra hiệu, Hoạn Thư toi mạng. Nhưng nàng nghĩ “Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”. Đĩ không nhỏ nhen, Hoạn Thư được tha. Sau khi đền ơn và tha bổng kẻ thù cũ, tất cả những kẻ xấu như Bạc Bà, Bạc Hạnh, Ưng Khuyển, Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh đều bị Kiều ra lệnh xử trảm tại chỗ.
Với Đảng, hoàn toàn khác. Kẻ xấu được cho địa vị và quyền lợi, trong khi người tốt bị hại. Ân nhân chẳng những không được báo đền, còn bị giết và vu cho tiếng xấu “Địa chủ ác ghê!” như bà Năm Cát Hanh Long. Ngay cả các đồng chí thân thiết, nhiều khi cũng bị thanh toán dã man. Đĩ có thể nói xấu nhau, nhưng không giết nhau, hay tàn sát người khác. Vì thế, trên cả thế giới, không đâu có đài tưởng niệm nạn nhân đĩ, nhưng có Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản ngay tại Thủ Đô Washinbgton, đề tưởng nhớ một trăm triệu người từng bị các Đảng Cộng Sản giết hại. Đĩ biết “trả thù là nhỏ nhen”, cho Hoạn Thư được thong thả ra về, không bị đuổi ra khỏi nhà, của cải và đồ trang sức không bị tịch thu, không phải đi vùng kinh tế mới. Nhưng theo Đảng, trả thù là thắng lợi, là vinh quang, cho nên một nửa nước Việt sau tháng Tư 1975 đã bị Đảng trả thù tàn bạo, bị cướp tài sản và bị đối xử dã man như thế nào, mọi người đều đã biết, khỏi cần kể lại. Thế mà, mỗi khi có ai gợi lại chuyện cũ, cán bộ Đảng vẫn vén môi lên, hỏi: “Sao các anh thù dai thế?”

– Về lý lịch: Đĩ không bao giờ hỏi lý lịch “đối tác” trước khi vào việc. Thuận mua vừa bán, đĩ không bao giờ phân biệt tuổi tác, giầu nghèo, sang hèn, tôn giáo, địa vị, học thức, nghề nghiệp, sang hèn, đảng phái, ngôn ngữ, chủng tộc. Trong khi ấy, tất cả những điều này đều quan trọng đối với Đảng, đều được Đảng dùng làm yếu tố quyết định trong mọi trường hợp. Và mọi người đều đã biết, xin miễn dẫn chứng.

– Về sự thật: Một điểm nữa có sự giống nhau giữa Đảng và Đĩ, cả hai đều ưa sinh hoạt trong bóng tối. Tuy nhiên, lý do của mỗi bên trái ngược nhau. Đảng muốn dùng bóng tối để che đậy sự thật, trong khi Đĩ muốn nơi kín đáo để tiện việc phơi bầy hoàn toàn sự thật, giống như cần nơi kín đáo để đếm tiền. Đảng luôn che dấu sự thật, thành ra mọi điều Đảng nói, đều không tin được, hay phải hiểu ngược lại, và rất khó, hoặc không thể kiểm chứng. Về phần đĩ, trong khi thi hành tư vụ, mọi sự thật đều được phơi bầy trăm phần trăm, mọi nghi vấn đều có thể kiểm chứng tại chỗ. Nhờ thế, đĩ không bao giờ tự đề cao quá lố, trong khi Đảng coi điều này như chuyện thường tình hàng ngày.

– Về thang giá trị: Không hiểu tại Bắc Việt trước kia, và cả nước hiện nay, vị thứ đĩ trên bậc thang xã hội nằm ở chỗ nào. Tại miền Nam trước kia, đầu thập niên 50, đĩ đóng góp rất nhiều cho ngân quỹ do Bình Xuyên thu góp để cung phụng Quốc Trưởng Bảo Đại sinh sống ở bên Tây. Thời gian này, có nhiều trí thức và nhà ái quốc trùm chăn đợi thời, trong khi chị em ngày đêm tụt quần lao động, góp phần nuôi Quốc Trưởng. Coi như đĩ đã tích cực tham gia việc nước. Thời Ngô Tổng Thống, là kẻ thù của Bà Nhu, đĩ bị coi thường. Nhưng không bị trừng trị nghiêm khắc như đảng viên. Không có luật “đặt đĩ ra ngoài vòng pháp luật” như Luật 10/59 đối với Đảng. Chứng tỏ, dưới thời Đệ Nhất VNCH, Đĩ vẫn trên Đảng.
Trong thời gian giữa hai nền Cộng Hoà, khoảng 1964-1966, Đảng có nhiều cơ hội hoạt động hơn, nhờ có liên hệ với một số tướng lãnh, hay dựa vào thế lực tôn giáo. Ví dụ Tướng Minh Cồ có em ruột là đảng viên từ Bắc lẻn vào sống ngay tại nhà, trùm đặc vụ Mười Hương được ra khỏi nhà tù nhờ Thượng Tọa can thiệp, điệp viên Nguyễn Ngọc Nhạ được Linh Mục giới thiệu với Tướng có quyền…. Nhưng trong hoàn cảnh mới, Đĩ vẫn lên nhanh hơn Đảng.
Theo sự đánh giá của nhân gian (thường rất chính xác), bậc thang giá trị thời này, đếm từ trên xuống, như sau: “Nhất đĩ, nhì sư, tam cha, tứ tướng”. Đảng vẫn không có chỗ đứng trong số những tinh hoa quyền lực hàng đầu này. Vắn tắt, Đảng còn xa mới bằng Đĩ.

– Về Nước Trời: Ở đầu bài, người viết nói ngôn ngữ của Linh Mục Nam trong bài giảng ngày 10 tháng 10 không thích hợp, không phải vì ông đã đề cập tới “đĩ” nơi toà giảng ở cung thánh, mà chỉ vì cách nói có dụng ý thiếu đứng đắn: “đi theo đảng, đang theo đĩ” là nói lái, có tính xỏ xiên. Mọi điều nói ra từ môt bài giảng trong thánh lễ, cần rõ ràng, thẳng thắn, không có hậu ý. Riêng về “đĩ”, chẳng những linh mục có thể nói tới trong bài giảng, mà trước kia, chính Đức Giê Su cũng đã nói tới. Theo Phúc Âm Thánh Matthew, một hôm, Đức Giê Su vào đền thờ, gặp mấy Thượng Tế và Kỳ Mục thách thức Người, sau vài câu trao đổi, Người nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và các cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 28-31). Như thế, cho đến nay, Nước Trời rất có thể đã có nhiều linh hồn của những người khi sống là đĩ.
Nhưng người theo Đảng, ít nhất trong nửa thế kỷ qua, không ai có thể vào Nước Trời. Trước khuynh hướng chống cộng lên cao tột đỉnh sau Thế Chiến thứ Nhì, vào năm 1949, Giáo Hoàng Pius XII đã ra giáo chỉ rút phép thông công bất cứ giáo dân nào theo Đảng Cộng Sản. Một khi bị rút phép thông công, không thể vào Nước Trời; tựa như bị công an lấy mất hộ chiếu, không thể nhập cảnh.
Vậy, để vào Nước Trời, Đĩ có triển vọng hơn Đảng.

***
Để kết thúc, xin có vài đề nghị cụ thể:
Trước hết, Linh Mục Đặng Hữu Nam, tuy là người can đảm, không sợ hãi, nhưng rõ ràng đã phạm lỗi, cần đứng tại nơi đã giảng trong thánh lễ ngày 10 tháng 10, đọc kinh cáo mình, đấm ngực “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”, công khai lên tiếng xin lỗi tất cả những ai đã, đang, và sẽ làm đĩ, người sống cũng như những kẻ đã qua đời, vì đã có ý tưởng sai lầm, đánh giá nghề nghiệp của anh chị em ngang hàng hay thấp hơn Đảng, đây là sự xúc phạm không phù hợp với đức công bằng và bác ái.
Thứ nhì, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, nhân danh Đảng Cộng Sản Việt Nam Quang Vinh Muôn Năm, trong một đại lễ trọng thể trước lăng Bác, ký một bằng tưởng lệ in chữ vàng, đóng khung vàng, có hình đảng kỳ búa liềm, với nội dung trân trọng thành kính cám ơn Linh Mục Đặng Hữu Nam, đã vì đức bác ái, nâng cấp Đảng lên độ cao mới, ghi nhận thành quả lẫy lừng sau 70 năm cầm quyền, Đảng hãnh diện được ngang hàng với Đĩ.

Đinh Từ Thức

http://damau.org/


Chủ Tịch Mao của Trung Cộng lần đầu bị công khai tội ác

Cuối cùng thì các cơ quan báo chí cũng công khai 7 tội ác kinh khủng mà Mao Trạch Đông đã tiến hành trong giai đoạn cầm quyền
Cái gì tới đã phải tới ...Và bao giờ thì CSVN mới chịu kê khai tội ác của Hồ Chí Minh và đồng bọn ? Nhất là tội bán nước của Hội nghị thành đô 1990 do tên Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu cầm đầu và hiện tại trong số này có 2 tên còn sống đó là Đỗ Mười và Lê Đức Anh .

--------------

Ngày 9/9/2015 là tròn 39 năm ngày mất của cựu thủ lĩnh Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) Mao Trạch Đông. Truyền thông của ĐCSTQ đã có bài xã luận: “Khách quan và công bằng mà nói, ông Mao là người vĩ đại, chứ không phải là thần vĩ đại”. Có người chế nhạo trên mạng rằng, đối với các bình luận của truyền thông ĐCSTQ, chúng ta phải hiểu ngược lại mới đúng.
Ngày 10/9, “Thời báo Hoàn Cầu” – cơ quan truyền thông của ĐCSTQ có bài xã luận rằng: Chính quyền ĐCSTQ biểu thị sự tán dương và tôn trọng “hết sức khách quan” đối với “cống hiến” của Mao Chủ tịch đồng thời cũng “xác nhận” những “sai lầm” của ông. Sau khi chụp lên ông những danh hiệu khác nhau, bài viết đi đến kết luận rằng: “Ông Mao Trạch Đông không phải là người mà một cá nhân hay một nhóm người là có năng lực đánh giá, có thể đánh giá ông thì chỉ có toàn bộ nhân dân Trung Quốc.”

Sau khi bài viết được công bố, cộng đồng mạng lập tức bình luận về sự việc này. Một độc giả tại thành phố Chương Châu tỉnh Phúc Kiến châm biếm rằng: Xã luận của “Thời báo Hoàn cầu” chúng ta phải hiểu ngược lại thì mới đúng.
Một độc giả tại thành phố Thẩm Quyến, tỉnh Quảng Đông thẳng thắn cho rằng: Chủ nghĩa ngoại lai của Mao đã làm trì hoãn Trung Quốc những 200 năm.
Độc giả tại Thành phố Thành Đô, Tứ Xuyên thì bày tỏ: Chỉ có toàn bộ nhân dân Trung Quốc mới có thể đánh giá Mao Trạch Đông, vậy thì mang hết “công lao vĩ đại” và những “sai lầm” của ông ta, toàn bộ viết ra một cách chân thực, rồi đưa cho 1,4 tỷ người Trung Quốc bỏ phiếu. Như thế chẳng phải đưa ra được một đáp án công bằng nhất hay sao?
Có bình luận chỉ ra rằng, ĐCSTQ chỉ vì sự thống trị của chính mình, cho nên luôn luôn không dám thừa nhận sai lầm của Mao Trạch Đông, thực tế đáng xấu hổ nhất chính là lấy từ “tội ác” đổi thành “sai lầm” một cách xảo quyệt.
 
7 tội ác lớn nhất của Mao Trạch Đông:
Tháng 12/2014 trên mạng có lưu truyền một bài viết ký tên tác giả là Trang Quế Tam, tổng kết 7 tội ác lớn nhất của nhân loại do ông Mao Trạch Đông gây ra. Cựu lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông nắm quyền 27 năm, lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh chủ yếu để tiến hành con đường cực tả. Trên đường lối đó, ông đã dùng dẫn dụ và cưỡng bức để gây ra biết bao thảm họa vô cùng tàn nhẫn cho xã hội mà mỗi thảm cảnh có thể được coi như là lớn nhất của nhân loại.
1. Năm 1957 “Phản cánh hữu”, chụp mũ và giám sát 550.000 người phe cánh hữu, lấy những lời phát biểu của những người phe cánh hữu lập hồ sơ, khống chế nội bộ phe cánh hữu, tổng số gần 1 triệu người. Những người trong phe cánh hữu này hầu hết là thành phần tri thức, họ trong khi phê đấu đã tự sát nhiều đến mức không kể xiết. Đây là cuộc chiến chống lại nhiều người trí thức nhất của nhân loại.
2. Năm 1958 “Đại nhảy vọt”, để hùa theo cách làm liều lĩnh của Mao Trạch Đông, toàn quốc hưởng ứng một cách quá khích. Các nơi đua nhau phóng đại sản lượng thu hoạch mùa vụ, sáng tạo ra con số không tưởng, sản lượng trên một mẫu là 5.000 – 60.000 kg lương thực, thậm chí ông còn “nghiêm trọng” đặt ra vấn đề “lương thực nhiều quá ăn không hết thì phải làm sao?” Đây là chuyện hoang đường nhất của lịch sử loài người.
3. Theo thống kê của Hồ sơ giải mật Quốc gia, từ mùa xuân năm 1958 đến mùa xuân năm 1962, tại Trung Quốc có 37 triệu 500 nghìn người chết đói. Người dân cho rằng, nếu như tính cả người chết đói, chạy nạn bị thất lạc, trẻ sơ sinh chết do không đủ sữa, chết do bị bội thực, chết vì đói rét, vì quá đói đi ăn trộm đồ ăn bị đánh chết, không cho chạy nạn bị đánh chết… Nếu như tính tất cả những nguyên nhân đó, thì con số người chết ước chừng 60 triệu người. Mao Trạch Đông đứng đầu về thảm họa liên quan đến tính mạng con người, là điều thê thảm nhất của nhân loại.
4. Năm 1957 sau khi chống lại phe cánh hữu, phần tử cánh hữu và cả người nhà bị đưa về nông thôn, họ đều bị giám sát lao động, đồng thời bất kể lúc nào cũng có thể bị lôi ra phê đấu, để làm tài liệu sống cho đấu tranh giai cấp. Các vùng nông thôn rộng lớn này biến thành một trại giam khổng lồ, không cần tường bao, không có thời hạn thi hành án. Mao Trạch Đông khai sáng ra một trại giam khổng lồ chưa từng có trong lịch sử, cũng như tương lai.
5. Mao Trạch Đông thông qua rất nhiều thủ đoạn, khi mới đề xuất thì rất rõ ràng, nhưng khi kết thúc thì rất đen tối, thực thi sự sùng bái cá nhân, mê tín cá nhân. “Sáng xin chỉ thị, chiều phải báo cáo”, “Kính nghênh hồng bảo thư”… Mê tín cá nhân và sùng bái cá nhân của Mao Trạch Đông đã lừa gạt con người mấy thế hệ, từ cổ chí kim, trong nước ngoài nước không ai sánh nổi.
6. Tháng 9/1962, bà Giang Thanh, vợ của ông Mao từ hậu trường bước ra khoa tay múa chân nói về việc chính trị quốc gia. Năm 1965 Mao Trạch Đông và bà ta ở trong phòng kín mưu đồ, đưa ra “Bình tân biên lịch sử kịch < hải thụy bãi quan>”, Giang Thanh được đề cử lên làm Phó Tổ trưởng Cách mạng Văn hóa Trung ương, sau đó lên làm Cố vấn Cách mạng Văn hóa Quân ủy, rồi Ủy viên Cục Chính trị. Ngoài Mao Trạch Đông ra, bà Giang Thanh trở thành cánh tay đắc lực với quyền lực vượt qua tất cả các lãnh đạo trong Trung ương ĐCSTQ. Bà Giang Thanh đã lợi dụng quyền lực mà Mao Trạch Đông giao cho để làm vô số việc ác, chuyện xấu và các vụ bê bối. Mao Trạch Đông trao quyền lực lớn nhất cho vợ của mình, chuyện này cũng chưa từng có trong lịch sử.
7. Mao Trạch Đông phát động kẻ thù chính trị đả kích Đại Cách mạng Văn hóa, khiến cho Trung Quốc lâm vào đại loạn. Trong 10 năm Đại Cách mạng Văn hóa, hơn 20 triệu người bị giết chết, tự sát và thảm sát. Đây là tội ác giết người vô tội, tàn khốc và vô nhân tính lớn nhất trong lịch sử nhân loại.
 
Cựu lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông nắm quyền 27 năm, lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh chủ yếu để tiến hành con đường cực tả. Trên đường lối đó, ông đã dùng dẫn dụ và cưỡng bức để gây ra biết bao thảm họa vô cùng tàn nhẫn cho xã hội mà mỗi thảm cảnh có thể được coi như là lớn nhất của nhân loại.
 
Đồng chí Lenine , đại diện cho vô sản  thế giới, đi xe Rolls Royce mui trần , n° chassis 17KG, biển số 236 , facture originale lưu giữ ở hãng RR gốc (London), xe được đặt mua đặc biệt và giao hàng sau 3 tuần vào năm 1922. Chiếc xe này hiện trưng bày ở cửa hãng đại diện RR/Moscou. 

Tóm lại tất cả chỉ là giả dối, lừa đảo... Nhóm dân ngu, khu đen là căn bản cho các chính trị gia lợi dụng.

 

 

Đăng ngày 26 tháng 11.2015