banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

19 tháng 06

Viết về người lính VNCH bất hạnh


Mường Giang

Phuc kich

Hai mươi năm chinh chiến, QLVNCH đã có 250,000 người gục ngã trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu đời bất hạnh vì một phần cơ thể đã gửi lại sa trường. Tuy nay chính phủ cũng như QLVNCH không còn nữa, nhưng trong tâm tư của mọi người được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, thì lý tưởng và danh dự của Người Lính càng được sáng tỏ, trong niềm hãnh diện chung của quân-dân Miền Nam.
Lịch sử của một quốc gia là những gì trung thực, mà người dân của nước đó đã ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ xảy ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đã không hề lên án, bỏ tù hay trả thù những người Miền Nam bại trận. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn ghi ơn tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc chiến, vì lý tưởng riêng của họ.
Thế Chiến 2 kết thúc, Tòa Án Quốc Tế Nuremberg chỉ kết tội những đầu sỏ trong phe Trục mà không hề bắt bớ hay gây khó khăn cho quân nhân các nước Ðức-Ý-Nhật… Năm 1920, lãnh tụ kháng chiến quân Libya là Tướng Mukhta bị người Ý bắt và tử hình, nhưng chính tổng tư lệnh Ý tại Bắc Phi là người đã ở lại pháp trường để lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người Ý lúc đó.
Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lãnh thủ thành đương thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu… đã oanh liệt tử tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp tôn kính mặc niệm như chính các tướng lãnh của họ. Sau rốt là số phận của 500,000 quân nhân Mỹ đã tham chiến tại VN, trong số này hơn 50,000 người tử trận. Ngày nay các chiến sĩ trên đã được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lý và danh dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc nghìn thu bên cạnh ông cha, một đời Tử sĩ. Tất cả đã chết cho lý tưởng quốc gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.
Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa cũng vậy, đã phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước và mạng sống của đồng bào, bị cộng sản quốc tế Bắc Việt xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cộng sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự hiện diện của người lính miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở đó người dân trong vùng chiến nạn, tìm đủ mọi cách trốn thoát sự kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia nhờ che chở đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen Bình Ðịnh Nông Thôn, Cán Bộ Xã Hội… mới biết được thế nào là nỗi thống khổ, trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời cay cực, mới thương xót cho “cảnh ba đồng, ba cộc” của kiếp lính Miền Nam.

Nhức nhối và mai mỉa nhất, đó là hiện tượng “thuyền nhân tỵ nạn” sau ngày 30-4-1975. Ngoài tuyệt đại đa số nạn nhân đích thực của CSQT, trong số này không thiếu mặt “những tên tuổi lớn” một thời chạy theo VC đâm sau lưng người lính, những nhà văn, nhà báo, cha cố, kể cả thành phần suốt đời chỉ biết sống ký sinh vào xã hội… cũng lợi dụng “danh nghĩa người lính” để được tỵ nạn chính trị. Ứa gan hơn là những tên VC trà trộn trong hàng ngũ những người vượt biên, vượt biển, sau khi tới được bờ đất hứa, chúng trở mặt ngay, để lộ diện thành công an, cán bộ, đảng viên như ngày nào… để nạt nộ, hăm dọa đồng hương, qua cái đòn “nếu theo Ngụy”, sẽ không được về VN để thăm nhà, như đã thấy tới độ mù mắt khắp nơi tại hải ngoại.
Trong nỗi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm nhất là người lính đã không bao giờ được một lời an ủi tử tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc bảo vệ cho người dân. Trái lại họ còn bị muôn ngàn bất hạnh đeo đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng thì cô đơn, nửa đường bị hậu phương, đồng minh và lãnh đạo phản bội bán đứng. Ngày trở về thì bị giặc trả thù đày đọa, rồi chết thầm trong đói nghèo tủi nhục.
Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ vậy mà cộng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một mình một cõi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bạo tàn, độc đảng. Nhưng rồi gieo gió thì phải gặt bão, chính sự khoác lác dại khờ trên, đã đưa toàn bộ đảng cộng sản VN chìm trong cái vũng bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật mí và hồi tưởng.

Câu chuyện tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận Tết Mậu Thân 1968 ở Sài Gòn, vì không thể chịu nổi hành động dã man, đẩy các trẻ em trong xóm ra làm lá chắn đỡ đạn cho đồng bọn tẩu thoát. Vì quá tức giận không kềm chế được, nên tướng Loan đã rút súng Rouleau ngắn nòng, bắn chết tên VC chỉ huy là Bảy Lốp, tại ngã ba Vườn Lài (góc đường Vạn Hạnh, Minh Mạng và Vĩnh Viễn), trước mặt phóng viên Mỹ là Eddie Adams, nên đã chụp được tấm hình này, đem bán rao khắp thế giới và nhận được giải thưởng quốc tế.
Sau ngày 30-4-1975 Tướng Loan tới tỵ nạn tại Hoa Kỳ, đã bị bọn phản chiến cùng với giới truyền thông Mỹ làm lớn chuyện. Thậm chí có Elizabeth Holtzman (nữ dân biểu DC bang New York) và Dân biểu Harold Sawyer (CH bang Michigan), đã kiện cáo, đòi Chính phủ Mỹ trục xuất tướng Loan ra khỏi Hoa Kỳ, vì tội vi phạm nhân quyền nhưng bị thất bại.
Trước và sau ngày tướng Loan từ trần 14-7-1998, người phóng viên chụp tấm hình năm xưa Eddie Adams, đã viết một bài báo xin lỗi tướng Loan vì sự ray rứt hối hận của mình, trong đó có đoạn “Ông đã làm công việc của ông, còn tôi làm bổn phận của tôi”. Ngày tướng Loan qua đời, Eddie lại viết thêm môt bài báo khác đăng trên tờ Times, đồng thời gởi tới một vòng hoa phúng điếu, trên đó có đính một danh thiếp viết tay “General, I’m so, so, so… sorry”. Bao nhiêu đó, chắc cũng đủ làm nhức óc những tên “sống nhờ người tỵ nạn” nhưng lúc nào cũng viết lách, làm báo ca tụng VC.

Ðau đớn nhất là trận Hạ Lào 1971, cho dù các đơn vị đã tham chiến như SĐND, TQLC, Sư Ðoàn 1 BB, Lữ Ðoàn 1 Thiết Kỵ và Liên Ðoàn 1 BĐQ có bị tổn thất nặng nề. Nhưng cuối cùng QLVNCH cũng đã đạt được mục đích của cuộc hành quân, là phá hủy gần như toàn bộ các cơ sở hậu cần, tiếp liệu tại các mật khu, binh trạm tại đây. Lúc đó, chỉ có Ðại úy Trương Duy Hy, pháo đội trưởng PĐC/44, tham dự cuộc hành quân, tại căn cứ Hỏa lực 30, là tác giả quyển Hồi ký “Tử thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30, Hạ Lào” là viết sự thật. Ngoài ra tất cả bọn phóng viên Mỹ & Tây phương đều ở Khe Sanh, hằng ngày nhìn cảnh máy bay tải thương xác lính và thương binh về tới tắp. Từ đó chụp hình, diễn dịch rồi gửi về nước, nói là QLVNCH đã thảm bại tại Hạ Lào, giống như hồi Tết Mậu Thân (1968).

Riêng làng báo Sài Gòn cũng vậy, vì không có ai vào tận chiến trường để chứng kiện sự thật, nên chỉ đành “chôm chỉa tin từ báo Mỹ” rồi “Mao Tôn Cương thành trận đánh cuối cùng không có đại bàng ‘rằng’ VC đâu có quân số đông đảo để đánh QLVNCH, mà chỉ sử sụng hỏa pháo. Ở đây làm gì có kho tàng như tình báo đã báo cáo láo”. Tóm lại theo họ thì QLVNCH vì sợ hỏa lực của VC nên bỏ chạy. Có đọc những tin tức của báo chí Sài Gòn lúc đó, mới thấy máu của người Lính Miền Nam đã đổ suốt cuộc chiến để bảo vệ cho “đám này”, thật là uổng phí và tội nghiệp cho những kẻ đã nằm xuống truớc ngày 30-4-1975.

Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ sinh mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục danh dự, thì đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do khi đã biết được sự thật cùng ý nghĩa của cuộc chiến mà người Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới giờ phút cuối cùng. Ngoài ra còn có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân và gia đình người dân qua cuộc đổi đời, cũng đã trở thành nạn nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thành, nên đã công khai giúp và theo chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào mình.
Trong lúc đất nước đang lâm nguy vì giặc xâm lăng phương Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xã hội miền Nam, không phân biệt sang hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người khốn khổ vì chiến tranh do Hồ Chí Minh và cộng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng vào để dầy xéo non sông tổ quốc, thì tại hậu phương Miền Nam có một số người tự nhận mình là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều đang độ xuân thì, mập mạnh nhưng lại tìm cách đứng bên lề cuộc chiến bằng đủ mọi lý do để được hoãn dịch, trốn nghĩa vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu vì sợ chết mà trốn đi lính, thì cũng còn có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để yên cho đồng bào và đất nước mình đang trăn trở trong cơn đau bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết, ngoài cái lý tưởng đã thu lượm được, qua sách báo tây phương phản chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xã hội chủ nghĩa, trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất, đàn bà và thời gian để đâm thọc, phá hoại những người đang liều mạng xả thân bảo vệ mạng sống thừa thãi ký sinh của mình.

Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lý tưởng, ai muốn gọi thế nào cũng đều có ý nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, thì đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ 17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da sáo thịt để tranh giành quyền lãnh đạo của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng chủ thuyết cộng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.
Chính bọn trí thức thiên tả này đã lợi dụng quyền tự do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ tiền tuyến, đang liều chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh mạng ký sinh của chúng.

Cuối cùng, VNCH đã sụp đổ, kéo theo sự mất mát toàn diện mà người Việt QG đã tốn xương máu xây dựng. Người chạy thoát ra nước ngoài tuy không bị đau đớn thể xác nhưng tinh thần và sự dằn vặt, cũng đã làm cho họ điên đảo suốt quãng đời lưu vong nơi xứ người. Tội nghiệp nhất, cũng vẫn là Lính phải còng lưng cúi đầu gánh chịu những thảm tuyệt của kẻ thù man rợ, những điều mà chắc chắn thế giới tự do không hề nghĩ tới, vậy mà vẫn tới trong địa ngục trần gian của các nước cộng sản, trong đó có CSVN.
Ngoại trừ một số rất ít khôn ngoan hay có thân nhân VC bảo lãnh, hầu hết các cấp Quân, Công, Cán, Cảnh của Nam VN đều chịu sự hành hạ nơi chốn lao tù. Chúng bắt tất cả Sĩ quan và cán bộ, công chức, cảnh sát VNCH vào tù, qua cái gọi là “Trại Cải Tạo” để đánh lừa thế giới, về sự dã man tàn ác đối với tù nhân chiến tranh, trái với công pháp quốc tế đã qui định. Hầu hết các trại tù đều lập ở Miền Bắc và Bắc Trung Phần, phía bên kia vĩ tuyến 17. Tại Miền Nam, trại tù nằm trong rừng núi cheo leo, ma thiêng nước độc, để lao động khổ sai, chết dần mòn vì sự hành hạ của quản giáo và nỗi cực khổ, đói lạnh nhưng ăn uống thì thiếu thốn với khẩu phần hằng ngày, chỉ lưng chén cơm gạo xấu, trộn với khoai bắp, còn những người bị biệt giam thì đói khát vì phần ăn phát rất ít. Nói chung là không còn bút mực nào để kể cho hết nỗi hận hờn tủi nhục của người tù dưới chế độ CS. Ðói quá nên người tù phải ăn tất cả những gì có trước mặt như rắn, rít, ếch nhái, chuột, giun đất, cào cào… kể cả cỏ chai và cỏ diệu, thay cơm để đủ sức chống chọi với tử thần, lúc nào cũng như chực chờ sẵn bên cạnh:
Ngày hành xác giữa núi rừng hoang vắng,
đêm ôm đầu thương tiếc chuyện ngày xưa
bạn bè đến đây càng lúc càng thưa
thằng nằm xuống, thằng đày sang trại khác
thằng chống lại thì xác thân tan nát
thằng bệnh đau thân xác cũng không còn
đem xác người đi phá núi dời non
đem mạng sống để gỡ mìn tháo đạn
thay trời dẫn nước vào sông đã cạn
thay trâu kéo cầy phá vỡ ruộng hoang
buổi sáng gượng vui nhìn lúa trổ bông
nửa đêm khóc thầm đời lính bất hạnh
tôi đã sống qua những ngày đói lạnh
tôi đã nhét đầy tài liệu buồn nôn
kiểm điểm nghìn câu cho tốt tốt hơn
để theo đảng biến người thành khỉ vượn
.

(thơ mường giang)
Lính sống bị trả thù đã đành, cho tới những người lính đã chết, CSQT cũng không tha, thì nói chi thành phần Thương Phế Binh, Cô nhi Tử sĩ của VNCH, lại càng bị đọa đày thê thảm. Tất cả năm tháng dù nay đã đi vào quân sử nhưng sự thật vẵn còn nguyên trước mắt, với hai cảnh đời hiển hiện như một chứng tích nghìn đời không phai mờ: Ðó là địa ngục VN sau 38 năm bị giặc chiếm đóng và giá trị đích thực của QLVNCH từ 1960-1975, đã có rất nhiều cấp chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn võ vẹn toàn, được đào tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Ðông Nam Á thời đó gồm các Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, Bộ Binh Thủ Ðức, Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát, Trường Ðại Học Quân Sự… chứ đâu phải chỉ có những tướng tá từ thời Pháp thuộc?
Ngày xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi trở về cũng thật hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết lại mối tình xưa:
“…xin vì chàng, xếp bào cởi giáp
xin vì chàng giũ lớp phong sương
vì chàng tay chuốc chén vàng
vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng
…”

(Chinh Phụ Ngâm - Ðặng Trần Côn và Ðoàn Thị Ðiểm)
Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, vì suốt cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận thì chống trả với kẻ thù trong nỗi cô độc. Khi trở về lại bị kẻ thù đọa đày, tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.
Thử hỏi giữa cõi đời này, có quân đội nào bất hạnh hơn QLVNCH? Ngày nay, đã có không biết bao nhiêu người, đang sống thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết bản thân họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính. Không biết trong tâm tư đó, có một giây phút nào do lương tâm xao động, khiến trái tim người, chợt nghĩ tới những kẻ bất hạnh đã VỊ QUỐC VONG THÂN?
Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa để bảo quốc an dân. Nay những người lính già còn sót lại sau cuộc chiến và lớp hậu duệ của lính năm nào, cũng đã và đang tiếp tục tranh đấu không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống thật với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.
“…tội nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường dung ruổi đã phơi thây
đoàn quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co giẫm lối gầy
chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương khuất bến bờ
nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng hoàng hoa, khép giữa hư vô

(thơ Mường Giang)

Xin nghiêng mình trước đồng đội đồng bào đã hy sinh vì đại nghĩa Dân Tộc Việt. Cũng xin chân thành biết ơn Quý Ân nhân đồng hương khắp mọi nẻo đường viễn xứ, đã và đang hướng về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là Quả phụ, cô nhi và thương phế binh VNCH. đang kẹt ở quê nhà.
Từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Mường Giang


Nam California kỷ niệm Ngày Quân Lực

khánh thành bia tưởng niệm chiến sĩ VNCH

Quân QLVNCH dàn hàng đón tiếp trong Ngày Quân Lực. (Hình: Uyên Nguyễn/ Người Việt)

WESTMINSTER (NV) – Ngày Quân Lực VNCH 19 Tháng Sáu tại Nam California vừa được Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH Nam California tổ chức vào sáng Chủ Nhật, 18 Tháng Sáu tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, thành phố Westminster, với nhiều sự việc đặc biệt.
Hàng trăm đồng hương cựu quân nhân QLVNCH đã đến tham dự rất đông. Trong số quan khách, có Thượng Nghị Sĩ California Janet Nguyễn, đại diện Dân Biểu Lou Correa cùng nhiều dân cử của hai thành phố Westminster và Garden Grove.
Phía các hội đoàn cựu quân nhân, ban tổ chức cho biết có sự hiện diện của hầu hết các quân binh chủng của QLVNCH trước năm 1975.
Chủ Tọa buổi lễ Ngày Quân Lực năm nay là cựu Đại Tá Cổ Tấn Tinh Châu.
Những lễ nghi quân cách đã được ban tổ chức thực hiện long trọng với cuộc tiếp đón vị chủ tọa và đoàn Hầu Kỳ gồm các cựu quân nhân thuộc mọi binh chủng rước Quốc Quân Kỳ lên lễ đài.
Trên lễ đài dưới chân Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ là một tháp bút ghi ơn Chiến Sĩ VNCH.
Chủ tịch Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Nam California, ông Lê Văn Sáu đã khai mạc buổi lễ, nhấn mạnh đến ý nghĩa của buổi lễ và sơ lược về lịch sử Ngày Quân Lực.
Ông nói: “Sau 42 năm ly hương, người quân nhân QLVNCH vẫn giữ nguyên tinh thần ‘tổ quốc, danh dự, trách nhiệm’ của người lính trong QLVNCH nên hàng năm vẫn tổ chức Ngày Quân Lực để tưởng niệm đến những hy sinh của các chiến sĩ trong QLVNCH và cũng là để nhắc nhớ đến vai trò của người lính trong bất cứ một nhiệm vụ nào mà đất nước giao phó.”
Cũng nhắc nhở về ý nghĩa Ngày Quân Lực, vị Chủ Tọa Cổ Tấn Tinh Châu đã nêu cao danh dự và trách nhiệm của người lính VNCH với Tổ Quốc và Dân Tộc.
Ông nói: “Đó là niềm tự hào của chúng ta, của cả dân tộc chúng ta đã có được những người con yêu biết hy sinh cho Tổ Quốc, biết đem máu xương bảo vệ dân tộc. Bốn mươi hai năm đã qua nhưng người dân Việt vẫn chưa quên được những chiến tích của người lính VNCH trong các binh chủng Hải Lục Không Quân, từ đất liền ra ngoài biển cả góp vào lịch sử tranh đấu của dân tộc thêm những trang sử sáng chói. Nên, kỷ niệm Ngày Quân Lực, chúng ta vinh danh người lính VNCH, chúng ta hãy cụ thể hóa sự vinh danh ấy bằng sự đoàn kết thống nhất làm một mặt trận vững mạnh góp vào công cuộc giải thể chế độ Cộng Sản, kiến tạo một đất nước Việt Nam mới dân chủ, phú cường và hùng mạnh.”
Ngày Quân Lực năm nay, có sự tham dự của nhiều người trẻ tuổi, những thế hệ hậu duệ của QLVNCH và họ nói cũng thể hiện tâm huyết của mình. Thị Trưởng Trí Tạ cho biết: “Chính vì hiểu được sự hy sinh của người lính VNCH, các bậc cha anh mà chúng tôi đã vận động thành phố cho phép xây dựng thêm bia Tưởng Niệm đến những chiến sĩ VNCH tại công viên Tự Do này, bên cạnh Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ và hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau cắt băng khánh thành.”
Nam California kỷ niệm Ngày Quân Lực, khánh thành bia Tưởng Niệm chiến sĩ VNCH

Đồng hương vây quanh Tượng Đài Chiến sĩ VNCH trong phút khánh thành. (Hình: Uyên Nguyễn/ Người Việt)

Thượng Nghị Sĩ Janet Nguyễn đã chuyển Nghị Quyết Vinh Danh Ngày Quân Lực 19.6 của Quốc Hội Tiểu Bang đến buổi lễ. Bà nói: “Trước đây Quốc Hội tiểu bang đã đưa ra Nghị Quyết ghi nhận Tháng Sáu là tháng của Ngày Quân Lực VNCH và nay là Nghị Quyết Vinh Danh Ngày Quân Lực chúng tôi đệ trình đã được Quốc Hội thông qua. Thời gian đã qua 42 năm nhưng mọi người chúng ta vẫn nhớ đến những hy sinh của người chiến sĩ VNCH.”
Một đại diện cho tuổi trẻ, cô Christy Linh Lê cùng một số bạn trẻ đã bước lên sân khấu biểu tỏ lòng ngưỡng mộ sự hy sinh, chiến đấu của người lính VNCH dù đã khuất nhưng “Anh hùng tử, khí hùng bất tử.”
Một điểm khác nữa trong buổi lễ Ngày Quân Lực năm nay là Học Khu Giáo Dục Westminster năm nay, theo lời đế nghị của tân hội viên của hội đồng, cô Nguyễn Thế Thủy đã trao 4 giải cho các em thuộc học khu đã trúng giải trong một cuộc thi vẽ với đề tài “Cái Giá Của Tự Do.”
Cô cho biết: “Ngay khi vừa được đồng hương bầu cho vào Hội Đồng Giáo Dục của Học khu Westminster, tôi đã phối hợp với tổ chức cựu chiến binh Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam và các cựu chiến sĩ trong Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Nam California xin được tổ chức cuộc thi vẽ này cho các em thuộc học khu Westminster mà số học sinh gốc Việt chiếm một tỉ lệ khá lớn. Đề tài chúng tôi đưa ra là ‘Cái Giá Của Tự Do’ để gợi cho tuổi trẻ trong học khu biết đến giá trị của tự do mà chúng ta đang được hưởng. Sự gợi ý này đã giúp cho các em gốc Việt nhớ đến cuộc đi tìm tự do của gia đình mình và đồng bào của mình trong cuộc vượt biển vĩ đại làm rung động lương tâm thế giới. Một trong 4 em đã vẽ một chiếc thuyền vượt biển đang lênh đênh ngoài biển khơi trên đó hàng trăm con người đang chen chúc nhau tìm đường đến tự do, thoát khỏi chế độ Cộng Sản.”
Một điểm khác nữa được mọi người chú ý cũng trong ngày lễ Ngày Quân Lực năm nay là thành phố Westminster đã khánh thành Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa trong công viên Tự Do của thành phố, bên cạnh Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ trong dịp lễ Ngày Quân Lực.
Dù buổi lễ đã kéo dài nhưng người tham dự vẫn còn ở lại tiếp tục những tiết mục khác như tuổi trẻ Việt Nam “Choàng vòng hoa chiến thắng” lên những cựu quân nhân đang mặc quân phục, và tham dự một chương trình ca nhạc đấu tranh do ban Tù Ca Xuân Điềm giúp vui.
Trên đường về, ông Nguyễn Thế Quân, cựu chiến sĩ thuộc Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt vui vẻ nói với bạn bè: “Ngày Quân Lực đâu chỉ là ngày lễ của lính như nhiều người cứ lầm tưởng. Nay thì ý nghĩa của nó đã sáng tỏ khi chúng ta đi tham dự đông như thế này.”
Uyên Nguyễn/ Người Việt


 

Thư Liên Thành gởi 2 Trung tướng cộng sản VN

Phạm Ngọc Hùng và Nguyễn Chí Vịnh

Dịch heo nối tiếp dịch gà
Bao giờ dịch đảng cho bà con vui?

Ác độc tàn bạo sẽ tiếp tục ngự trị nếu những người có lương tri giữ thế im lặng.

* * *

Orange County, California. USA. Ngày 15 tháng 6 năm 2017
Thư của Liên Thành, tác giả tác phẩm “Trận chiến tình báo, phản tình báo giữa VNCH/CIA và tình báo cộng sản Hà nội.”
Nơi gởi: Liên Thành
P.O.Box 6147 Fullerton, Ca. 92834 USA.
Cell Ph: 626-257-1057
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.; This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
Nơi nhận: 1/ Trung tướng Phạm Ngọc Hùng Tổng cục Trưởng, Tổng cục 2. [2014-Hiện tại] Hà Nội, Việt Nam
2/ Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh Thứ trưởng Quốc phòng chính phủ cộng sản Việt Nam Nguyên Tổng cục Trưởng, Tổng cục 2 [2002-2009] Hà Nội, Việt Nam

Hai Ông Phạm Ngọc Hùng, Nguyễn Chí Vịnh.
Nhiều năm trước và hiện tại, Tổng cục 2 của các ông đã tung ra nhiều huyền thoại, những thần tượng, tưởng như chuyện thần tiên của trẻ thơ về những nhân vật Tình báo của các ông khi hoạt động tại miền nam Việt Nam trước 1975, như:
- Trần Quốc Hương tự Mười Hương, tên thật là Trần Ngọc Bang. Thuộc Cục Tình báo Chiến Lược. Cấp bậc Thiếu tướng
- Đại tá Lê Câu chỉ huy Cục 2 Quân Báo Miền Nam
-“Điệp viên hoàn hảo” Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn
-Vũ Ngọc Nhạ, Thiếu tướng, Cụm Tình báo Chiến Lược A-22
-Điệp viên Trần Ngọc Hiền, Cụm Tình báo A-26
-Điệp viên Bùi Đình Đệ tức ông Sáu Già, Cụm Tình báo A-54
-Điệp viên Đại tá Quân Đội Nhân Dân Phạm Ngọc Thảo [cũng là Đại tá QLVNCH].
Đặc biệt nhân vật Thiếu tướng Mười Hương tức Trần Quốc Hương được Tổng cục 2 các ông ca tụng trong trong một cuốn sách: “Trần Quốc Hương- Người Thầy Của Những Nhà Tình báo Huyền Thoại.”
-Vũ Ngọc Nhạ trong tác phẩm “Ông Cố Vấn”, và cũng đã được đóng thành Film.
-Phạm Xuân Ẩm trở thành một “Điệp Viên Hoàn Hảo”.
-Đại tá Lê Câu…
Thậm chí một số thuộc loại tép rêu như Lê Hữu Thúy, Trần Ngọc Hiền v.v. cũng được ca tụng tận trời xanh...

Mục đích của đảng cộng sản Việt Nam và Tổng cục 2 muốn gì?
Đảng cộng sản Việt Nam và các ông Tổng cục 2 muốn bôi đen thay trắng, đánh lừa đồng bào Việt Nam, đánh lừa các nhà viết sử khi viết về cuộc chiến tranh Việt Nam, đem sự thật biến thành sự dối trá, đem thất bại biến thành chiến thắng.
Thật là hổ thẹn cho đảng cộng sản Việt Nam, Tổng cục 2, và chính các ông. Đảng cộng sản Việt Nam là một đảng cướp, muôn đời vẫn là đảng cướp, tên chúa đảng cướp Hồ Chí Minh và đám lâu la thuộc hạ các ông, những kẻ xuất thân từ trường mẫu giáo núi rừng Trường sơn vạn kiếp vẫn là những kẻ ngu dốt, gian manh, hạ tiện, đổi trắng thay đen, phỉnh gạt láo lường.
Sự thật đã không như các ông phổ biến ca tụng, mà sự thật quả là quá phũ phàng, tất cả những nhân vật mà đảng cộng sản của các ông và chính các ông ca tụng là: “Người Thầy Của Những Nhà Tình báo Huyền Thoại” là “Điệp viên Hoàn Hảo” là “Ông Cố vấn” tối cao, là “anh hùng” là “liệt sĩ”, tất cả bọn chúng, và toàn bộ tổ chức, cùng nhân viên của bọn chúng đã bị các cơ quan Tình báo của Đệ I và Đệ II Việt Nam Cộng Hòa bắt giữ. Từ Thiếu tướng Tình báo Trần Quốc Hương tức Mười Hương, đến Đại tá Lê Câu, Thiếu tướng Tình báo Vũ Ngọc Nhạ. Vũ Ngọc Nhạ bị bắt đến 2 lần. Lần thứ nhất bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt của ông Dương Văn Hiếu dưới thời Đệ I VNCH bắt giữ. Sau một thời gian được giáo dục, y quyết định trở về hợp tác với cơ quan Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung, hằng tháng y được phát lương như tất cả anh em trong đoàn. Sau khi Đệ I VNCH sụp đổ, Vũ Ngọc Nhạ tái hoạt động trong tổ chức Tình báo Chiến Lược A-22 lần này y và toàn bộ tổ chức Tình báo Chiến Lược A-22 sa lưới Trung tá Nguyễn Mâu, Trưởng Ngành Cảnh Sát Đặc Biệt của Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, Đệ II VNCH.
Ngoài ra, Cụm A-22 còn có những nhân vật sau đây bị bắt giữ:
-Huỳnh Văn Trọng
-Phạm xuân Hòe
-Lê Hữu Thúy, Phái khiển Tình báo
-Lê hữu Ruật
-Bùi Nhượng Thắng
-Lê thị Nuôi.
Và năm mươi [50] cơ sở của bọn chúng bị bắt giữ, tất cả đã bị truy tố trước tòa.
Nói về nhân vật Phạm Xuân Ẩn mà đảng cộng sản và Tổng cục 2 đã biến hắn ta thành một nhân vật huyền thoại, thần thánh, trong giới Tình báo của Tổng cục 2, họ cũng không quên phong cho Nguyễn Ngọc Ẩn lên cấp Thiếu tướng Anh Hùng lực lượng vũ trang.

Vậy Phạm Xuân Ẩn là?
Phạm Xuân Ẩn sinh ngày 12/9/1927, tại Bình Phước, Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai. Mất ngày 20/9/2006.
Bí danh Trần văn Trung hay Hai Trung. Mật danh X6.
-1956 y là nhân viên của bác sĩ Trần Kim Tuyến, phục vụ tại cơ quan Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng Thống, Đệ I-VNCH.
-1957 Bác sĩ Trần Kim Tuyến đã gởi Phạm Xuân Ẩn sang Hoa Kỳ học khoa báo chí tại tại Đại Học Cộng Đồng gọi là Community College tại trường Orange Coast College, thuộc Orange County, California. Hệ thống giáo dục tại Hoa Kỳ thì các College chỉ có 2 năm mà thôi. Sinh viên ra trường với văn bằng Associate. Nếu muốn lấy cử nhân 4 năm [BS hay BA] phải chuyển lên học tại các University.
-1960 về nước, được ông Trần Kim Tuyến bố trí làm tại Việt Tấn Xã.
-1963 đến năm 1964 làm cho hãng tin Reuter.
-1966 làm cho tờ Time.
Về “Huyền thoại vĩ đại” của Thiếu tướng “Điệp Viên Hoàn Hảo” Phạm xuân Ẩn, theo tài liệu đã giải mật của cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ CIA thì “điệp viên Hoàn Hảo” của Tổng cục 2 cộng sản Hà Nội Phạm Xuân Ẩn đã được CIA tuyển mộ, huấn luyện, trở thành “Điệp viên nhị trùng”.
Như vậy Tổng cục 2 Tình báo Chiến Lược Hà Nội của các ông đã xài đồ giả “Made in CIA” trong khoảng 15 năm [từ 1960-1975] do Phạm Xuân Ẩn giao cho các ông, mà các ông chẳng phát hiện được, cũng chẳng biết là đồ giả “Made In CIA” thật quá tệ. Đề nghị nên đem cái tên Tổng cục 2 Tình báo Chiến Lược của các ông bỏ vào toilet bấm cho nó trôi theo... cho xong, cho đỡ ngượng, nên lắm thay!
Tôi đề nghị đổi lại danh xưng Thiếu tướng Tình báo “Điệp Viên Hoàn Hảo” Phạm Xuân Ẩn là: “Điệp Viên Hoàn Hảo 2 Mang”.
Người miền Bắc thường nói “cầm nhầm” có nghĩa của người khác mà mình lại nói là của mình, người Huế thì nói là “nhìn lạm”, hai danh từ đều đồng một nghĩa. Đảng cộng sản Việt Nam và Tổng cục 2 các ông đã “cầm nhầm” hay là “nhìn lạm” Phạm Xuân Ẩn rồi đó.
Ngày 30/4/1975 Thiếu tướng Tình báo Phạm Xuân Ẩn ở lại Sài Gòn. Thế nhưng vì không hoàn hảo, nên Tổng cục 2 nghi ngờ Phạm Xuân Ẩn, gọi Phạm xuân Ẩn ra Hà Nội để làm tờ tự khai và bị thẩm vấn hơn một năm trời. Sau đó Phạm Xuân Ẩn là một tù nhân, bị quản thúc tại gia, đã bị canh gác, giám sát chặt chẽ, cấm xuất ngoại, cho đến ngày chết, là ngày 20/9/2006.
Di chúc của Thiếu tướng Tình báo cộng sản Việt Nam Phạm Xuân Ẩn trước khi chết là: br/>“Khi tôi chết, xin đừng chôn tôi với những người Cộng Sản.”
Hai ông Trung tướng Tình báo Phạm Ngọc Hùng hiện là Tổng cục Trưởng,Tổng cục 2, và Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đương kim Thứ Trưởng Quốc Phòng, Chính Phủ cộng sản Việt Nam, Nguyên Tổng cục Trưởng Tổng cục 2, vui lòng giả thích lời trăn trối của Thiếu tướng Tình báo Phạm Xuân Ẩn của các ông, cho toàn thể quốc dân đồng bào Việt Nam nghe được không? Tại Sao Phạm Xuân Ẩn lại ghê tởm người cộng sản các ông như vậy.
Chưa xong, xin hai ông Trung tướng Phạm Ngọc Hùng và Nguyễn Chí Vịnh đọc những tài liệu những nhận xét do chính người của hai ông, chính cơ quan Tổng cục 2 phúc trình lên Bộ Chính Trị Đảng cộng sản Việt nam về thành quả bi thảm của Tổng cục 2 tại miền Nam Việt Nam.
Xin hai ông hãy đọc một đoạn nói về hoạt động của Đoàn Công Tác Đặc Biệt do những cán bộ cao cấp của Việt Cộng ghi lại sau ngày 30/4/1975.
Trong cuốn hồi ký mang tên “Bội Phản hay Chân Chính?”, Dư Văn Chất, Phái khiển của cụm Tình báo chiến lược A-22 đã viết:
“Đây là một ngành an ninh đích thực, nhưng là một ‘siêu tổ chức’ với nhiều đặc thù mà không có bộ máy nào của Ngụy so sánh được. Nó tập trung quyền lực cao độ: cực quyền, với các phương thức hoạt động hết sức tinh vi, hiểm độc và táo bạo. Trong cái nhà tù không song sắt, Công an Mật vụ cùng với kháng chiến Việt Cộng ăn chung, ngủ chung, chơi chung và công tác chung. Chuyện khó tin mà có thật, và chỉ có được trong thời điểm lịch sử nhất định. Bắt đầu từ cuộc đấu tranh chính trị đòi hỏi hiệp thương tổng tuyển cử cho tới tiếng súng Đồng Khởi hạ màn kết thúc. Thành tích chống Cộng của Mật vụ Ngô Đình Cẩn – Dương Văn Hiếu thật diệu kỳ. Chúng đánh phá vào cơ quan đầu não của các Đảng bộ miền Trung như Liên Khu Năm, Tỉnh ủy Thừa Thiên, Thành ủy Huế rồi Đà Nẵng. Tiến xuống phía Nam, chúng tấn công cơ sở Đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn, Thủ Biên, Cần Thơ. Nổi bật nhất là Mật vụ Miền Trung đánh bắt gọn các lưới Tình báo Chiến Lược của ta trải suốt từ Bến Hải tới Sài Gòn trong vòng chỉ một năm.”
Chính Trần Quốc Hương cũng đã nhìn nhận:
“Cái chủ trương bao trùm của Ngô Đình Cẩn là chuyển hướng tù nhân, đối tượng là những người kháng chiến nằm vùng hoặc từ Bắc vào. Ai có bị bắt, bị nhốt trong các nhà lao ấy mới thấy sự thâm hiểm của chúng. Ngô Đình Cẩn thường nhốt chung năm bảy người vào một cụm. Chúng nó vẫn cho ăn, uống, đi lại, thậm chí có thể gởi mua sách báo đọc. Nhốt từng buồng giam nhưng như kiểu không nhốt, có khoảng cách khó hiểu, để mọi người nghi ngờ lẫn nhau, muốn đoàn kết vẫn không đoàn kết được.”

Hai ông Trung tướng, Tổng cục 2 Tình báo Phạm Ngọc Hùng, Nguyễn Chí Vịnh,
Tôi Liên Thành, không là nhà văn, lại càng không phải là một nhà viết sử. Tôi hoàn toàn không có khả năng làm hai việc đó. Tôi chỉ là một người người trẻ vào giai đoạn 1960-1975 khi mà miền Nam của chúng tôi đang bị quân thù cộng sản miền Bắc của các ông xua quân xâm lăng. Tôi và bạn hữu rời bỏ sân trường đại học, lăn xả vào cuộc chiến, kề vai chống đỡ khổ nạn của Tổ Quốc, của Quê Hương. Bảo vệ sinh mạng và tài sản của đồng bào trước làn sóng xâm lăng của Bắc quân cộng sản miền Bắc các ông.
Chúng tôi chiến đấu cho lý tưởng Quốc gia, không hận thù, không mặc cảm, hãnh hiện là người lính Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ đồng bào, bảo vệ non sông, đất nước.
Từ 1963-1965 tôi là sĩ quan đại đội trưởng đại đội tác chiến,
1966-1975 Tôi là sĩ quan Tình báo, phản gián, của Quân Lực VNCH và Cảnh Sát Quốc Gia VNCH. Một người đối đầu với các ông trong trận chiến Tình báo tại Tỉnh Thừa Thiên-Huế, trong gần mười năm. Có thể nói tôi là chứng nhân và cũng là tác nhân trong giai đoạn đó.
Trước những dối trá, phỉnh gạt đồng bào và các nhà viết sử, về cuộc chiến Tình báo tại miền Nam Việt Nam, giữa Tổng cục 2 Tình báo cộng sản Hà Nội và các cơ quan Tình báo Đệ I và Đệ II Việt Nam Cộng Hòa. Các ông đã tạo dựng một số người của các ông thành thần tượng Tình báo với chiến thắng lẫy lừng. Thật ra đã không đúng với sự thật. Các ông đã thoa son trét phấn, đã thần tượng hóa Mười Hương, Vũ Ngoc Nhạ, Lê Câu, Phạm Xuân Ẩn, trong khi đó thì sự thật tất cả bọn họ đã là tù nhân của chúng tôi, của các cơ quan Tình báo Đệ I và Đệ II VNCH, ngoại trừ Thiếu tướng Tình báo Phạm Xuân Ẩn của các ông, là điệp viên nhị trùng của cơ quan Tình báo Hoa Kỳ CIA. Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo Việt Nam Cộng Hòa (CIO), và Ngành Cảnh Sát Đặc Biệt đã biết Phạm Xuân Ẩm là nhị trùng của CIA, nên không đụng đến, không bắt hắn ta, vì đó là nguyên tắc.
Nói chuyện nguyên tắc tôi xin kể hai ông nghe mẫu chuyện nhỏ, để hai ông rõ hơn về trường hợp Phạm Xuân Ẩn tại sao không bị các cơ quan Tình báo Đệ I và Đệ II VNCH bắt giữ.
Câu chuyện như sau: Vào niên học 1971 cũng là thời gian sắp có cuộc bầu cử Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa nhiệm kỳ II tại miền nam Việt Nam. Tại Huế, sinh viên Đại Học Huế biểu tình chống bầu cử, chống chương trình quân sự học đường, chống chiến tranh, và đuổi quân đội Mỹ về nước. Cuộc biểu tình này do Sinh viên Trần Hoài, Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên, hắn là người của Thành ủy VC Huế. Cạnh Trần Hoài còn có sinh viên Đại học Y khoa Sài gòn, Huỳnh Tấn Mẫm, từ Sài Gòn ra Huế phối hợp với Trần Hoài. Huỳnh Tấn Mẫm là người của Thành đoàn VC Sài Gòn, người của các ông.
Cuộc biểu tình này do người bạn đồng minh thắm thiết của chúng tôi là Hoa kỳ, và cộng sản nội thành Huế đứng phía sau. Phía Mỹ, để sửa soạn dư luận tốt cho việc rút quân, còn phía cộng sản các ông là gây xáo trộn bất ổn tại Huế.
Lực lượng an ninh chúng tôi biết rất rõ mục đích của Mỹ và Việt cộng.
Tôi đích thân chỉ huy và đàn áp không nương tay cuộc biểu tình này. Bắt giữ một số sinh viên trong đó có Trần Hoài và Huỳnh Tấn Mẫm.
Tại Trung Tâm Thẩm vấn Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế, tôi trực tiếp thẩm vấn Huỳnh Tấn Mẫm.
Cuộc thẩm vấn chưa được 10 phút thì có tiếng gõ cửa, cửa mở, người đứng ngay cửa không ai khác hơn là viên Cố vấn Mỹ CIA, Ngành Đặc Biệt của tôi. Hắn nháy mắt với tôi, và tôi ra ngoài với hắn. Mười lăm phút sau tôi ký giấy phóng thích Huỳnh Tấn Mẫm. Hai Ông Trung tướng Tổng cục 2 Tình báo Chiến Lược VC biết tại sao tôi thả Huỳnh Tấn Mẫm không?
Vì Huỳnh Tấn Mẫm là Điệp Viên Nhị Trùng của CIA. Hắn vừa làm cho Thành đoàn Cộng sản của các ông tại Sài gòn, mà hắn cũng là người của CIA nằm vùng trong tổ chức Thành đoàn của các ông tại Sài gòn.
Tôi thả Huỳnh Tấn Mẫm theo yêu cầu của Cố vấn CIA, vì hắn là điệp viên của cơ quan Tình báo bạn CIA.
Trường hợp Huỳnh Tấn Mẫm cũng giống như trường hợp Thiếu tướng Tình báo Phạm Xuân Ẩn của Tổng cục 2 của các ông.

VỀ MẶT TÔN GIÁO VẬN
Thích Trí Quang người của Cục Tình báo Chiến Lược các ông, hắn cũng là của Cơ Quan Tình báo CIA Hoa Kỳ, nghĩa là hắn làm 2 mang, hay đúng đắn Trí Quang là nhân viên “Nhị Trùng”. Đây là tài liệu giải mật của CIA.
Ngoài ra ngoài hai điệp viên thuộc loại “thượng đẳng” của Tổng cục 2 gởi từ Hà Nội sang Ấn Độ từ Ấn Độ về Nam Vang, Cao Miên, vượt Tây Ninh lên Ấn Quang Sài gòn, là Đặng Phúc Tuệ tức Thích Quảng Độ đã bị Tổng Nha Cảnh Sát Công An Đệ I Việt Nam Cộng Hòa bắt giữ.
Riêng Điệp Viên Đinh Văn Nam tức Thích Minh Châu được Cục Quân báo gởi qua Ấn Độ rồi dùng Thích Trí Quang áp lực với Phản tướng miền Nam là Tướng Nguyễn Khánh cấp Visa cho Đinh văn Nam đến Sài gòn làm Viện Trưởng Đại Học Vạn Hạnh vào năm 1964. Cũng nhờ vậy, mà cơ quan Cảnh Sát Đặc Biệt Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, đã bám sát, theo dõi Đinh văn Nam nên đã phát hiện được một số lớn các cơ sở nội thành trong giới trí thức và Sinh viên tại Sài Gòn.
Riêng tại Huế thì các cơ sở Tôn Giáo Vận của Trung tá Hoàng Kim Loan, Cục Tình báo Chiến Lược, như Thích Thiện Siêu,Thích Như Ý, v.v. tất cả đều bị lực lượng cảnh Sát Đặc Biệt CSQG Thừa Thiên phát hiện bắt giữ cùng với Trung tá Điệp viên Hoàng Kim Loan.

Hai ông và tôi, chúng ta đều biết rằng cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-30/4/1975) có ba mặt trận rõ ràng đó là:
1-Mặt trận quân sự
2-Mặt trận Chính trị
3-Mặt trận Tình báo.
1. VỀ MẶT TRẬN QUÂN SỰ
Quân đội Nhân Dân cộng sản miền Bắc đã nhiều lần đụng trận với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, từ những đơn vị nhỏ bé nhất, những đơn vị thuộc lực lượng diện địa như Nghĩa Quân, Địa Phương Quân, đến các đơn vị Chủ lực quân là các Sư Đoàn của các Quân Đoàn, Quân Khu trên 4 Vùng Chiến Thuật I, II, III và IV. Cũng như các đơn vị Tổng trừ bị của Quân Lực VNCH: Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Các Liên Đoàn Biệt Kích, Biệt Động Quân, Lực Lượng Đặc Biệt, Lực Lượng Biệt Hải, Lực Lượng Người Nhái…
Các Chiến tích anh hùng,các chiến thắng lừng danh, vang dội thế giới của Quân Lực VNCH vẫn còn đó như:
Lao Bảo, Khe Sanh, Ben-Het, Đắc-Tô, Bình Giả, Chiến Khu D, Cái Nước, Đầm Dơi, U Minh. Bình Long, An Lộc, Plei-Ku, Kontum,Trị Thiên, Đông Hà, Cổ Thành Quảng Trị, v.v.
30/4/1975 chúng tôi không phải người thua cuộc như các ông đã rêu rao, chúng tôi đã bị buộc phải buông súng, chúng tôi bị bức tử, vì sự phản bội của người bạn đồng minh Hoa Kỳ. Vì sự chia chác quyền lợi kinh tế, chính trị, ngoại giao, của Hoa Kỳ, Trung Cộng, và Nga Sô.
Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, bị xóa sổ bởi ba bàn tay khổng lồ đó, chứ không phải đảng cộng sản Việt Nam, và quân đội Nhân Dân của các ông. Các ông không bao giờ làm nổi điều đó đối với chúng tôi: NHỮNG NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HÒA và CSQG/VNCH.
Còn miền Bắc các ông, tự phong là kẻ thắng cuộc, sao lại cam tâm đi làm tôi tớ cho mấy thằng Chệt Trung cộng quỷ đỏ phương Bắc. Về điểm này, từ tên Chúa Đảng Cướp Hồ Chí Minh, đến đám thủ hạ lâu la Phạm Văn Đồng, Lê Duẫn, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Chí Thanh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Ngọc Hoàng, Nguyễn Chí Vịnh, v.v. tất cả đều hả hê vui sướng, được phong cho là kẻ chiến thắng, làm lũ chó săn tay sai cho Tàu Chệt Trung Cộng. Các ông đem giang sơn gấm vóc của Tiền Nhân để lại, cúi đầu dâng biển, dâng đất, dâng lãnh thổ, dâng đồng bào cho đám Tàu Chệt Trung Cộng.
Tóm lại, về mặt trận quân sự ai là kẻ thắng cuộc, hay thua cuộc, xin dành lại cho các nhà bình luận, các nhà viết sử… nhận định, phân tích, bàn luận. Họ sẽ không quên trong cuộc chiến vừa qua, Tàu Chệt Trung cộng đã gởi qua miền Bắc một triệu quân [1,000,000] tham chiến cùng với các ông.

2. VỀ MẶT TRẬN TÌNH BÁO
Trận chiến Việt Nam kết thúc vào ngày 30/4/1975 khi mà chiếc xe tăng T-54 của cộng sản Bắc Việt ủi sập cổng dinh Độc Lập của miền nam Việt Nam. Nhìn vào cảnh đó, có nhiều người nghĩ rằng đó là kết thúc của một cuộc chiến tranh quy ước. Thật ra không đúng, cuộc chiến tranh Việt Nam từ đầu đến cuối [1955-1975], là một cuộc chiến tranh phi quy ước, đó chính đích thực là cuộc chiến tranh nổi dậy.
Trong cuộc chiến tranh phi quy ước, hay cuộc chiến tranh nổi dậy, giải pháp và kết quả Tình báo đứng vào hàng ưu tiên số một. Phe bên nào thành công trong công tác Tình báo diện địa và Tình báo chiến lược, phe bên đó là kẻ thắng cuộc.

Hai ông Trung tướng Tổng cục 2 Tình báo cộng sản Việt Nam Phạm Ngọc Hùng, Nguyễn Chí Vịnh,
Như tôi đã trình bày ở phần trên, cơ quan Tổng cục Tình báo Chiến Lược của các ông đã thất bại nặng nề khi đối đầu với các cơ quan Tình báo Đệ I và Đệ II Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là đối với Lực Lượng Cảnh Sát Đặc Biệt của Ngành Đặc Biệt, thuộc Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
Vậy mà các ông vẫn dối trá, phỉnh gạt, biến sự thất bại của các ông thành kẻ thắng cuộc, thật các ông chẳng có chút tự trọng nào cả.
Tôi có bổn phận phải vạch trần những gian dối, lừa đảo của các ông bằng những chứng minh rõ ràng, minh bạch, có căn cứ, nguồn gốc, xảy ra sự việc.
Đó là tác phẩm
“TRẬN CHIẾN TÌNH BÁO, PHẢN TÌNH BÁO GIỮA VNCH/CIA VÀ TÌNH BÁO CỘNG SẢN HÀ NỘI”
Đây không là một tác phẩm tiểu thuyết trinh thám như các ông đã viết về Mười Hương,về Vũ Ngọc Nhạ, về Phạm xuân, v.v. Mà đây đúng đắn là một tập tài liệu về Tình báo, vạch trần sự thật, những thảm bại của Tổng cục 2 Tình báo Chiến Lược, của Cục Binh Vận, Cục Đặc Công, khi đối đầu với chúng tôi, các cơ quan Tình báo của Đệ I và Đệ II VNCH.
Tác phẩm này sẽ ra mắt đồng bào hải ngoại vào tháng 9 năm 2017, và bằng cách này hay cách khác, sẽ được luân lưu đến tận tay đồng bào trong nước như ba [3] tác phẩm của tôi trước đây: 1. Biến Động Miền Trung, 2. Huế Thảm Sát Mậu Thân 1968, và 3. Thích Trí Quang Thần Tượng Hay Tội Đồ Dân Tộc để đồng bào trong nước thấy đâu là sự thật, đâu là sự dối trá của đảng cộng sản Việt Nam và sự thất bại nặng nề của Tổng cục 2 Tình báo cộng sản Việt Nam khi đối đầu với các cơ quan Tình báo Đệ I và Đệ II Việt Nam Cộng Hòa.
Trước đây các ông đã cho một nhân vật nữ tên gọi là Phong Lan, đạo diễn 12 tập Video phản biện lại tác phẩm Huế Thảm Sát Mậu Thân 1968 của tôi với lời lẽ chối tội: “Trên sáu ngàn [6,000] nạn nhân bị thảm sát tại Huế vào Mậu Thân 1968 là do bom đạn của Mỹ, Ngụy giết chết.” Nhưng đã không thành công, không thể thuyết phục được đồng bào, bởi vì bọm đạn nào giết chết đồng bào bằng những hố chôn sống hằng trăm nạn nhân với dây kẽm gai, dây điện trói hai tay?
Huế Thảm sát Mậu Thân là một sự thật, đảng cộng sản các ông đã dã man tàn sát trên sáu ngàn [6,000] đồng bào Huế vô tội. Tôi đã viết ra sự thật đó với những chứng cớ rõ ràng. Hồ chí Minh, Bộ Chính Trị đảng cộng Sản Việt Nam là thủ phạm, đã phạm tội ác chiến tranh, tội ác giệt chủng.
Nay Tác phẩm “TRẬN CHIẾN TÌNH BÁO VÀ PHẢN TÌNH BÁO GIỮA VNCH/CIA VÀ TÌNH BÁO CỘNG SẢN HÀ NỘI” ra đời. Tôi mong mỏi các ông phản biện lại những gì các ông có thể, theo thống kê những thảm bại của Tổng cục 2 các ông sau đây.

NHỮNG CẤP CHỈ HUY CỦA TỔNG CỤC 2 TÌNH BÁO CHIẾN LƯỢC HOẠT ĐỘNG TẠI MIỀN NAM BỊ BẮT GIỮ.
1. Thiếu tướng Trần Quốc Hương tự Mười Hương
2. Thiếu tướng Vũ Ngoc Nhạ
3. Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn nội tuyến, làm việc cho CIA.
4. Tù nhân quan trọng được Trung Tâm thẩm vấn của Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo Việt Nam Cộng Hòa [Trung Tâm Thẩm Vấn Quốc Gia] giam giữ cho đến ngày 30/4/1975 là:
Tư Trọng, Thiếu tướng, Thứ trưởng Công an cộng Sản Bắc Việt đã bị bắt tại vùng biển Miền Tây trong khi xâm nhập vào lãnh thổ VNCH.
5. Đại tá Lê Câu. Trưởng lưới Tình báo tại miền nam Việt Nam.
6. Trần Quang Thường vụ Tỉnh Đảng bộ Quảng Trị. Trần Quang được Đảng bộ Liên Khu 5 bổ nhiệm làm Trưởng lưới điệp báo từ Quảng Trị vào đến Phan Thiết và các tỉnh Cao Nguyên Trung Phần.
7. Nguyễn Vĩnh Nghiệp, Cán Bộ Đặc Trách Khu ủy Sài Gòn.
8. Tư Hùng, Cán Bộ Đặc khu Sài Gòn. Toàn bộ là đảng viên cộng sản nằm trong Tổng Liên Đoàn Lao Công của ông Trần Quốc Bửu bị sa lưới Đoàn Đặc Nhiệm Công Tác Miền Trung.
9. Tư Lung, Thường Vụ Liên Khu ủy Liên Khu 5, gồm các tỉnh Đảng bộ từ Quảng Trị đến Phan Thiết và Cao Nguyên Trung Phần. Nhiệm vụ của Tư Lung là điều hành và chỉ đạo mọi sách lược của đảng cộng sản đối với các tỉnh vừa nêu trên. Tư Lung bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm bắt ngay tại đường Cống Quỳnh Sài Gòn vào năm 1958.
10. Nguyễn Lâm, trưởng Ban Điệp Báo Liên Khu 5, bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào cuối năm 1957 tại Sài Gòn.
11. Minh Vân tức Đại tá Nguyễn Đình Quảng được Cục Tình báo chiến lược Việt cộng Hà Nội tung vào miền Nam theo những người di cư vào Nam năm 1954. Y bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào năm 1958.
12. Trần Tấn Chỉ, nguyên phó Trưởng Ban Tình báo thành phố Hải Phòng, cán bộ chuyên nghiệp trong ngành Tình báo Chiến Lược. Theo lệnh của Tổng cục Trưởng Trần Hiệu xâm nhập miền Nam hợp pháp, bằng cách nhập vào đoàn dân di cư vào Nam 1954. Tại Sài Gòn y đã len lỏi vào làm việc tại cơ quan USIS của Tòa Đại Sứ Mỹ. Trần Tấn Chỉ bị Đoàn Công Tác Miền Trung phát giác hành tung và bắt giữ vào năm 1958.
13. Đại tá Văn Quang tức Trang Công Doanh, cán bộ nòng cốt của Cục Tình báo Chiến lược. Đại tá Văn Quang theo đoàn người di cư vào Nam năm 1954. Y được Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn cộng sản đưa vào làm việc tại cơ quan USOM của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, Sài Gòn. Đại tá Văn Quang bị Đoàn Công Tác Miền Trung bắt vào 1958.
14. Lê Thanh Đường, Phái khiển Tình báo, thuộc Cục Tình báo Chiến Lược theo đợt di cư 1954 vào Nam. Nghề nghiệp hợp pháp tại Sài Gòn: Nhân viên Tổng nha Công Chánh tại Sài Gòn. Lê Thanh Đường bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt vào 1959.
15. Tôn Hoàng, Phái khiển Tình báo, Cục Tình báo Chiến Lược cộng sản. Theo đợt di cư 1954 vào Nam. Tôn Hoàng bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt năm 1959.
16. Dư Văn Chất, Phái khiển Tình báo, Cục TBCL cộng sản. Theo đợt di cư 1954 vào Sài Gòn. Chức vụ Trưởng Lưới Tình báo. Dư Văn Chất bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm 1958 tại Sài Gòn.
Sau 1975, Dư Văn Chất giữ chức vụ Ủy viên Thành ủy Đảng bộ TP/HCM kiêm Trưởng Ban Tuyên Huấn Thành ủy.
17. Nguyễn Văn Hội, Trưởng phòng Giao Thông Cục Tình báo chiến lược. Trước 1954, Nguyễn Văn Hội là Trưởng Ban Điệp Báo của Liên Khu ủy 5. Nhiệm vụ của Nguyễn Văn Hội là tổ chức hệ thống giao thông, giao liên của Cục TBCL Việt cộng tại Việt, Miên, Lào. Nguyễn Văn Hội bị Đoàn CTĐNMT bắt vào năm 1958.
18. Hoàng Hồ, Phái khiển Tình báo, Cục Tình báo Chiến Lược cộng sản. Hoàng Hồ là Chủ nhiệm Tuần Báo Trinh Thám tại Sài Gòn. Hoàng Hồ bị Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung bắt giữ. Sang Đệ Nhị Cộng Hòa, y là Dân Biểu.
19. Trung tá Hoàng Kim Loan Tổng cục 2 Tình báo Chiến Lược, Thành ủy viên Thành ủy Huế bị bắt vào tháng 5/1972 tại Huế.
20. Cụm Tình báo Chiến Lược A-22.
21. Cụm Tình báo chiến lượt A-54.
22. Cụm Tinh Báo Chiến Lược A-26.
Ngoài ra, cuốn “Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1955” của Bộ Quốc Phòng Hà Nội, Tập II (tr. 73 – 74) đã viết:
“Chỉ từ tháng 7–1955 đến tháng 2–1956, Mỹ–Diệm đã giết hại, giam cầm 93,362 cán bộ, đảng viên và những người yêu nước. Cơ sở đảng, cơ sở quần chúng bị tổn thất nặng.
Ở Tây Nam Bộ, sau hai năm thực hiện đấu tranh chính trị, đã có một đồng chí Phó Bí Thư Xứ ủy, 18 Tỉnh ủy viên, 100 Huyện ủy bị giết.
Tỉnh Thủ Dầu Một ta bố trí ở lại 1,647 đảng viên chỉ còn 260. Tỉnh Gia Định 3,000 đảng viên chỉ còn 350. Huyện Hàm Thuận (Bình Thuận) từ 656 đảng viên đến ngày 20/7/1955, chỉ còn 80 đảng viên, v.v.
Đặc biệt nghiêm trọng, do bị khủng bố dã man ở một số địa phương đã ra đầu hàng, tự thú với địch. Ở Bình Định, hầu hết đảng viên bị bắt đều khai báo tự nhận mình là đảng viên hoặc khai cho người khác. Hai huyện Nghĩa Hành và Đức Phổ (Quảng Ngãi), tính đến tháng 8–1955, có 80% đảng viên khai báo. Xã Phong Chương (Phong Điền, Thừa Thiên) có chi bộ 25 đảng viên ra đầu hàng 24 còn một phải chạy trốn. Một số đảng viên không tin ở đấu tranh chính trị thành công đã dao động, chạy dài, tránh né công tác, thậm chí có người tập ăn nhạt, uống ít nước để nằm hầm bí mật được lâu...”
Báo Công An Nhân Dân ghi nhận: “Hầu như nhiều vùng ở Thừa Thiên mất trắng. Đa phần cán bộ ta đã bị chúng bắt, cơ sở bị xóa. Một số ít dạt ra miền Bắc, lên xanh hoặc chuyển công tác vào phía.”
Điều này đúng, trên hơn ba ngàn [3,000] cán bộ từ Tỉnh ủy viên, Thành ủy viên, Huyện ủy viên, cán bộ an ninh Tỉnh, Thành, Huyện, cán bộ Đặc Công Thành, các Phái Khiển Tình báo, cơ sở kinh tài, các đường giây, các trạm giao thông, liên lạc… của các ông, tất cả đều bị lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thừa Thiên-Huế phá vỡ, bắt giữ, và vô hiệu hóa.
Đặc biệt tháng 5/1972, từ cán bộ Phái Khiển Tình báo Trung tá Hoàng Kim Loan, thuộc Tổng cục 2 Tình báo Chiến Lược của các ông, cộng với hơn một ngàn năm trăm [>1,500] cán bộ và hạ tầng cơ sở của các ông đã bị lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt Bộ Chỉ Huy CSQG/Thừa Thiên-Huế bắt giữ và vô hiệu hóa, trong cuộc hành quân mang tên Bình Minh của BCH/CSQG/Thừa Thiên-Huế, nhằm ngăn chận âm mưu tổng nổi dậy của các ông tại Cố Đô Huế.
Hai ông thử xem lại hồ sơ cũ, báo cáo cũ, xem có một lần nào các ông thực hiện được một cuộc khủng bố như tấn công, hay đặt chất nổ trong thành phố Huế trong vòng gần mười năm trời từ 1966-1974 hay không? Chắc chắn 100% là không. Không phải các ông không có âm mưu, chủ trương, muốn thực hiện các cuộc tấn công, ám sát, đặt chất mổ, trong thành phố Huế. Các ông đã có mưu toan thực hiện nhiều lần, nhưng lần nào cũng bị lực lượng Cảnh Sát Đặc Biệt BCH/CSQG/Thừa Thiện-Huế phá vỡ, bóp nát từ trong trứng nước.

Tóm lại:
TRẬN CHIẾN TÌNH BÁO GIỮA TỔNG CỤC 2 CÁC ÔNG, VÀ CHÚNG TÔI CÓ THỂ NÓI MỘT CÁCH RÕ RÀNG, CHÍNH XÁC RẰNG:
NGƯỜI THẮNG CUỘC LÀ CHÚNG TÔI, CÁC CƠ QUAN TÌNH BÁO CỦA ĐỆ I VÀ ĐỆ II VNCH, VÀ NHẤT LÀ NHỮNG CẢNH SÁT ĐẶC BIỆT CỦA NGÀNH ĐẶC BIỆT BỘ TƯ LỆNH CẢNH SÁT QUỐC GIA VIỆT NAM CỘNG HÒA.
KẺ THUA CUỘC LÀ CỤC TÌNH BÁO CHIẾN LƯỢC CỘNG SẢN BẮC VIỆT CÁC ÔNG.
Điều mong ước của tôi là được tranh luận với các ông về tài liệu lịch sử này, bằng mọi phương tiện truyền thông dưới sự tham gia của đồng bào và báo chí, truyền hình, Việt Nam tại hải ngoại và quốc tế, tại bất cứ nơi đâu, Hoa Kỳ, Canada, Âu Châu, Úc châu vào bất cứ ngày giờ nào.
Dám không?
Mong lắm thay.
Liên Thành
-Nguyên Thiếu tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa,
-Nguyên Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế,
-Nguyên Tổng Thư Ký Điều hành Ủy Ban Phượng Hoàng Thỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế,
Hiện tại là:
Trung Tâm Trưởng Trung tâm Điều Hợp Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng cộng sản Việt Nam.
P.O.BOX 6147
Fullerton, CA.92834. USA
Tele: 626-257-1057
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.; This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

http://nhayduwdc.org/

 

Đăng ngày 19 tháng 06.2017