Thảm sát Mậu Thân

Tội ác Việt cộng muôn đời không quên

 

Định Nguyên 

https://c1.staticflickr.com/9/8643/16202997253_3c2d5491fc_c.jpg

Biến cố Tết Mậu Thân xẩy ra đã đúng 50 năm (1968 – 2018) nhưng đối với dân miền Nam Việt Nam, đặc biệt là xứ Huế, nỗi đau vẫn còn đó, vết thương lở loét chẳng bao giờ lành. Ngoài cố đô bị tàn phá tang tành, niềm đau mất mát người thân kéo dài đến bây giờ bởi sự ngang ngược của chế độ cộng sản. Cho đến nay họ vẫn chà đạp lên nỗi thống khổ của người dân, coi đó là “chiến thắng lịch sử”.
Viết bài nầy, tôi không có mục đích tường thuật biến cố đau thương nầy. Chuyện nầy đã có hằng chục, hằng trăm người viết rồi. Hơn nữa, Tết Mậu Thân tôi đang thụ huấn tại Sài Gòn, và hứng trận trực tiếp biến cố nầy ở đó. Riêng Huế, quê tôi, nơi chịu trận nặng nề nhất, tôi chỉ chứng kiến những hậu quả tang thương bởi bàn tay tội ác của VC.
Vào khuya Mồng Một Tết Mậu Thân, tôi cùng người anh con ông bác ruột (đang thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung) được ra phép Tết và ở lại nhà một người chị bà con ớ Phú Nhận. Đang ngủ, chừng 1-2 giờ sáng gì đó, bỗng nghe súng nổ tứ phía và liên tục, có khi đạn xéo đâu gần nhà. Chúng tôi biết có chuyện nhưng chẳng biết đích xác chuyện gì. Sáng ra vẫn chưa biết điều gì đã xẩy ra, cho đến gần trưa nghe thông báo từ trực thăng mới biết VC đang tấn công Bộ Tổng Tham Mưu và phi trường Tân Sơn Nhất (nhà chị tôi ở gần đó). Cũng theo kêu gọi từ trực thăng, chúng tôi cùng đồng bào phải nhanh chân di tản ra khỏi khu vực. Hai anh em tôi đang chạy trên đường Võ Di Nghi thì bị trực thắng nhà ta quạt cho một loạt đạn. Tôi suýt chết vì một viên viên đạn bay như gió, vèo qua tai, chạm phải cửa sắt nhà người ta. Tôi nhặt viên đạn còn nóng bỏ túi, đem về làm kỷ niệm. Nếu viên đạn ấy nhích qua nhích về một tí thì tôi đã xong đời rồi. Có lẽ mấy ông trực thăng tưởng hai anh em tôi là VC vì anh tôi mặc áo lính còn tôi thì mặc sắc phục cảnh sát, khác với đám thường dân chạy loạn bên cạnh. Chiều hôm đó, anh tôi trình diện Tiểu Khu Gia Định, tôi lần mò về Học Viện, không dám tự ý đi đâu, nếu không được điều động làm công tác.
Cuối năm 1968, tôi tốt nghiệp và được về Huế làm việc. Thành phố Huế trước ngày tôi đi và bây giờ khác nhau một trời một vực. Tất cả đã đổ nát. Sự đổ nát của Cố đô Huế thật khủng khiếp. Hoàng Thành tang hoang, cầu Trường Tiền gãy gục xuống sông Hương, phố xá phần lớn sập đổ, đường sá loang lổ vết đạn…Am thờ các vong linh tử nạn (bất kể phe nào) hình như nhà nào cũng có, nơi nào cũng có. Nhà anh chị tôi ở đường Trần Hưng Đạo cũng có một cái am thờ một người lính VC! Khi yên ổn, anh chị tôi từ chỗ tản cư về nhà thì thấy người lính nầy chết nằm vắt vẻo nơi cầu thang lên lầu. Anh chị tôi phải thuê người đem chôn đâu đó. Chị dâu tôi sợ quá, lập am thờ, rằm mồng một có hương hoa trái cây “tiếp tế” cho anh VC nầy!
Cùng số phận với dân Huế, đại gia đình tôi dường như nhà nào cũng có người mất tích hoặc bị VC giết, gần nhất là chú em rể của tôi. Sau Mậu Thân, khi đang làm việc tại Huế, tôi cùng em gái tôi đi tìm xác chồng nó là CSDC Quảng Ngãi về quê ăn Tết, bị VC bắt đi vào ngày Mồng Hai Tết khi đang ngồi với vợ con trong nhà. Và em tôi đã tìm được xác chồng nhờ cái răng bạc và cái quần cụt nó mặc khi bị bắt.
Với dân Huế, qua biến cố Mậu Thân, VC đã tự phơi bày sự dã man tàn độc, phi dân tộc nhất của csVN trong lịch sử đất nước. Trong một ngàn năm bắc thuộc không hiểu người Tàu đã lần nào tàn sát dân Việt kiểu ghê gớm như thế không? Trong một trăm năm đô hộ của giặc Tây, không biết người Pháp có lần nào chôn sống tập thể người Việt Nam một cách khủng khiếp như thế không? Dù Tàu, Tây chẳng thương chi dân mình nhưng tôi tin là họ không làm như thế, nhưng nếu có làm thật thì cũng có thể hiểu được vì họ là người ngoại chủng. Đằng nầy, cùng là người Việt Nam nhưng csVN đã làm như thế, họ chủ trương “giết lầm hơn bỏ sót” lùa tất cả những người mà họ nghi là quân nhân, cán bộ công nhân viên VNCH, các đảng phái quốc gia…đi, bắt những nạn nhân nầy tự đào hố, sau đó những nạn nhân nầy bị trói tay tập thể để rồi bị bọn cán binh VC tống xuống hố, chôn sống!!! VC tàn bạo và dã man đối với người đồng chủng/đồng bào hơn cả người ngoại quốc.
Có chứng kiến tận mắt những hố chôn tập thể mới thấy được bản chất khát máu của những con người cộng sản. Em gái tôi và tôi đi từ địa phương nầy đến địa phương khác, từ hố mộ tập thể nầy đến hố mộ tập thể khác để tìm người thân. Khi lớp đất/cát cuối cùng được đào lên, hằng chục, hằng trăm xác chết trong các tư thế nằm, ngồi, đứng chết sát nhau, chồng lên nhau, và tất cả đang bị trói trông thật khiếp đảm… Xác người nằm dưới lòng đất gần như còn “tươi”. Sau khi đem lên mặt đất mới đổi qua màu đen và bắt đầu phân rã. Máu người trào ra…và mùi thối xông lên nồng nặc. Tội nghiệp mấy người có nhiệm vụ bốc mộ, họ bất chấp mọi sự kinh tởm và mùi xú uế, đào và đem từng xác người đặt trên mặt đất để thân nhân đến nhận diện…Em gái tôi nhận ra chồng nó trong hằng trăm xác chết nầy tại quận Phú Thứ.
Cứ thế, từ hố nầy đến hố khác, người dân Huế đã tìm được vào khoảng hơn năm ngàn người. Những xác chết có thân nhân nhận diện, được gia đình đem về chôn cất. Những xác chết không còn nguyên vẹn, hoặc không có thân nhân nhận lãnh, chính quyền tự lo liệu chôn cất đàng hoàng tại những vùng đất quanh thành phố Huế, nơi được chôn nhiều nhất là Đàn Nam Giao. Chưa bao giờ xứ Huế có một đám tang tập thể “lớn” như vậy. Chưa bao giờ kinh đô Huế phủ trắng một màu tang kinh khiếp từ nội thành đến các vùng phụ cận như vậy. Khắp các trường học, màu khăn sô trên đầu các em học sinh cũng nhan nhãn trong lớp học và giữa sân trường. Đó là hình ảnh trung thực, rất trung thực của Huế sau Tết Mậu Thân năm 1968 mà tôi là người tận mắt trông thấy. Năm mươi năm, hình ảnh nầy chưa phai nhạt trong lòng người dân Huế. Thế mà, nhà cầm quyền hiện nay tại Việt Nam cho đó là một “chiến thắng”!
Chiến thắng là chiến thắng nào, thành quách đổ nát người đào hố chôn!

https://c1.staticflickr.com/9/8585/28185153756_fd6d2797a0_c.jpg

Nếu đó là “chiến thắng” thì là chiến thắng của chủ nghĩa cộng sản đối với dân tộc Việt Nam mà kẻ thực hiện không ai khác là VC, những con người Việt Nam mất gốc, tôn thờ một chủ nghĩa ngoại lai. Kể từ khi xuất hiện trên trái đất, cộng sản đã giết hại trên dưới 100 triệu sinh linh. Nga và Trung cộng mỗi nước cũng đã tàn sát hàng chục triệu dân mình. Từ Cải Cách Ruộng Đất tại đất Bắc đến Thảm Sát Mậu Thân ở Huế, VC giết dân Việt không gớm tay chẳng qua đó cũng là “truyền thống” khát máu chung của cộng sản quốc tế! Đó là cái nhục mà đảng csVN phải gánh trước Tổ Quốc và Dân Tộc Việt Nam.
Cho đến nay, hằng năm họ vẫn ăn mừng chiến thắng, một “chiến thắng” trên máu xương và nước mắt của chục hàng ngàn người dân trong 25 này đêm họ chiếm Huế. Để tô vẽ cho “chiến thắng” nầy và chạy tội trước lương tâm và lịch sử dân tộc, họ từng tuyên bố, đại ý “những người bị giết trong biến cố Mậu Thân là do bom đạn Mỹ Nguỵ tàn sát, cách mạng không giết họ”!
Đúng là luận điệu trơ tráo. Biết rằng chiến tranh nào cũng chết chóc, bom đạn nào cũng vô tình, nhưng “bom đạn Mỹ Nguỵ” không giết đồng đội và đồng bào mình một cách tán tận lương tâm như thế. Mỹ và VNCH không hề thù hận với người nhà mình, không có lý do để trói tay, chôn sống tập thể đồng đội và người dân của mình như thế. Hành động man rợ đó chỉ được kích động bằng hận thù, một chủ trương đặc thù của chủ nghĩa cộng sản mà những kẻ cuồng tín csVN đã hấp thụ và thực hành triệt để. Con người ai cũng thế, chín người mười ý, khác chính kiến là chuyện bình thường. Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới chủ trương “đồng phục tư tưởng”, coi những người khác chính kiến là thành phần “đáng tội chết”. Đó là lý do csVN đã coi đồng bào mình, những người không ở trong hàng ngũ của họ như kẻ thù. Họ không ngần ngại giết sạch, giết hết để nhuộm đỏ đất nước Việt Nam. Bất cứ một chính thể nào, dù độc tài sắt máu đến đâu, nếu có chút lương tri dân tộc, không ai tàn ác với dân tộc mình như csVN.
https://c1.staticflickr.com/3/2439/3722727761_9515b36acc_z.jpg?zz=1Thử hỏi, ai lật lọng lợi dụng ba ngày hưu chiến trong dịp Tết để tấn công đối thủ? Và khi đã tràn ngập được lãnh thổ của đối phương, ai bắt những người nghi là người của đối phương đem đi thủ tiêu? VNCH không làm chuyện đó. VNCH không tráo trở, lợi dụng dịp hưu chiến để tấn công Bắc Việt hoặc các vùng VC tạm kiểm soát tại miền Nam trong ba ngày Tết thiêng liêng của dân tộc. VNCH là nạn nhân của sự gian dối, là kẻ bị tấn công bất ngờ trong khi cho phép một số quân nhân và công chức được phép về ăn Tết với gia đình. Trong khi chật vật chống kẻ thù xâm lăng, không có thể chế nào, kể cả VNCH lại có chủ trương ngược đời là bắt con dân của mình đi thủ tiêu. Trong khi mọi binh sỹ, mọi khẩu súng đều hướng về kẻ thù trước mắt, VNCH làm sao có thể có chủ trương đi gom tóm để tàn sát tập thể quân dân của mình đang vui Tết ở mọi địa phương?
Nếu trên đường VC dẫn các “tội nhân” về núi bị Mỹ oanh tạc giết chết thì xác các nạn nhân sẽ nằm phơi trên mặt đất. Đằng nầy, các nạn nhân bị trói chùm với nhau, nằm chết chồng chất lên nhau trong các hố chôn tập thể! Ai trói họ? Ai chôn họ trong các hầm chôn tập thể đó? “Mỹ Nguỵ” sau khi oanh tạc, bắn đại bác giết họ rồi liền nhảy dù xuống trói từng người lại với nhau, chôn tất cả họ vào những hố chôn như thế? Không ai có thể tin những luận điệu ngang ngược như thế của csVN. Họ nói lấy được để chạy tội. Nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân…đúng là những kẻ “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”. Họ sinh ra, lớn lên, được giáo dục tại miền Nam, ra đời phục vụ dưới các chính thể VNCH thế mà họ hoạt động cho VC, ít nhiều bàn tay họ đã dính máu dân Huế trong biến cố Thảm Sát Mậu Thân. Ông HPNT, (thầy dạy Văn của tôi năm Đệ Nhị, trường Quốc Học) khi được phỏng vấn về vấn đề Mậu Thân đã trả lời tiên hậu bất nhất. Tôi bất mãn nhất là phát biểu sau đây của ông: “Năm 75, 76, 77 khi đi làm thuỷ lợi tại Khe Đá Mài chúng tôi đào lên một hầm chôn tập thể toàn là người lính đội mũ tai bèo và mặc đồ quân giải phóng, chứng tỏ cái gọi là “Thảm sát Mậu Thân” chỉ là trò bịp của thực dân”! Tôi không biết điều nầy có thật hay không vì chưa hề nghe ai nói, ngoài “phát hiện” nầy của ông HPNT. Có hai trường hợp. Một, ông HPNT bịa chuyện nầy để bao che cho VC. Hai, ông HPNT nói thật, nghĩa là có hầm chôn tập thể lính VC.
Nếu trường hợp một đúng, nghĩa là ông HPNT bịa chuyện thì thật đáng khinh con người trí thức của ông. Nếu không bịa chuyện thì trí óc ông cũng có vấn đề. Sau Mậu Thân chiến tranh, súng đạn, chết choc…vẫn xẩy ra từng ngày nơi các vùng rừng núi xa xôi của tỉnh Thừa Thiên (kể cả Khe Đá Mài). Từ Mậu Thân đến thời điểm ông “phát hiện” hố chôn tập thể lính VC là 8 năm (nếu chỉ tính tới năm 1975). Với khoảng thời gian dài như thế, với thực trạng chiến tranh ngày càng khốc liệt như thế, tại sao ông dám quả quyết là mồ chôn các lính VC là do VNCH và Mỹ thực hiện trong dịp Tết Mậu Thân? Chỉ với một “phát hiện” mơ hồ như thế, chỉ với một hố chôn tập thể lính VC không biết có từ bao giờ, ông đã đánh đồng tất cả những hố chôn tập thể khác do VC thực hiện trong dịp Tế Mậu Thân đều do Mỹ và VNCH làm!? Và do đó, theo ông, chuyện “Thảm sát Mậu Thân” do VC ra tay là hoàn toàn bịa đặt? Tôi luôn tôn sư trọng đạo, nhưng trong trường hợp nầy, ông thầy của tôi không còn đáng kính nữa. Khi mới ra tù, tôi được bà xã dẫn đi xem buổi trình chiếu phim tài liệu “A Television of History” do PBS thực hiện, tại trường Nguyễn Chí Diễu. Tới nơi, tôi thấy ông HPNT ngồi đó, chủ trì buổi trình chiếu. Ông nhìn tôi không mấy thiện cảm và với vẻ mặc dương dương tự đắc của người “bên thắng cuộc”. Cái gọi là “Chiến thắng Mậu Thân” đang được PBS bình luận và quảng bá đã đánh trúng tim đen ông! Không còn dáng vẻ nghệ sỹ như ngày xưa đứng lớp, ông ngồi đó với một khuôn mặt thù hận và sắt máu! Tôi thật sự chán ngán cho người trí thức nầy. Ông quá cuồng cộng đến độ quên cả lý trí và lương tri con người.
Nếu trường hợp hai đúng, nghĩa là ông HPNT đã phát hiện hố chôn tập thể lính VC thật thì, ai là thủ phạm? Như đã trình bày ở phần trên, tôi hoàn toàn không tin Mỹ và VNCH làm chuyện ấy trong biến cố Mậu Thân. Khi VC đang tổng tấn công vào tỉnh Thừa Thiên và cố đô Huế, họ đang bận tay, quá bận tay để giữ vững phòng tuyến vốn đang quá mỏng (vì bất ngờ và binh sỹ nghĩ phép), làm sao họ có thể thực hiện chuyện vô lý đó. Có thể hố chôn lính VC nầy đã có từ trước rất lâu hoặc sau Mậu Thân do Mỹ trải bom hoặc đụng trận được quân đội VNCH đào hố chôn tập thể. Nếu đúng như thế thì ngôi mộ tập thể lính VC nầy không liên quan gì đến “Thảm sát Mậu Thân” do VC gây ra cả, thưa ông thầy. Trường hợp hố chôn lính VC nầy có trong dịp Tết Mậu Thân thì khả năng đó là trò “gắp lửa bỏ tay người” của VC. Có thể những người lính VC nầy bị giết trong khi tấn công Huế, đồng đội của họ đem về chôn ở đó để vừa trọn tình trọn nghĩa với đồng đội, vừa để vu oan giáng hoạ cho Mỹ và VNCH trong tội ác tàn sát và chôn sống người dân Huế. Hơn nữa VC cũng có thể “trang bị” nón tai bèo, áo quần quân giải phóng cho các nạn nhân xấu số trước hoặc sau khi ra tay tàn sát họ, tạo một chứng cứ giả để đổ thừa việc chôn sống người đồng loạt trong biến cố Mậu Thân là do Mỹ và VNCH chủ mưu.
Trò lưu manh, ném đá dấu tay là ngón “nghề chuyên nghiệp” của csVN, bọn người mà thầy tôn thờ, không lý ông thầy không biết?!
Trường hợp của những hố chôn tập thể tại các quận ngoại ô, phát hiện một vài tháng sau khi VNCH và đồng minh đã đánh bại VC, chiếm lại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên có thể nguỵ tạo, tung hoả mù để đổ thừa. Thế còn các hầm chôn tập thể trong nội thành Huế như tại Chùa Áo Vàng, Trường Tiểu Học Gia Hội, Bãi Dâu và rải rác nhiều nơi khác được phát hiệnngay sau khi VNCH chiếm lại Huế thì sao, do ai thực hiện? Ai đào hố chôn sống bốn giáo sư người Đúc, dạy tại Đại Học Y Khoa Huế trong khuôn viên chùa Tường Vân? Không lý cũng do “Mỹ Nguỵ” thực hiện trong thời gian VC tạm chiếm, làm chủ thành phố Huế? Chỉ có những người mất trí mới tin như thế. Chỉ có những kẻ vô lương mới tuyên truyền lếu láo như thế để chạy tội cho VC.
Cái gì cũng thế, dù đau thương đến đâu rồi cũng được thời gian hoá giải. Nhưng riêng biến cố Tết Mậu Thân là trường hợp ngoại lệ, không bao giờ phai nhạt đối với người dân Huế nói riêng, dân miền Nam Việt Nam nói chung. Tại sao? Tại vì hằng năm những kẻ tội đồ phi dân tộc ấy, chế độ csVN tàn bạo ấy vẫn kỷ niệm “chiến thắng Mậu Thân”. Đó là một hành động cào vào vết thương đang mưng mủ nên vết thương chẳng bao giờ lành da liền thịt được. Đã tàn sát đồng bào không nương tay, đáng tội diệt chủng, bây giờ dựa vào sức mạnh bất chính, họ vẫn huyênh hoang “chiến thắng”. CSVN đã và đang thách thức lương tri dân tộc, xấc láo với tiền nhân, ngồi xổm trên hồn thiêng sông núi. Do đó, không thể thứ.
Đó là một tội ác tày trời ngàn đời không thể quên được.

Định Nguyên
Viết để nhớ 50 năm biến cố Mậu Thân (1968 – 2018)


Nỗi đau của Huế

Nguyên Hà

Thời gian gần đây, tôi đọc được vài thông tin:
Một người tên Nguyễn Đài Trang, đã viết sách ca ngợi Hồ Chí Minh, hiện nay là một trong những lãnh đạo của hiệp hội Canada Việt Nam (CVS: Canada Vietnam Society) do cộng sản bảo trợ.
Một nhóm du học sinh tại Canada, lấy tên Hội Du Học sinh Việt Nam ở Canada (VietSOC, Vietnamese Student Organization in Canada) đã đăng tại facebook của họ những lời và hình ảnh như sau:
- Hình Hồ chí Minh với chú thích “Chúc mừng sinh nhật Bác Hồ của chúng con
- Hình xe tăng cộng sản Việt Nam vào miền Nam ngày 30 tháng 4, 1975 trên nền cờ đỏ của cộng sản, bên cạnh dòng chữ “Ký ức hào hùng”. Cùng chú thích của Hội này ”Chúc mừng kỉ niệm 41 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4/1975”
- Hình ngày lễ giổ tổ Hùng Vương do đại sứ cộng sản VN tổ chức, có sự tham gia của Hiệp hội cộng sản CVS. Trong hình ngày lễ, lá cờ Canada đặt cạnh lá cờ máu của cộng sản VN, với lời chú thích của hội du học sinh này ”..Cám ơn đại sứ đã tổ chức buổi lễ vô cùng trang nghiêm và ý nghĩa cho cộng đồng..”
- Thước phim do bộ ngoại giao cộng sản VN soạn ra để tuyên truyền về một Việt Nam cộng sản giàu mạnh ổn định, với từng hàng cờ đỏ CS tung bay. Kèm các lời của thành viên hội này ca ngợi thước phim.
- Lời kêu gọi đi Hội chợ Tết của nhóm Vietsoc tổ chức vào ngày 12 tháng 2, 2017 vừa rồi: ”Đội Sao Đỏ VietSOC xin được ra mặt cộng đồng du học sinh Việt! Hãy đến “Tết Nảy Tết Nay” để được gặp các họ và ôn lại những kỉ niệm “cực đẹp” về “Sao Đỏ” của tuổi học trò”.
Đọc thấy hình ảnh và những điều trên, lòng tôi phẫn uất và trào dâng ngút ngàn nỗi nhớ Huế và thương quê hương.
Nỗi đau thương sâu sắc của thảm sát Tết Mậu Thân 1968 tại Huế là một bằng chứng mạnh mẽ và một sự thật không thể chối cãi của sự tàn ác mất tính người của cộng sản. Tội nghiệp Huế ngỡ ngàng đau thương khi cộng sản Bắc Việt tấn công vào thành phố Huế vào các ngày Tết Mậu Thân 1968. Từng đoàn binh cộng sản và quân du kích, tự xưng “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam”. Nhiều người mặc những bộ áo quần đen làm kinh hoàng cả thành phố. Nhiều nơi đầy khói súng, dọc theo bờ sông Hương và các đường phố là xác chết nằm tràn đầy. Dân hốt hoảng chạy chỗ này chỗ kia trong khói súng mịt mù, mẹ tay dắt con tay bồng bế con, ông dìu bà, cha bị lạc nơi nào... Mọi người cố gắng truyền tin nhau chạy về cho được các nơi mà quân lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đang nắm giữ.
Kinh hoàng nhất là tại các vùng mà cộng sản đã chiếm đóng được. Chỉ trong thời gian ngắn, mà chính sách chỉ điểm kẻ “phản động, cường hào ác bá” của thời đấu tổ giết người “cải cách ruộng đất” tại miền Bắc được áp dụng. Các cán binh cộng sản và du kích, cùng những tên theo cộng sản như điên dại lôi cho ra những người chúng ghét, và những người chúng cho là “nợ máu nhân dân”.

Không chỉ là những người lính VNCH đang nghỉ Tết không ở vị trí chiến đấu, mà cả những công viên chức, những người trí thức kể cả những bác sĩ người ngoại quốc đang dạy tại trường đại học Y khoa Huế, và những thường dân cũng là nạn nhân. Họ bị bắt thành từng đoàn, cột tay cả dãy, rồi bị xử chết tập thể tại nhiều nơi, mà trong đó tại trường Gia Hội là một trong những bãi xử chết. Có người bị đập vỡ đầu chưa chết, nhưng bị kéo theo cả chùm cột nhau và cũng bị chôn sống theo, kể cả người già, phụ nữ và trẻ em. Nhiều người bị tra tấn dã man, bao gồm tùng xẻo man rợ như thời Trung cổ. Chỉ trong dưới một tháng, mấy ngàn nạn nhân vô tội bị cộng sản thảm sát, cả thành phố Huế và phụ cận chìm trong tang tóc, kinh hoàng.
Thảm sát Mậu Thân Huế theo soạn giả Matthew White vào các năm đó, đã ghi chép” Tàn khốc: 100 sự kiện tử vong cực cao trong lịch sử nhân loại”.
Vậy nhưng cộng sản vo tròn bóp méo lịch sử nên giải khăn sô cho toàn Huế trở thành chiến tích lẫy lừng của đội quân cộng sản Bắc Việt. Rồi lớp trẻ ngu ngơ trong chế độ tẩy não không được học đúng lịch sử và biết đúng sự thật, chỉ ngồi nghe rao giảng các bài chiến thắng Tết Mậu Thân. Thảm sát Tết Mậu Thân đã bị cộng sản xóa bỏ trắng trợn, chà đạp lên vết thương lòng của người sống, vùi lấp đống tro tàn tội ác mà chúng đã gây ra. Ngay sau 1975, có những kẻ lên bục giảng dạy huyên hoang về chiến thắng Tết MậuThân Huế 1968 mà suýt “giải phóng” được Huế, và láo liên đổ lỗi là do VNCH và Mỹ tự tạo nên cuộc tàn phá đó, đã giết người chôn sống để đổ lỗi cho “quân giải phóng”.
Người Huế ít khi nói lên nỗi mất mát đau thương tột cùng này, mà giữ thầm kín chịu đựng và cố vượt qua. Nhưng khi cộng sản Bắc Việt được yểm trợ và tiếp vận bởi Trung cộng và Liên xô ùa vào cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam vào 1975, thì người Huế bị bịt miệng, nỗi đau và chứng tích của Tết Mậu Thân 1968 bị bóp méo trong tay cộng sản. Nhiều người dân Huế chứng kiến tận mắt đầy đủ cảnh cộng sản xử nhanh gọn từng chùm người rồi đẩy xuống mồ chôn tập thể. Dù trong vài chục năm sau, tất cả nhân chứng đều sẽ về cõi Vĩnh Hằng.Tuy vậy, cộng sản không bao giờ có thể xóa nhòa được tội ác của chúng đối với người dân Việt Nam.
Đến hôm nay, nỗi đau của Huế không bao giờ phai nhạt, Huế 1968 của Tết bất ngờ thành địa ngục, Huế 1968 của khăn sô trong áo tang trắng. Nhưng Huế không phải vì muốn giữ mãi hận thù chuyện trong quá khứ, mà chính vì cộng sản VN vẫn ác với dân, tham tàn, và vẫn bán nước cho Trung cộng.
Người Do Thái bị Hitler diệt tàn khốc. Nay họ có thể cố gắng bỏ qua chuyện xưa vì Đức ngày nay là một nước dân chủ hòa bình. Đức đã xin lỗi. Đức cấm hình Hitler và các dấu hiệu của Nazi. Những người Do Thái không thể để các hình này xuất hiện trong cộng đồng Do Thái.
Hơn 40 năm qua, dân cố đô Huế và khắp nơi trên VN phải ngậm miệng dưới bạo quyền. Một chương trình nghệ thuật biểu diễn do một nhóm yêu nước với một ý tưởng rất hay là “Nỗi đau của những con cá”, để lên tiếng nói về tình trạng cá chết ở vùng biển miền Trung. Các nghệ sĩ có lương tâm này hóa trang mang theo những con cá, và diễn hành qua các đường phố của hai bờ dòng sông Hương, nhưng cũng bị cấm cản. Trong những năm gần đây, Huế và miền Trung trải qua những trận lũ kinh hoàng liên tiếp do con người gây ra, do chính quyền xã lụt bừa bãi thiếu trách nhiệm. Và đang chịu thiệt hại nặng nề do hóa chất từ Formosa. Độc đã đầy biển đất nhưng cộng sản VN vì túi riêng vẫn làm ngơ trước nỗi khổ của người dân mà còn đánh đập tàn nhẫn những người lên tiếng hay đi biểu tình. Như bao lần trước, lần biểu tình của trên hàng ngàn người dân ở Hà Tĩnh Nghệ An phản đối Formosa vào ngày 14 tháng 2, 2017 cũng bị ém nhẹm không một báo và đài nào trong nước nhắc đến.

Nỗi đau cho Huế và cho đất nước Việt Nam không nguôi, và cứ tiếp mãi.
Vậy nhưng, trong sự đau khổ và uất ức của Huế, của miền Trung và trong tình hình đất nước và dân tộc đau thương như hiện nay, thì tại hải ngoại một số nhóm người đang tìm cách đánh bóng cộng sản VN, gây xáo trộn và tổn thương đến cộng đồng Việt hải ngoại. Vẫn có các bầu sô mời những ca sĩ vinh danh cộng sản VN như Thu Phương, Đàm Vĩnh Hưng. Hoặc các công ty và hội nhóm tổ chức có liên hệ cộng sản VN, họ mời các đoàn văn công cộng sản qua hải ngoại trong vai trò trình diễn hay giám khảo của các buổi nhạc và hội hè. Cộng sản VN đang ra sức tuyên truyền cho một chế độ thối nát thông qua các hội nhóm cộng sản, các ca nhạc sĩ cộng sản và văn hóa “giao lưu” để cộng đồng hải ngoại quen dần dần, và thờ ơ không còn lên tiếng cho đất nước và dân tộc, quốc tế bị bưng bít.
Tôi đưa lên để thấy vì những ai gây nên nông nổi này. Hãy nhìn lại Lịch Sử để phán xét đúng sai. Nhìn Hiện Tại để so sánh VN với nhiều nước mà đã thua kém cả VNCH trước kia. Nay VN chất độc khắp nơi, môi trường bi hủy diệt nghiêm trọng, tham nhũng như ung thư loại nặng, đảng cướp đất và bán dân có tổ chức, luật pháp và giới truyền thông là của đảng. Nhìn Tương Lai mù mờ khi bao thế hệ bị tẩy não mắt mù tai điếc trước sự thật, trong khi đảng tiếp tục bán nước để sống còn.
Mỗi tấc đất của ông cha để lại mỗi người Việt từ Bắc đến Nam phải giữ gìn, và mỗi người dân Việt có quyền sống như những con người. Dù từ miền nào trên đất nước và đi bằng cách nào đến định cư hải ngoại, xin đừng tiếp tay và tuyên truyền cho cộng sản. Các cơ sở thương mãi, các doanh nhân xin đừng vì lợi nhuận mà ủng hộ các hội nhóm cộng sản và các show nhạc có ca sĩ cộng sản. Các bầu show nên có lương tri. Các du học sinh đừng học theo nhóm Vietsoc tuyên truyền cho cộng sản VN, hại nước hại dân.
Nhìn về quê hương, đau từng khúc ruột. Mong mỗi đồng bào hải ngoại tích cực giữ vững cộng đồng Việt Tự Do, và tiếp tục lên tiếng đòi Tự Do, Dân Chủ, Công Lý và Nhân quyền cho dân Việt cho nước Việt.
Nguyên Hà

https://hon-viet.co.uk


Chương trình phát thanh "Những vấn đề hôm nay"

TẾT MẬU THÂN 1968

Chúng tôi sẽ trình bày trong ba buổi phát thanh lần I (21/1/2018), lần II (28 tháng 1/2018) và lần III, (4 tháng 2/2018). GS Nguyễn Lý-Tưởng trả lời các câu hỏi của Mai Ly về Tết Mậu Thân 1968

Sau đây, xin mời theo dõi NVDHN chiều Chúa nhật 21/1/2018 (Mậu Thân I)

Mai Ly: Hôm nay là ngày 21/1/2018, cách nay 50 năm cũng vào thời điểm này, vào dịp Tết Mậu Thân (30 và 31 tháng 01-1968) cũng là ngày cuối năm âm lịch và bước sang năm mới Mậu Thân (ngày mùng Một Tết Nguyên Đán), quân Bắc Việt đã mở mặt trận gọi là "Tổng công kích" "Tổng nổi dậy" trong Tết Mậu Thân. Theo Mai Ly được biết, lúc đó Giáo Sư là Dân Biểu VNCH, Pháp nhiệm I (1967-1971) thuộc đơn vị tỉnh Thừa Thiên... Xin Giáo Sư cho biết cảm tưởng của GS về vụ Việt Cộng gây ra cuộc "thảm sát" đồng bào vô tội tại Huế?
GS Nguyễn Lý-Tưởng: Tết Mậu Thân là một hành động dã man, diệt chủng mà Việt Cộng đã để lại trong lòng mọi người dân, nhất là thân nhân của những người đã bị Cộng Sản thảm sát, chôn trong những nấm mồ tập thể, bắt đi mất tích hoặc thủ tiêu ở đâu đó không tìm được xác, điển hình là tại TP Huế và tỉnh Quảng Trị cũng như khắp nơi trên toàn miền Nam VN (tức lãnh thổ VNCH trước đây) là một nỗi kinh hoàng, một niềm uất hận nghẹn ngào, một món nợ mà con cháu phải đòi kẻ sát nhân phải trả bằng máu! Đã 50 năm qua (1968-2018), nhưng phía Cộng Sản không tỏ ra có một chút hối hận, không một lời xin lỗi trái lại chúng còn tổ chức kỷ niệm chiến thắng Mậu Thân. Một cuộc chiến thắng giữa những người có súng với người tay không, giữa một võ sĩ hạng nặng với một em bé trên võ đài!? Những người vô tội trong đó có các nhà tu hành, sinh viên, học sinh, những người buôn bán và cả những công chức nghỉ phép ở nhà ăn Tết với vợ con. Họ đã chấp hành nghiêm chỉnh chính sách 12 điểm của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tự động trình diện học tập tại địa phương rồi họ bị đem đi thủ tiêu, chôn sống, giết tập thể hoặc mất tích không biết bị vứt xác nơi nào? Như thế mà gọi là chiến thắng được hay sao? Thật là mỉa mai. Chúng ta nhắc nhở cho mọi người “đừng quên Tết Mậu Thân”, nhắc nhở cho các thế hệ sau này đừng bao giờ tái diễn những hành động diệt chủng, dã man, tàn bạo như thế (không có một lý lẽ nào có thể giải thích, bênh vực, biện hộ cho hành động dã man của Cộng Sản trong Tết Mậu Thân...)

Mai Ly: Xin Giáo Sư cho biết Tình hình Huế và Thừa Thiên trước Tết Mậu Thân 1968?
GS Nguyễn Lý-Tưởng: Mấy tháng trước Tết Mậu Thân, tình hình ở tỉnh Thừa Thiên có vẻ sôi động. Trong thời gian vận động bầu cử Dân Biểu hạ Nghị Viện nhiệm kỳ 1967-1971, tháng 9 và tháng 10, 1967, tôi đã đi nhiều nơi trong tỉnh, qua khắp các quận, tiếp xúc với nhiềum anh em nhờ vận động đồng bào ủng hộ cho tôi trong cuộc bầu cử. Nhờ vậy, tôi mới có dịp tìm hiểu về tình hình quân sự ở đây. Tôi nghe anh em nhắc đến một số tên Việt Cộng xuất hiện ở vùng này, vùng khác.
Tôi có đem chuyện đó nói lại với một số Quận Trưởng tôi quen và nhất là thảo luận với hai ông Nguyễn Minh Truật (phụ trách An Ninh Quân Đội tại Khu 11 Chiến Thuật ở Huế) và ông Đoàn Công Lập (Trưởng Ty Cảnh Sát Thừa Thiên). Căn cứ vào sự xuất hiện của một số cán bộ, bộ đội VC, các cơ quan chuyên môn về an ninh tình báo có thể biết tên các đơn vị VC xuất hiện.
Tại quận Phú Lộc, phía Nam tỉnh Thừa Thiên, Việt Cộng xuất hiện quấy phá nhiều nơi, thỉnh thoảng pháo kích vào các đồn, căn cứ của quân đội VNCH trogn quận, đánh các trụ sở xã,v.v Sư Đoàn 1 Bộ Binh do Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ huy đã điều động chiến đoàn Dù của Thiếu tá Đào Văn Hùng mở cuộc hành quân trong vùng Phú Lộc nhưng vì Việt Cộng khéo dấu quân nên không phát hiện được gì. Trong lúc đó, tin tình báo cho biết khu rừng thuộc quận Hương Trà (bắc Thừa Thiên) xuất hiện nhiều điện đài. Sư Đoàn 1 cũng cho hành quân vùng sông Bồ, nhưng cũng không có đụng độ. Tuy nhiên trong các cuộc hành quân trong vùng này quân đội ta đã bắt được một số súng ống và dụng cụ giải phẫu chôn giấu của Việt Cộng. Những dụng cụ này hoàn toàn mới.
Ngoài ra còn bắt được những mô hình để nghiên cứu hành quân trong đó VC đã phác họa địa thế gồm thành luỹ, hào sâu và chuẩn bị thang leo vô thành. Các dụng cụ y khoa đó, theo nhận xét của bên quân y thì có thể phục vụ cho cấp quân đoàn. Do những dữ kiện đó, nhiều người nghĩ rằng Việt Cộng có thể đánh Huế. Nhưng Tứơng Ngô Quang Trưởng thì nhận định rằng VC có thể đánh quận Hương Trà hoặc đánh vào một vị trí quân sự nào đó thuộc bắc Thừa Thiên. Tường Trưởng không ứơc tính rằng VC có thể đánh Huế.
Trước Tết Mậu Thân, Sư đoàn 101 của Hoa Kỳ hành quân bắt được một chuẩn úy VC, y khai đang thực tập đánh Huế. Tin Phòng Nhì và An Ninh Quân Đội cũng cho biết VC có thể đánh Huế. Hai ngày trứơc Tết, Trưởng Ty Cảnh sát Thừa Thiên là Đoàn Công Lập báo cáo có đặc công VC xâm nhập vào thành phố trong dịp Tết.

Mai Ly: Thưa Giáo Sư, theo như lời Giáo Sư vừa cho biết thì phía chính quyền VNCH tại Huế và Thừa Thiên cũng như Quân Đoàn I tại Đà Nẵng ...đã có những tin tức về hoạt động của Việt cộng chung quanh Huế. Tại sao các cấp chỉ huy quân sự và hành chánh không có kế hoặch đối phối với địch?
GS Nguyễn Lý-Tưởng: Khi bày tỏ sự lo lắng của cá nhân tôi và một số người rằng VC có thể đánh Huế vào dịp Tết Mậu Thân, Trung Tứơng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh vùng I Chiến Thuật kiêm Đại Biểu Chính Phủ tại Huế (trứơc Tết Mậu Thân một hôm) đã cho tôi biết Quân Đoàn có tăng cường phòng thủ Huế hai tiểu đoàn lính nhảy dù thiện chiến. Hai đơn vị này đã được Tướng Ngô Quang Trưởng bố trí ở quận Quảng Điền cách Huế 17 cây số về phía Bắc và phía phi trường Phù Bài cách Huế 17 cây số về phía Nam. Do đó, khi VC tấn công vào thị xã Huế thì hai dơn vị này đều ở ngoài thành phố.
Khoảng 20 tháng 12 năm 1967, trước lễ Giáng Sinh mấy hôm, VC đã tấn công vào xã Thủy Phước (làng Công Giáo Phủ Cam) thuộc quận Hương Thuỷ bên cạnh Thành phố Huế. Chúng xâm nhập từ nghĩa địa phía sau núi Ngự Bình và phía Tây tới (lầu Jérard). Chúng bắn B.40 vào làm một số người chết và bị thương, một số nhà dân bị cháy. Trước đó, vào mùa Xuân 1966, khi có cuộc tranh đấu của Phật Giáo chống “chính phủ Thiệu-Kỳ” xảy ra ở Huế (danh từ này do nhóm tranh đấu thường dùng) thì có một lực lượng không rõ quân số bao nhiêu, vào buổi trưa, đã bắn vào Phủ Cam cũng từ hướng này. Nhân lễ Giáng Sinh năm 1967, lúc đó tôi là Dân Biểu Hạ Nghị Viện, trở về Huế tham dự với sinh viên. Tôi đã đến Phủ Cam nghiên cứu tình hình và thăm các gia đình nạn nhân. Sau đó tôi đã gửi văn thư xin Trung tá Phan Văn Khoa, Tỉnh Trưởng Thừa Thiên trang bị cho nghĩa quân xã Thuỷ Phứơc (Phủ Cam) các loại súng lớn như đại liên, súng cối, M 79, M 72 để có hỏa lực mạnh. Tôi đã trình bày với ông Tỉnh Trưởng rằng Phủ cam rất quan trọng vì nếu VC có đánh vào Huế thì đó là một trong những con đường xâm nhập của họ từ hướng núi xuống. Nhưng ông Tỉnh Trưởng quá bận rộn với tình hình quân sự, chính trị lúc đó nên không đáp ứng đề nghị của tôi. Khi có ai đề cập đến vấn đề VC sẽ đánh Huế thì ông Tỉnh Trưởng thường cười và tỏ ra tin tưởng rằng không thể có chuyện đó được. Khi tôi nói chuyện đó với Tướng Ngô Quang Trưởng, ông trả lời rằng ông có đủ lực lượng phòng vệ và đã được Quân Đoàn tăng cường thêm hai tiểu đoàn lính nhảy dù rồi.
Xin lưu ý một điều quan trọng này: ngay tối 30 Tết, đã có một số đặc công Việt Cộng vào ở trong nhà dân và được cơ sở nằm vùng che chở. Mục tiêu chính của Việt Cộng là chiến tranh sẽ xảy ra từ trong thành phố, ngay trong thành nội (nghĩa là từ trong đánh ra chứ không phải từ ngoài đánh vào) nhưng Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh thì phòng thủ xa nghĩa là cho 2 tiểu đoàn lính Dù bố trí cách Huê 15 cây số phía Bắc cũng như phía Nam. Do đó, khi bọn nằm vùng và bọn đặc công giết lính gác, mở cửa thành dẫn Việt Cộng vào thì lực lượng hùng hậu của ta đều ở bên ngoài Huế. Thành Huế vốn rất kiên cố nên rất khó để giải tỏa đánh bật quân Bắc Việt ra khỏi nơi đó. Ngoài ra vì thời tiết hơn mười ngày đầu rất xấu, máy bay hoạt đông không có hiệu quả...

Mai Ly: Thưa Giáo Sư, ngay khi Việt Cộng nổ súng, GS đang ở nơi nào mà không bị chúng bắt giết?
GS Nguyễn Lý-Tưởng: Sáng 30 Tết, tôi đến Tòa Đại Biểu Chính Phủ Trung Nguyên Trung Phần (bên bờ sông Hương, Huế) để chúc Tết Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm và các cấp chính quyền có mặt tại chỗ đó. Sau đó, tôi được ông Tỉnh Trưởng Phan Văn Khoa cho mượn xe để đi thăm và chúc Tết Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, Chánh đại diện Phật Giáo miền Vạn Hạnh, ở tại chùa Thiên Mụ Huế. Trước Tết, tôi đã gặp và nói chuyện với Thượng Tọa Thích Đôn Hậu trên máy bay từ Sài Gòn ra Huế, gần 3 tiếng đồng hồ. Sau đó, Thượng Tọa mời tôi đến thăm chùa vào dịp tất niên. Tôi là người thích nghiên cứu về văn hoá lịch sử nên những cơ hội may được tiếp xúc với các vị cao tăng như Thượng Tọa là điều tôi rất lấy làm vinh hạnh. Tất nhiên, trong dịp trước Tết, tôi cũng có đi thăm Đức Tổng Giám Mục Philippe Nguyễn Kim Điền tại Tòa Giám Mục Huế vì Công Giáo và Phật Giáo là hai tôn giáo lớn tại Huế, đã có nhiều tín đổ bỏ phiếu ủng hộ cho tôi làm Dân Biểu Hạ Nghị Viện nhiệm kỳ 1967-1971.
Rời chùa Thiên Mụ, tôi trở về nhà thu xếp đồ đạc và cùng người cháu đi Quảng Trị thăm bà mẹ của tôi hiện còn sống ở quê nhà, cách tỉnh lỵ Quảng Trị chừng 12 cây số, thuộc xã Triệu Thuận, quận Triệu Phong. Chúng tôi di chuyển bằng xe 2 bánh hiệu Suzuki của Nhật. Trước khi ra khỏi nhà, tôi đã cất hết giấy tờ, chỉ mang trong người thẻ sinh viên của Đại Học Sài Gòn mà thôi. Tôi thường làm như vậy đề phòng có chuyện bất trắc giữa đường. Tôi không bao giờ mang theo thẻ Dân Biểu khi đi về miền quê. Ý nghĩ VC sẽ tấn công vào dịp Tết cứ đeo đuổi tôi mãi trên đường đi. Tôi thật không yên tâm về tình hình và cảm thấy như ở đâu cũng có VC đang trà trộn trong dân chúng hay được che chở trong các gia đình trước đây theo phe tranh đấu chống chính quyền quốc gia. Tôi nghĩ rằng VC sẽ rất thuận lợi khi móc nối được những thành phần này.

Mai Ly: Giáo sư đã biết tình hình như vậy, tại sao dám về nhà quê ăn Tết. Tình hình an ninh ở làng, nơi mẹ của GS đang ở có được an ninh hay không?
GS Nguyễn Lý-Tưởng: Thời gian là sinh viên ở Huế, tôi nay ở chỗ này, mai ở chỗ kia, ăn cơm tháng hoặc "cơm hàng cháo chợ" không có địa chỉ nhất định. Sau khi đắc cử Dân Biểu, tôi vào làm việc tại Quốc Hội (Sài Gòn) nên không thuê nhà như trước nữa. Vùng quê nơi mẹ tôi ở là một vùng toàn dân theo đạo Công giáo, không có cơ sở của Cộng Sản nằm vùng, tôi về đó, ở lại ban đêm rất an toàn. Tết Mậu Thân, 1968, Việt Công từ miền quê kéo hết vào thành phố Huế, tại Quảng Trị cũng vậy, trong xã Triệu Thuân quê tôi, làng nào cũng có võ trang tự vệ (gọi là Nghĩa Quân)... Ra tới Quảng Trị, tôi ghé vào thăm ông Hoàng Xuân Tửu, cựu Tỉnh Trưởng và hiện là Nghị Sĩ, Phó Chủ Tịch Thượng Nghị Viện. Ông Tửu là một người hoạt động cách mạng, hoạt động chính trị, đã từng tổ chức chiến khu và có biệt tài về quân sự và tổ chức tình báo nhân dân. Ông cho tôi biết, trong vòng một tuần nay, ông nhận được nhiều tin tức của các anh em cơ sở Đại Việt Cách Mạng tại tỉnh Quảng Trị cho biết có sự xuất hiện của nhiều đơn vị VC ở trong tỉnh và ước đoán hướng tiến quân của chúng là thị xã Quảng trị. Từ 1966, sau khi ông Tửu thôi làm Tỉnh Trưởng Quảng Trị để vào Sài Gòn thì đã mấy lần VC tấn công vào thị xã, phá nhà lao giải vây cho đồng bọn. Do đó, việc ước tính VC có thể tấn công vào thị xã trong dịp Tết không phải là chuyện vô lý. Ông Hoàng Xuân Tửu cũng cho biết ngay lúc đó, ông sẽ đi gặp Đại Tá Nguyễn Ấm, đương kim Tỉnh Trưởng Quảng Trị để thảo luận kế hoạch phòng thủ thị xã.
Chính quyền tỉnh Quảng Trị ra lệnh cấm trại 100% vào đêm giao thừa và bố trí các góc đường phố, các cao ốc đều có cảnh sát trang bị súng tiểu liên và lựu đạn. Những vị trí quân sự thường ngày đều thay đổi, cho binh sĩ dời địa điểm khỏi chỗ cũ và mai phục ở chỗ khác sẵn sàng chờ địch đến.
Sáng mùng Một Tết, chúng tôi được tin Việt Cộng tấn công vào thị xã Quảng Trị sau giờ giao thừa và chúng đã thảm bại vì khác với Huế, Quảng Trị có đề phòng trước, ra lệnh giới nghiêm... Chiều mùng Một Tết, thị xã Quảng Trị diễn binh mừng chiến thắng, lúc đó mới cho phép dân đốt pháo... Tối mùng Một Tết, Việt Cộng xâm nhập vào làng tôi để thăm dò, chúng đã nổ súng, bên ta không có ai chết. Một người bên ta bắn trả, một tên đặc công Việt Cộng chết. Chúng âm thầm rút lui, đem xác đồng bọn chôn vội ở ngoài cánh đồng. Lúc đó tôi vẫn ở trong nhà mẹ tôi, nghe động, tôi và mấy anh em khác có võ trang, ra nằm dưới ao tre ngoài vườn. Sáng hôm sau, tôi chạy xe Honda hai bánh lên Quảng Trị.
Tôi được ông Tỉnh Trưởng cho biết có công điện của Quốc Hội yêu cầu Quân Đoàn I và tỉnh liên lạc mời các Dân Biểu về họp khẩn cấp. Ngày mùng Hai Tết, qua điện thoại, tôi và ông Hoàng Xuân Tửu đã nói chuyện với Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm tại Đà Nẵng, được biết VC đã chiếm Huế, Quân Đoàn chỉ liên lạc được với Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, không có tin tức về Trung Tá Phan Văn Khoa, Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, có lẽ ông đã bị VC bắt hay đang trốn tránh.
Tôi ngủ lại tại nhà bà con ở thị xã Quảng Trị, sáng hôm sau, mùng Ba Tết, có xe hộ tống phái đoàn Dân Biểu, Nghị Sĩ gồm có Nghị Sĩ Hoàng Xuân Tửu, Dân Biểu Nguyễn Văn Triển, Dân Biểu Trương Đình Tư và tôi, ra phi trường ái tử, lên máy bay nhỏ của Mỹ vào Đà Nẵng gặp Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm

Mai Ly: Thưa Giáo Sư, xin GS cho biết, bằng cách nào, GS đã liên lạc được với Huế trong những ngày đầu tiên khi Việt Cộng chiếm được thành phố Huế?
GS Nguyễn Lý-Tưởng: Máy bay cất cánh từ phi trường Ái Tử, thời tiết rất xấu, không nhìn thấy gì ở dứơi mặt đất. Đến Đà Nẵng, ở lại một đêm tại nhà Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, tôi và ông Hoàng Xuân Tửu được Trung Tướng Lãm cho biết tình hình hành quân, những đơn vị còn chiến đấu chưa bị chiếm. Qua điện đài của Bộ Tư lệnh Quân Đoàn, tôi nghe tiếng của Tướng Ngô Quang Trưởng xin rút khỏi Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 tại Mang Cá (Thành Nội, Huế). Nhưng Trung Tướng Lãm trả lời:“Anh cứ ở đó, chờ đợi tôi giải tỏa, sau lưng anh có thằng Đệ (Thiếu Tá Nguyễn Hữu Đệ, Quận Trưởng Hương Trà) và phía bao Vinh có Hải Quân Mỹ, ở Quảng Trị quân ta chiến thắng, sẽ có tiếp viện vào, quân Mỹ ở Phù Bài và quân đội Việt Nam ở Hương Thuỷ, Phú Lộc đang tiến chiếm phía Nam thành phố Huế ở Đà Nẵng, chúng tôi đánh bật tụi nó ra rồi. Quân ta làm chủ tình hình” (năm 1995, qua Mỹ, tôi đã gặp lại một số nhân chứng vụ Mậu Thân hiện còn sống chỉ trừ ông Hoàng Xuân Tửu đã chết trong trại tù năm 1979 mà thôi).
Tại Đà Nẵng, tôi được ông Đỗ Duy Huỳnh, Trưởng Ty Thông Tin hướng dẫn đến đài Truyền hình của quân đội Mỹ ở núi Sơn Chà để trực tiếp kêu gọi đồng bào tổ chức cứu trợ cho Huế. Lúc đó, tôi được tin đồng bào đang chạy về khu nhà thờ Phù Lương gần Phù Bài lên đến 50.000 người. Tôi cũng được ông Võ Lương, Giám Đốc Cảnh Sát Vùng I ở Đà Nẵng dùng máy liên lạc cho tôi nói chuyện với ông Đoàn Công Lập, Trưởng Ty Cảnh Sát Huế để hỏi thăm tin tức, tình hình ở Huế. Qua đó, tôi biết được một số bạn bè ở Huế còn sống hay đã bị bắt, bị giết. Xin nói rõ, trong Tết Mậu Thân, Ty Cảnh sát Huế, Tiểu khu Thừa Thiên, Đài Phát thanh Huế không bị Việt Cộng chiếm.

Mai Ly: Theo lời Giáo Sư kể lại, thời gian xảy ra biến cố Tết Mậu Thân ở Huế, chỉ trong vòng 4, 5 ngày (từ 30 Tết đến mùng 5 Tết) Giáo Sư đã có mặt tại Quảng Trị, Đà Nẵng, Nha Trang, Sài Gòn... Như vậy, Giáo Sư đã biết được tình hình chiến sự tại nhiều nơi từ Quảng Trị đến Sài Gòn?
GS Nguyễn Lý-Tưởng: Thưa Cô, đúng như vậy, tôi là nhà văn, nhà báo mà được đi qua nhiều địa phương, nhiều thánh phố, thị xã từ Quảng Trị vào đến Sài Gòn chỉ trong vòng 4, 5 hôm, được nghe, được thấy, được biết nhiều tin tức... Tôi cho rằng mỗi người đều có số mạng, và qua sự an bài của Thiên Chúa, Thượng Đế, ông Trời, tôi đã trở thành nhân chứng trong Tết Mậu Thân.

Mai Ly: Vậy với tư cách là nhân chứng về Tết Mậu Thân, xin GS cho thính giả của đài biết thêm về tình hình tết Mậu Thân từ Quảng Trị đến Sài Gòn?...
GS Nguyễn Lý-Tưởng: Ngày 3 Tết Mậu Thân, tôi ở lại nhà Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, sáng hôm sau, chúng tôi lại lên máy bay đi Nha Trang vì phải đón các Dân Biểu ở đó. Tại Nha Trang cũng vừa xảy ra một cuộc giao tranh trong thành phố và quân ta cũng đã đánh bật địch quân ra khỏi thành phố ngay trong vòng một hai hôm. Chúng tôi cũng được tin ở Quảng Ngãi, VC bị thảm bại và tổn thất rất nặng. Các nơi đều báo tin chiến thắng, chỉ có Huế là trầm trọng nhất.

Mai Ly: Thưa Giáo Sư, xin GS cho biết tình hình của Thành phố Sài Gòn, Thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa lúc đó ra sao?
GS Nguyễn Lý-Tưởng: Máy bay đến phi trường Tân Sơn Nhất Sài Gòn vào ngày 5 Tết, toàn thành phố đang giới nghiêm, chúng tôi được Cảnh Sát Dã Chiến hộ tống về thẳng Quốc Hội, ở lại đó làm việc liền. Một số Dân Biểu không về họp được vì bị kẹt ở địa phương, có người đã bị VC bắt như một vị Dân Biểu gốc thiểu số ở Ban Mê Thuột. Để đối phó với tình hình, Quốc Hội phải thông qua Luật Ngân Sách do Hành Pháp chuyển qua để Tổng Thống và Chính Phủ có thể mượn Ngân Hàng trước, có tiền trả lương cho quân nhân, công chức, cán bộ và chi tiêu khẩn cấp. Xe cộ di chuyển trong thủ đô Sài Gòn phải có giấy phép đặc biệt, phải dán trước kính xe. Nhiều khu vực trong thành phố như Chợ Lớn, vòng đai Sài Gòn, Gia Định, hai bên đang còn đánh nhau. Tôi cũng được Quốc Hội cấp cho một giấy "được phép đi lại trong giờ giới nghiêm". Nơi nào Cảnh sát và Quân Đội VNCH kiểm soát thì dân chúng vẫn sinh hoạt bình thường, quán ăn, quán cà phê, quán giải khát vẫn có khách ra vào, chợ vẫn buôn bán.

Mai Ly: Giáo Sư đã vào họp Quốc Hội tại Sài Gòn, tại sao GS còn trở ra Huế nữa?
GS Nguyễn Lý-Tưởng: Nghe tin phía Nam thành phố Huế đã được giải tỏa, chúng tôi vận động một phái đoàn Quốc Hội và Chính Phủ ra thăm và cứu trợ đồng bào. Phái đoàn Trung Ương ra Huế gồm có Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ, Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Dân Biểu Nguyễn Bá Cẩn, Phó Chủ Tịch Hạ Nghị Viện, Dân Biểu Phan Huy Đức, Dân Biểu Nguyễn Lý-Tưởng và một số Phụ Tá của Phó Tổng Thống,v.v Máy bay ra Đà Nẵng, từ đó dùng trực thăng của Quân Đoàn I ra Phù Bài.
Phó Tổng Thống và phái đoàn vào phòng thuyết trình của căn cứ Mỹ ở phi trường nghe thuyết trình. Lúc bấy giờ quân đội VNCH và Hoa Kỳ đã giải tỏa được phía Nam sông Hương và chiếm các phố Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu nhưng trong Thành Nội và vùng Gia Hội, Phủ Cam vẫn còn bị VC chiếm. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn vẫn còn đóng ở Mang Cá. Tướng Ngô Quang Trưởng phải dùng máy bay trực thăng đi qua ngã Bao Vinh để về Phù Bài gặp phái đoàn Trung Ương.
Phái đoàn từ Huế đến có Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng, Trung Tá Phan Văn Khoa, Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, Thiếu Tá Lê Thiện Phước, Trưởng Phòng Nhì Sư Đoàn,v.v (Trung Tá Khoa, Tỉnh Trưởng trốn ở trong bệnh viện Huế, khi quân đội ta tiến vào, ông bèn chạy qua Tiểu Khu).
Nghe thuyết trình xong, Phó Tổng Thống và Phái Đoàn Sài Gòn đến nhà thờ Phù Lương, nơi đó có khoảng trên 50.000 người tỵ nạn từ Huế mới chạy đến. Linh Mục Nguyễn Văn Trinh, Chánh xứ Phù Lương, đã đón tiếp dân tị nạn và cho họ vào tạm trú trong trường học và trong nhà giáo dân quanh nhà thờ. Thực phẩm và thuốc men thiếu, quán xá không có đủ để bán cho dân và giá cả tăng vụt gấp mười, gấp trăm lần ngày thường. Trong khi chạy loạn, một chiếc xe Honda 2 bánh chỉ đổi được một bao gạo. Tôi hướng dẫn Phó Tổng Thống đi thăm dân và phát quà tượng trưng cho họ.
Thấy phái đoàn Trung Ương đến, dân chúng khóc sướt mướt. Từng ngàn người đứng chen chúc nhau trong mưa lạnh, tranh nhau nhận gạo, tiền và thực phẩm. Quân đội Mỹ và Việt Nam chở thực phẩm, đồ hộp đến chất thành đống như núi, phát cấp tốc cho đồng bào.
Phó Tổng Thống và phái đoàn trở về Đà Nẵng cùng Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, riêng tôi theo Trung Tá Phan Văn Khoa lên Huế. Tướng Trưởng trở lại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn ở trong Thành Nội. Máy bay chở tôi và Trung Tá Khoa xuống bãi đáp trước Trường Đại Học Sư Phạm Huế, cạnh bờ phía Nam sông Hương. Thấy máy bay sắp đáp xuống, Việt Cộng bên Thành Nội bắn qua. Thiếu tá Lê Thiện Phước nhanh tay đẩy tôi nhảy xuống một cái hố cá nhân để núp đạn. Tôi và Trung Tá Phan Văn Khoa chạy vào Tiểu Khu bên cạnh Trường Đại Học Sư Phạm. Một cảnh tượng xảy ra, tôi thấy Giáo Sư Phạm Đình Bách (em Nghị sĩ Phạm Đình Ái) đang đứng gần đó thì một trái đạn của VC bắn qua, tiếng nổ chát chúa và GS Phạm Đình Bách ngã xuống. Ông bị thương và được trực thăng chở vào Đà Nẵng thì chết.
Tôi vào Tiểu Khu Thừa Thiên, gặp Đại Tá Cao Khắc Nhật, Trưởng phòng hành quân của Quân Đoàn I tăng cường ra Huế, Thiếu Tá Nguyễn Giang, Trưởng phòng hành quân của Tiểu Khu và một số sĩ quan đang làm việc, theo dõi tình hình. Tôi cũng tham gia ý kiến với họ. Sau đó, tôi qua Ty Cảnh Sát, tại đây, ông Trưởng Ty là Đoàn Công Lập thuyết trình cho tôi biết tình hình trong tỉnh và thuật lại các trận đánh phía Nam thành phố trong những ngày qua. Tôi cũng gặp ông Nguyễn Văn Khuyên, Phó Ty Chiêu Hồi Thừa Thiên. Lúc đó, Trưởng Ty Chiêu Hồi mới chết ở trong Thành Nội (nơi đặt văn phòng Ty Chiêu Hồi) nên ông Khuyên được lên làm Quyền Trưởng Ty. Ông chở tôi đi từ Huế về quận Hương Thủy bằng xe Honda 2 bánh, trên đường đi, tôi gặp Dân Biểu Nguyễn Ngọc Ngghĩa trong đám người chạy loạn. Tôi đến những nơi đồng bào đang trú ngụ như trường Quốc Học, Đồng Khánh, nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, trường Thiên Hựu, Tiểu Chủng Viện, trường Jeanne d’Arc,v.v để thăm hỏi và tìm người quen. Trong lúc đó, khu vực Phủ Cam, khu vực Gia Hội, Nam Giao, Vỹ Dạ, Đập Đá, Thành Nội và các vùng quê đều bị Việt Cộng chiếm. Cũng có nơi Việt Cộng tập trung đánh Huế nên nhiều vùng không có du kích VC hoạt động.

Mai Ly: Xin Giáo Sư cho biết diễn tiến trận đánh trong Tết Mậu Thân tại Huế?
GS Nguyễn Lý-Tưởng: Việt Cộng xâm nhập thành phố qua sự móc nối với những thành phần chống chính phủ, thành phần thiên Cộng trong sinh viên học sinh và cơ sở nằm vùng của chúng. Đa số bị lừa dối bằng luận điệu tuyên truyền: chống Mỹ, giải phóng, hoà bình, hoà hợp hoà giải dân tộc, phục hồi địa vị cho Phật Giáo thời Lý, thời Trần,v.v Lợi dụng lệnh hưu chiến và Tết nguyên đán Mậu Thân, dân chúng vui chơi, nghỉ ngơi trong ba ngày Tết, người đi chợ, đi mua sắm, đi lễ đêm giao thừa v.v... đặc công VC đã xâm nhập và được che dấu trong dân chúng.
Theo ước tính của Việt nam Cộng Hoà thì lực lượng VC đánh vào Huế trong Tết Mậu Thân có khoảng 16 tiểu đoàn. Ước tính này dựa vào lời khai của tù binh VC mà bên chúng ta bắt được, mỗi người lính thuộc đơn vị nào, tiểu đoàn nào. Về phía Mỹ, họ cũng căn cứ trên lời khai của tù binh và cho rằng có đến 21 tiểu đoàn VC mở cuộc tổng tấn công Huế trong Tết mậu Thân 1968. Lực lượng đó có Trung đoàn 6 Quân Khu Trị Thiên, Tiểu Đoàn 804 và 802 cộng với Lực lượng đặc công nội thành. Người nổi tiếng trong Bộ Chỉ Huy này thường gọi là Giáo Kế.
Lực lượng này từ phía tả ngạn sông Hương (phía làng la Chử) đi xúông. Phía hữu ngạn sông Hương có Trung Đoàn 5 do Thân Trọng Một chỉ huy. Lực lượng này đánh đồn Nam Giao, Macv (Cố vấn Mỹ). Sau đó có sự tăng cường của Sư Đoàn 324 B từ Bắc Việt điều động vào. Tổng Chỉ Huy là Tướng Hoàng Sâm (Tư Lệnh Quân Khu Trị Thiên), Chính Ủy là Lê Chưởng. Theo hồi ký của Văn Tiến Dũng thì Hoàng Sâm đã bị tử trận và Trần Văn Quang lên thay (Bùi Tín cho biết Hoàng Sâm chết tại bệnh viện vì bị bệnh ung thư). Có lẽ Hoàng Sâm đã chết trong trận đụng độ lớn với quân Mỹ tại La Chử sau khi giải tỏa Huế.
Đêm giao thừa 30 tháng Chạp Đinh Mùi tức 29/01/1968 VC bắt đầu xâm nhập, mùng một Tết thì chúng đã vào thành phố rồi, đồng bào đi lễ tết đã gặp VC. Lúc 3 giờ 40 sáng, VC tấn công khắp nơi trong thành phố. (Có tài liệu cho biết rằng lúc đầu có lệnh tấn công sau giờ giao thừa Hà Nội, nhưng sau đó, Tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh hoãn lại nên có những nơi không nhận được lệnh này, do đó một số địa phương đã được lệnh khai hỏa sớm hơn như ở Quảng Trị, VC đã tấn công ngay sau giờ giao thừa ).
Những nơi VC chiếm được là những nơi không có quân đội trấn đóng như Toà Đại Biểu Chính Phủ, Toà Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên, Toà Án, các Ty, Sở,v.v Các nơi khác như Toà Hành Chánh Quận Nhất, Quận Nhì, Quận Ba trong thành phố chỉ có vài cảnh sát viên gác cổng. Trung Tâm Cải Huấn Thừa Thiên (tức lao xá Thừa Phủ), đơn vị Cảnh Sát bảo vệ tại đây đã chiến đấu rất hăng nhưng không có tiếp viện, hết đạn, hết lựu đạn nên phải bỏ chạy. VC đã giải thoát cho đồng bọn bị giam cũng như tù hình sự. Đại đội Trinh Sát đóng ở Thành Nội, đa số nhân viên, binh sĩ đi công tác ở ngoài chỉ còn lại mấy ngừơi giữ nhà, đã bị VC chiếm.
Những nơi không bị chiếm, vì có lực lượng quân đội hay Cảnh Sát Dã Chiến trấn giữ. Đó là:
- Đồn Trường Bia (Ngoẹo Giàng Xay) gần núi Ngự Bình, An Cựu.
- Đồn Nam Giao (Tiểu Đoàn 1 Công Binh). Đồn này bị bao vây gần một tháng, anh em chịu đói, chiến đấu không đầu hàng, nhờ tiểu đoàn 12 pháo binh ở Phù Bài yểm trợ, bắn phá khu vực chung quanh đồn nên VC không chiếm đồn được.
- Đài Phát Thanh Huế (gần cầu Trường Tiền, do một Trung Đội Cảnh Sát Dã Chiến bảo vệ).
- Tiểu Khu Thừa Thiên ở đường Duy Tân, Huế, gần cầu Trường Tiền.
- Macv ở đường Duy Tân Huế, gần Tiểu Khu có lính Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ canh gác.
- Ty Cảnh sát Thừa Thiên ở sau lưng Tiểu Khu do lực lượng Cảnh sát chiến đấu. Ba đơn vị: Tiểu Khu, Macv, Ty Cảnh Sát nằm trong một khu vực, tựa lưng vào nhau, yểm trợ cho nhau, đẩy lui được nhiều đợt tấn công của VC nên chúng không chiếm được.
Khi nghe tin VC xuất hiện, xe cơ giới của Tiểu Khu do Thiếu Tá Bào chỉ huy, chạy qua cầu Trường Tiền thì bị VC bắn hạ. Thiếu tá Bào chết tại trận, sau đó cầu Trường Tiền bị VC giựt sập để ngăn cản không cho quân ta tiếp viện sang nên quân Mỹ và Việt Nam phải đổ bộ bằng tàu thủy.
- Đại đội Hắc báo giữ sân bay Thành Nội và bệnh viện Nguyễn Tri Phương đã chiến đấu anh dũng và không bị VC chiếm.
- Đại đội I Quân Cụ đóng ở trong Thành Nội Huế đã chiến đấu gần một tháng trời, trong đồn chỉ có một Trung Đội, số khác ở bên ngoài, về nhà ăn Tết, nhưng tinh thần bất khuất của anh em đã thắng, VC không thể đánh chiếm đồn.
- Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 ở trong Thành Nội (Mang Cá) có khoảng vài trăm người vẫn giữ vững được vị trí trong suốt thời gian VC chiếm Thành Nội.
- Khu Bao Vinh phía sau lưng Mang cá, bên ngoài thành và Quận Hương Trà, vẫn giữ vững trong súôt thời gian VC chiếm Huế, nhờ vậy Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn mới tồn tại được.
- Quận Hương Trà do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Đệ làm Quận Trưởng, Đại Uý Nguyễn Văn Phiếm làm Chi Khu Phó vẫn giữ vững và bảo vệ an ninh cho khu vực các xã chung quanh quận.
- Quận Hương Thuỷ không bị tấn công gì vì gần phi trường Phù Bài, nơi có căn cứ Mỹ, Đại Úy Nguyễn Văn Tăng đã đem quân tấn công VC ở làng Phủ Cam và giải vây cho Quận Hữu Ngạn, vùng An Cựu Huế.
- Tiểu Đoàn 12 Pháo Binh do Đại Úy Văn Tuy ở Phù Bài đã giữ vững đồn và bắn yểm trợ cho các đồn chung quanh.
- Đồn Văn Thánh, phía trên chùa Thiên Mụ, chung quanh bị VC bao vây, vẫn giữ được đồn cho đến ngày giải tỏa.
- Các Quận Nam Hoà (ở miền núi), Hương Điền, Phong Điền, Quảng Điền, Phú Lộc, Vinh Lộc, Hương Thủy, Hương Trà, Phú Vang, Phú Thứ vẫn giữ vững, không bị mất quận nào.
- Vùng Bao Vinh nhờ lực lượng Hải Quân Mỹ từ Thuận An lên yểm trợ cho căn cứ Hải Quân ở đây nên không bị chiếm.
- Tại Đập Đá (đường đi về Vỹ Dạ) có Hải Quân Giang Đoàn 32 Xung Phong nên không bị chiếm.
Các lực lượng giải vây cho Huế
Báo Ngừơi Việt ra ngày 25/2/1997 có bài “Cuộc Hành Quân Tái Chiếm Huế sau Tết Mậu Thân” của Nguyễn Hữu Nguyên. Bài này đã dựa vào tài liệu của Mỹ rất nhiều nên người đọc chỉ thấy Mỹ đánh nhau với VC mà không thấy được sự chiến đấu và vai trò của Quân Lực VNCH cùng các lực lượng Nghĩa Quân, Địa Phương Quân, Cảnh Sát, Xây Dựng Nông Thôn, v.v trong việc giải tỏa Huế.
Vì thế, chúng tôi xin đóng góp thêm một số chi tiết về phía Việt Nam.
Hiện nay, các cấp chỉ huy ở Huế thời gian xảy ra biến cố Mậu Thân vẫn còn nhiều ở Mỹ, nhất là ở Cali, chúng tôi ước mong qúy vị đó sẽ đóng góp thêm.
- Trung Đoàn 3 thuộc Sư Đoàn 1 do Trung Tá Phan Bá Hòa chỉ huy, đóng ở cây số 17, phía Bắc Huế là lực lượng có công trong việc đánh đuổi VC ra khỏi Huế. Tiểu Đoàn 2/3 do Thiếu Tá Phạm Văn Đính từ Văn Thánh, Tiểu Đoàn 3/3 do Thiếu Tá Phan Ngọc Lương và Tiểu Đoàn 4/3 do Thiếu Tá Nguyễn văn Lữ. Phan Ngọc Lương và Phạm Văn Đính đã tiến vào Thánh Nội, hạ lá cờ của MTGPMN (Việt Cộng) xúông, và treo lá cờ VNCH lên vào ngày 25/2/1968. Hình ảnh của 2 người này đã được sách báo thời đó đăng tải. Năm 1972, VC chiếm Quảng trị, Phạm văn Đính ở căn cứ Đông Hà, không có tiếp viện, đã đầu hàng. Phan Ngọc Lương sau này trở thành thương phế binh, sau 1975 tổ chức lực lượng đánh phá VC, bị bắt và bị xử tử tại Chín Hầm, Huế cùng các đồng chí trong đảng Đại Việt Cách Mạng (vào năm Mậu NGọ, 1978). Nguyễn Văn Lữ sau này lên tới Đại Tá Trung Đoàn Trưởng, hiện ở Đan Mạch.
- Trung Đoàn 2 thuộc Sư Đoàn 1 do Trung Tá Vũ Văn Giai từ Quảng Trị bay trực thăng vào Huế, gọi máy liên lạc với Tứơng Trưởng xin lệnh đem quân vào tiếp viện.
- Chiến Đoàn 1 Dù do Thiếu tá Lê ở Quảng Trị kéo vào giải vây cho Huế, dùng trực thăng vận nhảy xuống chiếm cửa Đông Ba. Trong trận này, quân Dù của ta thiệt hại nặng, phải về Sài Gòn bổ sung quân số, Thủy Quân Lục Chiến ra thay.
- Chi Đoàn Thiết Giáp 2/7 do Đại Úy Nguyễn Hoá bị chận ở An Hoà phải vòng qua Triều Sơn Tây mới vào được Huế.
- Thiếu Tá Hoàng Tích Thông, Chiến Đoàn Trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến được đưa từ Sài Gòn ra thay thế Chiến Đoàn 1 Dù của Thiếu Tá Lê Quang vì Chiến Đoàn Dù bị tổn thất nặng. Thuỷ Quân Lục Chiến đóng quân từ Cửa Sập (tức Cửa Già Đồ) ở góc thành gần cầu Bạch Thổ đến Cửa Hữu (cống Thủy Quan).
- Từ cống Thủy Quan đến Cửa Hữu là phạm vi trách nhiệm của Trung Đoàn 3 (Sư Đoàn 1) do Trung Tá Phan Bá Hoà và Đại Đội Hắc Báo.
- Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân của Thiếu tá Nguyễn Văn Hiệp trách nhiệm giải tỏa khu vực Gia Hội. Trong Liên Đoàn này có ba Tiểu Đoàn Trưởng danh tiếng là Thiếu Tá Võ Vàng, Thiếu Tá Nguyễn Văn Chước và Thiếu Tá Nguyễn Văn Huy.
- Có một đơn vị nhỏ, nhưng không kém phần quan trọng là đại Đội Trinh Sát thuộc Sư Đoàn 1 do Thiếu Úy Nguyễn Tri Tấn, đã có công phát hiện nhiều đơn vị của địch ở vùng Nam Giao.

Mai Ly: Theo dư luận trong mọi giới tại Việt Nam Cộng Hòa thì trong Tết Mậu Thân, Mỹ biết Việt Cộng sẽ tấn công, nhưng vẫn giữ im lặng để cho Quân lính Việt Nam Cộng Hòa đánh nhau với Việt Cộng? Nói như vậy có đúng hay không? Và nếu Mỹ có tham gia chiến đấu bên cạnh Quân Đội VNCH thì xin GS cho biết, có trận đánh nào được xem là dữ dội nhất giữa Mỹ và Việt Cộng trong Tết Mậu Thân tại Huế hay không?
GS Nguyễn Lý-Tưởng: Ai cũng biết, tại Sài Gòn cũng như tại Huế, trong hai ba ngay đầu tiên quân Mỹ không phản ứng trước sự tấn công của Việt Cộng vào các đơn vị của Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng khi Việt Cộng tấn công Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ngay trước mặt Sở Thú (Thảo Cầm Viên) đường Thống Nhất (bây giờ đổi tên là đường Lê Duẩn) thì Mỹ đã phản ứng liền. Tại Huế cũng vậy, lính Mỹ ở Phù Bài đã tiến lên Huế đánh chiếm lại Tòa Hành Chánh tỉnh Thừa Thiên đang bị Việt Cộng chiếm đóng v.v... Có một trận đánh rất quan trọng tại làng La Chử (dấu hỏi: chử là cái bến), xã Hương Chử, quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Trước Tết, Trung Tá Phan Văn Khoa, Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, hướng dẫn tôi đi thăm La Chử. Nơi đây được gọi là "ấp kiểu mẫu", dân trong làng đa số là người có học, làm công chức hoặc cán bộ trong chính quyền quốc gia. Làng này có họ Hà Thúc nổi tiếng ở Huế, nhiều người đỗ đạt, làm quan. Đây cũng là nơi sinh trưởng của ông Hà Thúc Ký, lãnh tụ đảng Đại Việt Cách Mạng nên ở đây, cơ sở của đảng này rất mạnh. Trong khi Việt Cộng chiếm đóng làng này, chúng đã bắt và giết nhiều người rất dã man, nhất là các đảng viên ĐVCM. Có một nghĩa quân và một trung đội trưởng Nghĩa quân thuộc xã Hương Chử bị Việt Cộng bắt, trốn thoát được cho biết bọn Việt Cộng ở trong làng rất đông, và có nhiều điện đài... từ đó, các cấp chỉ huy của tiểu khu Thừa Thiên nghĩ rằng có thể Bộ Chỉ huy cao cấp của Việt Cộng đang ở đây và đã báo cho Đại Tá Bowell, Cố Vấn Mỹ biết. Tướng David, Tư Lệnh Phó Sư đoàn Không Kỵ của Mỹ quyết định mở cuộc hành quân vào làng La Chử.
Lực Lượng của Mỹ tham gia hành quân gồm có Sư Đoàn I Không Kỵ, Sư Đoàn 101 Dù và 82 Dù khoảng 7 lữ đoàn. Riêng Sư Đoàn 1 Không Kỵ có 500 máy bay trực thăng từ Bồng Sơn (Bình Định) được chở ra Huế, chỉ trong vòng 3 giờ đồng hồ, quân Mỹ đã tới nơi...
Lúc đầu, Việt Cộng im lặng, không có tiếng súng phản công. Nhưng khi quân Mỹ đến gần thì hỏa lực của địch bắn ra rất mạnh, có 9 trực thăng của Mỹ bị hạ. VC và lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đánh cận chiến. Vì đây là Bộ Chỉ huy của VC nên lực lượng phòng vệ của địch quyết tử chiến, không nao núng. Từ sáng cho đến 3 giờ chiều, trực thăng của Mỹ từ Bồng Sơn ra tăng cường đổ xuống bao vây vùng núi chung quanh La Chử. Bom đạn đổ xuống làng Quế Chử (gần La Chử) để mở bãi đáp cho trực thăng chở quân đổ bộ xuống. Vùng núi này hoàn toàn bị bình địa, làng Quế Chử về sau đã bị xoá tên trên bản đồ. Quân Mỹ chết ở La Chử nhiều nhất (trên 100). Ngày 25 và 26/2/1968, sau khi giải tỏa Huế, VC mới cho lệnh rút quân. Trong hồi ký của Văn Tiến Dũng xác nhận Tướng Lê Chưởng và Hoàng Sâm chết, có lẽ đã chết trong trận này vì Bộ Chỉ huy của VC đóng ở đây.

Mai Ly: Xin Giáo Sư cho biết, thời gian quân Việt Cộng vào chiếm thành nội, phía Việt Nam Cộng Hòa có đơn vị nào còn chiến đấu chống lại chúng hay không?
GS Nguyễn Lý-Tưởng: Lực lượng chính đang cố thủ ở trong khu vực Thành Nội là Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng chỉ huy với trên hai đại đội (khoảng 300 lính)
Số anh em công chức, cán bộ và binh sĩ về phép ăn Tết với gia đình bị kẹt trong Thành Huế, nhờ có máy liên lạc của Cảnh Sát quốc gia nên đã biết được những nơi nào có quân đội của ta và họ đã chạy về hướng đó. Cảnh sát, Xây Dựng Nông Thôn, Nghĩa Quân, Công Chức, Binh Sĩ,v.v đã lập được một phòng tuyến ở khu Tây Linh, bên ngoài Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 (đồn Mang cá) để tự vệ.
Đại Đội Quân Cụ ở trong Thành Nội lúc đó có khoảng gần hai Trung đội lính (khoảng 50 đến 60 người), vẫn chiến đấu, không đầu hàng, cho đến khi được giải tỏa mà Việt Cộng không làm gì được.
Lúc đầu Sân bay Thành Nội và Quân y viện Nguyễn Tri Phương bị tấn công, có nhiều thiệt hại nhưng nhờ có Đại Đội Hắc Báo bảo vệ nên vẫn còn.
Đại Đội Võ Trang Chiêu Hồi tại Ty Chiêu Hồi (trong Thành Nội) gồm những người từ hàng ngũ VC trở về với Quốc Gia nên họ đã chiến đấu tích cực, không chịu đầu hàng. Trưởng Ty Chiêu Hồi đã bị tử trận.
Khi VC tiến vào Huế, mỗi người lính của chúng đều được cấp phát cho một bộ áo quần mới để chuẩn bị diễn hành chiến thắng. Không hiểu chúng có dụng ý gì? Phải chăng đây là một thủ đoạn lừa dối? Trong những ngày cố thủ trong Thành Nội, vì tình trạng chiến tranh, không có họp chợ, không có mua bán gì nên nhân dân cũng đói mà VC lại càng đói hơn. Chủ trương của Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn I là không được ném bom vào khu vực Đại Nội (chỗ vua ở) vì sợ phá huỷ các di tích lịch sử, nên chỉ bao vây và đánh chiếm từng vị trí một. Thành Ngoại quá kiên cố, VC “đóng chốt” trên các cửa thành, đặt súng phòng không nên việc phá các cửa thành rất khó, dùng bom hạng nặng cũng không phá sập được.
VC ở lâu trong thành, không có tiếp tế lương thực, súng đạn nên khi chúng rút lui, nhiều tên còn trốn dưới các cống nước, dưới ao, trong các bụi cây, quá đói, đã ra đầu hàng khi quân ta tiến vào thành. Nếu nằm lâu trong các nơi đó thì chúng cũng chết đói mà thôi. Đa số lính VC đều nói giọng Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An hoặc giọng Bắc. Người gốc Huế không bao nhiêu.
Khoảng ngày 9/2/1968, tôi có mặt tại Tiểu Khu Thừa Thiên (đường Duy Tân Huế) tôi có đề nghị mở cuộc hành quân áp sát vào khu Phủ Cam để cho đồng bào trong đó chạy ra thì mới có tin tức, mới biết được tình hình bên trong như thế nào. Riêng khu vực Tây Linh trong thành nội, như tôi đã nói ở phần trên, nhờ máy bộ đàm của một số nhân viên Cảnh sát đang trà trộn trong dân, báo cáo về Ty Cảnh Sát ở phía sau trường Đại học Sư phạm gần Tiểu khu... nên bên ngoài cũng biết được tình hình bên trong thành nội.


Hỏi Hoàng Phủ Ngọc Tường:

Ai là "Quân nổi dậy"?

Nguyễn Văn Lục

Nguồn DCVOnline.net, ngày 14.2.2018

Cái này để dân Huế hỏi tội ông. Ai và những ai là quân nổi dậy ở Huế? Thưa ông Hoàng Phủ Ngọc Tường?

Cách đây gần 3 năm, ngày 16/9/2015, cũng trên DCVOnline.net này, tôi đã viết một bài với nhan đề “Trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường” để cho thấy rằng: một mặt ông khẳng định ông không có mặt ở Huế trong dịp tết Mậu Thân qua bài phỏng vấn của Thụy Khuê nhân dịp ông đến Paris (“Nói chuyện với Hoảng Phủ Ngọc Tường về biến cố Mậu thân Huế”, RFI, 12 tháng 7, 1997). Nhưng năm 1982, trên đài truyền hình WGBH– TV ở Boston của Mỹ trong chương trình “Vietnam: A Television History” đoạn “Tet, 1968; Interview with Hoang Phu Ngoc Tuong” ông đã xác nhận ông có mặt ở Huế và nói như với tư cách một người đại diện chính quyền cộng sản.
Để chứng tỏ rằng, người ta không vu khống cho Hoảng Phủ Ngọc Tường, mời bạn đọc theo dõi nguyên đoạn phim 15 phút của WGBH-TV Boston phỏng vấn HPNT ngày 29 tháng 2, 1982, “Interview with Hoang Phu Ngoc Tuong, 1982” sau đây để thấy rõ ai là nạn nhân của ai?

Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời WGBH-TV Boston
Trích đoạn:
“Tôi đã đi trên những, những đường, đường hẻm mà ban đêm. Tôi tưởng là bùn, thì tôi mở ra, bấm đèn lên thì toàn là máu, lầy lội như vậy… Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra…” 5’57”- 6’14”

Cái lỗi lầm của ông là đã mạo danh hay ông nghĩ rằng muốn làm vừa lòng đảng, ông phải nói như thế ở ngôi thứ nhất, xưng tôi, như người trong cuộc để lên án Mỹ và Việt Nam Cộng hòa.
Bài viết của tôi khi ấy chỉ nhằm chứng tỏ ông nói mâu thuẫn “tiền hậu bất nhất” nếu không nói thẳng ra là ông đã nói dối. Tôi không đặt vấn đề ông giữ vai trò gì ở Huế hoặc ông đã làm gì ở Huế và không có một lời kết án ông một cách vô bằng cớ.
Thái độ của tôi đối với ông cũng như của đa số dân miền Nam, trong đó có dân Huế coi ông là người thuộc phía bên kia. Chúng tôi chống cộng sản cũng như ông chống phá miền Nam – những người Quốc gia – mà trước đó ông là một thành phần. Và đó là sự chọn lựa của ông.
Những thành phần đi theo cộng sản như ông đã dẫn đường, chứa chấp, cung cấp và nhất là làm chi điểm cho quân “giải phóng” để giết hại quân dân cán chính miền Nam. Phải gọi ông là gì cho xứng đáng đây khi các ông miệt thị gọi chúng tôi là bọn Mỹ– Ngụy? Cùng lắm có những người có sự xung động tình cảm gọi ông là thành phần “phản bội” hay “ăn cơm Quốc Gia thờ ma cộng sản”. Điều đó cũng không sai lắm đâu.
Điều đó làm tôi thắc mắc mãi. Trong đợt tổng công kích đợt hai, tháng 5, tại khu Ngã Tư Bảy Hiền. Một anh Việt cộng bị tiểu đoàn 7 nhảy dù bắt làm tù binh. Tay anh bị trói ra đằng sau. Không ai ra lệnh, môt anh lính nhảy dù đã đút cho người linh Việt cộng ăn hết một cái bánh chưng! Chuyện giết chóc tạm gác lại và trước mắt chỉ là một người lính bị thương và đang đói.
Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nghĩ gì, các bạn đọc nghĩ gì về hai cách ứng xử của đôi bên. Cảnh ấy còn gặp nhiều lần ở những nơi khác.
Cứ theo lẽ thường, như một người bạn tôi tâm sự cho biết, nếu anh ấy biết được các ông làm chỉ điểm để giết hại bố của anh ấy thì chắc hẳn, anh sẽ tìm đủ cách để giết lại kẻ đã giết hại cha mình. Chuyện ấy xem ra cũng là chuyện bình thường, có vay có trả.
Nhưng xem ra dân Huế, nhất là những người có bố mẹ anh em bị cộng sản giết hại trong dịp tết Mậu Thân mà nay để cho bọn nằm vùng ấy sống phởn phơ ở Huế thì tỏ ra người dân Huế “hiền” quá.
Đáng lẽ phải có chuyện trả thù và nếu phải có đổ máu thì giờ này ông Hoàng Phủ Ngọc Tường đang ở đâu?
Tuy nhiên, những người bênh vực ông, cũng như ông, dù biết có gian trá, không một người nào có can đảm nói thẳng, nhìn nhận ông đã nói dối. Vì thế, lập luận của họ cứ quanh co, úp mở, không thuyết phục được ai. Đã mấy chục năm có lẻ, ông vẫn cố tình che dấu sự thật để cho người đời nguyền rủa, chửi bới, lăng mạ, bôi nhọ đủ kiểu.
Cho nên, ông đã khổ sở bị bạn bè nghi ngờ, bị người đời nguyền rủa, sống trong sự nhục nhã, hiểu lầm. Và nếu có một cái được gọi là bi kịch thì bi kịch ấy do chính ông dựng lên.
Nay thì ông đã nhìn nhận mình đã nói dối. Sao ông hèn và thiếu can đảm như vậy? Nếu ngay từ đầu ông dám nói thật thì đâu đến nỗi bị người đời nguyền rủa. Ông cũng sẽ giống như Lê Văn Hảo, Thích Đôn Hậu, bà Tuần Chi, Trần Vàng Sao, chẳng ai thèm đá động tới.
Vì thế, tất cả những ai bênh vực ông đặt vấn đề như “Bi kịch đao phủ Mậu Thân”, “Bi kịch Hoàng Phủ Ngọc Tường” như của Ngô Minh. Hay như “Hội chứng chính nghĩa” hay “Bi kịch của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là bi kịch của chúng ta” trong Tiếng chim báo bão của Tiêu Dao Bảo Cự, hay Nguyễn Quang Lập, viết sau “Lời cuối cho câu chuyện quá buồn” đều rơi vào tình trạng đồng lõa gián tiếp, toa rập với Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Cộng đồng người Việt hải ngoại đã lên tiếng về trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường và tùy theo mức độ hiểu biết, mức độ hận oán đôi khi quá cực đoan, kết án nhiều khi vô bằng. Điển hình là ông Liên Thành, một cựu thiếu tá cảnh sát ở Huế. Phần lớn những lời kết án của ông Liên Thành đều thiếu bằng cớ, đặt những người như Hoàng Phủ Ngọc Tường ở một vai trò quá quan trọng mà thực sự nếu họ có vai trò gì thì chỉ là vai trò “bù nhìn”, vai trò tay sai, vai trò chỉ điểm, vai trò dẫn đường.
Trong lá thư của ông, ông tỏ vẻ khinh miệt ông Liên Thành. Điều đó, tốt hơn hết, ông nên nhìn lại tự bản thân mình đã làm được điều gì? Cái mà ông đã làm, dưới mắt tôi, ông chỉ là một tên phá hoại.
Vì Hoàng Phủ Ngọc Tường nay đã nhận lỗi, nghĩa là có tội nên những chữ dùng như Bi Kịch Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là bi kịch của chúng ta, Hội chứng chính nghĩa, Một câu chuyện quá buồn đều trở thành vô nghĩa.
Nếu có bi kịch là bi kịch của mấy người, của những kẻ đã trót theo cộng sản rồi bị lừa. Nào phải bi kịch của chúng tôi? Và làm thế nào bi kịch của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại chuyển sang bi kịch của chúng ta được? Buồn cười thật!
Những tâm trạng của Đặng Tiến, Ngô Minh, Tiêu Dao Bảo Cự thì không thể bắt người khác chia xẻ một cách ngây ngô và lố bịch như vậy.
Các ông cứ việc buồn, nhưng chúng tôi không thể chia xẻ cái buồn ấy được. Đó là việc của các ông và đừng chủ quan tưởng rằng chúng tôi cũng chia xẻ cùng tâm trạng ấy.

Nay thì ván bài đã lật ngửa! Vào lúc cuối đời – tuổi đã 81, biết mình không qua khỏi – ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, bí danh là Thuyết, đã nhận lỗi trong một lá thư đề ngày 1– 2– 2018. Nhận lỗi vì ông đã hăng hái “bảo vệ cách mạng”! Nhận lỗi vì “hành động giết oan” của quân nổi dậy.
Đối với tôi thì ông “không đủ tư cách” gì để đứng ra xin lỗi thay cho quân “nổi dậy” “giết oan”. Cái bi kịch của đời ông là do chính ông với cá tính hoang tưởng và cao ngạo, tưởng mình “ngon” khi được Hà Nội phong tước Tổng thư ký trong Liên Minh các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình bên cạnh Lê Văn Hảo và bà Tuần Chi cũng như những người khác như Thích Đôn Hậu, Nguyễn Đóa và Tôn Thất Dương Tiềm.
Có người bênh vực ông với bài viết “Cái họa của người nổi tiếng”. Thiếu gì người nổi tiếng. Cái nổi tiếng của Hoàng Phủ Ngọc Tường tuyền là tiếng xấu chứ nào có tiếng tốt.
Vì thế, tôi không nghĩ như vậy. Cái họa nổi tiếng của ông nếu có của ông là cái họa vạ miệng.
Nói cho cùng, cái tổ chức của Hoàng Phủ Ngọc Tường do cộng sản dựng lên tồn tại được bao lâu? Hai tháng? Nó cũng chỉ là một sản phẩm được Hà Nội ngụy tạo như trước đây với MTGPMN.
Cho nên, sự có mặt hay không có mặt của ông ở Huế không làm thay đổi số phận của những người dân Huế vô tội.

Trong một dịp sang Montréal, tôi không nhớ năm nào, nhưng chỉ biết là nhân dịp lần đầu tiên ông Thích Nhất Hạnh về Việt Nam – một cán bộ cộng sản đã từng tập kết ra Bắc rồi trở lại Huế nằm vùng từ năm 1965, cũng là bạn đồng chí của Hoàng Phủ Ngọc Tường – nhà văn Tô Nhuận Vỹ với tư cách một người cầm bút phía bên kia đã nói với tôi tại nhà:
“Các anh ở ngoài này đã đánh giá sai vai trò của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Khi họ nhảy núi, chính tôi là người tiếp đón họ.”
Tôi nghĩ, ông Tô Nhuận Vỹ có cái lý của ông vì ông hiểu rõ tổ chức, cơ cấu của Đảng cộng sản.
Những tước vị được phong chỉ là truyện “phong thần”, chuyện bánh vẽ. Chỉ những kẻ ngu muội mới tin là thật. Hoàng Phủ Ngọc Tường lại ngây thơ tin là thật. Nguyễn Đắc Xuân cũng tin là thật vênh váo với hai chữ Ủy viên của Mặt trận.

http://dcvonline.net/wp-content/uploads/2018/02/641156062-797x1024.jpg
Đám đông tụ tập tại nghĩa trang trong lễ tưởng niệm các nạn nhân bị thảm sát trong cuộc tấn công của cộng sản dịp Tết Mậu Thân 1968, Huế, Việt Nam, ảnh thập niên 1970. Nguồn: PhotoQuest/Getty Images.

Ngày hôm nay, cần khẳng định việc xin lỗi của ông chỉ là lời tự bào chữa, xin lỗi cho cá nhân ông. Ngay cả ý kiến của ông Lê Minh, người trực tiếp có mặt trong trận đánh Mậu Thân ở Huế cho rằng cần giải oan cho những nạn nhân ở Huế cuối cùng cũng chẳng có tác dụng gì.
Mọi quyết định giết ai, tha ai đều đến từ Hà Nội. Nên muốn giải oan hay không cũng đến từ Hà Nội và chỉ Hà Nội mới có quyết định. Nguyễn Đắc Xuân đòi giải oan thì đó là việc của cá nhân ông. Hà Nội vẫn quyết định ăn mừng chiến thắng Mậu Thân kể chi đến cuộc thảm sát ngoài Huế. Đó là trách nhiệm tinh thần mà người Huế phải làm cho bằng được.

Cho nên, tất cả những bi kịch của Mậu Thân ở Huế không nên đổ lên đầu Hoàng Phủ Ngọc Tường vì một lẽ giản dị ông không có một chút quyền hành gì ở mặt trận Huế và không thể nào một mình Hoàng Phủ Ngọc Tường gánh cho nổi.
Nó là cả một chiến dịch chuẩn bị từ 3 năm trước. Mà người quyết định chính là Lê Duẩn, nằm ở Hà Nội. Trên chiến trường, quyết định đánh hay không đánh, giết hay không giết là từ những người như tướng Trần văn Quang, Lê Chương và Lê Minh.
Và cái người đáng nguyền rủa, đáng kết tội là những người chỉ huy ở trên. Cho nên, Hoàng Phủ Ngọc Tường có mặt ở Huế hay không ở Huế thì điều đó chẳng thay đổi được gì.
Nếu kết án Hoàng Phủ Ngọc Tường thì phải kết án luôn cả một tập đoàn đông đảo trí thức Huế cộng với các thầy tại Từ Đàm. Họ là những Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đính, Trần Thị Ngọc Dư, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Lê Văn Tài, Lê Văn Hảo, Đào Thị Yến, tức bà Tuần Chi, Nguyễn Thiết, Thich Đôn Hậu, Phạm Thị Xuân Quế, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm.
Rồi chẳng bao lâu nữa sau khi ông nằm xuống người ta có thể tha thứ cho ông, nhưng quên thì không thể nào quên được.

Vài lời cuối
Đối với đa số dân chúng miền Nam cũng như dân chúng Huế, họ coi những thành phần đi theo cộng sản như ông, những người đã dẫn đường, đã chứa chấp, đã cung cấp và nhất là làm chi điểm cho quân “giải phóng” để giết hại quân dân cán chính miền Nam tại Huế năm 1968, như kẻ thù mới phải. May là họ đã không coi các ông là kẻ thù. Điều đó mới là lạ.
Đáng lẽ, phải có một cuộc “tắm máu” những bọn nằm vùng.
Phải lấy làm lạ, hay là may mắn người dân Huế vô tội đã không hành xử như vậy. Phải nghĩ, đó là cái may mắn cho các ông. Như trường hợp của người bạn tôi, nếu biết được các ông đã chỉ điểm để giết hại bố của anh ấy thì chắc hẳn anh sẽ tìm đủ cách để giết lại kẻ đã giết cha mình.
Xem ra dân Huế, nhất là những người có bố mẹ anh em bị cộng sản giết hại trong dịp tết Mậu Thân mà nay để cho bọn “nằm vùng” ấy sống phởn phơ ở Huế cho thấy dân Huế “hiền” quá.
Ông còn được thong thả ngồi xe lăn là một điều may mắn cho ông rồi.
Nhưng chứng nào vẫn tật ấy. Gần đất xa trời rồi mà ông vẫn chưa biết thực sự hối cải. Ông vẫn cúi đầu, bợ đỡ đảng, thờ lạy một thần tượng đã mục rữa ở hang Pắc Pó khi ông cho rằng những người dân Huế bị giết oan do quân nổi dậy, chứ không phải do quân “giải phóng”.
Ngoài bọn nằm vùng như ông, làm gì có quân nổi dậy. Thêm một lần nữa, đây là một thái độ hèn nhát, bỉ ổi chạy tội cho đảng.
Cái này để dân Huế hỏi tội ông. Ai và những ai là quân nổi dậy ở Huế? Thưa ông Hoàng Phủ Ngọc Tường?

Nguyễn Văn Lục

https://phongtraogiaodan.com



Hoàng Phủ Ngọc Tường

sắp chết vẫn nói dối

Trần Văn Tích

Hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường và Hoàng Phủ Ngọc Phan vốn bà con gần với tôi vì chúng tôi cùng có chung một ông cố, đó là Tuần vũ Hoàng Hữu Xứng. Năm 1882, khi Henri Rivière đánh thành Hà nội thì Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết còn Tuần vũ Hoàng Hữu Xứng thì tuyệt thực. Tuần vũ Hoàng Hữu Xứng là cố nội của Hoàng Phủ Ngọc Tường-Hoàng Phủ Ngọc Phan còn tôi thì gọi Ông là cố ngoại. Thân phụ cặp bài trùng Việt cộng ác ôn vì là con quan lớn nên được tập ấm, tôi gọi là cậu Ấm Hoàng Hữu Dực. Thời Pháp thuộc, cậu Ấm Dực làm xếp ga An cựu, Huế.
Bài viết hôm nay tập trung vào một chi tiết duy nhất gạn lọc ra từ đoạn văn sau đây, mới được phổ biến rộng rãi trên mạng lưới vào ngày đầu tháng hai này.

Trích : “Để chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã dùng ngôi thứ nhất- “tôi”, “chúng tôi” khi kể một vài chuyện ở Huế mậu thân 68. Đó là những chuyện anh em tham gia chiến dịch kể lại cho tôi, tôi đã vơ vào làm như là chuyện do tôi chứng kiến. Đặc biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viên nhỏ ở Đông Ba chết 200 người, tôi đã nói: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu... Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra...”. Chi tiết đó không sai, sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi.“ Hết trích. (Tôi tôn trọng cách trình bày về hình thức của tài liệu, nhất là những dòng chữ tô đậm trong nguyên văn.)

Theo các chi tiết phổ biến trên internet thì Hoàng Phủ Ngọc Tường, 81 tuổi, hiện lâm bệnh nặng, đã đọc cho con gái chép lại lời y thành bài viết xuất hiện dưới đầu đề “Lời cuối cho câu chuyện quá buồn“. Như đã báo trước, cá nhân tôi không đếm xỉa đến những lời thanh minh trần tình của tên Việt cộng sắp chết mà chỉ chú trọng vào lời kể của y, theo đó ở Đông Ba có một bệnh viện nhỏ bị máy bay Mỹ thả bom giết chết hai trăm người. Người viết đặt tiền đề như vậy làm giả thuyết – nghĩa là nêu vấn đề ra theo tinh thần khoa học để giải thích một hiện tượng ngoài đời hay trong tự nhiên nào đó (trong trường hợp này là vụ gọi là Mỹ thả bom giết hai trăm người ở một bệnh viện toạ lạc tại Đông Ba, Huế) – và tạm chấp nhận sự kiện liên hệ tuy chưa thể kiểm nghiệm, chứng minh hầu căn cứ vào đó mà phân tích, suy luận.

*
Những ai ở Huế lâu ngày đều biết đến các cơ sở điều trị quân dân y : Bệnh viện Trung ương Huế trên đường Lê Lợi cạnh dòng Hương giang, Quân y viện Nguyễn Tri Phương trong Mang Cá, nhà Hộ sinh ở Tây Lộc. Các khu vực Đông Ba, Gia Hội là những vùng buôn bán sầm uất, có nhiều phố xá nhộn nhịp, có nhiều nhà cửa dân chúng đông đúc. Không có khoảnh đất trống nào đủ rộng lớn để xây một bệnh xá hay bệnh viện nhỏ. Nếu Mỹ thả bom trúng bệnh viện mà chết ngay một lúc đến hai trăm người thì cơ sở khám bệnh và nhận người ốm đau nằm điều trị phải được trang bị ít nhất cũng năm mươi giường bệnh. Thế nhưng không người dân Huế nào biết đến hay nhận được công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định về y khoa phòng ngừa, y khoa chẩn đoán, y khoa điều trị dành cho số đông, có tổ chức thành nề nếp và có tiếng vang trong vùng; chỉ có bọn Vẹm từ trên rừng về là sưng sưng bảo rằng có một cơ sở y khoa như vậy! Vạn nhất nếu bom “đế quốc“ vô tình đánh sập bệnh viện, giết một loạt hai trăm người thì đám truyền thông cộng sản hay thân cộng tại sao đều câm như hến và mù tịt cả lũ? Chúng luôn luôn theo dõi rất kỹ các tội ác do “đế quốc Mỹ, kẻ thù của nhân dân ta và nhân dân thế giới“ gây ra cơ mà, đời nào chúng chịu ngậm câm nhắm mắt trước một vụ thảm sát lớn lao như vậy? Chúng chả rêu rao ầm ỹ vụ được chúng tuyên truyền là “giặc lái Mỹ“ ném bom xuống khu Khâm Thiên, Hà Nội gây tổn hại cho bệnh viện cận kề là gì? Chúng thổi phồng vụ chuồng cọp ở các trại giam Việt cộng tại Côn Đảo, Phú Quốc một cách vô liêm sỉ. Chúng láo khoét bảo phe quốc gia đã đầu độc hàng loạt tù hàng binh; sau ngày 30.04, lại cũng chính chúng trơ tráo sượng sùng công nhận là không hề có chuyện đó. Cái lối mô tả Mỹ ném bom giết hai trăm người ở Bệnh viện Đông Ba cũng cùng bài bản với lời tố cáo của nhà sư Thích Nhất Hạnh theo đó Mỹ thả bom giết ba trăm ngàn dân Bến Tre trong khi thực ra dân số toàn tỉnh Bến Tre chỉ có chưa đến một trăm ngàn người. Vả lại miệng lưỡi điêu ngoa của Việt cộng chuyên môn đưa ra những con số nạn nhân phóng đại một cách nham hiểm và tròn trịa một cách ngu ngốc. Lê Duẩn đã từng tuyên bố là “Mỹ Diệm“ lê máy chém đi khắp nơi chặt đầu năm trăm đảng viên cộng sản. Toàn là những con số tròn trặn tròn vo. Năm trăm của Lê Duẩn, hai trăm của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ba trăm ngàn của Thích Nhất Hạnh!
Tuy nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ biết ăn gian nói dối mà ăn gian nói dối một cách ngu xuẩn, u mê. Thoạt tiên cặp bài trùng đội lốt quỷ sứ họ Hoàng Phủ trút tội lên đầu Mỹ, chúng bù lu bù loa bảo pháo và bom của Mỹ giết đồng bào Huế nhưng đến khi đồng bào Huế và chứng nhân nước ngoài quan sát thấy các thi hài khai quật từ những hố chôn tập thể chỉ mang những vết thương bằng vũ khí đạn dược của bộ binh, thậm chí bị đánh vỡ sọ gãy tay, bị trói cánh khủy nằm chồng lên nhau, chứ không hề có mảnh bom hay viên đạn nào của Mỹ trong thi thể thì chúng thấy mình bị hố nặng. Thế nhưng biết bị hố thì trễ quá rồi, mặt nạ Satan Mephisto đã hiện guyên hình quá rõ. Ăn gian mà ngu, nói dối mà đần, phải chăng vì vậy mà cả Hoàng Phủ Ngọc Tường lẫn Hoàng Phủ Ngọc Phan đều coi như hoàn toàn thất sủng sau ngày 30.04 mặc dầu cả hai tên đều đã mang trên hình hài một thành án, một thiết án muôn đời không cởi bỏ được.

*
Mỗi con người đều là một thành viên của lịch sử. Quyết đoán về một nhân vật lịch sử là việc không phải dễ và càng lên tiếng mạnh mẽ càng hay rơi vào sai lầm. Mục đích nên nhằm khi nhìn lại quá khứ lịch sử là tìm hiểu một cách tương đối vô tư để nhận định cho chính xác, may ra sẽ rút được phần nào kinh nghiệm cho cuộc sống vốn rất dễ bị xáo trộn khuấy động do những sự bồng bột nhất thời có thể che khuất lương tri. Dẫu sao đi nữa thì với kẻ thành tâm tìm hiểu việc nước, thái độ bình tĩnh nhận xét, tinh thần phân tích khoa học là những điều kiện thuận lợi để tới gần sự thật.
Trước khi chết, Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn gột rửa phần nào tội ác tày trời đối với đồng bào nhất là đồng bào Huế. Huế là nơi y chào đời, lớn lên, ăn học và giảng dạy. Cộng sản mà đứng trước ngưỡng cửa tử sinh thì cũng phải thấy là việc trọng đại. Biện pháp duy nhất để chạy tội chỉ có thể là đổ tội cho tha nhân, và dễ dàng hơn nữa, cho ngoại nhân. Bom Mỹ đã giết hai trăm đồng bào vô tội ở Đông Ba, Hoàng Phủ Ngọc Tường quả quyết một cách rất đần độn như vậy. Nhưng dữ kiện này, vẫn theo chính mồm miệng điêu ngoa của y, vốn xuất phát từ một tên Việt cộng khác; y chỉ nhập nhằng, lưu manh quơ vào cho mình. Làm sao y dám nhận xằng như vậy một khi chẳng có bằng chứng cụ thể, khách quan nào hết cả?
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gian mà lại ngu. Sống thì gian và ngu, gần chết lại càng gian và ngu hơn.
11-02-2018
Bs Trần Văn Tích

https://www.bacaytruc.com

____________________

Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn nhận

"sai lầm" về Mậu Thân ở Huế

HUẾ, Việt Nam (NV) “Mậu Thân 1968 tôi không về Huế… Tôi xin thành thật nhìn nhận về hai sai lầm, xin ngàn lần xin lỗi. Tôi đã tự rước họa cho mình, tự tôi đã đánh mất niềm tin yêu của nhiều người dân Huế đối với tôi, tạo điều kiện cho nhiều kẻ chống cộng cực đoan vu khống và quy kết tôi như một tội phạm chiến tranh.”
Đó là lời của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong một lá thư “giãi bày” mang tên “Lời cuối cho câu chuyện quá buồn” được đăng tải trên Facebook của nhà văn Nguyễn Quang Lập hôm 10 Tháng Hai, 2018. Từ nhiều năm nay, ông Tường bị chỉ trích vì ông đã trả lời phỏng vấn của đài truyền hình WGBH hồi năm 1981 cho loạt phóng sự về cuộc chiến Việt Nam với tư cách “nhân chứng Mậu Thân.”
Trong lá thư nêu trên, ông Tường xác nhận “clip tung lên mạng là bản gốc cuộc phỏng vấn,” đồng thời thú nhận: “Sai lầm của tôi là nhận lời ông Burchett và đoàn làm phim ‘Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình’ trả lời phỏng vấn với tư cách một nhân chứng Mậu Thân Huế 1968, trong khi tôi là kẻ ngoài cuộc”.
Bức thư viết tiếp: “Để chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã dùng ngôi thứ nhất – ‘tôi,’ ‘chúng tôi’ khi kể một vài chuyện ở Huế mậu thân 68. Đó là những chuyện anh em tham gia chiến dịch kể lại cho tôi, tôi đã vơ vào làm như là chuyện do tôi chứng kiến. Đặc biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viện nhỏ ở Đông Ba chết 200 người, tôi đã nói: ‘Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu… Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra…’ Chi tiết đó không sai, sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi”.
Ông Tường cũng viết thêm: “Trong cuộc trả lời phỏng vấn này, khi nói về thảm sát Huế, tôi đã hăng hái bảo vệ cách mạng, đổ tội cho Mỹ. Đó là năm 1981, khi còn hăng say cách mạng, tôi đã nghĩ đúng như vậy. Chỉ vài năm sau, tôi đã nhận ra sai lầm của mình. Đó là sự ngụy biện. Không thể lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai lầm đã xảy ra ở Mậu Thân 1968”.

Có thể hiểu phát ngôn của ông Tường là cách ông phủ nhận việc mình đã có mặt ở Huế trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân và bác cáo buộc ông “can dự vào các vụ thảm sát ở Huế thời điểm đó.” Tuy nhiên, dù bác bỏ cáo buộc “can dự vào các vụ thảm sát ở Huế thời điểm đó,” và dù thừa nhận “những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân,” nhưng trong bức thư, ai, kẻ nào là thủ phạm cuộc thảm sát Mậu Thân ở Huế thì ông Tường không nêu đích danh.
Trong bối cảnh dư luận chưa hết phẫn nộ về việc nhà cầm quyền CSVN tổ chức sự kiện Mậu Thân rầm rộ ở Sài Gòn vừa qua, lời “tự thú muộn màng và thiếu chân thành” của ông Tường càng khiến cộng đồng mạng dấy lên sự phẫn nộ.

Nhà báo tự do Mạnh Kim ở Sài Gòn bình luận trên trang Facebook cá nhân: “Tôi không lên án sự chọn lựa chỗ đứng lịch sử của các ông trong thời điểm đó. Thái độ và sự chọn lựa cách thức để nhìn lại mình của các ông hàng chục năm qua mới là điều cần quan tâm. Tôi không chỉ trích sự chọn lựa quá khứ. Tôi chỉ thắc mắc sự chọn lựa hiện tại và cách nhìn hiện tại khi nhắc lại quá khứ. Hàng chục năm qua, các ông vẫn chỉ gỡ tội cho cá nhân mình chứ không phải giải oan cho hàng ngàn nạn nhân, tiếp tục nhất mực rằng những ‘mất mát’ đó là ‘ngoài ý muốn’ và Mậu Thân vẫn là một ‘chiến thắng lịch sử’ – như lời lặp đi lặp lại của Nguyễn Đắc Xuân. Thái độ hậu chiến và nhãn quan về tội ác chiến tranh của những người như Nguyễn Đắc Xuân đã khiến những kẻ hậu sinh như tôi xin được mạn phép thưa rằng, cho tôi gạt qua sự kính trọng cần có đối với người cao niên để thay bằng một cảm giác đối ngược”.

Còn nhà văn Nguyễn Đình Bổn thì viết: “Trong cái thư gọi là ‘bạch hóa’ cá nhân này, Hoàng Phủ Ngọc Tường tiếp tục ngụy biện cho mình và đồng đội khi vẫn ra rả cái luận điệu ‘địch thì ác còn ta chỉ… sai lầm.’ Ví dụ câu: ‘Đó là sự ngụy biện. Không thể lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai lầm đã xảy ra ở Mậu Thân 1968.’ Điều này cho thấy, dù nhà nước này luôn xem vụ Mậu Thân như một chiến thắng vĩ đại do các lực lượng chính quy đảm nhiệm thì ông Tường và bạn bè ông ta như Nguyễn Quang Lập, vẫn cố tình làm nhẹ đi khi gọi là “quân nổi dậy,” và vẫn xem thủ phạm chính của thảm sát Mậu Thân là do Mỹ ném bom! Hài hước thay, trước cổng địa ngục đang mở, dù run sợ, ông ta vẫn tiếp tục hèn nhát đổ vấy cho kẻ thù của mình, mà vẫn muốn “về trời,” thậm chí là “im lặng bằng tâm về cõi Phật.” Vậy có cái cõi trời nào sẽ dung chứa ác nghiệp mà ông ta tạo ra?”

Hồi tháng trước, báo điện tử Dân Việt viết: “Trong suốt chiến dịch, Hoàng Phủ Ngọc Tường không được giao nhiệm vụ để trở lại Huế. Vậy mà trong nhiều năm ròng, một số cây bút ở hải ngoại đã kết tội cho Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Lê Văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân với những lời lẽ xúc phạm. Họ gọi các nhà văn, nhà thơ này là ‘đồ tể,’ ‘thủ phạm chính của cuộc tàn sát,’ ‘các hung thần can dự tới bữa tiệc máu’”.
Tờ báo còn dẫn lời của chính ông Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Không hiểu sao đến giờ vẫn có những kẻ xấu miệng cứ tìm cách buộc chặt tôi vào vụ Mậu Thân Huế. Tôi đành xem họ như những kẻ vu khống bẩn thỉu thế thôi”!!! (T.K.)
February 11, 2018

https://www.nguoi-viet.com

____________________

Định cư tại Mỹ? Tiểu bang nào, city nào?

Image may contain: 5 people, people smiling, text

____________________

Lại chuyện Hoàng Phủ Ngọc Tường

Caubay

Vừa rồi Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) có viết lá thư nói về vai trò của ông ta trong vụ Mậu Thân và nhờ Nguyễn Quang Lập (NQL) đăng. Đồng thời NQL cũng viết bài biện minh cho HPNT.
Tôi có vài góp ý:

Phần 1: VỀ LÁ THƯ CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Mở đầu HPNT viết, trích:
“Tôi đọc cho con gái chép một bài viết nhỏ này xin gửi tới bà con bạn bè thương mến, những ai yêu mến, quen biết và quan tâm đến tôi. Còn những kẻ luôn đem tôi ra làm mồi nhậu cho dã tâm của họ như ông Liên Thành và bè đảng của ông ta, tôi không muốn mất thời giờ đối đáp với họ. Dĩ nhiên bài viết này không dành cho họ.”
Lời bàn: Viết cho bạn bè mà nhờ người bỏ lên web thì tôi có quyền bàn vào, dù biết rằng HPNT không “dành cho tôi.” Ý nghĩ ban đầu của tôi là, tuy có vẻ “lá thư cuối đời”, giọng điệu HPNT vẫn còn sắt máu lắm.

Trích tiếp:
“Năm nay tôi 81 tuổi, và tôi biết, còn chẳng mấy hồi nữa phải về trời. Những gì tôi đã viết, đã nói, đã làm rồi trời đất sẽ chứng nhận. Dầu có nói thêm bao nhiêu cũng không đủ. Tốt nhất là im lặng bằng tâm về cõi Phật.”
Lời bàn:
HPNT lạc quan tếu, nếu quả có linh hồn, có cõi trời cõi phật, thì chắc gì ông ta sẽ được “về” nơi đó! Địa ngục thì sao, vẫn mở cửa mà!

Trích tiếp:
“Sai lầm của tôi là nhận lời ông Burchett và đoàn làm phim “Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình” trả lời phỏng vấn với tư cách một nhân chứng Mậu thân Huế 1968, trong khi tôi là kẻ ngoài cuộc.
Tôi xác nhận đây là link clip tung lên mạng là bản gốc cuộc phỏng vấn:
Để chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã dùng ngôi thứ nhất- “tôi”, “chúng tôi” khi kể một vài chuyện ở Huế mậu thân 68. Đó là những chuyện anh em tham gia chiến dịch kể lại cho tôi, tôi đã vơ vào làm như là chuyện do tôi chứng kiến. Đặc biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viên nhỏ ở Đông Ba chết 200 người, tôi đã nói: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu …Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra ..”. Chi tiết đó không sai, sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi.”
Lời bàn:
Hoá ra có nhiều HPNT chứ không phải một. Một HPNT như đồ tể nghiến răng đắc chí tự nhận hành vi giết người với đài truyền hình Mỹ năm 1981 (tức đến 13 năm sau vụ thảm sát) và một HPNT “biết xấu hổ” lúc cuối đời, khi bị thất sủng, khi chanh đã khô nước. Tin HPNT nào bây giờ?
Xác nhận chi tiết “đạp lên máu” không sai, mà vẫn đổ tội cho máy bay Mỹ thả bom bịnh viện. Bịnh viện nào mà có những “đường hẻm” đầy máu? Chắc ông phải đổi lại là “hành lang” nhỉ?

Trích tiếp:
“Cũng trong cuộc trả lời phỏng vấn này, khi nói về thảm sát Huế tôi đã hăng hái bảo vệ cách mạng, đổ tội cho Mỹ. Đó là năm 1981, khi còn hăng say cách mạng, tôi đã nghĩ đúng như vậy. Chỉ vài năm sau tôi đã nhận ra sai lầm của mình. Đó là sự nguỵ biện. Không thể lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai lầm đã xảy ra ở Mậu thân 1968”.
Lời bàn:
Tự nhận biết xấu hổ, chưa từng nói láo bên trên mà đoạn này lại nói “lúc đó vì hăng cách mạng”, chỉ vài năm sau nhận ra là mình ngụy biện nhưng phải chờ đến 37 năm sau mới thú nhận! Ai tin được sự lương thiện này?
Ngôn ngữ của ông vẫn còn láu cá kiểu CS lắm. Tại sao là “tội ác” của Mỹ mà chỉ là “sai lầm” của “cách mạng”? Các ông không gây tội ác à? Nếu cho đến ngưỡng cửa của cái chết mà ông vẫn nói “không” thì đừng hòng “về trời”! Thiên đường không có chỗ cho kẻ dối trá, trừ “thiên đường cộng sản”.
Tiện đây nói luôn, là người viết văn, có học, thì nên hiểu nghĩa chữ “cách mạng”. Bọn CS các ông không làm cách mạng, các ông chỉ cướp chính quyền cho bè đảng các ông thôi. Hiện tình xã hội VN là một bằng chứng rõ nhất.

Trích tiếp:
“Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng.”
Lời bàn:
Đây là đoạn trung thực rất hiếm hoi, dù ông có “thống thiết” cho nạn nhân không thì không có gì để tin! Nhưng nếu ông biết vậy thì ngay bây giờ cũng chưa muộn, hãy viết thư “thỉnh cầu” các đồng chí của ông đừng ăn mừng “chiến thắng Mậu Thân” nữa! Việc ấy mới xảy ra khắp nước và ngay tại thành Hồ nơi ông ở. Làm ngay đi. Tại sao ông không làm hay ông vẫn cho việc kỷ niệm là đúng đắn? Ăn mừng thảm sát dân lành ư? Ông không thấy đó là nỗi xót xa cho dân Huế… của ông (sic!) ư?
Mặt khác, ngay lúc này, khi ông muốn chứng tỏ mình là người thành thật, thì hãy bỏ đi từ “nổi dậy”! Nó láo và khốn nạn lắm! Hơn ai hết, các ông biết không hề có sự nổi dậy nào của dân chúng toàn cõi Miền Nam thì đừng láo nữa, đừng lừa bịp con cháu nữa! Những kẻ nằm vùng không phải là dân chúng nổi dậy.
Chắc ông nhớ các cuộc tản cư suốt chiều dài cuộc chiến, đại lộ kinh hoàng 1972, di tản năm 1975 từ Huế,Đà Nẵng, Tây Nguyên…và hơn nửa triệu người chết trên biển đó chứ? Cụ thể hơn, con cái, bạn bè thân thiết của các ông cũng đã và đang di tản đó! Họ không nổi dậy mà họ chạy trốn.

Trích tiếp:
“Từ hai sai lầm nói trên tôi đã tự rước hoạ cho mình, tự tôi đã đánh mất niềm tin yêu của nhiều người dân Huế đối với tôi, tạo điều kiện cho nhiều kẻ chống cộng cực đoan vu khống và qui kết tôi như một tội phạm chiến tranh”.
Lời bàn:
Ông vẫn không bỏ lối ăn nói sặc mùi CS. Vơ cái tốt vào mình và vu vạ kẻ khác. Ai bảo ông có “niềm tin yêu của nhiều người dân Huế” để cho ông đánh mất? Nhiều là bao nhiêu? Thế nào là chống cộng cực đoan? Thế có sùng Hồ, sùng cộng mù quáng không? Vì sao người ta “vu khống” ông mà không phải người khác? Ông có nghĩ là họ căn cứ vào hành vi của ông trước 1975 và ngay miệng ông thốt ra năm 1981 không? Nghe ông nói đằng đằng sát khí cho cả thế giới nghe và từ đó kết luận ông là đồ tể, đao phủ là vu không ư?
Tóm lại, người ta muốn quên tội ác của CS năm Mậu Thân và cá nhân ông mà không được. Mỗi năm nhà cầm quyền CSVN cứ ăn mừng biến cố đau thương ấy và vô hình chung họ đã hại ông!
Tên ông và vài đồng bọn như Nguyễn Đắc Xuân… đã gắn liền với cuộc thảm sát Tết. Mậu Thân tại Huế. Mọi biện bạch đều vô nghĩa nếu thiếu can đảm, thành khẩn về tội ác của mình.
Bàn tay dính máu dân lành không dễ rửa, nhất là không thể rửa bằng lá thư “mẹ rượt” như vầy!

Phần 2.
VÀI LỜI VỀ LẬP LUẬN BÌNH VỰC CHO HPNT CỦA NGUYỄN QUANG LẬP

Là người cầm bút thì điều quan trọng nhất là trung thực. Khi viết về người thân, bạn bè của mình cho công chúng đọc thì hãy bỏ qua mọi tình cảm riêng và tự đặt câu hỏi vì sao sự kiện ấy dính vào con người ấy mà không là ai khác.
Không thể dùng sự quan hệ anh em, đồng nghiệp (tôi cố tránh từ đồng chí) và dựa vào quan hệ tình cảm với vợ chồng HPNT mà cho là mình đã “hiểu” hết. Không ai thú nhận tội ác của mình cả, nhất là tội ác trời không dung, người không tha như tội ác của CS hồi tết Mậu Thân.
NQL đã tìm hiểu về HPNT qua hầu hết các cán bộ CS (như bí thư tỉnh ủy, trưởng ban tổ chức…) để tin rằng HPNT không “dính” tới vụ thảm sát. Với những người bên phía nạn nhân thì NQL cho là cực đoan, không đáng tin.
Tôi tuy không quen biết ông Liên Thành và, nói thẳng, không thích “cái ta quan trọng” của ông ta (đây là nhận xét cá nhân của tôi) nhưng nếu bảo giữa Liên Thành và các cán bộ CS như Nguyễn Trung Chính, Lê văn Hảo, Nguyễn Đắc Xuân… thì tôi phải tin Liên Thành hơn. Tuy vậy, nên nhớ rằng nhóm HPNT được cho là tội đồ của dân Huế đã có từ lâu, ngay sau vụ thảm sát, chứ không phải căn cứ vào sách của Liên Thành mới đây.
Về nhà văn Nhã Ca, vợ chồng bà là những người đã kinh qua sự phán xét, sàng lọc của dư luận, nhất là “dư luận văn học” Miền Nam. Và nếu ai đó sinh ra từ miền Bắc thì nên tìm hiểu. Miền Nam, tức VNCH, không có chỉ đạo văn nghệ, không có thông tin một chiều. Chúng tôi rất tự hào về một nền giáo dục khai phóng và nền văn nghệ tự do tại miền Nam. Tôi không nói quá lời, những việc ấy rất dễ kiểm chứng.
Nói thế để hiểu rằng bà Nhã Ca là người chúng tôi rất kính trọng, dĩ nhiên tôi tin bà ta hơn bất cứ cán bộ CS nào, dù đó là văn thi sĩ như Trần Vàng Sao, Nguyễn khoa Điềm!
NQL dẫn chứng một đoạn đối thoại trong một chương sách trong tác phẩm “Giải khăn sô cho Huế” của Nhã Ca và kết luận rằng Nhã Ca cũng công nhận HPNT không có mặt tại Huế! Nhã Ca còn sống và hy vọng bà sẽ lên tiếng. Riêng tôi nghĩ đối thoại của hai nhân vật trong sách là “em không thấy Phủ” (tức HPNT) trong một đêm đó không có nghĩa là Phủ không về. Phủ có thể về chỗ khác, đêm khác. Mặt khác, nếu chị em bà Nhã Ca chẳng may thấy, gặp “anh” Tường thì chắc bây giờ là ngày giỗ thứ 50 của họ rồi.

Vì sao NQL tin vào đoạn đối thoại ngắn của một trang sách và mồm của các cán bộ CS (mà ai cũng biết là thiếu thành thật, bị kiểm soát) hơn là tin vào lời nói của chính HPNT khi trả lời đài truyền hình Mỹ? Ở chỗ khác, NQL lại bào chữa cho HPNT qua nhân vật xưng “tôi” trong tác phẩm “Những ngôi sao trên đỉnh Văn lâu” là do lời kể qua tài liệu của Nguyễn Đắc Xuân cung cấp. Tại sao dễ dàng tin nhân vật đó không phải là HPNT? Tự truyện của y mà!
Lẽ nào tự hào, khoe khoang thành tích trong suốt 50 năm rồi bỗng dưng chối bỏ lời mình và bảo đó là “do hăng say cách mạng” lại có thể là một bằng chứng cho sự vô can? Cả tin, ngu dốt hay thiếu liêm sỉ của một người viết?
Trong một đoạn NQL viết, trích:
“Nhân đây nói luôn, chính bà Tùng Chi- Nguyễn Đình Chi- đã kể lại, Liên Minh của bà , ts Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường… mới thành lập chưa làm được gì nhiều ở Mậu Thân 68. Duy có một việc làm rất đáng kể, ấy là khi Chính quyền Cách mạng muốn lập toà án để xử “ những tên nợ máu của nhân dân”, Liên Minh đã can gián Chính quyền nên đình chỉ những toà án như thế. Và chính quyền đã nghe theo.”
Và đoạn khác thì, trích:
“Ông Lê Minh nói một câu tôi không thể quên:’Tường không về Huế, mà có về Huế cũng không có quyền hành chi đâu. Chức Tổng thư ký của Tường, nghe thì oai thực chất là thư kí cho ông Hảo bà Chi mà thôi. Với cả Tường không có khả năng làm điều ác'”.
Rõ chán! Những lời kể trên nếu NQL không bịa ra thì cũng không đáng tin! Khi bảo nhóm HPNT không có “thá” gì thì làm sao can ngăn được những cái đầu hiếu sát trong lúc dầu sôi lửa bỏng ấy!

Sau cùng, sở dĩ tôi bàn đến NQL vì ít nhiều tôi cũng đọc trang Quê Choa và có chút cảm tình chứ như từ một anh bồi bút nào thì khỏi mất thì giờ. Tuy vây, sau khi đọc bài biện hộ này của NQL, một ý nghĩ cố hữu trong đầu mà tôi muốn xoá bỏ lại hiện về.
Đó là lớn lên, được giáo dục trong lò CS thì khó thoát khỏi sự gian dối trong đời sống mà trong văn giới gọi là bẻ cong ngòi bút! Cũng có người viết trung thực, nhưng cực kỳ hiếm! Cực kỳ hiếm!
Riêng với ông NQL, tôi nghĩ rằng ông nên ỉa vào mặt vợ chồng HPNT như ông viết nếu quả thật “anh Tường” là tên đồ tể!
Vâng, HPNT, Nguyễn Đắc Xuân là những tên đao phủ đất Thần Kinh. Đừng lạc quan tin rằng sau lá thư xảo quyệt đó chuyện anh Tường sẽ đi vào quên lãng!
Ông ta đã đi vào lịch sử xứ Huế như một kẻ gớm ghiết nhất! Chết vẫn chưa hết đâu!
San Diego, 10-2- 2018
Caubay  

 http://www.danchimviet.info


Đọc lại lá thư của Hoàng Phủ Ngọc Tường


Tôi đọc đi đọc lại lá thư của Hoàng Phủ Ngọc Tường về sự kiện Mậu Thân 1968 ở Huế, và nhận ra vài điều sau đây (ngoài những điều nhiều người đã phân tích rõ):
1) Nhiều độc giả đọc nhanh nên dễ dàng nhận định và kết luận rằng lá thư đó vừa là lời sám hối của Hoàng Phủ Ngọc Tường, vừa là sự thừa nhận quân đội cộng sản Bắc Việt chính là thủ phạm của cuộc thảm sát Mậu Thân 1968 ở Huế.
Theo tôi hoàn toàn không phải như vậy. Hãy bình tâm đọc kỹ và lưu ý cách dùng từ của một tay viết giỏi vốn được các trường lớp tuyên truyền của cộng sản đào tạo và nhồi sọ nhiều chục năm.
2) Thật vậy, đây đơn thuần là lời xin lỗi về hành động mạo nhận thiếu trung thực trong cuộc phỏng vấn năm 1981 mà thôi, không có sự ân hận nào trong đó.
Tuy Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm thấy “thống thiết” trước cuộc tàn sát kinh hoàng đó, nhưng chỉ xem đó là sai lầm, chứ không phải tội ác. Sai lầm thì rút kinh nghiệm và cùng lắm là xin lỗi, chứ không ân hận hay sám hối như cảm xúc của thủ phạm khi nhận ra mình đã phạm tội ác tày trời.
3) Những “tang tóc thê thảm” mà nhiều gia đình Huế gánh chịu, theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, là do hành động giết oan của “quân nổi dậy”, chứ không phải của bộ đội cộng sản Bắc Việt. Độc giả cần lưu ý điểm này.
Chúng ta đều biết, phía cộng sản vẫn gọi chiến dịch Mậu Thân 1968 là trận “tổng tiến công và nổi dậy”, tức là bộ đội chính quy Bắc Việt tiến công, còn người dân địa phương nổi dậy. Đó cũng chính là “học thuyết” quân sự của Lê Duẩn trong chiến tranh Việt Nam.
Vậy, tuy thừa nhận có cuộc thảm sát, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khéo léo đổ lỗi đó cho người dân địa phương ở Huế qua cách dùng chữ “quân nổi dậy”. Nói cách khác, người Huế giết người Huế, chứ không hề có bàn tay của quân đội cộng sản Bắc Việt ở đây.
4) Đoạn nói rằng sai lầm của quân nổi dậy là không thể chấp nhận từ góc độ lương tâm dân tộc lẫn quan điểm “chiến tranh cách mạng”, cho thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn biện minh và bảo vệ đến cùng sự vô can của quân đội cộng sản trong cuộc thảm sát Mậu Thân 1968 ở Huế, bởi họ không chủ trương như vậy trong cái gọi là “chiến tranh cách mạng”.
5) Tận phút cuối cùng vẫn tiếp tục che đậy tội ác của mình và đồng bọn đối với đồng bào Huế bằng một lá thư được viết với ngôn từ khôn khéo thượng thừa, khiến nhiều người lầm tưởng, cho thấy bản chất của những tay đồ tể cộng sản là không bao giờ thay đổi.
Do vậy, đừng trông mong vào sự thừa nhận và hối lỗi về cuộc thảm sát Mậu Thân từ nhà cầm quyền này trong tương lai. Hãy nhìn cách họ tổ chức ăn mừng nhân dịp 50 năm sự kiện bi thương ấy để biết lòng dạ họ thế nào. Nếu chế độ này còn kéo dài, tôi tin chắc rằng họ sẽ tiếp tục nhảy múa như những kẻ vô can.

Theo FB Lê Công Định

http://www.danchimviet.info

 

Đăng ngày 12 tháng 02.2018