banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Ngày xưa còn đó

Steve Tran


Viết tặng các anh chị để nhớ lại những ngày xa xưa khi mình còn chung sống dưới cùng một mái nhà


Hình chụp với Ba Mạ và các anh chị (1953)


Hai chữ “ngày xưa” thường là khởi đầu của những câu chuyện mà thời thơ ấu chúng ta thường nghe ông bà, cha mẹ dùng khi kể lại cho lũ trẻ những chuyện cổ tích hấp dẫn, khó quên. “Ngày xửa, ngày xưa”... chỉ chừng đó thôi cũng đủ để làm cho đôi mắt chúng ta lim dim, hồi hộp, chờ đợi thưởng thức.
Giờ đây, ở tuổi “thất thập”, ngồi buồn nhớ về những ngày tháng cũ, thử hỏi có cách nào khác hơn là lại dùng hai chữ “ngày xưa” để bắt đầu câu chuyện. Về già nhớ lại, nhắc lại chuyện cũ là một nhu cầu tâm lý, miễn là đừng ủy mị, khóc lóc, tiếc nuối, huyễn hoặc quá khứ là tốt rồi.

Khổng Tử, theo sách Luận Ngữ, đã chia cuộc đời con người thành sáu giai đoạn, khởi đầu là tuổi ba mươi và kết thúc ở tuổi… một trăm. Với Cụ, mười lăm năm đầu… coi gần như không có! Với tôi khoảng thời gian đó là thời gian đáng nhớ và để lại nhiều dấu vết nhất. Cũng có thể thế hệ của chúng tôi bị thời cuộc đẩy đưa vào cơn xoáy lịch sử, mọi dự tính của cuộc đời đã bị̣ xáo trộ̣n, nên những giai đoạn cuộc đời theo lời cụ Khổng đã không còn thích hợp.
“Tam thập nhi lập”, ba mươi tuổi đứng vững, tự lập cái nỗi gì khi vào tháng 4 năm 1975, ở tuổi 26, tốt nghiệp đại học gần được bốn năm, lấy vợ chưa đầy hai năm và làm "bố” tròm trèm chín tháng… thì miền Nam bị “đứt phim”, mọi dự tính tan theo mây khói. Làm thầy cô giáo mọi nơi, mọi lúc đã không đến đâu, sau ngày đổi đời lại còn thê thảm. Mang danh nghĩa giáo chức biệt phái, tôi cũng phải xách chiếu đi “học tập cải tạo” như mọi sĩ quan “ngụy” khác, nhưng nhờ may mắn trình diện tại địa phương công tác thay vì Sài Gòn, nên thời gian chỉ kéo dài chừng hơn ba tháng. Đi dạy trở lại với lương tháng 60 đồng mới mang hình cụ Hồ, vừa đủ để mua 100g cà phê loại dởm, thì lấy đâu mà “đứng vững" với "tự lập”?
Năm 1979, ba mươi tuổi, vượt biên lại thất bại, lại mất tiền, lại vào tù. Ra tù thì “được” cho nghỉ việc hoặc nói theo cách khôi hài đen là "mất dạy". Chợ Trời Chợ Đất sống lây lất qua ngày thì “Tam thập nhi lập” cái con khỉ… Ở lứa tuổi ba mươi, biết bao người thế hệ tôi, công danh sự nghiệp vừa đạt,  bỗng chốc thành mây khói, bị lùa vào các trại "cải tạo", bị đày ải, bị đói khát mút mùa, bị lao động khổ sai… ngày ngày vào rừng chặt cây, vác củi thì đúng là Tam thập nhi lập… cái con khỉ là đúng số rồi còn gì!

Vì chẳng có được một quá khứ vàng son để níu kéo, những thành tựu về công danh để luyến tiếc, nên khi nói về ngày xưa, tôi chỉ nhớ tựu trung những ngày tháng êm đềm lớn lên bên cha mẹ, anh chị trong căn nhà mang con số 13 trên đường Nguyễn Trường Tộ, Huế. Đây chính là nơi "chôn nhau, cắt rốn" của tôi. Nếu cuộc sống an bình, với văn hóa bao đời là luôn gắn bó với quê cha đất tổ, lẽ ra tôi cũng đã lập nghiệp tại thành phố này, trong căn nhà này, một thời gian thật dài, con cháu đầy đàn… Nhưng chẳng may, biến cố Mậu Thân 1968 (*) đã tàn phá tận tình thành phố hiền hòa thơ mộng của tôi và đã chuyển hướng gia đình tôi xuôi Nam trong cuộc sống mới tha hương.
Cật lực phấn đấu, hoàn tất đại đăng khoa, rồi tiểu đăng khoa, tưởng đã tạm yên, thế rồi ngày 30 tháng tư năm 1975, chiến tranh bỗng đột ngột chấm dứt ngoài mọi dự đoán, trong khi quân dân miền Nam tưởng vẫn còn cơ hội để tiếp tục chiến đấu. Đất nước tôi đã tức tưởi “thống nhất” dưới màu cờ đỏ, mọi dự tính lại phải xóa bỏ làm lại từ đầu. Trong một xã hội hoàn toàn đảo ngược, ông thành thằng, thằng thành ông, ráng nhắm mắt, bịt tai, bịt miệng để sống qua cơn bĩ cực nhưng coi cũng không xong. Năm 1981, sáu năm sau ngày miền Nam bị CS miền Bắc cưỡng chiếm, cùng đường kẹt lối, tôi lại ôm vợ con lần nữa vượt biển tìm đường sống. Sau nhiều lần thử thách thất bại, mất tiền, tù tội, cám ơn sự trợ giúp cật lực của cha mẹ, của các anh chị và sự che chở của ơn Trên, gia đình tôi may mắn đến được bến bờ tự do, không chút sứt mẻ trầy trụa.
Ở tuổi 32, “tam thập nhi lập”, vợ chồng tôi ôm mớ bằng cấp tiếng Tây tiếng U bỏ vô hộc khóa lại và lại loay hoay soạn lại cái cày, để cày lại từ đầu. Tôi là hiện thân của một Sisyphe của thời đại mới, phải đẩy mãi cuộc đời lên dốc núi, nhưng mỗi lần sắp đến đích… thì lại bị vấp ngã, để rồi phải làm lại từ đầu… chỉ khác là lần này, tôi sẽ không than vãn, không khiếu nại, chua chát. Có điều kiện để làm lại từ đầu, trên mảnh đất tự do, trù phú này đã là điều may mắn hiếm có rồi.
Bốn mươi hai năm đã trôi qua, mặc cho mọi đổi thay, thời gian, không gian, tuổi tác… những kỷ niệm xa xưa, những dấu tích, hình ảnh vẫn mãi khắc sâu trong tâm tưởng tôi. Với tôi, thời thơ ấu là một khoảng thời gian êm đềm và đáng nhớ nhất trong cả cuộc đời nhìn lại. Tôi đã sống trọn mười chín năm trong căn nhà đầu đời ấy, thời gian khá đủ để tôi có thể ghi nhận từng dấu vết trầy trụa, ngỏ ngách, cây cỏ… dù nhỏ nhất, nhớ từng khuôn mặt, tên tuổi, tánh nết của từng nhân vật, không những trong gia đình mà luôn cả bà con quen thuộc, láng giềng hàng xóm…
Bây giờ ở tuổi “Thất thập cổ lai hy”, dù cách xa ngàn vạn dặm, tôi vẫn trở lại căn nhà đó gần như mỗi đêm, lang thang, vất vưởng như một hồn ma. Căn nhà nguyên thủy đó đã không còn, phần bị sập đổ do chiến tranh, phần bị vùi dập qua thời gian dài bị cưỡng chiếm, hiện tại hầu như không còn gì để có thể nhận diện được… nhưng trong tôi, căn nhà đó mãi vẫn nguyên vẹn như ngày xưa cũ, không mảy may thay đổi. Hàng xóm, láng giềng vẫn mãi còn đó, không lão, không bệnh, không tử, vẫn những khuôn mặt thân quen ngày đó.
Tôi tin chắc là những người hiện đang cư ngụ trong khuôn viên nhà cũ của tôi thế nào cũng đã từng bị tôi… nhát. Đại khái đang đêm mở mắt ra, thấy một bóng trắng đứng tần ngần đâu đó ở góc phòng. Hoặc đi chơi về khuya, vừa bước vào sân nhà, đã thấy một bóng người đứng nhìn ra từ khung cửa sổ… Xin đừng hốt hoảng, không phải ma quỷ đâu, tôi đấy, tôi đang về thăm lại căn nhà cũ của tôi, đúng hơn, đó là vía của tôi, đang ghé về tìm kiếm những dấu tích xưa. Tôi nghĩ tôi được đặc quyền ra vào căn nhà đó mà không cần phải xin phép bất cứ ai. Đó sẽ mãi mãi là căn nhà của gia đình tôi. Căn nhà đó chưa bao giờ được bán buôn, sang nhượng cho bất cứ ai. Dù biết hay không biết, xin hãy nhớ, quý vị đang cư ngụ bất hợp pháp trên phần đất thân thương của tôi, vì vậy, nếu tôi có vô tình làm quý vị sợ hãi mỗi lần bắt gặp tôi giữa đêm khuya hiu hắt, xin quý vị hiểu cho.


Hình ảnh hiếm hoi và không trọn vẹn về căn nhà cũ mang số 13 đường Nguyễn Trường Tộ. Cực phải bức hình tiếp giáp với tư gia của gia đình họ Ngô.

Ngôi nhà ngày ấy
Khuôn viên nhà đất của gia đình tôi nằm liền lặn ở trên hai mặt đường: Nguyễn Trường Tộ và Phan Châu Trinh. Mặt tiền khu nhà ở xoay ra hướng đường Nguyễn Trường Tộ, đối diện với Hãng rượu S.I.C.A của Tây thời trước 1954, kéo dài tới tận cầu Phủ Cam, quẹo phải đường Phan Châu Trinh là dãy nhà cho thuê nối tiếp, nhìn thẳng ra hướng sông Phủ Cam.
Đường Nguyễn Trường Tộ chạy dài từ nhà thờ Phủ Cam, băng ngang cầu Phủ Cam, cắt ngang đường Phan Đình Phùng, sau đó là đường Nguyễn Huệ, chạy thẳng tới bờ sông Hương, đoạn chót chạy giữa hai trường trung học công lập nổi tiếng nhất ở Huế là Quốc Học và Đồng Khánh, trước khi đụng đường Lê Lợi. Dù là một con đường không dài lắm, nhưng đó là một trục lộ chính và rất quan trọng, luôn được chăm sóc, đặc biệt về các mục đèn đóm, vệ sinh, an ninh… lý do khá dễ hiểu là vì tư dinh của gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm nằm trên con đường đó, và chỉ cách nhà tôi vỏn vẹn có ba căn. Cũng trên con đường đó, phía bên kia cầu Phú Cam, có Tòa Tổng Giám Mục Huế. Đối diện là hai dãy phố của TTGM xây lên và cho thuê, vì vậy người ta thường gọi là dãy nhà Đức Cha. Mỗi dãy có chừng 20 hộ, mười ở tầng trệt và mười ở tầng trên. Căn nhà gần chót trên tầng hai, dãy nhà sát cạnh đường Phan Đình Phùng, nhìn ra sông Phủ Cam, là căn nhà của gia đình Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Phía bên này cầu, kế cạnh dãy nhà cho thuê ở số 70 A Phan Châu Trinh, bên kia hàng rào cây, là khúc đuôi của khu vườn nhà tôi, tiếp giáp với vườn nhà “Cậu Cẩn”. Trái với tưởng tượng của nhiều người, khu vườn của “Lãnh chúa Miền Trung” cũng chẳng có tường cao che chắn, chỉ có mấy hàng tre lưa thưa chạy dọc theo mương nước, và giây kẽm gai sơ sài ngăn cách. Vì vậy thời đó, hễ thấy có bụi măng nào khá khá vừa chớm mọc, là bọn tôi đã vội vượt biên ra tay thu hoạch ngay. Khu vườn của vị Cố Vấn miền Trung cũng chẳng thấy trồng trọt gì ngoài vài cây cam, cây quýt, tuy chưa ăn, nhưng tôi đã đoán chua lè, phần lớn để trống. Có thời gian ông Cậu làm chuồng nuôi nai hoặc mấy con mang (Một loại nai lớn), hoặc heo rừng. Tôi nhớ sau đảo chính 1963 lật đổ TT Ngô Đình Diệm, không biết nghe tin xách động của ai mà đông đảo đồng bào Phật tử tại Huế đã ùn ùn kéo đến vây quanh khu vực nhà Cậu Cẩn và trong đó dĩ nhiên có luôn nhà tôi, họ hô hoán trong vườn nhà ông Cố Vấn, cứ mỗi gốc cam là có một xác tăng ni, Phật tử. Thái độ của đám đông nhẹ dạ, hung hãn đó đã làm tôi thất vọng nhưng cũng kinh hãi không ít.

Vườn nhà tôi tuy nhỏ hơn nhưng nhiều loại cây hơn. Mít cũng được chừng ba bốn cây, mít ướt có, mít nghệ có. Dừa cũng bảy, tám cây: Dừa Xiêm, cây thấp, trái nhỏ và ngọt thanh, dừa lửa, vỏ vàng cam, và dừa xanh. Mỗi năm, má tôi, không biết học của ai, đều mua muối hột về, lấy giấy báo gói thành gói nhỏ, thuê người leo lên nhét vào các bẹ dừa, hoặc chế nước muối vào các bẹ dừa, nói làm vậy dừa sẽ sai trái và ngọt nước hơn. Riêng các bẹ dừa khô thì chẻ ra, phơi khô cùng với vỏ dừa và lá dừa, dùng để nhúm lửa rất tốt vì có chất dầu. Trong vườn còn có mấy cây cau, khế chua, khế ngọt, chanh, cam, xoài, mận, cây vã… kể cho lắm nhưng chắc tại đất đá không mầu mỡ, nên dù thuộc địa danh Phủ Cam, nhưng cam, quýt, xoài, mận vừa nhỏ, vừa chua, không ngon ngọt bằng mít và dừa.

Ngôi nhà tôi được bao quanh bởi một lớp hàng rào cây, cửa ngõ với hai cột xi măng vuông vức và hai cánh cổng bằng gỗ sơn màu xám. Sân trước nhà khá rộng có đoạn giữa từ cổng vào, được tráng xi măng, ngoài ra là sân đất, nhưng phần sân tiếp giáp với mặt tiền, cũng như đoạn đường bên hông nhà nối liền với vườn sau lại được trải bằng lớp đá cuội nhỏ. Hai cây nhãn tạo bóng mát cho mặt tiền. Thời đó, vào độ đầu hè mỗi năm, sau khi nhãn đơm bông kết trái, sẽ có người đến thương lượng để họ bỏ công lồng nhãn, nhằm tránh dơi phá. Thu hoạch xong, hai bên sẽ chia đôi.
Nói thì nói vậy chứ thời đó tôi và ông anh kế thỉnh thoảng “ăn gian”, ban đêm đột kích, leo lên cây, tìm cách đút tay vào lồng ngắt trái lớn để ăn. Chỉ tội nghiệp mấy con dơi bị đỗ thừa, nếu có thất thoát vào lúc thu hoạch.
Góc cùng tay trái sân trước có cây dừa xiêm, tuy thấp nhưng sai trái và thật ngọt, riêng góc phải, nằm sát cạnh hàng rào là một cây khế chua, không cao nhưng năm nào cũng mang nhiều hoa trái. Hoa khế nhuyễn, từng chùm màu hồng tím và thơm. Khế chua mà đem ngâm trong chậu nước mưa, sau khi hơi ủng, đem nấu canh với tôm ăn cũng rất ngon với mùi vị rất Huế. Ngoài ra khế chua cắt lát, ăn cặp với thịt heo ba chỉ, rau thơm, chấm mắm nêm pha loảng với chanh, tỏi, ớt, cũng rất chi là hấp dẫn.
Một cây mai vàng chừng hơn năm tuổi, trồng ngay cửa sổ phòng anh tôi, năm nào ba tôi cũng huy động hai anh em tôi vặt lá trước hơn cả tháng, đều đặn đơm hoa mỗi độ Xuân về, cho đến một đêm vào khoảng năm 65, chỉ còn chừng một tuần nữa là Tết, kẻ gian đành đoạn cưa ngang gốc đem đi giữa đêm tối. Còn từ nào thích hợp hơn để diễn tả ngoài chữ “vô hậu”?

Ngôi nhà của gia đình tôi ở khá rộng(*), một hàng hiên dài có mái che bằng ngói chạy dọc theo mặt tiền của nhà. Ngoài lối đi vào, hai bên được che chắn với một vách thấp có đục lỗ, với mặt phẳng khá rộng bên trên, buổi chiều ngồi đong đưa hai chân trên bờ vách đó, chờ “nghễ” mấy người đẹp Phủ Cam học Đồng Khánh tan trường về cũng là một kỷ niệm khó quên. Chẳng khác nào giám khảo ngồi ngay hàng ghế đầu trong các kỳ thi tuyển Hoa hậu.
Nhà có hai gian: bên phải là phòng khách chính với bộ salon khá cồng kềnh màu xanh lục. Ngoài ra còn có một bàn ăn dài dành khi có nhiều khách ăn. Cùng bên phòng khách này, còn có hai phòng riêng, dành cho con cái, theo ưu tiên tuổi tác và vai vế. Vì là con út nên ưu tiên của tôi thấp nhất. Tuy nhiên vào thời điểm năm Mậu Thân, khi các anh chị tôi đã rời xa mái ấm gia đình, một mình tôi mà có đến hai phòng.
Gian bên trái cũng là phòng khách và là nơi tiếp xúc, giao dịch của mạ tôi với các khách hàng mỗi ngày đến để “cầm” hoặc “chuộc” vàng. Trong gian nhà này còn có một bàn thờ khá lớn, bằng gỗ, thiết kế theo kiểu ở nhà Thờ, có “Nhà Tạm” và tượng ba đấng, chung quanh được che bằng màn voile mỏng. Một bộ salon bằng gỗ mun đen bóng, dáng thanh và mang nét tây phương. Một điều đặc biệt là thời đó nhà tôi có rất nhiều đồ gỗ với lối thiết kế rất lạ mắt, thanh nhã và mỹ thuật mà rất tiếc, tôi đã không biết rõ xuất xứ, khác biệt với các loại đồ gỗ Á Đông, nặng nề, thô kệch dù mắc tiền, mà nhiều đại gia thích phô trương qua mọi thời. Qua bao biến chuyển thời thế, chiến tranh, bom đạn, đặc biệt là biến cố Tết Mậu Thân, ngoài những thiệt hại, thất thoát về vật chất, còn rất nhiều những vật phẩm, trong đó có nhiều thứ linh tinh mang tính kỷ niệm, các thứ đồ gỗ như tủ, bàn ghế, cái máy đánh chữ hiệu Olympia của ba tôi, bàn máy may điện Elma của mạ tôi… ngay cả một tấm hình nguyên vẹn của ngôi nhà cũ cũng không còn. Mỗi lần nhớ đến những mất mát đó, tôi vẫn còn thấy ngậm ngùi, giá trị tình cảm của chúng vượt trội giá trị kim tiền, vì sẽ không bao giờ tìm lại được. Đã nhiều lần tôi muốn mướn một ai đó vẽ lại sơ đồ của căn nhà xưa, với các chi tiết nội thất mà tôi thuộc nằm lòng từng chi tiết.
Cũng giống gian bên phải, gian bên trái cũng có hai phòng riêng, một phòng dành cho ba má tôi, phòng còn lại được gọi là phòng “làm tốt”, tên gọi nghe lạ, nhưng đó là phòng thay áo quần và trang điểm của mạ tôi và các chị. Bộ bàn ghế trang điểm của mạ tôi bằng gỗ đánh vernis màu vàng mật ong, với tấm kính ovale để đứng, trông rất mỹ thuật. Trong phòng còn có một tủ lớn bằng gỗ mít khá lớn chứa chén dĩa khá xưa, Tây, Tàu lẫn lộn, các ly rượu đủ loại bằng thủy tinh mong manh dễ vỡ, các chén bát màu ngọc… được dùng khi có khách VIP. Không biết những của cải “phù du” đó đã được tích lũy, trân quý từ bao lâu, qua bao nhiêu đời, nhưng trong buổi sáng ngày mồng ba Tết Mậu Thân, chỉ trong một giây, với một tiếng nổ kinh hoàng, tất cả đã trở về với tro bụi, khi một trái đại bác mà tôi nghĩ là của quân đội Mỹ - đã bắn sập toàn bộ nửa bên phải của nhà tôi - trong nỗ lực tiến chiếm lại thành phố Huế đã bị Cộng quân tấn công và chiếm đóng trong hai mươi sáu ngày đầu của mùa xuân năm 1968.

Hình ba tôi đang đứng trước căn nhà bị thiệt hại nặng sau Tết Mậu Thân. Phía sau là căn nhà bếp vẫn còn đứng vững

(*) Một điều đáng lưu ý, trong ký ức của mỗi người, khi nhớ lại, hoặc kể lại về ngôi nhà cũ, ngôi trường cũ, khu vườn cũ, dòng sông xưa… đều thường mắc phải lỗi lầm là mô tả chúng lớn hơn là trên thực tế. Lý do đơn giản là những hình ảnh đã được ghi nhận vào ký ức khi chúng ta còn bé tí teo, chưa đi xa bao giờ nên cũng chẳng có gì để so sánh, nên nhìn cái gì cũng thấy to bự hẳn lên. Càng lớn lên, nhất là sau khi đi xa một thời gian, qua nhiều nơi, trong nước, ngoài nước, đến khi trở về lại chốn cũ, thấy cảnh vật dường như teo hẳn lại.

Phòng ba tôi có hai cửa sổ, một nhìn ra hướng vườn sau và giếng nước, cửa kia nhìn ra mặt sau của dãy nhà cho thuê. Cái tôi nhớ nhiều nhất trong phòng ba tôi là cái radio Phillips thật bự, với ánh đèn xanh luôn làm tôi liên tưởng đến con mắt mèo. Tôi với ông anh tôi hay theo dõi một cách hăng say các cuộc giao đấu bóng tròn, qua phóng sự truyền thanh hấp dẫn của ký giả Huyền Vũ, hoặc các vở kịch nói của ban Dân Nam của ông bầu Anh Lân vào mỗi chiều thứ năm, với các kịch sĩ nổi tiếng thời đó như Túy Hoa, Túy Phượng, Kim Cương, La Thoại Tân hoặc chương trình nhạc ngoại quốc luôn được mở đầu bằng  bản Apache nổi tiếng của ban nhạc The Shadows vào những năm 60(*). Riêng ba tôi thì quanh năm, ngày nào cũng nghe đài BBC Luân Đôn vào lúc 7:30. Ba tôi còn nghe lén đài Hà Nội. Sở dĩ nói là “nghe lén” vì thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chính phủ cấm nghe đài của địch, mà khổ nỗi cái gì cấm lại kích thích người ta làm. Tuy nhiên cũng chỉ cấm lấy lệ vậy thôi, vì tôi chưa nghe ai bị bắt bỏ tù vì vi phạm điều đó.
Đó cũng chính là cái yếu điểm và sai lầm của người dân miền Nam, lợi dụng thái độ tương đối dễ dãi của chính quyền để tự đầu độc với các tin tức nặng phần tuyên truyền, khích động, láo khoét của kẻ địch. Không thể nào chối bỏ cái tai hại của sự tự đầu độc của người nghe. Người Mỹ thường nói: “You are what you eat”. Nghe cũng vậy thôi, nghe nhiều lần, năm này qua năm khác, nước chảy đá mòn, người nghe dần dà bị tiêm nhiễm bởi những lời tuyên truyền có lợi cho địch mà không biết. Nói đâu xa, ngay cả ở thế kỷ 21 này, trên những đất nước văn minh với truyền thống dân chủ lâu đời như Mỹ, Pháp… mà người dân, vì lý do riêng tư nào đó, đã chọn tiếp cận một cách thiếu dè dặt vào các nguồn tin bất chánh, xuyên tạc do kẻ thù tung ra nhằm đầu độc, hủy hoại niềm tin vào chính quyền sở tại, tạo sự chống đối, nghi kỵ giữa các phe nhóm nhằm thủ lợi là điều khó chối cãi.

(*) https://youtu.be/EzgbcyfJgfQ  Mời nghe lại bản “Apache” cùa ban nhạc The Shadows.

Nối tiếp phía sau là phòng ăn của gia đình với mái đúc bê tông và một nhà bếp thật rộng, với mái ngói, được chia thành nhiều khu: Một gian riêng biệt làm nơi ngủ của các chị giúp việc, ở một góc trống, có một cối xay lúa và một cối đá thật bự để thỉnh thoảng xay lúa ở làng đem vào. Thời đó nhà tôi chia làm hai phe, ba tôi với bà chị đầu ăn gạo “ruộng”, tức gạo lức bây giờ, riêng mạ tôi và những người còn lại thì ăn gạo trắng. Ngày nào nhà bếp cũng nấu cùng lúc hai loại gạo khác nhau. Cách một vách ngăn là khu nhà bếp, lò đun bằng củi, nằm ở bệ cao có ống thoát khói. Cạnh cửa sổ là một cái giường tre để ngồi khi làm bếp, đồng thời cũng là nơi ngồi ăn của các người làm. Kê sát vách là một cái cũi đựng thức ăn qua đêm, bốn chân tủ được kê trên bốn cái chén đầy nước để tránh kiến, dán bò. Thời còn nhỏ, sau bữa ăn gia đình, tôi thường lén xuống bếp để được ăn chung với các chị người làm. Tôi rất thích món cơm cháy ăn kèm với các món dân dã mà các chị thường làm thêm. Lần nào cũng vậy, mấy chị luôn cưng và chiều chuộng tôi như một vị khách quý trong bữa cơm tương đối đạm bạc của họ. Khu rửa chén bát có một bễ nước lớn, kế đó là khu để chứa rơm, than, củi.
Một kỷ niệm gắn liền khu đựng rơm, củi này. Thời đó tôi khoảng 10, 11 tuổi. Một hôm đi học về, tôi xuống bếp chơi trong lúc mạ tôi đang nấu bếp. Tôi lui hui lấy hộp quẹt đốt mấy con dán ai ngờ lửa bắt qua đống rơm và cháy lan. Tôi hốt hoảng la: “Cháy! Cháy!” May mà mạ tôi ở gần đó, bà xách vội nồi canh đang nấu đổ vào đám lửa và múc tiếp nước ở bễ để dập tắt đám cháy nhỏ. Mạ tôi chỉ la sơ, nhưng ông anh đầu của tôi không biết từ đâu xuất hiện, bắt tôi lên nhà trên, vừa la lớn tiếng, vừa phạt tôi quỳ gối. Tôi vừa kịp thút thít thì Mạ tôi đã vội vàng can thiệp, bà nói: ”Thôi tha cho em nó đi, dù răng hắn cũng khôn, biết la cầu cứu, không thì cháy nhà rồi". Hú hồn.

Khu vườn nhà tôi hình chữ L, nối tiếp khu nhà bếp, kéo dài đến tiếp giáp với khu vườn Cậu Cẩn, quẹo trái ôm hông phải của khu nhà cho thuê và đâm thẳng ra hướng đường Phan Châu Trinh.. Tiếp giáp vách sau nhà bếp, có một chuồng nuôi gà. Xứ nghèo nên con vật cũng bị ảnh hưởng, nuôi gà vịt chủ yếu để ăn thịt, nhưng thỉnh thoảng cũng nuôi vài con để lấy trứng, nhưng chúng chỉ đẻ trứng lai rai. Đã thế, hồi đó thỉnh thoảng ban đêm còn có nạn ăn trộm, khi thì trộm dừa, khi thì trộm gà, khi thì trộm… gốc mai. Đang đêm nghe tiếng chó sủa, tiếng gà kêu oác oác là biết có đạo tặc. Đang khuya khoắt, nghe tiếng ba tôi vừa ngái ngủ, vừa la: “ăn trộm! ăn trộm!”, tôi sợ đến nổi da gà… Mà đâu có ai xa lạ, cũng mấy tên bất lương chuyên phá làng, phá xóm trên họ đạo chứ có ai khác? Đôi khi bị rượt, chúng vừa chạy, vừa cười hô hố, vừa quay lại chửi khổ chủ.
Cạnh chuồng gà, có một giàn trầu gần gốc cây vông, cũng đủ để cung cấp trầu tươi cho mạ tôi. Trong vườn sau có chừng bốn cây mít, trong đó có hai cây mít ướt, tuy trái nhỏ nhưng sai múi và ngon. Có một cây vả chắc cũng đã nhiều năm, lá bự, ít trái, thân cây khá gồ ghề nằm vắt ngang qua hàng rào kẽm gai vườn “Ông Cậu”. Thế hệ bây giờ, nhất là những người trẻ lớn lên ở thành phố lớn hay ở hải ngoại, chắc không biết và sẽ không có dịp để biết trái vả này. Thân cây gồ ghề, lá lớn như tai voi, trái tương tự trái sung, nhưng lớn hơn, trái mọc từ thân cây, ăn khi trái lớn cỡ trái quít và còn xanh, vị chát. Thường để ăn kèm với khế chua khi ăn thịt heo ba chỉ luộc, chấm mắm ruốc trộn với chanh, tỏi. ớt… đúng là đầy đủ mùi vị cuộc đời: chua, cay, mặn, chát. Trong vườn có trồng mấy cây chuối cau, trái cũng đủ ăn lai rai, ngoài ra còn để xử dụng lá. Chuối hột là một giống chuối hoang, trái bự hơn chuối thường, như tên gọi, chuối đầy hột, rất khó ăn dù rất thơm và ngọt thanh. Mạ tôi hay dùng chuối hột chín, tách cơm bằng cách chà chuối vào cái rá có lỗ thưa. Với phần chuối thu hoạch, mạ tôi dùng làm nước chấm bánh khoái bằng cách trộn với đậu phụng rang giã nhuyễn, tỏi, ớt, tương cự đà…

Gia đình tôi và một vài sinh hoạt đáng nhớ

Mạ tôi:  Ông Ngoại tôi thuộc Hoàng Phái dòng Minh Mạng, có đến ba đời vợ. Bà thứ nhất có với ông một con trai, nhưng về sau ông ly thân, với lý do là bà không đồng ý cải đạo theo ông, khi ông quyết định theo đạo Công Giáo. Bà thứ hai là bà ngoại ruột của tôi có với ông sáu người con, ba trai, ba gái trong đó mạ tôi đứng thứ tư. Bà Ngoại tôi mất sớm, nên ông tôi lại lấy bà ngoại sau là em gái của bà Ngô Đình Khả, mẹ cố Tổng Thống Diệm, cũng là người cùng địa phương ở Phủ Cam. Bà này sinh thêm cho ông 6 người con, hai trai bốn gái. Rõ ràng thang thuốc “Minh Mạng” là chuyện có thật chứ đâu phải chỉ là chuyện hoang đường, đồn đại!
Mồ côi mẹ sớm, trong một gia đình đông anh chị em, dù ông ngoại tôi lập lại gia đình, nhưng thay vì đi học chữ như phần lớn các anh chị em khác, mạ tôi tình nguyện ở nhà để phụ ông ngoại chăm lo cho các anh chị và đặc biệt là các em còn nhỏ. Vì vậy trong số 6 bà dì của tôi, tuy là nữ nhi nhưng hầu hết đều được đi học, người học ít, người học nhiều và theo Tây học, riêng mạ tôi thì lại tự nguyện… thất học. Tuy nhiên với tư chất thông minh, mạnh dạn và lòng yêu thương gia đình, mạ tôi đã hết lòng thực hiện ý nguyện đó không những trong thời gian sống với ông Ngoại mà ngay cả khi đã lập gia đình với ba tôi. Đã vậy, mạ tôi lại biết cách ăn ở, trên dưới phân minh trong giao tiếp, nên mạ tôi luôn được sự tin tưởng, nể trọng và thương yêu không những của ông Ngoại tôi, mà còn của các anh chị em khác, bên Nội cũng như bên Ngoại.
Không lâu sau khi lập gia đình với ba tôi, không biết do cơ duyên nào hoặc qua sự chỉ vẽ của ai mà mạ tôi tổ chức dịch vụ “Cầm vàng” (Gold pawn shop) (**) ngay tại tư gia nhưng không mang bảng hiệu. Sau nhiều năm hành nghề, dịch vụ được nhiều khách chủ biết đến và tín nhiệm mà không cần một bảng hiệu hoặc quảng cáo nào, đặc biệt trong khu vực họ đạo Phủ Cam. Bọn tôi thời đó hay chọc mạ tôi: “Khách chủ của mạ còn đông hơn khách của Cậu Cẩn nữa!”
Bọn tôi luôn nể phục trí nhớ đặc biệt của mạ tôi. Số khách hàng mỗi ngày khá tấp nập, thông thường trên mười người, đôi khi nhiều hơn, bao nhiêu chi tiết cần nhớ như: tên khách hàng, mặt hàng giao dịch, số tiền liên hệ… vậy mà đợi đến tối mạ tôi mới ghi vào sổ sách. Thời gian ngắn sau bữa cơm tối gia đình là tới giờ “Dĩ sổ” (Ghi vào sổ) với sự giúp đỡ của ba tôi hoặc về sau là của các chị tôi. Mạ tôi kể tên vanh vách từng người một. Đại khái “Mụ” H, cầm sợi dây chuyền 2 chỉ, 800 đồng… Chị G. chuộc cái nhẩn khâu rựa, 1 chỉ, 450 đồng… không sai sót, không ngập ngừng, thế mới là tuyệt! Mà có bao giờ tôi thấy mạ tôi ghi chép gì đâu. Ngoài trí nhớ ngoại hạng, mạ tôi, do đã hành nghề rất lâu năm, còn có khả năng phân biệt vàng giả, vàng thiệt mà không cần phải thử lửa. Chỉ cần cầm trong tay là mạ tôi đã biết thật giả và đã có thể đoán được trọng lượng. Một vài lần kẻ gian bị mạ tôi chỉ mặt vì mang cầm đồ giả đã năn nỉ xin tha.
Tiếng là cơ sở làm ăn nhưng đồng thời cũng là “ngã ba thông tin”, một hãng Thông tấn nho nhỏ ghi nhận tin tức địa phương, đó còn là một văn phòng xã hội mà ngày nào mạ tôi cũng nghe những lời than thở, tâm sự của khách hàng, nào chuyện gia đình, chồng con, sức khoẻ, tiền bạc… nhiều lúc kèm theo tiếng khóc thút thít… Mạ tôi buôn bán rất sòng phẳng nhưng phải tật hay mủi lòng. Câu châm ngôn quen thuộc của bà là: “Ăn cho, buôn so”, có nghĩa thấy người ta đói hoặc hoạn nạn thì cho ăn, hay giúp đỡ, nhưng khi buôn bán thì phải so đo, tính toán.
Thấy ai gặp khó khăn thế nào bà cũng tìm cách giúp đỡ, không giảm tiền lời thì cũng tăng giá trị món hàng, bằng không cũng một lời an ủi, khuyên răn hay một ít tiền dúi vào túi. Đa số khách hàng của mạ tôi là những người tương đối bình dân, chật vật, thuộc giới công chức, quân nhân cấp thấp, tiểu thương. Không nghèo thì tội gì phải mang đi cầm thế đồ của mình? Tóm lại, qua dịch vụ này, mạ tôi đã có thể không những tiếp tay với ba tôi để nuôi sống gia đình mà còn giúp đỡ được nhiều người trong khả năng của mình.

(**) Cũng giống những tiệm cầm đồ khác nhưng dịch vụ chỉ giới hạn vào các vật dụng bằng vàng 24K hoặc 18K phần lớn dưới dạng đồ trang sức như: Giây chuyền, kiềng, xuyến, nhẩn (Khâu rựa), bông tai… Khách hàng cần tiền mặt đem vàng lại cầm. Sau khi cân đo, món đồ được định giá, theo giá biểu vàng trong ngày. Khách hàng sẽ nhận số tiền với lời hứa sẽ trở lại chuộc trong vòng 3 đến 6 tháng. Lúc chuộc lại món đồ, ngoài số tiền họ đã nhận trước đó, họ sẽ trả thêm tiền lời nhiều ít tùy theo thời gian ngắn hay dài. Thời đó chưa có “Credit bureau” nên phân lời áp dụng đồng nhất không phân biệt. Đại khái cũng chỉ là hình thức vay tiền có thế chấp. Qua thời gian quy định, nếu khách hàng không trở lại để chuộc hoặc không xin triển hạn, nhà chủ có thể bán món đồ thế chấp để lấy lại vốn.

Mạ tôi là cư dân Huế, lại gốc gác các “Mệ” nhưng ăn uống tương đối đơn giản, không cầu kỳ, bà ăn rất ít và thích ăn cá hơn ăn thịt, với nhiều rau quả. Cũng có thể do mạ tôi, như phần lớn những người mẹ, người vợ Việt Nam khác, hay có “tật” nhường nhịn những món ăn nào ngon cho chồng con, phần mình chỉ đụng đũa vào các món ăn “ế ẩm”, lâu ngày thành thói quen chăng? Suốt đời tận tụy, thương yêu, phục vụ chồng con, vun đắp cho gia đình, thú vui ít ỏi của mạ tôi là ăn trầu. Là người ít học, lại ra đời sớm, mạ tôi tánh tình thực tế, chẳng có giấc mơ nào to lớn về con cái. Bà hay nhắc lại, khi bọn tôi còn bé, nhất là con trai, mạ tôi chẳng dám mơ gì hơn là mong cho chúng có được cái bằng “Primaire” để có thể… xin vô làm Cảnh sát, có tiền nuôi thân và gia đình. Vì vậy, về sau mỗi khi thấy bọn tôi thi đỗ, nhất là khi tốt nghiệp Đại Học, bà rạng rỡ ra mặt, nghĩ rằng những lời cầu nguyện chân thành của mình đã được Ơn Trên chấp nhận.
Riêng con gái, tôi có cảm tưởng hình như bà đặt nhiều kỳ vọng hơn, có thể vì điều đó có vẻ đơn giản hơn và không đòi hỏi ở bà một trình độ văn hóa nào cả, với lại thời đó mấy bà chị của tôi cũng khá xinh xắn và cũng có nhiều nơi ngắm nghé. Tuy ít la mắng, kỷ luật con cái, nhưng thú thật bọn tôi sợ mạ hơn sợ ba. Khi nào bọn tôi có lỗi gì, chỉ một cái nhìn nghiêm khắc của mạ tôi là bọn tôi “teo” liền. Bữa cơm nào cũng phải có mặt đông đủ, đúng giờ, ngay cả khi học lên Đại Học rồi cũng vậy thôi. Bữa tối cũng có giới nghiêm, còn khắc khe và sớm hơn cả giới nghiêm thành phố thời chiến nữa. Lúc còn ở với cha mẹ, tôi không nhớ có ai trong bọn tôi được cấp giấy phép để được ngủ đêm nhà bạn bè và ngay cả nhà bà con. Ba tôi thì tương đối dễ tánh hơn, ngoại trừ lúc ông nỗi giận.
Tuy thương con nhưng mạ tôi không cưng chiều, nếu không nói là hơi khắt khe nữa là khác. Ít khi tâng bốc, đề cao con mình, như một số cha mẹ khác, khi nói về con cái mình với người khác. Lối giáo dục này theo tôi có cái dở là làm cho con ít tự tin nhưng cũng có cái hay là làm cho con cái không có tánh cao ngạo, dễ hòa đồng, gần gũi trong giao tiếp.

Mạ tôi nấu ăn rất ngon, dù có người giúp nhưng bà luôn hiện diện và chủ động trong chọn lựa thực đơn mỗi ngày và luôn tự tay nêm nếm để thích hợp với khẩu vị của chồng con. Các loại bánh Huế mạ tôi đều rành rẽ: bánh nậm, bánh bèo, bánh ít, bánh ram, bánh quai vạt và đặc biệt nhất là bánh khoái, món ăn mà cha con bọn tôi đều “khoái”. Vào cái thời “hoang sơ” đó, muốn làm các loại bánh Huế phải mang gạo hoặc nếp nguyên hột đi thuê xay chứ đâu có sẵn bao bì để mua đem về như bây giờ, có khi còn phải pha chế thêm.
Nói về nem tré thì mạ tôi làm tré rất đạt, riêng nem thì phải mua vì thời đó làm nem từ thịt heo sống nên cũng nhiêu khê. Phần khác là trong họ Đạo tôi có “Mụ Vỹ” làm nem rất ngon và nổi tiếng, phải nỗi cái nem của mụ mỏng nằm trốn gọn trong gói lá chuối thật dày. Đại khái nói nôm na là tám phần lá, hai phần nem. Mở gói nem vô ý không tìm thấy nem là chuyện đã xảy ra cho tôi.
Hồi nãy giờ, tôi đã dài dòng tuyên dương mạ tôi, điều đó quả chính xác, tuy nhiên vẫn còn một số “thành tích” đặc biệt và khó tin, đại khái những “missions impossibles” mà mạ tôi đã thực hiện được,  mà tôi đây là một nhân chứng:

1- Mạ tôi có hai Cậu em, một người, cậu em Bửu Triều, được ông Ngoại tôi cho ra học Y Khoa Hà Nội, sau đó lập gia đình và ở lại lập nghiệp ở đó. Riêng người anh là cậu Bửu Phát, để tránh tình hình chiến tranh lan rộng, đã theo một số gia đình bên ngoại  tôi tản cư ra làng Mỹ Chánh, quê Nội của tôi để tạm lánh, nhưng xui xẻo cậu bị Việt Minh bắt vì nghi ngờ là việt gian và giải giao ra miền Bắc khoảng năm 1947. Sau năm 1954 khi đất nước bị chia cắt bởi Hiệp Định Genève, hai cậu tôi bị kẹt lại. Qua việc giao tiếp, mua bán, mạ tôi được giới thiệu với một người đàn bà người Nghệ An hay Hà Tĩnh gì đó. Ngoại hình bà này trông khá “ngầu”, bà cho biết thường xuyên vô ra miền Bắc để buôn bán, hiển nhiên là thuộc giới làm ăn lậu, vì lúc đó miền Bắc đã sống dưới chế độ CS và việc đi lại trong cùng miền đã là khó khăn rồi, nói chi đến chuyện vượt biên qua lại giữa hai bên thù nghịch. Tuy nhiên sau khi tìm hiểu, mạ tôi dúi tiền cho bà ta nhờ tìm kiếm tông tích của hai cậu em, căn cứ theo những tin tức nghèo nàn mà gia đình có được trước đó. Mạ tôi còn hứa hẹn là sẽ thưởng lớn nếu tìm cách cứu được họ đem về. Sau thời gian một vài tháng, người đàn bà đó xuất hiện trở lại và cho biết đã tìm được tông tích của cậu Phát đang hành nghề y tá ở Quảng Bình. Với những bằng chứng được trao lại cho mạ tôi, bà tin tưởng và trả trước một số tiền khá lớn với lời hẹn là sẽ trả nốt phần còn lại sau nếu mang được cậu về. Ai cũng nói ra vì nghĩ là mạ tôi nhẹ dạ, chắc sẽ bị gạt. Vậy mà vào một ngày đẹp trời, bà đó đã trở lại với cậu Bửu Phát. Đúng là một phép lạ không hơn, không kém. Một ghi chú nhỏ liên quan đến cậu Bửu Triều. Cậu đã tốt nghiệp y khoa rất sớm và là một trong những bác sĩ giải phẩu giỏi của miền Bắc, đệ tử ruột của BS Tôn Thất Tùng. Vào khoảng năm 1994, dù đã khá lớn tuổi, cậu vẫn được Hà Nội cho đi tu nghiệp về giải phẩu thận tại Mỹ. Cậu có ghé thăm ba mạ tôi lúc đó đang ở với người anh kế của tôi tại California. Tôi vừa được tin cậu mất ở tuổi một trăm!

2- Mạ tôi có người chị đầu mà qua mạ tôi và các dì kể lại, là một người vừa đẹp, vừa học giỏi. Thời còn trẻ, dì Liêm là học trò trường Đồng Khánh và nghe đâu là người nữ đầu tiên ở Huế đậu bằng Diplôme thời đó. Dì có rất nhiều người mến mộ, nhưng chỉ có một người trong số đó tên Hà được dì tôi đáp lại. Bên nhà trai nhờ người dạm hỏi, nhưng chỉ vì khác tôn giáo mà ông Ngoại tôi không đồng ý. Về sau, ông Ngoại tôi gả dì tôi cho một ông Tham Sự làm Bưu Điện tên Hồ Nam. Người này về sau được thuyên chuyển qua làm việc ở Lào. Không lâu sau lần sinh nở đứa con đầu lòng, gia đình được tin dì tôi mất và được chôn cất bên đó. Lấy lý do không người chăm sóc, ông bố đem gửi đứa con đó cho bà chị ruột, có chồng làm thầu khoán và khá nổi danh ở Huế chăm sóc. Không lâu sau đó, người chồng của dì tôi lập lại gia đình. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa ông ta đem vợ con về lại Việt Nam và ra ứng cử Dân Biểu.
Người con trai của dì tôi vẫn tiếp tục sống và lớn lên với bà cô ruột nhưng đồng thời cũng rất gần gũi và được yêu thương bởi gia đình bên Ngoại. Đó là Trung Tá Lôi Hổ Hồ Châu Tuấn sau này.
Phần Mạ tôi, vẫn luôn bị ám ảnh bởi số phận hẩm hiu của người chị gái, hương sắc một thời, nay đang nằm cô quạnh một nơi nào đó bên xứ Lào xa lạ, không người hương khói. Thế rồi, khi nghe tin bà bạn thân là Mẹ Bề Trên Dòng Mến Thánh Giá Phủ Cam sắp đi công tác dài hạn bên Lào, tiện thể, mạ tôi nhờ bà ta để ý tìm kiếm tông tích ngôi mộ của dì tôi. Đúng là chuyện tìm kim đáy biển. Thuê nhân viên điều tra chuyên nghiệp còn không biết tới đâu không, chứ nhờ một bà xơ đi công tác xứ lạ, tìm cho ra được vị trí một ngôi mộ riêng lẽ trong xứ Lào rộng lớn, thì chẳng phải là tìm kim đáy biển là gì? Thế mà ngôi mộ đã được tìm thấy không bao lâu sau đó, với hình ảnh, chứng bằng cụ thể. Tôi tin chắc Dì tôi sống khôn thác thiêng, đã đẩy đưa cuộc tìm kiếm đến kết quả viên mãn. Thật khó có giải thích nào thích hợp hơn. Tiện thể, mạ tôi nhờ nhà dòng thu xếp và giúp đưa hài cốt của dì tôi về lại Huế vào khoảng năm 61 hay năm 62(?). Trong buổi lễ cải táng hài cốt của dì tôi do người con trai lúc đó đã lập gia đình, đứng ra tổ chức, có sự hiện diện khá đông đủ của gia đình bên Ngoại, đặc biệt nhất là sự hiện diện của Bác Sĩ Hà, mối tình đứt đoạn của dì tôi, lúc đó đã có gia đình và cũng đã lớn tuổi. Dù duyên phận trắc trở, không thành, nhưng ông vẫn còn giữ liên lạc và thỉnh thoảng ông vẫn ghé thăm ông ngoại và mạ tôi. Mạ tôi vẫn quý và đối xử với ông như ông anh rể hụt. Trong buổi lễ, ông đã phủ phục trước di cốt của dì tôi và nức nở khóc thương người con gái bạc mệnh ông đã trót yêu thương mấy mươi năm trước. Dù là một đứa bé con 12, 13 tuổi, chứng kiến cảnh đó, tôi cũng đã biết xúc động và vẫn còn nhớ mãi cho đến hôm nay.

3- Một ưu điểm khác tôi muốn nhắc đến khi nói về mạ tôi. Như để bù đắp cho sự thiếu thốn về học vấn, Trời đã phú cho mạ tôi một trực giác sắc bén đặc biệt. Trước Tết Mậu Thân năm 1968 không đầy một tháng, trong không khí lễ hội sắp đến, trong lúc ai ai cũng lo mua sắm chuẩn bị vui chơi mấy ngày đầu Xuân, thì mạ tôi lại nằng nặc muốn ba tôi phải cấp tốc mua vật liệu để làm một… hầm cát trú ẩn bom đạn! Dù cha con tôi có đề nghị đợi ra Tết hãy làm, nhưng mạ tôi vẫn nhất quyết không nhân nhượng. Đồng ý khoảng thời gian đó tình hình chiến sự có vẻ leo thang nhất là ở Khe Sanh, VC thỉnh thoảng cũng pháo kích lai rai vào thành phố Huế, tuy vậy, một bà nội trợ thuần túy như mạ tôi làm sao nắm được tình hình quân sự để phải quay quắt như gà mắc đẻ như vậy? Tuy nhiên không thương lượng được thì ba tôi đành phải thi hành. Chưa hết, bà còn bỏ công thu góp số vàng và nữ trang đang có, của riêng có, của khách hàng có, gom vào mấy hộp bánh bằng kim loại, ràng dây cột chặt và đích thân chỉ huy tôi đem thu dấu hoặc chôn ở vườn sau.
Tối mồng Một Tết, lính Việt Cộng xuất hiện và lập công sự quanh nhà tôi, bốn giờ sáng, chúng vào bắt ba mạ tôi đốt đèn cầy đi lục lọi khắp nơi, tìm xem có Mỹ Ngụy trong nhà không, đồng thời cũng bắt mở khóa các tủ xem có giấu địch trong đó không? Sáng mồng Ba Tết, trong khi cả gia đình, cọng thêm người làm và bà cô ruột của ba tôi nữa là chín mạng, đang trú ẩn trong hầm cát vì súng đạn nổ dồn dập, một quả đạn đại bác rơi xuống và phá sập toàn bộ nửa căn nhà lớn của tôi. Cứ mỗi lần nghĩ đến cái khoảnh khắc đen tối đó, tôi đã luôn tự hỏi: Nếu không có cái "hầm cát giờ chót" của mạ tôi, gia đình của tôi đã có thể nào nguyên vẹn sau phút giây hiểm nguy tột cùng đó không? Ai còn, ai mất? Điều khác, nếu mạ tôi không tiên đoán để kịp thời thu góp và cất giấu số vàng trên, liệu tài sản của gia đình tôi cũng như của thân chủ mạ tôi có còn hay đã bị phát hiện và bị lấy đi mất? Không chừng mất của mà còn mất luôn cả mạng nữa, vì kẻ cướp thủ tiêu nhân chứng là chuyện thường xảy ra.
Một người đàn bà như vậy, với tôi, quả xứng đáng được gọi là “vượng phu ích tử”.

Ba tôi: Nói tới Mạ tôi mà không nói đến Ba tôi cũng sẽ là một thiếu sót không nhỏ. Bản thân tôi tự nhận xét có khá nhiều điểm tương đồng với Ba tôi. Ba tôi là một người đàn ông hiền lành, sống thủ thường, điều độ, không ham công danh, không bị lôi cuốn bởi vật chất. Một trong những điều Ba tôi thường nói mà anh chị em tôi vẫn luôn nhắc đến, nói lên triết lý sống của ông: “Pour vivre heureux, vivons cachés". Đại khái, muốn sống hạnh phúc, nên sống kín đáo, không nên phô trương, hào nhoáng bên ngoài. Đây thật ra là một câu kết trong một bài thơ ngụ ngôn của Pháp, nói về một con bướm thích khoe khoang màu sắc lộng lẫy của đôi cánh, nên hay bay lượn phô trương trước đám trẻ. Kết quả bị đám trẻ rượt bắt và gây tổn hại.
Ba tôi tánh khí rộng rãi, không phải ông thích tiêu phí tiền bạc nhưng tiền bạc chưa bao giờ là ám ảnh của ông. Ông thường hay trưng dẫn một câu châm ngôn khác, câu này bằng… tiếng Tàu mà ông nói ngày xưa Bà Nội thường nói: “Đại sự bất câu tiểu phí” mà tôi hiểu nôm na là: Không làm thì thôi, nhưng đã muốn làm (chuyện lớn) thì đừng ngại tốn kém tiền bạc. Ông thường nhắc tới câu này mỗi lần trong nhà có dịp đãi đằng, ăn uống, cưới hỏi... Các con cái của Ba tôi chắc đều tán đồng nên vẫn thích thú nhắc lại câu nói đó, xem đó như là một lập luận hợp lý. Một bằng chứng nữa về sự dễ dãi tiền bạc của Ba tôi là không bao giờ ba tôi biết trong ví ông có bao nhiêu tiền. Một điểm “yếu” mà hình như các anh em trai tôi đã sớm “phát hiện” và biết khai thác mỗi khi cần đến. Bản thân tôi thú nhận cũng đã thừa hưởng đặc điểm di truyền đó từ Ba tôi.
Ba tôi cũng chỉ là một công chức hành chánh bình thường, không chức phận cao sang, ngày hai buổi đi làm, lương tiền theo tôi biết cũng chỉ trung bình, an phận, vui thú gia đình. Ông thích trồng và ghép hoa hồng, cùng một gốc nhưng với hoa nhiều màu. Tôi nhớ một lần tôi lén bắt chước làm theo, bị dao bén cắt nhằm ngón tay máu chảy khá nhiều vây ra cả quần, sợ quá tôi chạy vội vào phòng, tự xức thuốc và băng bó chứ không dám cho ai biết. Riêng cái quần dính máu, thay vì bỏ giặt, sợ bị phát hiện, tôi cuốn nhỏ lại và liệng đại lên đầu tủ.
Một thú vui và thói quen khác của ba tôi là nghe đài BBC mỗi ngày vào lúc 7:30 tối. Bỏ cái gì cũng được nhưng bỏ BBC thì không. Ngoài nhật báo tiếng Việt lúc thì mua, lúc thì… thuê, (*) thường được giao trễ một ngày vì thời gian vận chuyển từ Sài Gòn, Ba tôi còn thích xem báo Paris Match mà ông đặt mua hàng tháng. Ba tôi thì đọc tin tức quốc nội hay quốc tế, anh em tôi thì mê man đọc truyện võ thuật đường rừng “ Bàn tay máu” của tác giả Phi Long. Phải nói thời đó truyện võ thuật của ông chẳng kém Kim Dung, xuất hiện khoảng gần mười năm sau, về tính hấp dẫn độc giả.

(*)Thời đó có màn cho thuê báo chủ trương bởi Đại Lý hay người giao báo. Người thuê không cần ký bất cứ hợp đồng dài hạn nào, miễn cho người đưa báo biết ý định, anh ta sẽ đến giao báo mỗi ngày, nhưng sau nửa buổi sẽ trở lại thu hồi báo. Số tiền phải trả sẽ rẽ bằng nửa nếu mua. Tôi không rõ tờ báo sau đó sẽ gửi trả tòa soạn hay lại được cho thuê tiếp? Các tiệm cho thuê truyện cũng rất phổ biến vào thời đó. Người VN ta đúng là có máu khôn vặt. Trong một xã hội không lấy gì dư dã, lại thiếu luật lệ bảo vệ bản quyền thì những vi phạm đó là điều khó tránh.

Ba tôi chẳng có sở thích tốn kém nào, tôi nhớ ông có nuôi một hai con chim Cu, thỉnh thoảng đạp xe theo Dượng Tôn đi bẩy chim Cu. Ông cũng có hút thuốc (Mélia) như phần lớn đàn ông khác, nhưng không hút nhiều. Sở thích ăn uống cũng đơn giản, không đòi hỏi cao lương mỹ vị mà chỉ thích ăn những món ăn dân giả, thích ăn gạo “ruộng”, thứ gạo lức mà nhà tôi tự xay, tự giã từ thóc lúa mà những người thuê ruộng mang vào bán hoặc tặng. Chị Hai tôi cùng phe với ba tôi về vụ này. Ba mạ tôi thích ăn cá hơn ăn thịt, riêng ba tôi lại thích ăn cay, ăn mặn, mắm ruốc, mắm nêm, mắm cà, mắm thính… theo kiểu nhà nông. Ngày xưa ông bà Nội tôi cũng có nhiều ruộng đất, nhiều trai bạn cày cấy và ba tôi cũng gần gũi họ nên cũng học cách ăn uống giản dị của họ. Ba tôi ít bạn bè hơn Mạ tôi, loanh quanh cũng chỉ lui tới, gần gũi bà con, hàng xóm quen biết. Thỉnh thoảng cũng giao tiếp với vài đồng nghiệp với ba tôi ở Viện Bảo Tàng, Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật và Đại Học Y Khoa Huế là nhiệm sở cuối trước khi Ông về hưu. Không rượu chè, nhậu nhẹt, cùng lắm cũng uống ly rượu thuốc nhỏ trong bữa ăn. Ba tôi đúng tiêu chuẩn của một “Bon Papa”... ngoại trừ những lúc ông nổi nóng.
La hét thì nhiều nhưng ít khi đánh đập con cái. Cả đời tôi chỉ nhớ bị ba tôi đánh đòn hai lần. Lần thứ nhất, lúc đó tôi cỡ bảy tám tuổi, anh kế tôi khoảng mười một, mười hai. Hôm đó tôi nhớ là mồng một Tết, chuẩn bị đi mừng tuổi Ông Bà Ngoại và Bác tôi, nhưng hai anh em tôi nhất định không mặc bộ đồ mới may có bốn túi theo kiểu Mao Xếnh Xáng. Hai đứa tôi đang lèn èn, ba tôi biết được, nổi giận cho hai anh em tôi mỗi đứa một roi, thế là ré lên khóc nhưng thi hành ngay. Lần thứ hai, lúc đó tôi chừng mười hai tuổi, hôm đó biết trước mấy anh em Đ̣ịnh, Châu, Quý sửa soạn đón xe buýt bên kia cầu, đi xem phim “Les trois mousquetaires” ở rạp Tân Tân. Cầm lòng không được, tôi lén xin đi cùng mà không dám xin phép ba mạ tôi trước, vì nghĩ đi xuất sớm, tôi sẽ về trước khi Ba tôi đi làm về. Khỗ nỗi, hôm đó rạp hết vé, nên cả bọn phải mua xuất sau. Tôi run quá đỗi, nhưng biết làm sao hơn. Về đến nhà đã hơn 5 giờ chiều, thấy ba tôi và trong nhà đang nhớn nhác tìm kiếm “thằng Út” đi đâu mất tích suốt từ trưa. Sau khi nghe tôi “thành thật khai báo”, Ba tôi bắt tôi vào quỳ gối trong phòng, tiện tay dùng cây thước đo làm bằng gỗ tạp phết vào đít tôi một cái nên thân, miệng thì lớn tiếng quở mắng. Thế là tôi ngã ra xỉu tại chỗ, không phải vì bị đánh vào đít mà là do tiếng la hét của ba tôi làm tôi căng thẳng quá. Thấy vậy, ba tôi quýnh quáng gọi anh kế tôi vào đỡ tôi dậy, phụ ông bồng tôi bỏ ngay lên giường và tháo giày cho tôi. Thế là tôi may mắn thoát nạn và ngủ thiếp luôn.

Sau đó không lâu, Ba tôi dùng chiếc xe Mobylette, một loại xe máy xăng khá phổ biến vào những năm đầu thập niên 60, chở tôi qua phố, mua cho tôi một chiếc xe đạp loại thấp dành cho trẻ con. Sau khi xe được lắp ráp cẩn thận, tôi được phép đạp về với sự giám sát của ba tôi. Thời đó, thật là một món quà quý giá mà những thằng nhóc như tôi đều mơ tưởng.
Sau khi về hưu vào khoảng năm 1965 ở tuổi 55, 56, Ba tôi có nhận đứng trông coi xây cất trường học cho các Cha Dòng Tên Pháp, có trụ sở ở Cư xá Xavier. Thì ra ba tôi cũng có nhiều tài mà tôi nào hay biết. Sau Mậu Thân, nhà cửa tan nát, gia đình tôi đành phải di chuyển vào ở Sài Gòn, Ba tôi lại nhận dạy các lớp Tiểu Học tại Trường LaSalle Taberd. Sau đó nghỉ dạy và lại nhận làm cho một chi nhánh của hãng thuốc OPV của ông Nguyễn Cao Thăng, bán sữa Guigoz, cho đến sau ngày Sài Gòn bị đổi tên.

Lớn lên, nghĩ lại tôi thấy thương ba mạ tôi thật nhiều. Suốt đời hy sinh, lo gầy dựng cho gia đình và con cái, nhưng hậu vận đúng là ngoài mọi dự đoán. Ở cái tuổi mà lẽ ra ba mạ tôi đã có thể ngơi nghỉ và hưởng thụ chút thành quả của bao năm hy sinh, thì lại xảy ra cái vụ Tết Mậu Thân quái quỷ. Nhà cửa đổ nát, tan hoang, phải bỏ quê vào lánh nạn ở Sài Gòn. Từ một ngôi nhà rộng lớn, khang trang có vườn tược, cây cảnh, hàng xóm, bà con, láng giềng thân quen… Căn nhà đầu tiên ba mạ tôi mua khi đặt chân vào Sài Gòn là một căn nhà nhỏ, có gác gỗ, trong một xóm khá bình dân ở Xóm Chùa, đường Trần Khắc Chân, gần Chợ Tân Định. Sau khi hoàn tất niên học 68 bị gián đoạn bởi vụ Mậu Thân ở ĐH Văn Khoa Huế, tôi lục tục theo gia đình vào sau. Bước vào căn nhà “mới”, tôi thực sự chới với. Căn nhà trước mắt tôi chật hẹp, tối tăm, còn thua cả căn nhà bếp trước đây ở Huế, nhìn tương tự như một chuồng Cu. Đường hẻm ngăn cách hai dãy nhà cỡ chừng hơn sãi tay, đứng trên lan can của căn gác này, có thể vói qua trò chuyện thoải mái với người ngồi bên dãy kia. Điều kỳ lạ mà mãi cho đến hơn bốn, năm chục năm sau tôi mới nhận ra, ba mạ tôi đã không một lời than vãn, luyến tiếc, oán trách số phận, không cả một tiếng thở dài. Theo tôi chỉ có một niềm tin tôn giáo sâu đậm mới mang lại cho ba mạ tôi sự can đảm đó để chấp nhận. Niềm tin đó không màu mè, ồn ào, ngược lại nó thầm lặng, đơn giản, có thể tóm gọn vào niềm tin tuyệt đối ở sự quan phòng của Ơn Trên, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tôi chỉ nghe ba mạ tôi luôn cám ơn Chúa Mẹ đã che chở gia đình tôi được bình yên qua bao cơn hoạn nạn.

Khi nhớ lại những ngày xưa cũ sống cùng cha mẹ, ai cũng có những ký ức sâu đậm về một số những sinh hoạt thường nhật. Với tôi, các buổi đọc kinh chung là những kỷ niệm êm đềm của gia đình và đã khắc sâu trong tâm trí tôi. Đặc biệt vào tháng Đức Mẹ vào tháng 5, hoặc tôn thờ Trái Tim Chúa vào tháng 6, ngoài những kinh cầu bình thường, Ba tôi còn có tiết mục đọc sách Thánh, kèm theo những câu chuyện dẫn chứng hoặc ngâm vịnh. Giọng ba tôi khá hấp dẫn nên bọn tôi thích thú lắng nghe, thay vì ngủ gà ngủ gật như mọi khi. Vào đúng ngày Lễ Tôn Tượng Trái Tim, năm nào nhà tôi cũng tổ chức một bữa cơm thân mật để mời vài khuôn mặt thân quen trong gia đình như dì dượng Tôn, dì dượng Duyệt, hai người bạn thân của ba mạ tôi cũng ở gần đó,đến để đọc kinh chung và sau đó dùng bữa.
Ngoài ra, thuở đó còn có màn đọc kinh “Nhịp một” lúc 12 giờ trưa, và một lần khác vào buổi chiều. Khi nghe chuông nhà thờ đỗ (*), mọi người trong nhà đều dừng tay và thông thường ba tôi khởi đầu đọc kinh. Kinh không dài nhưng lâu quá tôi không thể nhớ.
Các buổi ăn gia đình cũng là những kỷ niệm khó quên. Sau khi miền Nam thất trận, dù thuộc thành phần “tép riu”, tôi cũng đã có hai dịp được nếm mùi tù tội: Cải tạo và vượt biên. So với những người khác thật chẳng thấm tháp vào đâu, tuy nhiên trong những lúc khốn cùng đó, tôi hay liên tưởng đến không khí của những bữa cơm chung với gia đình, cũng như các buổi đọc kinh chung với cha mẹ và các anh chị. Điều đáng tiếc là sau khi lập gia đình,  và đặc biệt là khi đã có con cái, phải thú thật là tôi đã không củng cố được những truyền thống gia đình tốt đẹp vừa nêu trên. Lý do để chạy tội cũng không thiếu, nhưng dù sao…

(*) Nhà thờ Phủ Cam có một giàn chuông rất hay và hùng hậu với nhịp đánh khác nhau tùy theo nội dung. Chuông Tử chỉ có ba nhịp, nghe buồn rười rượi. Chuông vào các ngày Lễ lớn dồn dập, thúc dục, vang vọng lòng người.

Các Anh Chị tôi: Tôi có hai bà chị và hai ông anh, theo thứ tự xen kẻ, số chẵn là chị, số lẽ là anh, ấy là chưa tính đến hai anh chị khác đã mất… trong cùng một ngày của năm 1947, cái năm mà bệnh đậu trời đã hoành hành tại Huế, hai năm trước khi tôi ra đời. Mấy mươi năm sau, mỗi lần nhắc lại cái ngày kinh khủng đó, mạ tôi vẫn còn nước mắt lả chả.

Mạ tôi kể: Con mất hai đứa, chôn cất cùng ngày, nhưng không có giờ để khóc thương vì còn người anh kế tôi cũng đang mắc cùng bệnh, đang nằm chống chỏi ở nhà, cần phải chăm sóc. Ôi còn nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau của người mẹ mất con. Cũng may ông anh kế tôi may mắn qua khỏi, và sống mạnh khoẻ cho đến ngày nay.
Hai bà chị tôi lập gia đình sớm, khi tôi còn bé, chị Hai lúc tôi chừng 7 tuổi, chi Tư lúc tôi 11 tuổi. cả hai bà chị đều theo chồng đi xa, một người thì vào Sài Gòn, người kia vào Đà Nẵng. Điều duy nhất tôi còn nhớ là ngày đưa Dâu của hai chị, tôi ngồi nhìn ra từ cửa sổ và khóc tức tưởi, lòng oán trách hai “kẻ lạ” không biết từ đâu đến “bắt cóc” chị mình. Mạ tôi và hai cô dâu cũng không khá hơn. Người ta thường nói đến “nước mắt của hạnh phúc”, nhưng với tôi, ngay cả bây giờ, những giọt nước mắt đó không nhất thiết là những giọt nước mắt hạnh phúc, lý do dễ hiểu là đôi tân hôn vào thời đó đâu đã biết gì nhiều về nhau, nói gì đến những giờ phút gần gũi, âu yếm bên nhau như những thế hệ về sau. Mọi chuyện phần lớn đều đã được sắp xếp, dàn dựng bởi cha mẹ. Theo tôi những giọt nước mắt đó là những giọt nước mắt của chia lìa, của lo lắng cho tương lai phía trước. Nhớ lại quang cảnh ngày đó thấy thật không giống ai.

Anh Ba của tôi hơn tôi đến một giáp, khoảng cách tuổi tác khá lớn đó đã không cho phép tôi cảm thấy gần gũi nhiều. Hơn nữa, ngoài những năm ngắn ngủi sống gần anh chị em, có nhiều khoảng thời gian dài anh tôi vắng mặt, lúc thì vào tu tập ở Dòng Chúa Cứu Thế Huế, khi thì chuyển trường từ Providence Huế vào học tiếp ở Yersin Đà Lạt rồi Les Lauriers ở Sài Gòn, và sau đó là ÐH Khoa Học ở Sài Gòn. Cuối cùng, anh tôi mới chịu “dừng bước giang hồ”,  trở lại Huế để vào học ở ĐHSP. Ra trường anh tôi nhận nhiệm sở ở Trường Trung Học Cường Đễ, Qui Nhơn.
Với tôi, hình ảnh anh Ba tôi là một hình ãnh của người anh cả, thiếu hẳn những kỷ niệm đầu đời. Tôi chỉ có dịp gần gũi nhiều với anh khi tôi lớn lên, tuy vậy, tôi cũng đã bị ảnh hưởng không ít từ ông anh cả. Ảnh hưởng dễ nhận ra nhất là tôi cũng đã tốt nghiệp ĐHSP Pháp Văn giống anh tôi, và bà xã tôi cũng là bạn học, tốt nghiệp cùng trường, cùng ban với tôi giống anh Ba tôi. Lớn lên, diện mạo tôi cũng khá giống anh cả tôi. Bằng chứng là cách đây chừng vài năm, đi dự buổi ra mắt sách của người anh bà con ở Cali, tôi ngạc nhiên khi nghe hai người nam, tuổi cũng đã khá lớn, tiến đến gần và nói: “Chào Thầy, Thầy còn nhớ bọn em không?” Tôi hơi ngạc nhiên, cố gắng nhớ xem đã dạy hai “trò” này ở đâu, thấy tôi hơi ngập ngừng, một người nói thêm: “Thầy dạy bọn em ở Trường Thiên Hữu đó, Thầy nhớ ra chưa?” Tôi chợt nhớ, anh cả tôi ngày xưa có dạy Thiên Hữu, riêng tôi thì không. Tôi bèn cười và nói: “Hình như mấy anh nhầm tôi với Thầy Thuấn, anh cả tôi rồi. Không sao cả, vì đây không phải là lần đầu tiên". Anh tôi hiện vẫn còn sống ở Sài Gòn, vẫn còn mạnh khoẻ ở tuổi 86.

Người gần gũi tôi nhất chắc cũng dễ đoán, đó là anh Năm, người anh kế của tôi. Tuy tôi thua anh tôi đến bốn tuổi, nhưng nhờ sống gần nhau liên tục từ nhỏ, nên hai anh em rất gần gũi. Tánh nết nhiều khác biệt nhưng được cái là không khắc tính, nếu không nói là bổ túc cho nhau.
Lúc nhỏ tôi dốt Toán, hay đúng hơn là tôi sợ Thầy dạy Toán là LM. Modeste Duval nên không tiếp thu được. Thực ra, Cha chưa bao giờ đánh đập học trò, nhưng tướng cha nghiêm khắc, với cặp mắt thật sắc làm tôi sợ hãi. Về nhà đôi khi phải nhờ ông anh kế tôi chỉ vẽ thêm. Anh tôi khá về Toán, nhưng anh em thường khó dạy vì dễ nổi nóng. Thỉnh thoảng bị anh cú đầu, nhéo tai, riết tôi sợ chẳng thèm nhờ nữa, đã dốt cho dốt luôn. Tuy nhiên, ngoài những lúc kèm toán, anh tôi tương đối cởi mở, và rất gần gũi tôi. Chắc một phần tại ngoài tôi ra, không có ai để ông anh tôi tâm sự vặt khi ở nhà. Trong báo cáo hằng ngày, hầu như anh tôi không những không che dấu mà đôi khi cũng chẳng để ý “kiểm duyệt” trong mọi trao đổi với thằng em. Cũng may, tôi tuy nhỏ hơn đến bốn tuổi, nhưng tánh khí hồi đó như… “ông cụ non”, khó tính, ít bạn bè. Anh tôi thì nhiều bạn, thân tình, sống chết có nhau. Cà phê, thuốc lá, bi da, đôi khi gái gú…  anh tôi có đủ. Ngày nào cũng nghe anh tôi báo cáo về những sinh hoạt với bạn bè, riết tôi cảm thấy gần gũi với bạn của anh tôi còn hơn cả bạn của tôi. Tôi sống qua những vui buồn, trầm bổng của anh tôi, nhưng không hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi anh tôi. Như đã nói, tôi là ông cụ non, tôi cũng đã có những nhận định của riêng mình, không để bị lôi kéo. Ngược với anh tôi, tôi rất kén bạn, không tụ tập cà phê, bida, phần vì không đủ tiền, phần vì tôi nhận thấy những sinh hoạt đó đã ảnh hưởng đến việc học hành của anh tôi. Dù vậy, những điếu thuốc đầu đời của tôi phải nói phát xuất từ người anh này, lúc tôi mới 16 tuổi. Thời đó làm gì có tiền mà hút với xách, nhưng anh tôi mua chịu ở tiệm tạp hóa gần nhà, mua ghi sổ, chỉ thanh toán khi đến kỳ ông anh lãnh lương nhờ dạy kèm. Lúc thì thuốc Ruby, về sau chủ yếu là Bastos xanh. Đó là bí mật của anh em tôi, nhưng thỉnh thoảng cũng bị phát hiện bởi lỗ mủi rất thính của mạ tôi, bị la mắng nhưng rồi cũng chứng nào tật ấy. Năm 1966, đang học lớp đệ nhị, qua sự giới thiệu của một ông bạn Mỹ, tôi được nhận vào làm “part time cashier” ở một Câu Lạc Bộ Mỹ, thuộc phái bộ MACV trong khách sạn Thuận Hóa. Chiều sau khi tan trường về, tôi đi làm đến 11 giờ đêm. Tiền bạc rủng rỉnh không nói, nhưng tối nào tôi cũng mang hai gói thuốc lá Mỹ về, khi thì Pall Mall, khi thì Lucky Strike, Salem… hai anh em hút mệt nghỉ. Nhưng sướng quen, nay phải đi làm sau giờ học, thay vì cưỡi xe chạy lòng vòng như các bạn khác, tôi phải có mặt đúng giờ tại nơi làm việc, chưa tới nơi đã nghe thơm nồng nặc mùi khoai chiên, phải qua nhiều chặng kiểm soát của Quân Cảnh Mỹ, bao quanh bởi những vòng kẽm gai… nhiều lúc cũng thấy “tủi thân”. Đang tuổi thanh niên mới lớn, không bị gánh nặng gia đình, nhận đi làm như để tìm cảm giác, chứ không do nhu cầu sinh sống, nên dù công việc nhẹ nhàng, tiền bạc có thể nói là phủ phê, một “hũ nếp” mà nhiều người mơ ước mà không được, nhưng riêng tôi lại xem nhẹ. Tôi không quen với phong cách, lối chọc ghẹo, đùa dai vô tích sự của mấy anh lính Mỹ, nên sau chưa được một tháng, nhân một vụ bực mình với ông Trung Sỹ “pê đê”, quản lý Câu Lạc Bộ, tôi xin nghỉ việc. Người ngạc nhiên đầu tiên là ông sếp, ông trợn mắt nhìn tôi và hỏi lại hai ba lần tưởng đã nghe lầm. Hẳn là trường hợp tự ý bỏ một việc làm béo bở như tôi không thường xảy ra. Mấy thằng bạn chê tôi ngu, chuột đã sa vào hũ nếp mà lại nhảy ra, thế mà có một người khen tôi, đó là ba tôi. Ông nói: “ Không ham tiền bạc, vật chất như con vậy là giỏi!”
Gần cuối năm 1967, anh tôi gia nhập Võ Bị Đà Lạt. Ngày anh tôi đi, tôi lại ngồi nhìn ra từ cửa sổ, nước mắt trào ra không kềm hãm được, cũng như trước đây tôi đã khóc khi nhìn hai bà chị lên xe hoa về nhà chồng. Cám ơn Trời Đất, anh tôi đã sống qua được cuộc chiến tồi tệ, dù ở trong đơn vị Mũ Đỏ thuộc loại dữ dằn nhất và vẫn còn mạnh khoẻ cho đến giờ phút này tại California, và chỉ cách tôi có mấy giây… mỗi khi cần nói chuyện qua điện thoại. Sự gắn bó giữa hai anh em tôi vẫn như ngày nào, loanh quanh cũng chỉ có một đề tài: Chuyện đời xưa, nhắc mãi mà không chán.


Những người hàng xóm nổi tiếng

Ông Ngô Đình Cẩn:  Nói về Cậu Cẩn tưởng cũng nên nói về phong cách của người mà báo chí vẫn hay gọi là Lãnh Chúa Miền Trung. Nói cho ngay, gia đình bên Ngoại của tôi có bà con khá gần gũi với gia đình Ông Ngô Đình Khả… đến hai bận. Bà Ngoại sau của tôi là em ruột của bà Khã, mẹ Tổng Thống Diệm; riêng em gái của Ông Ngoại tôi, mà bọn tôi gọi là “bà cô” Hành, lại lấy em trai của Bà Khả. Mang tiếng bà con nhưng gia đình tôi gần như không qua lại, gần gũi… một phần cũng do ba tôi có phần không thích Cậu Út trầu, vốn nhỏ hơn ba má tôi khoảng một hai tuổi. Ba tôi vốn hơi khó tánh, nhất là khi Ông Cậu được đám tay chân, thuộc hạ tâng bốc trong chức vụ “Cố Vấn Tối Cao Miền Trung”, ông thường hay nói mỉa: ”Học hành chi mô mà Cố với Vấn!” Riêng má tôi thì khôn khéo hơn, dù không qua lại thân tình với “Cậu em”, nhưng bà vẫn duy trì quan hệ tốt đẹp với hai bà chị lớn là bà Cả Lễ và đặc biệt là với bà Ấm, mẹ của Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, một người bạn cùng trang lứa thời mới lớn.
Mỗi lần Tổng Thống Diệm ra Huế là khu nhà tôi trở nên nhộn nhịp hẳn lên. Khoảng một đại đội lính làm dàn chào và ban quân nhạc đóng đô ngay trước nhà tôi từ lúc sáng sớm, vì cổng chánh vào nhà ông Cậu cách nhà tôi không bao xa. Vào những dịp đó bọn con nít trong xóm tôi xôn xao, hăm hở như ngày hội lớn, chạy quanh ngắm nhìn các anh lính với súng ống oai phong, quân phục chỉnh tề thẳng nếp, đang chờ đón phái đoàn của Tổng Thống. Thông thường sau khi đáp xuống phi trường Phú Bài cách Huế khoảng 15 cây số, đoàn xe đón tổng thống được đội mô tô bảo vệ tiến về, chạy trước đội quân dàn chào trọng thể, trong tiếng kèn đồng dồn dập của ban quân nhạc. Mạ tôi vào những dịp đó, nếu không bận gì, thường cũng mặc áo dài, đứng ở cổng trước như để chào đón “ông anh bà con” về thăm quê.
Thời đó cậu Út, qua trung gian “Bà” Luyến(*) bắn tiếng muốn “mua” lại miếng đất nhà tôi, vì miếng đất của ông ta không liền lặn, nếu mua được khu nhà tôi thì miếng đất của ông sẽ vuông vức thành một khối, khổ nỗi ông ta muốn ép giá… Vì vậy mà quan hệ hai bên vốn đã không thắm thiết nay lại càng trở nên khó bề cải thiện. Năm 1960, khi Đại Tá Nguyễn Chánh Thi và Trung Tá Vương Văn Đông làm đảo chính hụt, ở Sài Gòn, Bác ruột tôi là Ông Trần Văn Lý (**), cựu Thủ Hiến Trung Việt, một nhân sĩ có chân trong nhóm Caravelle, trước đó có ký tên vào thỉnh nguyện thư kêu gọi chính quyền TT. Diệm cải cách…  bị An Ninh bắt giữ một thời gian ngắn. Ở Huế, ba tôi cũng được tin sắp bị mật vụ bắt, phải vào tạm trú ngụ trong Dòng Chúa Cứu Thế Huế một vài ngày, trước để xem diễn tiến tình hình ra sao và cũng để tránh cảnh bị bắt cóc dọc đường, không ai hay biết. Ba tôi sau đó đã ra trình diện và bị giữ mấy tuần. Đại khái ông Cậu muốn ra oai chút vậy thôi.
Mãi thời gian gần đây, tôi mới nghe anh tôi kể lại, nhà tôi, trước áp lực, đã chấp nhận nhường lại trên nguyên tắc miếng đất cho ông Cậu, nhưng thay vì bán với giá “ép”, mạ tôi đã khôn khéo đưa điều kiện là chỉ muốn đổi lại một căn nhà khác, miễn sao vừa ý ba mạ tôi là được. Cuối cùng Ông Cậu đồng ý đổi một căn nhà khác khá lớn ở gần chợ Bến Ngự, nhưng giải quyết chưa xong thì xảy ra vụ đảo chánh năm 1963 nên mọi chuyện đã không thành.

(*) Mạ tôi và các bà con bên ngoại hay dùng chữ “Mụ” thay vì chữ “Bà” khi nói về nhân vật này. Ở Huế, chữ Mụ cũng thường được xử dụng để thay chữ Bà, chữ Cô trong một số trường hợp. Chẳng hạn như khi nói về một người nữ gần gũi, thân thuộc, nhỏ tuổi hơn, đôi khi hàng con cháu… Cũng có thể đó là một lối gọi bình dân, không trang trọng như từ “Bà”, do thói quen hơn là để cố tình hạ thấp vai vế của đối tượng. Thành phố Huế vốn dĩ chỉ nhỏ bằng cái khăn tay nên ai cũng biết ai, huống hồ quan hệ giữa hai gia đình cũng chẳng xa lạ, nên trong gia đình ai cũng biết bà Luyến không cùng dòng tộc với Ông Cố Vấn miền Trung mà chỉ là người “quản gia” lâu năm, nên cũng được đối xử như người nhà vậy thôi. Tuy nhiên bà này cũng thuộc loại người năng nỗ, biết lợi dụng vị thế gần gũi, nên nhiều nhân vật có máu mặt thời đó tin bà có khả năng “tiến cử”, do đó họ cũng xum xoe lui lại, gần gũi, cầu thân. Vì lý do đó mà tên của nhân vật này đã được nhiều người biết đến còn hơn cả các bà em ruột của Tổng Thống như Bà Ấm hay Bà cả Lễ.
Tôi nhớ bà Luyến có đến 4 người con trai theo thứ tự: Ân, Ái, Thanh, Liêm… Vào cái thuở “ban sơ” của thập niên 60 ấy, mà nhìn hai anh sau, dù đang độ tuổi 18, 20, mà đã lái xe Volkswagen Beetle mui trần chạy lên, chạy xuống mỗi ngày làm bọn trẻ như tôi mê lắm. Có người nói hai anh Thanh, Liêm là anh em sinh đôi nhưng tôi thấy hai người không có nét nào giống nhau.
(**) Trần Văn Lý – Wikipedia tiếng Việt

Mang tiếng là Lãnh Chúa nhưng tôi không thấy đền đài, cung điện vàng son nào trong khu vực nhà Ông Cố Vấn. Một chi tiết đáng nói về khu nhà đất của Ông Cẩn, đối diện khu nhà ở trên đường Nguyễn Trường Tộ, phía bên kia đường, ông có một miếng đất trống có vách bao quanh, kéo dài từ hãng rượu S.I.C.A, được ông xử dụng làm khu nuôi nai, tổng cọng cũng khoảng chừng hai, ba chục con. Ngoài ra ông cũng nuôi thêm một con voi con, cứ cách ngày, có người lính phụ trách dẫn voi xuống sông tắm. Chẳng biết Ông Cậu nuôi các thú đó để làm gì? Chẳng lẽ để ăn thịt, hay để nấu “cao” hoặc sử dụng “nhung” nai? Chừng ấy thú vật tầm thường cũng chẳng đủ để biến khu đất đó thành Thảo Cầm Viên, dù thỉnh thoảng cũng cho phép bọn nhóc trong họ đạo vào xem. Bọn tôi hay nghịch lấy tay sờ nhung nai khi đến mùa chúng thay sừng. Riêng ba tôi thì chống đối ra mặt và hay chửi đổng: “Salaud!” (Đồ khốn!) mỗi khi có ai nhắc tới chuồng nai của ông Cậu, vì vào mùa hè, mùi phân thú bốc nồng, gây khó chịu cho khu vực dân cư chung quanh, hiển nhiên trong đó có nhà tôi.
Ông Cậu thì ít xuất hiện, mà đi đâu cũng chẳng thấy tiền hô hậu ủng, không còi hụ, mô tô. Có thể nói ông ta có một lối sống khá khép kín. Tôi không nhớ đã thấy ông Cậu mặc âu phục bao giờ, thỉnh thoảng thấy ông mặc bộ áo bà ba trắng. Ông thích lối sống quê mùa, tự tay đi câu cá, thời đó Ông có một chiếc đò còn rất mới, thường đậu gần bến Ông Tám. Không hiểu ông đặt người làm hay có ai đó tặng ông như một hình thức quà cáp. Thay vì tặng một chiếc xe hơi mới cáu cạnh, biết sở thích ông Cậu, đem tặng chiếc đò, vừa ít tốn kém, vừa đặc biệt, mà lại hợp “goût “ ông Cố Vấn.
Nghe đâu thời còn trẻ, Ông Cẩn rất ái mộ Cụ Phan Bội Châu, thời đó bị Tây bắt và đem về sống hưu trí trên một chiếc đò nằm gần cầu Bến Ngự. Điều đó có thể giải thích được phần nào lối sống dân dã của ông ta chăng? Qua những người quen kể lại, Ông tự tay làm mắm chứa trong nhà kho. Có người nói ông thích đan rỗ, đan rá, thích ăn trầu bỏm bẻm như mấy bà, thích hút thuốc Cẩm Lệ. Hình như suốt đời chưa bao giờ đi xa khỏi Huế, nói gì đến ngoại quốc. Điều đáng khen khi nói về Cậu Cẩn ít ai có thể phủ nhận là lòng hiếu đạo của ông đối với bà mẹ già. Các ông anh lớn đều có chức vụ, quyền uy, tung hoành ngang dọc, riêng ông chỉ biết lẩn quẩn bên mẹ và đám… nịnh thần.
Theo tôi nghĩ, Ông Ngô Đình Cẩn không đến nỗi dữ tợn, thâm độc như đã được mô tả bởi báo chí hậu Cách Mạng 63, đặc biệt là các cơ quan truyền thông Cộng Sản sau này. Cái đáng trách của ông là đã nghe lời nịnh hót, xúi dục của bọn tay sai, nịnh tướng, và thiếu răn đe, kiểm soát, đã để chúng lợi dụng danh nghĩa làm chuyện xằng bậy, gây bất mãn, thù oán, để về sau phải một mình ông gánh chịu hậu quả đau đớn của bản án ử hình khi chỉ mới ở tuổi 53.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn:  Như đã nói ở phần trên, nhà tôi chỉ cách căn nhà thuê của nhạc sĩ ho Trịnh có một cây cầu. Đứng bên này vẫn có thể nhìn thấy bên kia vì căn nhà ông ở kế cận căn nhà chót ở tầng hai, ở sát cạnh dòng sông Phủ Cam.
Mấy anh chị em của ông tôi biết cũng gần hết: Sau anh Sơn là anh Hà thời đó là Sĩ quan thuộc Quân Trấn TP. Huế, rồi đến anh Tịnh, bạn cùng lứa với ông anh kế tôi, thời đó vẫn còn đi học nhưng có vẻ “bụi” và ngang tàng hơn mấy ông anh. Cái hình ảnh mà tôi vẫn còn nhớ về anh Tịnh là tay trái băng bột treo trước cổ vậy mà không hiểu bằng cách nào mà anh ta vẫn sang số chiếc xe gắn máy, nằm ở tay trái xe, miệng phì phà điếu thuốc lá và vẫn chạy xe ngon lành. Tôi tình cờ có dịp gặp lại anh ta sau khi anh đưa gia đình từ Canada về định cư ở Houston. Anh gầy đen như một… xác ướp nhưng với nụ cười hiền lành và lối nói chuyện tếu táo như ngày xưa. Anh cho biết sẽ để hai con, một trai, một gái ở lại Houston, riêng anh chị về lại Việt Nam tiếp tục kinh doanh tiệm ăn Ba Miền ở Sài Gòn. Sau anh Tịnh là Chị Thúy và một cô em út nhỏ hơn tôi một vài tuổi mà thời đó tôi không biết tên, chỉ nhớ cô bé khoảng 11, 12 tuổi, tóc cắt kiểu búp bê Nhật và hay mặc đồng phục váy xanh có dây chéo và áo sơ mi trắng mà tôi đoán chừng là ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh sau này.
Vào thời điểm những năm đầu thập niên 60, NS Trịnh Công Sơn cũng chưa được nổi tiếng lắm, cũng có thể đỗ lỗi cho quan niệm “Bụt nhà không thiêng”, với lại trong một thành phố nhỏ hẹp, bảo thủ, thành kiến như Huế, văn nghệ sĩ dù có tài cũng thật khó thành danh và để trở thành thần tượng lại càng không phải là chuyện dễ dàng. Miền Trung nói chung như đã từng được mô tả qua bài “Tiếng sông Hương”:
“Quê hương em nghèo lắm ai ơi,
“mùa Đông thiếu áo, Hè thời thiếu ăn…”
thì nhu cầu “ăn”, “mặc” đứng hàng đầu chứ không phải là những giá trị văn nghệ “phù phiếm”. Các nhân tài văn nghệ của Huế đâu phải không có: Hoàng Thi Thơ, Duy Khánh, Trịnh Công Sơn, Lê Tín Hương, Diệu Hương, Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng… đã chỉ thành công sau khi bỏ Huế vào Sài Gòn hoặc ra hải ngoại.
Mãi cho đến vào giữa năm 1966, trong cao điểm của chiến tranh VN, các ca khúc phản chiến của TCS đã được giới trẻ miền Nam ưa thích một cách đặc biệt. TCS vẫn hằng mơ ước, cổ võ và mong đợi cái ngày chiến tranh chấm dứt, hai miền Nam Bắc nắm được tay nhau  như trong bài “Nối vòng tay lớn” :
…Mặt đất bao la, anh em ta về
Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng, trời rộng
Bàn tay ta nắm, nối tròn một vòng Việt Nam.
Chỉ tiếc rằng, không bao lâu sau ngày đất nước thâu về một mối, ông bàng hoàng khi thấy người anh em miền Bắc của ông, sau khi đã nắm chặt được bàn tay của người anh em miền Nam, đã không “nối tròn một vòng Việt Nam” như ông hằng mơ tưởng mà là để tra cùm, và khóa chặt lại. Trước và sau năm 1975, nhiều người lên án NS họ Trịnh là Cộng Sản nằm vùng, là đặc công văn nghệ của VC, riêng bản thân tôi, Trịnh Công Sơn cũng như đa số trí thức, nghệ sĩ và một số lớn dân chúng miền Nam đã bị Cộng Sản lừa dối, giật dây… đến khi hiểu được thì “ôi thôi” đã quá muộn màng.
Phải chờ đến gần hai mươi năm sau ngày miền Nam thất trận, chính quyền mới CS mới bật đèn xanh cho một số các tác phẩm, chủ yếu là tình ca của ông được trình diễn trở lại, cũng như cho khởi động các nỗ lực nhằm “phong thánh” sau khi người nhạc sĩ họ Trịnh đã trở về với cát bụi. Phần tôi, tôi tin chắc một điều là ông đã ra đi trong ngậm ngùi, ân hận.


Dãy nhà “Đức Cha” bên kia cầu Phủ Cam. (X) đánh dấu căn nhà sát cạnh nhà Ns.Trịnh Công Sơn. Dòng sông ô nhiễm, nhớt nhát, đục ngầu. Hình chụp năm 1996.

 
Những người hàng xóm ít nổi tiếng hơn:

Ông Mầu: Ngoài hai Ông hàng xóm tiếng tăm trên, hiển nhiên tôi còn có những người hàng xóm bình thường hơn, gần gũi hơn. Nằm sát cạnh nhà tôi, trên đường NTT, có gia đình Ông Mầu, thời đó ông làm nghề đóng giày da và có tiệm bán giày ở Chợ Bến Ngự. Thời tôi chừng 7, 8 tuổi, ông cũng đã rất lớn tuổi, chắc cũng lớn hơn ba mạ tôi nhiều, tôi nhớ người ông khá mập, có chút dáng dấp của Mao Trạch Đông, đôi mắt nặng nề với túi mỡ. Năm nào, trước Tết chừng một tháng, ông cũng ghé qua nhà tôi, đích thân đo chân bọn tôi để đóng cho mỗi đứa một đôi xăng đan bằng da nâu với đế cao su trắng. Như đã nói, thời đó tôi còn nhỏ quá, nhưng qua các anh chị, được biết ông có một người con trai tên Diệm, ông này có cô con gái lớn tên Ân, cũng cỡ tuổi chị hai tôi. Mạ tôi kể hồi còn trẻ, ông này và ông Ngô Đình Cẩn là bạn hàng xóm hay đá banh với nhau. Ông Diệm lớn lên làm tài xế xe hàng bị mật vụ Cậu Cẩn bắt, nghe đâu với tội danh “gián điệp cho Tây”, nhưng hình như cũng chỉ để gây áp lực nhằm mua lại nhà người hàng xóm, nhằm mở rộng giang sơn của mình. Không bao lâu sau, miếng đất được bán lại cho ông Cậu.

Ông Phú: Khu nhà ông Mầu ngoài khu nhà ở cũ kỹ, đất thấp, còn có hai căn phòng nhỏ hẹp ngay mặt tiền, xây bằng xi măng, lợp tôn cho thuê. Một căn cho ông Phú thuê để mở tiệm hớt tóc. Tuy là “thợ” hớt tóc nhưng tôi nhớ tướng ông cũng ngon lành, tóc tai bao giờ cũng bóng loáng và chải ngược đàng sau. Nghe nói ông ta cũng thuộc loại phong lưu, đa tình và lai rai bài bạc.
Phụ tá cho ông có anh Hiếu, rất đẹp trai, tóc bồng bềnh, nước da ngâm ngâm, đôi mắt lớn, mi rậm. Bao giờ cũng ăn mặc chỉnh tề, áo trắng bỏ trong quần. Sỡ dĩ tôi nhớ nhiều về anh vì tôi là khách hàng của anh. Anh ít nói, luôn có một nụ cười thật hiền lành nhưng hóm hỉnh, tuy nhiên qua các câu chuyện trao đổi giữa mấy người lớn, hình như anh cũng thuộc loại đào hoa.
Các tiệm hớt tóc thời xa xưa đó (1958) có những đặc điểm mà thời bây giờ không còn nữa. Điều khác biệt trước tiên phải nói, khi đến một tiệm hớt tóc thời đó, là tiếng nhắp kéo lách chách liên tục của người thợ lúc dùng kéo để cắt tóc hoặc tỉa tóc, tạo nên một nhịp điệu rất vui tai, dễ ru ngủ. Kế đến, tuy là tiệm hớt tóc, nhưng luôn kèm theo cạo râu và ráy tai mà không tính tiền thêm.  Người thợ dùng dao cạo với lưỡi dao xếp để cạo râu, do đó tiệm bao giờ cũng có treo một sợi dây nịt da thật bự láng bóng, trước khi cạo râu hay lông măng nếu là con nít, thế nào anh ta cũng đem dao cạo đến xát mạnh nhiều lần trên mặt da trong một động tác rất điệu nghệ để làm dao bén thay vì mài. Riêng về “Tông đơ” (Tondeuse/ Clipper) thì phải bóp bằng tay chứ chưa có xài điện. Cái mà tôi nhớ nhất mỗi lần đi hớt tóc là được ráy tai sau mỗi lần cắt tóc. Xem như một hình thức “Bonus” mà khách nào cũng thích thú, dù đó là ông già 80 hay thằng nhóc 8 tuổi như tôi. Với kinh nghiệm lâu năm, với một số đồ nghề đơn giản, người thợ đã tạo cho người khách cái cảm giác đê mê, đã con ráy nhất trong suốt thời gian hớt tóc. Nếu trả thêm tiền, người thợ sẽ bỏ nhiều thời gian hơn trong lúc ráy tai với nhiều pha biểu diễn ngoạn mục như gắp những vảy khô bám ở thành tai… cảm giác đã ngứa kèm theo tiếng sột soạt trong tai làm nhiều người khách đâm ghiền, mỗi lần hớt tóc luôn trả thêm tiền cho dịch vụ đó. Thông thường người thợ dùng một ngọn đèn nhỏ có chân, cao cỡ tầm tai, để rọi vào tai trong lúc ráy. Các dụng cụ ngoài cái móc tai, còn có một cây gỗ tròn nhỏ cỡ đầu nhỏ chiếc đũa, với một miếng dao cạo nhỏ gắn ở đầu cây, dùng đề cạo gọt phía trong vành tai; một cái kẹp nhuyễn để kẹp các vảy khô trong tai nếu có. Tất cả đều được khử trùng trong một dung dịch Alcool. Cuối cùng là một cái cọ với lông ngắn thật nhuyễn, người thợ sẽ cho cọ vào một cái lọ đựng phấn Talc, anh ta sẽ xoay cọ vài vòng trong phấn, sau đó đem ra đập nhẹ cho phấn rớt xuống xong mới đút vào lỗ tai xoay nhanh vài vòng như để tai khô ráo. Đúng là điếc không sợ súng, mà cũng chẳng nghe ai nhắc nhở rằng thợ hớt tóc hổng phải là bác sỹ tai, rằng ráy tai như vậy nguy hiểm, có thể gây nhiễm độc tai… Đúng là “sướng con… ráy, để người ta táy máy lỗ tai”. (Được cải sửa từ câu mà ông bà ta hay nói: “Sướng con Q mù con mắt”). Tiện thể, xin kể thêm, vào những năm 1970, thời đó tôi đã lớn và đang ở Sài Gòn, các tiệm hớt tóc còn có màn “ráy mắt”. Lúc đó hiển nhiên tôi cũng đã có chút khái niệm về vệ sinh an toàn, nhưng cũng muốn thử một lần cho biết. Đại khái người thợ dùng một cây nhỏ làm bằng “stainless steel” với đầu bi sắt nhỏ, trơn láng. Sau khi “sát trùng” dụng cụ bằng cách nhúng vào cồn “alcool”, anh ta, một tay đẩy nhẹ mí mắt, tay kia cho viên bi vào mí trên và mí dưới của mắt, xoay bi nhẹ vào mí trong của mắt. Chúa ôi, cái cảm giác nó đã như chưa từng đã, nước mắt, nước mũi vì bị kích thích khi viên bi cọ vào các tuyến nước mắt nên tuôn ra thấm không kịp. Cũng không quá đáng nếu gọi đùa hiện tượng đó là “Eyes orgasm”! Làm xong rồi mới teo nhưng đến trên nửa thế kỷ sau vẫn còn nhớ cảm giác đê mê đó.
Thời đó thông tin còn rất thô sơ nên không thấy báo cáo nào cho biết là đã có bao nhiêu người bị điếc, bị mù do muốn tìm cảm giác mạnh trong lúc đi hớt tóc?
Người thuê căn phòng kế bên tiệm hớt tóc là chị Quỳ, mẹ của đứa bé gái lai Tây tôi còn nhớ tên “Bét”, chắc phát âm theo Elizabeth. Thực ra tôi cũng chẳng biết gì nhiều về chị. Chỉ nghe nói chị là “Me Tây”, nhưng chị cũng sống hiền lành và ít gây sự chú ý.

Đại Úy Độ:  Khoảng năm 1961, gia đình ông Mầu giao nhà lại cho ông Cậu như đã nói trước đây, và gia đình Đại Úy Độ, sĩ quan “phục dịch” của cậu Cẩn được sắp xếp vào ở. Đại Úy Độ vừa người, tóc hớt ngắn và quăn, mặt gầy đen, chưa bao giờ thấy ông mặc quân phục, quanh năm một bộ đồ kaki, áo bỏ ngoài quần, chân đi đôi dép da. Tánh ông hiền lành, kín đáo, chưa bao giờ nghe ông nói lớn tiếng. Hai ông bà có ba người con, hai trai, một gái. Anh đầu tên Kỳ,  em trai kế tên Thương, cỡ tuổi tôi và cô em út tôi không nhớ tên. Tôi và Trí, con dì tôi, chơi khá thân với Thương, khá đẹp… “gái” với nụ cười thật hiền lành, anh chàng còn biết đàn guitar và hát. Sau đảo chánh năm 63 lật đổ TT Diệm, gia đình Đại Úy Độ dọn nhà đi nơi khác và tôi cũng mất hẳn liên lạc với Thương từ đó. Nghe Trí cho biết có gặp lại Thương ở Cali.

Đại Úy Uynh:  Đang tiện nói về căn nhà của ông Mầu, sau “cách mạng” năm 63, căn nhà thuộc quyền quản lý của chính quyền thành Phố Huế. Vào khoảng năm 1966, một gia đình khác được sắp xếp vào trú ngụ, đó là gia đình của Đại Úy Uynh(?), một quận trưởng ở một quận xa mà tôi không biết tên. Gia đình cũng khá đông gồm hai vợ chồng, năm sáu người con mà tôi chỉ nhớ mấy người đầu gồm Phương, Tuyền, Nguyệt, Thủy… và một người chú tên Nhiếp. Vì thời gian khá ngắn ngủi lại do ít tiếp xúc, nên tôi không nhớ được nhiều, ngoại trừ tiếng đàn Violon tập tễnh của Tuyền vào những trưa hè nóng bức. Gia đình Đ/U Uynh vẫn còn ở đó khi biến cố Mậu Thân xảy ra. Tuy nhiên, chắc đã chuẩn bị trước nên gia đình đã di chuyển đến một nơi khác. Tôi nhớ là chiếc xe jeep của ông Quận bị trúng đạn pháo kích bắn trúng bốc cháy, vào cùng sáng mồng ba Tết cùng lúc với căn nhà tôi bị pháo sập.
Điều đáng ngạc nhiên là người anh kế của tôi đã tình cờ bắt lại liên lạc được với gia đình Đạ̣i Úy Uynh đến Hoa Kỳ theo diện HO và hiện cư ngụ tại Cali. Tuần rồi, tôi được tin cựu Trung Tá Uynh vừa từ trần ở tuổi 97.

Ông Đội Học:  Căn nhà kế tiếp, chủ nhân là Ông Đội Học, thuở đó ông cũng đã lớn tuổi, tôi nghĩ có lẽ ông cũng khoảng ngoài 70 và là người lớn tuổi nhất xóm, nhỏ người, lom khom trong cái áo dài đen, đầu đội khăn đóng, tay chống gậy. Ngày nào ông cũng đi lễ sớm ở nhà thờ. Nghe nói ông có hai người con làm linh mục. Người con gái ở chung và chăm sóc cho ông bà cũng đã lớn tuổi, không lập gia đình. Bà có một cửa tiệm rất nhỏ nằm ngay sát đường, bán sách kinh, tượng ảnh, chuỗi hạt và các vật dụng thờ phượng khác. Khách lèo tèo không bao nhiêu, chắc bà mở tiệm như để làm việc “tông đồ” chứ không phải mục đích kiếm sống. Nhà ông Học nằm sát cạnh nhà ông Cậu, và cũng đã thuận bán cho cậu Cẩn, nhưng với điều kiện sẽ giao nhà sau khi ông mất. Nhưng có ai học được chữ ngờ, người mất trước không phải là ông Đội Học, mà lại là Ông Cố Vấn Miền Trung, bị lãnh bản án tử hình oan nghiệt vào năm 1964, một năm sau cuộc cách mạng lật đổ TT. Diệm thành công. Ông Ngô Đình Cẩn mất ở tuổi 53 do bàn tay của những phản tướng, mới ngày nào vô ra, chầu chực ở tư dinh ông Cậu, mở miệng là “Cậu Cậu, con con”, nhằm tỏ lòng trung thành với Ông Cố Vấn. Một điều khó chối cãi: Gia đình họ Ngô không có cung nô bộc tốt.

Ông Trần Trọng Sanh:  Cách dãy nhà cho thuê trên đường Phan Châu Trinh chừng hai căn là căn nhà thuê của ông Trần Trọng Sanh, cựu Giám Đốc Nha Công An Trung Phần thời Thủ Hiến Trần Văn Lý, vì vậy ông cũng quen khá thân với ba tôi. Tôi nhớ ông bà có tới bảy người con: ba gái, bốn trai: Chị Mỹ Nhật, Mỹ Đức, Mỹ Anh(?), An Sơn, An Phong, An Phú và Cu Tý. Sau khi ông về hưu, có thời gian ông dạy tôi tại trường Providence. Ông vừa người, da sậm, hay đeo kính cận thị có nhuộm màu, ông thuộc loại người thích hoạt động chính trị, ông là đảng viên Đại Việt (?) và có thời gian bị Mật Vụ Cậu Cẩn bắt “Ủ tờ”. Trong mấy người con ông, tôi không chơi thân với người nào, vì hoặc lớn hơn, hoặc nhỏ hơn. Người gần tuổi tôi là Trần Trọng An Phong, lớn hơn tôi cỡ một hai tuổi, nhưng tánh tình nghiêm trang, ông cụ non thứ thiệt, nên cũng không mấy gần gũi. Về sau An Phong đi tu dòng Lasalle Taberd. Tôi gặp lại Frère An Phong lúc tôi nhận dạy thêm ở Trường Taberd vào những năm 73-75. Frère An Phong đảm trách khâu kỷ luật, nổi tiếng “hắc ám” với bàn tay sắt… không bọc nhung, nên học sinh nhắc tới tên là xanh mặt. Riêng anh An Sơn gia nhập Hải Quân với cấp bậc Đại Úy. Sau năm 75, qua tỵ nạn đất Mỹ, Frère An Phong là một trong những Frères rất hiếm hoi còn bám trụ và rất năng nỗ trong các sinh hoạt của nhà Dòng. Đại Úy Hải Quân An Sơn cũng là một khuôn mặt rất thân quen trong các sinh hoạt chính trị tại San Jose. Anh cũng đã tạ thế khoảng vài năm trước đây.

Ông Tống Viết Văn (Ông Tám):  Cách nhà Thầy Sanh chừng hai căn, sát cạnh nhà Dì tôi, có gia đình ông Tống Viết Văn mà bọn tôi hay gọi là Ông Tám, thời gian đó là Chủ Sự(?) Phòng Du Lịch Huế. Các người con ông, tôi vẫn còn nhớ tên: Anh Ánh, Chị Cam, Chị Tế, cỡ tuổi tôi có hai cô Hương, Mỹ, và cậu trai út tên Quang, nghe nói bị thảm sát trong vụ Mậu Thân năm 1968.
Trước nhà ông Tám có một bến nước được xây cất rất “tiêu chuẩn”, bằng bê tông cốt sắt, có mấy bậc thềm có tay vịn để đi lên và đi xuống trông rất khang trang. Ai cũng gọi là “Bến ông Tám”, chắc do địa điểm nằm ngay trước nhà ông Tám. Nghe nói bến nước đó do Nha Công Chánh Huế đứng ra vẽ kiểu và xây cất, chắc nhằm lấy điểm Ông Ngô Đình Cẩn. Năm 1996, tôi trở về thăm Huế sau mấy chục năm xa cách, bến Ông Tám vẫn còn đó, nhưng đã xuống cấp trầm trọng, trông thật tiêu điều với thời gian và do thiếu ngân quỹ tu bổ. Cây sung xưa vẫn còn đó, nhưng cũng đã thật già và co quắp như một bà già bị phong thấp.



Bến “Ông Tám” trông thật tàn tạ, xuống cấp. Phía góc trái là cây sung nay co rúm như người già bị bệnh viêm khớp (1996)

Dì Dượng Tôn:  Sát cạnh nhà Ông Tám Văn, là nhà của Dì Dượng Tôn. Trong các bà con, không những riêng tôi mà cả các anh chị tôi, đều có một sự quý mến, gần gũi đặc biệt, không những đối với Dì Dượng mà còn cả với các anh chị trong nhà.
Dì là chị ruột kế của Mạ tôi. Nhà Dì Dượng chỉ cách nhà tôi chừng 10 phút đi bộ. Hầu như ngày nào Dì cũng đi lễ vào sáng sớm ngang nhà tôi, và trên đường về, thế nào Dì  cũng ghé lại chơi với mạ tôi.
Hai chị em dù tánh tình rất tương phản, nhưng lại rất thân nhau. Dì cao và gầy, đi đứng chậm rãi, tánh tình hiền lành, ít ỏi, nghe nhiều hơn nói. Mạ tôi thì mau mắn, hoạt bác, xông xáo, tự tin, vậy mà hai người lại rất thân và luôn kề cận nhau như hình với bóng. Mà cũng hợp lý thôi, một người nói nhiều mà gặp một người thích nghe, ít cá tính, thì quá lý tưởng rồi còn gì, huống hồ lại là chị em ruột thịt.
Riêng dượng Tôn cũng là một mẫu người rất đặc biệt. Thời còn trẻ, dượng đẹp trai, nét như lai Tây, mũi cao, mắt sâu, mày rậm, nên các anh chị người nào cũng đẹp. Tánh tình vui vẻ, cởi mở, rộng rãi, luôn muốn làm vừa lòng những người mà dượng quý mến, cho dù có thiệt thòi về phần mình đi chăng nữa. Dù không giàu có, nhưng dượng có cái gì mà con cháu tỏ vẻ thích là dượng sẵn sàng lấy cho ngay, không chút do dự, đôi khi năn nĩ để cho, không lấy là dượng giận, ngược lại, dượng hoan hỷ ra mặt. Tuy nhiên, được lòng người ngoài nhưng đôi khi lại không được lòng người trong… nhà cũng vì cái tính dễ dãi, bốc đồng đó.
Tôi nhớ mãi câu chuyện Ba tôi hay kể về Dượng. Như đã nói trước đây, hai ông thỉnh thoảng rủ nhau đi bẩy chim Cu ở bìa “rừng”. Một hôm dọc đường đói bụng, hai ông rủ nhau ghé vào quán ăn bánh khoái. Ăn xong, Ba tôi tiện tay lấy tiền ra trả, nhưng dượng nhất định không chịu, thế là dành qua dành lại… thiếu đường đánh lộn. Rốt cuộc, Dượng chụp được tiền ba tôi đang nắm trong tay, liệng ngay vào bụi cây kế bên và rút tiền mình ra trả, sau đó mới vui vẻ làm lành trở lại.
Dì dượng có sáu người con, năm trai, một gái và Trí là con út. Dì dượng tuy lớn tuổi hơn ba má tôi nhưng lại có một cuộc sống tương đối nhộn và “chịu chơi” hơn, chắc nhờ ảnh hưởng của Dượng. Thỉnh thoảng, Dì Dượng kéo cả nhà đi xem xi nê, kéo luôn cả người làm. Ngoài bầy con, Dượng Dì còn phải chăm sóc cho ông Nội nữa. Ông tuy lớn tuổi nhưng khoẻ mạnh, vui vẻ và sống rất ung dung, tự tại, như một nhà hiền triết. Tôi nhớ ông rất khéo tay, tự vót tre làm lấy các lồng nuôi chim, bẩy chim.
Cỡ tuổi tôi và anh kế tôi, có anh An và anh Trí. Đúng ra Trí hơn tôi hai tuổi, nhưng vì chơi thân với tôi và thân luôn cả với anh tôi, nên cũng xưng hô “mi, tau” như điên. Hồi còn ở Huế và ngay cả lúc sau này vào Sài Gòn, tôi với Trí thân nhau, gần gũi nhau còn hơn anh em ruột. Không có gì mà tôi dấu Trí và cũng không có gì mà Trí không kể tôi nghe. Chia nhau từng điếu thuốc, một ly cà phê cũng chia làm hai. Sau Mậu Thân, gia đình tôi dọn vào Sài Gòn trước, riêng gia đình Dì Dượng không bao lâu sau cũng vào theo, ở với gia đình anh con trai trưởng, cùng ở ngay đường Trương Minh Giảng, và như ngày xưa ở Huế, cũng chỉ cách nhà tôi chừng mười phút đi bộ, và cũng lại khắn khít như trước.
Ngày nào dì dượng cũng ghé nhà tôi mấy bận. Trí vào sau, ghi tên học ĐH. Vạn Hạnh. Không bao lâu sau vì đôn quân, Trí nhập khóa Thủ Đức và may mắn được tuyển chọn vào Không Quân. Trí tu nghiệp ở Mỹ và tốt nghiệp không bao lâu trước ngày “mất nước”, nên không có dịp để trở về lại VN. Đúng là số “đẻ bọc điều”.

Cũng trên đường Phan Châu Trinh nhưng nếu từ hướng nhà tôi quẹo trái, dù không quen biết, giao du với ai ở đó, nhưng sẵn dịp tôi cũng muốn nhắc tới một vài nhân vật khá được biết đến, do tài năng của chính họ, hoặc do tên tuổi của họ, vì lý do này hay lý do khác, đã được gắn kết với một người đã thành danh.

Bích Diễm, Dao Ánh:  Con gái của Thầy Ngô Văn Khánh, dạy Pháp Văn tại trường Đồng Khánh. Tuy gia đình thầy gốc Bắc nhưng lại ở Huế. Nhà thầy chỉ cách cầu Phủ Cam chừng vài trăm thước. Thầy có hai cô con gái và một người con trai.
Tôi không biết gì nhiều về người chị đầu Bích Diễm vì chị đã rời Huế và vào học ở Sài Gòn, sau khi đỗ Tú Tài 2.
Người em trai kế tên Ngô Anh Vũ, là bạn của người anh kế của tôi. Anh này thi đỗ vào Trường Quân Dược và mang lon Thiếu Uý trong thời gian theo học tại Sài Gòn. Xui xẻo cho anh và gia đình, vào dịp Xuân Mậu Thân năm 1968, anh trở về Huế ăn Tết với gia đình và bị Việt Cộng bắt đi mất tích trong đợt tấn công và chiếm giữ thành phố Huế. Xác của anh về sau đã được tìm thấy trong một hố chôn tập thể, nghe đâu ở khe Đá Mài. Anh Vũ chưa lập gia đình và nổi tiếng đẹp trai, cao ráo, học giỏi, lại “con nhà“, nên được rất nhiều cô mến mộ. Nghe anh tôi nói lại, cái chết tức tưởi và đột ngột của anh đã làm nhiều cô gái ở Huế thổn thức không nguôi.
Riêng cô em út Dao Ánh, chắc cũng hơn tôi khoảng một hai tuổi, thì thỉnh thoảng tôi vẫn nhìn thấy, mỗi khi cô đi học về, áo trắng, dáng cao gầy, tập vở ôm trước ngực, dáng đi nhẹ nhàng, mắt nhìn xa vắng.
Lúc đầu chỉ có mình tên cô chị Ngô Bích Diễm thỉnh thoảng được nhắc đến, do có lời đồn đoán rằng cô chính là nhân vật mà nhạc sĩ họ Trịnh đã nói đến trong ca khúc để đời “Diễm xưa“ được trình làng vào những năm 67, 68. Cũng chỉ là những lời đồn đoán vu vơ, vô thưởng, vô phạt trong giới trẻ thời đó. Tuy nhiên những người liên hệ hình như cũng chưa bao giờ bỏ công xác nhận hay phủ nhận. Mãi rất lâu sau ngày đất nước “bị“ thống nhất, khi một số nhạc phẩm hạn chế của TCS đã được chính quyền CS cho phổ biến trở lại, và nhất là trong những ngày cuối đời, tên tuổi, tài năng của TCS cuối cùng cũng đã được chính quyền CS cho phục hồi, nếu không nói là chấp nhận cho “phong thánh”, tên tuổi cô em Ngô Dao Ánh mới được nhắc đến một cách khá ồn ào, sau khi chính cô đã cho công bố mấy trăm bức thư tình mà người nhạc sĩ đa tình này đã viết cho cô. Thật tình mà nói, việc làm đó với tôi không có gì sai trái, nhưng chẳng biết tại sao tôi lại thấy có chút gì đó... không ổn. Có thể tại tôi thuộc trường phái cổ, lại là dân Huế thứ thiệt, nên quan niệm tình yêu “Huế”, đặc biệt về phía người nữ, thường nhẹ nhàng, thầm kín, e ấp… lấy roi đánh đít còn chưa khai. Chẳng thà nội dung đó do ai khác phát hiện hoặc tiết lộ, thì chẳng có gì để bàn, tuy nhiên việc hăm hở công bố qua báo chí những bức thư tình mà một người khác đã viết cho mình, với tôi, là một hành động hơi… nông nỗi, đáng tiếc, nếu không nói là không chính đáng. Ấy là chưa nói đến việc làm đó, biết đâu lại chẳng đã làm sứt mẻ phần nào chút tình cảm tỷ muội? Phải chăng đó là cái giá phải trả để “được” đi vào lịch sử? Không biết tôi có đa đoan và khắt khe lắm không?
Tôi đã từng nghe đâu đó có người từng nói đùa: Các cô gái Huế thường thích “Bài không tên số hai” của nhạc sĩ Vũ Thành An. Cô nào, khi bước lên xe hoa, cũng “lận lưng” không phải chỉ có “một mối tình” mà một danh sách khá dài những mối tình của những kẻ đã từng trồng cây si mình! Không hẳn mấy cô tánh lăng nhăng đâu, vì thời đó, quan niệm yêu đương nhẹ nhàng, thơ mộng chứ không ồn ào, “tới bến” như sau này. Các cô chỉ thích sưu tầm, lập kỷ lục… để “loè” con cháu sau này cho vui vậy thôi. Đại khái: “Tui không dễ tán mô, nhưng ai muốn si tui thì cứ việc, ai muốn chép thơ bằng mực tím tặng tui cũng không sao, nhưng nhớ kín đáo đừng cho ai thấy mà “ốt dột”, còn việc đưa đón thì cứ tự nhiên, miễn là đi xa xa đàng sau, lâu lâu tằng hắng vài tiếng để tui biết, nhưng nhớ đừng quá đường đột là được… Riêng nếu muốn lấy tui thì nhờ ông bà mai lại nói chuyện thẳng với ba mạ tui chứ tui không biết chi mô”.

Nhà Văn Túy Hồng:  Con gái của Thầy Thám, cũng là GS Pháp Văn tại trường Đồng Khánh, cách nhà Thầy Khánh mấy căn. Theo lời ba tôi kể lại, ông này ngày trước học cùng lớp với ba tôi tại trường Pellerin, Huế.
Tuý Hồng viết rất nhiều truyện tình cảm, trong đó có hai tác phẩm hay được nhắc đến là “Thở dài” và “Tôi nhìn tôi trên vách”, do nội dung “cấp tiến”, đi trước thời đại, nên nhiều độc giả vào thời kỳ đó, kẻ khen, người chê. Riêng tôi thì không có ý kiến, vì thú thật tôi chưa có dịp đọc.

Cậu Bửu Sưu:  Nhà cậu cũng ở trong một con hẻm nhỏ trên đường PCT. Cậu Sưu là người con duy nhất của bà Ngoại đầu, và là anh cả trong gia đình mạ tôi.  Cậu cũng là một nhân vật khá đặc biệt trong gia đình. Cậu nhỏ con nhất so với các em, nhưng hay nói lớn tiếng, chưa thấy là đã nghe tiếng cậu. Tánh khí vui buồn bất chợt, khi vui thì cười ha hả, khi tức giận thì la lối hoặc khóc. Nhưng cậu rất thương và bênh vực con cháu. Ngày Tết hằng năm, khi đại gia đình tập trung đến mừng tuổi Ông Bà Ngoại, Cậu thường đóng vai MC. Khi đã tập họp con cháu đông đủ trước cửa căn nhà riêng cùa ông Ngoại, nằm riêng rẽ với khu nhà chính, và sau khi mọi người đã theo thứ tự quỳ xuống chiếu, cậu luôn đại diện các em và con cháu để mừng tuổi ông bà Ngoại, cậu thường khóc vào dịp này. Sau đó, cậu quỳ gối xuống và điều động con cháu lạy mừng tuổi thọ ông bà, cho đến khi ông Ngoại đưa tay lên và nói: “Miễn lễ”.
Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, không biết do ai gợi ý, Cậu cả nộp đơn ra ứng cử Dân Biểu và chọn hình ảnh “Cây Chổi” làm biểu tượng cho liên danh mình. Trong lần nói chuyện với cử tri, cậu đã lớn tiếng hứa hẹn, nếu được bầu, ông sẽ dùng “chổi” để “quét, quét sạch những thành phần rác rưởi trong Quốc Hội”, tạo nên một màn hý lộng ít thấy trong mùa bầu cử năm đó. Dĩ nhiên là ông không có dịp dùng cái chổi đó để thực hiện lời hứa với cử tri, có chăng là ông đã dùng cái chổi đó để tiếp tục quét lá trong vườn. Không biết về sau Donald Trump có bắt chước ông cậu của tui không khi đã hứa với cử tri nước Mỹ là nếu được bầu vào nhà Trắng, ông ta sẽ tát cạn vũng đầm lầy tại Washington DC?
Cậu mợ có chừng 6, 7 người con trong đó Anh Vĩnh Linh là con thứ và là một giáo sư Toán khá tên tuổi ở Đà Nẵng. Anh này thuộc thành phần thiên tả, sau năm 1975, nghe đâu GS Vĩnh Linh “được” Đảng cho làm Dân Biểu gật của Quốc Hội VC. Thôi thì con hơn cha là nhà có phúc vậy.

Nhà Văn Nhã Ca:  Nhà xa mãi gần dốc Bến Ngự, được biết nhiều qua truyện “Giải khăn sô cho Huế”.
Điều đáng ghi nhận là Huế đã có rất nhiều nữ Văn Nghệ sỹ tài danh: Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng... Về nhạc có Lê Tín Hương, Diệu Hương (?)… nhưng nói chung, hầu như tất cả đã chỉ thành danh sau khi đã rời Huế.

Thân chủ dãy nhà thuê:
Mụ Quật bán quán:  Thời đó nhà tôi có đến hai khu nhà cho thuê, khu đầu tương đối bình dân, gồm ba cửa hàng buôn bán, vách xi măng, mái tôn nằm tiếp nối khu nhà tôi ở, ngăn cách bởi một bức tường xi măng, có khoảng hở bọn nhóc có thể chui qua lại. Miếng đất khá dài nhưng không sâu lắm, thế đất thấp hơn khu nhà tôi gần nửa thước nhưng cùng hướng ra đường Nguyễn Trường Tộ. Cửa hàng đầu tiên nằm sát cầu do hai vợ chồng “mụ” Quật thuê, bán bánh kẹo cho trẻ con, nước ngọt, xi rô nước đá, rượu đế cho khách qua lại và nhất là mấy ông đạp xích lô thường hay tập trung đậu xe ngay đầu cầu Phủ Cam.

Anh Dưỡng, Anh Minh sửa xe:  Bên cạnh là một tiệm sửa xe gắn máy của anh Dưỡng và về sau do anh Minh thuê chuyên sửa xe đạp.
Một vụ hỏa hoạn đã xảy ra tại tiệm sửa xe của anh Dưỡng mà tôi còn nhớ. Hôm đó khoảng giấc trưa, bọn tôi trên đường đi học về, từ đàng xa đã thấy người ta bu quanh khu nhà thuê còn bốc khói… Tất tả chạy về xem chuyện gì đã xảy ra, được mạ tôi cho biết anh Dưỡng đang sửa xe mô tô, bị rĩ xăng, gặp lửa bốc cháy. Nghe tiếng la cháy nhà, Mạ tôi và mấy chị người làm vội vã túm ngay hai cái mền len mà bọn tôi rất thích vì nhẹ và rất ấm, chạy nhúng vào bễ nước và chạy chụp vội ngay lên chiếc xe đang bốc cháy và nhờ vậy đã ngăn chặn vụ cháy không lan ra. Hai cái mền bị cháy sém, đem về giặt lại rất nhiều lần nhưng không thể loại bỏ mùi hôi khói. Mỗi lần đắp lại chăn đó là tôi vẫn thấy tiếc là chăn không còn thơm tho như trước.

Anh Tám thợ chụp hình:  Tiệm thứ ba là tiệm chụp hình, chủ thuê là anh Tám, người cao, tóc quắn, luôn có một nụ cười hiền lành. Thời đó tôi thấy thân chủ của anh cũng không nhiều lắm, không biết làm sao đủ để nuôi sống gia đình. Một câu chuyện khá vui dạo đó: một hôm trong lúc anh Tám đang đứng trước cửa hàng nhìn mấy cô Đồng Khánh đi học về, không biết do ai xúi dục hoặc thách đố, thằng Ấm từ đàng sau tuột cái quần dài của anh Tám có lưng dây thun, xong rồi cười rú lên và bỏ chạy. Nói cho ngay tôi không chứng kiến vụ này nên không biết hôm đó anh Tám… có vô tình làm cô học trò nào đó hoảng sợ hay không? Tuy nhiên mấy ngày sau anh Tám túm được thủ phạm, anh bèn cột nó vào gốc cây dừa sau khi lột hết quần áo thằng nhóc. Cả xóm được một trận cưới quá cỡ.

Dãy nhà cho thuê thứ hai tọa lạc ở số 70 A đường Phan Châu Trinh. Khu này rất khang trang, gồm bốn căn nhà ngói, còn trong tình trạng rất sạch sẽ, có hàng hiên lợp ngói bên trước nhà. Dãy nhà còn có sân trước khá rộng, có hàng rào cây bao quanh. Mỗi hộ gồm hai căn ăn thông với nhau, có một phòng riêng nhỏ nằm phía sau, kết nối với căn nhà chính, riêng nhà bếp nằm tách rời và thấp hơn khu nhà ở mấy bậc thềm. Dãy nhà vì nằm sát cạnh bờ sông nên tiện lợi cho việc giặt giũ, gánh nước sông hoặc cho bọn trẻ tắm rửa, bơi lội… tuy nhiên để tránh lụt lội, dãy nhà đã được xây trên nền cao, có đến sáu bảy bậc thềm. Khu nhà này đã được xây lại gần như hoàn toàn vào những năm 1965. Mái hiên lợp ngói trước đây, nay được đúc bằng xi măng cốt sắt với kiến trúc tân thời hơn trước. Đáng buồn là chẳng bao lâu sau, trong biến cố Tết Mậu Thân, toàn bộ dãy nhà đã bị sập nát do đạn đại bác không giật của quân đội Mỹ, được gắn trên các thiết xa, bắn trả lại quân VC đang núp trong các gian nhà trống mỗi khi chúng bắn sẻ vào các lực lượng Mỹ ở phía bên kia cầu. Thời gian đó Thầy Châu và Thầy Cảnh đang thuê nhà nhưng rất may mắn gia đình hai ông đã di chuyển đến địa điểm khác nên không một ai trong gia đình bị thương tích hoặc thiệt mạng.


Hình chụp với ba tôi trước dãy nhà cho thuê sau Tết Mậu Thân. (1968)

Theo tuần tự, các gia đình sau đã trú ngụ trong dãy nhà tọa lạc tại số 70A Phan Châu Trinh, Huế:
- Ông Nguyễn Văn Ba, mà bọn tôi hay gọi là chú Huyện, ngạch Tri Huyện, thời gian đó là Giám Đốc Nha Bảo An, Huế. Sau này làm Phó Tỉnh Trưởng Hội An. Vợ và 11 người con: 8 trai, ba gái.
- Cụ Đốc Thước dạy học tại Trường Quốc Học với người con trai duy nhất tên anh Phô.
- Đại Úy Hoàng Trọng Phúc, vợ và 7 người con: bốn gái, ba trai.
Trong số những người đã từng ở khu nhà thuê, có ba anh em ruột, do hoàn cảnh quê xa, được thân phụ là một Thầy thuốc Đông Y, gửi gắm đến sống chung nhà với người bảo trợ mà tôi không nhớ tên, trước là để dạy kèm cho hai người con trai của gia chủ, sau là để tiện cho mấy anh em có nơi trú ngụ trong thời gian theo hoc tại Huế.
cả ba về sau đều thành tài, không những ở Việt Nam mà luôn cả thời gian ở Mỹ. Đó là các anh:
- Anh Phiệt: Tốt nghiệp ĐHSP Huế, ban Anh Văn, được học bổng tu nghiệp Mỹ trong những đợt đầu tiên thời LM. Cao Văn Luận làm Viện Trưởng. Học xong, thay vì trở về VN, anh được mời ký hợp đồng và tiếp tục giảng dạy tại ĐH. Austin, Texas cho đến khi nghỉ hưu. Nghe Anh đã từng nhận được một giải thưởng Văn Chương của Mỹ.
- Anh Trâm: Bác Sỹ Y Khoa
- Trần Quí Sách, tức nhà văn Trần Hoài Thư: thời đó học cùng trường, cùng lớp với chị Tư của tôi, tại một trường tư thục. Tôi vẫn còn nhớ hình dáng của anh, người gầy, dáng khắc khổ, ít nói. Thời đó anh khoảng 15, 16 tuổi nhưng tóc đã điểm bạc, kính cận dày cui, anh có một nụ cười rất hiền lành, dễ mến. Sau khi đỗ Tú Tài thì mất hẳn tin tức mấy anh em. Được biết sau khi đỗ Tú Tài ở Huế, anh tiếp tục học ở ĐH Sài Gòn. Qua Mỹ, tuy rộng lớn, nhưng lại biết được nhiều tin tức của các anh hơn trước đây, nhất là anh Sách, dưới bút hiệu Trần Hoài Thư (*), một Sĩ Quan tác chiến, một nhà Văn, nhà Thơ khá nổi tiếng nhất là sau năm 1975 tại hải ngoại. Qua một số tác phẩm ít ỏi của anh mà tôi đã được đọc, nhưng đặc biệt, qua chút trực giác mỗi khi có dịp nhìn thấy… ngoại hình khắc khổ của anh, tôi có cảm tưởng, với anh, văn thơ là một nỗi ám ảnh, dằn vặt, một đam mê đời người chứ không phải là một chọn lựa đơn giản, vì nghe nói qua Mỹ, anh đã khá thành công trong học vấn và việc làm với IBM và ATT.
- Thầy Trần Như Cảnh, người Quảng Nam, GS Pháp Văn tại Trường Đồng Khánh với hai cô em gái Chị Loan và Phụng.
- Thầy Nguyễn Châu, người Huế, GS. Triết tại trường Quốc Học, vợ là cô Tống Thị Lan, GS. Triết tại trường Đồng Khánh.

(*)Trần Hoài Thư, những câu thơ cuộc đời - Văn Học Nghệ Thuật - Việt Báo Foundation – A Nonprofit 501 (c)(3) Organization (vietbao.com)

Con cái của các gia đình trên, đặc biệt trong cùng lứa tuổi bọn tôi, đã lớn lên cùng lúc, chơi với nhau trong rất nhiều năm nên đã trở nên thân tình, gần gũi như cật ruột. Trong quan hệ, ba má tôi được gọi là hai Bác… “chủ nhà”, phần bọn tôi cũng gọi lại các chủ hộ đó là “Chú Thím” hoặc Thầy Cô và hiển nhiên là gọi nhau cũng tùy theo tuổi tác, cùng cỡ tuổi thì “Mi Tau”, lớn hơn thì “Anh Chị”.
Hai gia đình bám trụ ở đó lâu nhất là gia đình Chú Thím Phúc và gia đình Chú Huyện Ba.

Chú Thím Phúc: Trong những gia đình hàng xóm đã để lại nhiều kỷ niệm nhất với gia đình tôi là gia đình Chú Thím Hoàng Trọng Phúc. Thú thật tôi không nhớ rõ gia đình Chú Thím Phúc thuê nhà tôi từ năm nào? Tôi nghĩ chắc cũng vào khoảng những năm 1955, 1956. Chú Phúc là đại úy, nhưng không phải tác chiến mà hình như là Quân nhu. Chú đẹp trai, dáng gầy nhưng cao ráo, ánh mắt đăm chiêu, nụ cười hiền lành, ăn nói luôn nhỏ nhẹ, nhìn có vẻ trí thức dân sự hơn là quân đội. Chưa bao giờ tôi nghe chú lớn tiếng với vợ con. Có thể Chú là một trong những sỹ quan đầu tiên được gửi đi tu nghiệp ở Mỹ thời đó. Tôi còn nhớ ở phòng khách nhà chú có cái bàn thấp lót kiếng, bên dưới chú trưng bày các hình ảnh in ấn rất đẹp, cỡ bằng lá bài Tây, về các thắng cảnh và công trình kiến trúc rất đẹp và nổi tiếng ở Washington DC mà chú thu thập được sau những lần tu nghiệp ở Mỹ: Các ngôi mộ của TT. Jefferson, Abraham Lincoln, hoa anh đào… và vì thích quá, tôi có lần lén lấy mấy tấm đem về cất giữ. Hy vọng đã trên 60 năm rồi, bây giờ nói ra, chắc cũng đã vượt quá thời gian để có thể bị truy tố (Statute of limitations).
Thím Phúc nhỏ người và cũng khá xinh xắn, hiền lành, ít ỏi, nhỏ hơn má tôi trên 10 tuổi, và thường qua lại gần gũi và đối xử với mạ tôi như bà chị vậy. Vào thời điểm đó Thím cũng vào khoảng 38, 39 tuổi mà đã bảy con, bốn nữ, ba nam: Chị Bạch Mai con gái đầu, cỡ tuổi ông anh kế của tôi, hơn tôi chừng bốn tuổi, Định lớn hơn tôi chừng hai tuổi, Kim Sa hơn tôi chừng một tuổi, Châu nhỏ hơn tôi một tuổi, Quý nhỏ hơn tôi chừng hai tuổi, hai cô út, Thủy Hương và Thanh Bình thì nhỏ hơn tôi chừng bốn năm tuổi. Trong cỡ tuổi này, nhà tôi chỉ có tôi và ông anh kế. Riêng tôi, chỉ trừ chị Mai là lớn và hai bé Hương, Bình là còn bé… số còn lại thì tôi chơi tuốt. Hơn thua một hai tuổi nên đều bình đẳng gọi nhau bằng mi tau cho nó tiện.
Con nít thì kết bè với con nít, người lớn thì qua lại với người lớn. Thỉnh thoảng ba bốn bà bạn của Mạ tôi gồm Dì Tú, Dì Nghị, Thím Phúc và mạ tôi, cũng tập họp lại để bốc “lú” (*) chủ yếu để giải trí hơn là sát phạt. Mấy ông gồm Dượng Tôn, Dượng Duyệt, chú Huyện và ba tôi… cũng tập họp chơi cờ Tam Cúc khi rỗi rảnh.

(*) Thường dùng các đồng tiền xưa bằng đồng, bốn người chơi chọn một trong bốn cửa “Yêu”, “Lượng”, “Tam”, “Túc” theo thứ tự 1,2,3,4 .

Bảy người con của Chú Thím Phúc nói chung rất hiền lành, mặt mày người nào cũng sáng sủa, đẹp đẽ và được chú thím rất mực cưng chiều. Tôi nhớ Quý, cậu út trai, hay lợi dụng vòi tiền những lúc Thím đang bận “đen đỏ”. “ Mạạạ, cho con một đồng". Tiếng mạ kéo dài thườn thượt. Chỉ khi nào nắm được tiền trong tay Quý mới buông tha.
Mấy anh em khi có tiền và phim hay, thường kéo nhau đi xem xi nê. Đâu có như tôi, mang tiếng con út nhưng đâu được tung tăng như vậy. Đi đâu cũng phải xin phép, chơi chưa đã là có người đi gọi về trình diện má tôi. Người ta thường nói: ”Con út trút gia tài!” riêng tôi, chỉ cảm thấy bị “kềm kẹp”, mất tự do. Ba má tôi lớn tuổi và thuộc thế hệ trước, nên xi nê không phải là nhu cầu cần thiết. Tôi chưa bao giờ thấy ba mạ tôi đi xem xi nê. Chỉ có ba lần duy nhất, khi có đoàn cải lương ở Sài Gòn về diễn, ba mạ có dẫn tôi đi xem. Cả ba tuồng cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ: Lưu Bình Dương Lễ, Lan và Điệp, Quan Âm Thị Kính. Lần nào xem, tôi cũng khóc thút thít vì cảm động dù mới 10, 11 tuổi.
Tiền ăn hàng của tôi chắc cũng không bằng mấy đứa trẻ hàng xóm, lý do là má tôi quan niệm đồ ăn ngoài đường không vệ sinh. Bà chủ trương dồn nỗ lực vào các bữa cơm gia đình, cho con ăn uống đầy đủ, không thiếu thốn một món nào… và nếu cần ăn hàng quà, thì cũng chỉ ăn ở nhà, khi các gánh hàng quen ghé ngang nhà mời mọc: ăn chè, bún bò, hủ tiếu, mì, phở, hột vịt lộn…(*) nhưng dù kêu vào nhà hay ra mua khi xe bán hàng đi ngang, bao giờ cũng xài tô và muổng đũa của nhà.  Nói chung Mạ tôi không chủ trương cho con có tiền túi nhiều vì sợ ra đường ăn uống bậy bạ, rồi mang bệnh. Thỉnh thoảng má tôi cũng cho tiền, nhưng là tiền không tên và không định kỳ, đại khái là tiền dằn túi, nhỡ đi đường “đạp bể bánh tráng”, chứ không phải để ăn hàng bậy bạ. Vì vậy đi học thấy bạn bè ăn cốc, ăn ổi, ăn cà lem, đôi khi tôi thấy cũng tủi thân chứ không nhận ra ý tốt, sự lo lắng của cha mẹ. Biết đâu nhờ vậy mà mấy anh em tôi nói chung, ai cũng khoẻ mạnh ít ốm đau.

(*)Trong mấy người bán hàng gánh đó tôi vẫn còn mang hình ảnh sâu đậm của ba người:
- Ông Quắn bán phở gánh: Sở dĩ gọi tên ông là Quắn là vì tóc ông quắn tít. Người cũng cao ráo và coi cũng có phong độ̣. Thời đó món phở còn hiếm, nên mỗi lần ông mở nắp thùng nước lèo, mùi phở thơm ngát quyện theo gió bay đi thật xa. Lâu quá rồi nên tôi không thể nhớ rõ chi tiết của gánh phở thiết kế như thế nào. Chỉ nhớ là đóng bằng gỗ, một ̣đầu là thùng nước lèo, nằm gọn gàng trong khung gỗ, đít thùng nằm trên một chảo than hoặc củi. Đầu kia đựng tô bát, bánh phở, dao, thớt, thịt bò, hành ngò, hành chua. Ngoài phở nước, còn có phở khô nữa, cũng rất hấp dẫn. Bánh phở tươi, nguyên miếng, ăn tới đâu, cắt tới đó. Tôi nhớ bà chị đầu tôi mê hũ hành chua của ông ta lắm. Tuy bán buôn, lao động, nhưng ông Quắn luôn vui vẻ, bặt thiệp không chút mặc cảm. Thậm chí, tôi nghe nói có lần mấy bà trong xóm chơi Tứ Sắc, thiếu tay thế nào không rõ, thế là ông ta vui vẻ tình nguyện bỏ gánh vào ngồi thế tay ngay.
- Mệ bán chè: Không biết Mệ tên gì và bao nhiêu tuổi, nhưng trông da mệ chằng chịt vết nhăn, răng mất cũng gần hết, tóc bạc trắng búi lại chỉ bằng “củ tỏi”, nhưng bao giờ mệ cũng vui vẻ với nụ cười thật dễ thương. Gần như ngày nào mệ cũng ghé lại chào hàng. Buôn thúng bán bưng mà khi nào mệ cũng mặc cái áo dài dù đã sờn cũ. Nghĩ lại vẫn còn thấy thương, không biết con cháu ở đâu mà tuổi già còn phải bôn ba kiếm sống. Nhưng chè của mệ thì ngon tuyệt: Chè đậu xanh đánh, chè kê, chè đậu ván đặc, đậu ván nước, chè bắp, ngoài ra còn có chè “combo”, nửa đậu xanh đánh/nửa chè kê, ăn quẹt bánh tráng. Chén chè không bự và sâu như bây giờ nên phải ăn tới hai ba chén mới thấy thấm. Má tôi thương mệ lắm, nên luôn ưu tiên ăn chè của mệ.
- Ông Tàu bán xe mỳ hoành thánh: Ông thường đi ngang khu nhà tôi vào giấc tối, khoảng chín, mười giờ. Chưa đến đã nghe tiếng lóc cóc của hai thanh gỗ gõ vào nhau tiếng vọng đi rất xa.
Lúc tôi khoảng 13, 14 tuổi, Trí con dì tôi, và một vài bạn trong xóm nỗi hứng xin “đi tu” Dòng Chúa Cứu Thế, thế là tôi cũng đùng đùng xin mạ tôi đi tu. Tôi nhớ Mạ tôi mắt sáng hẳn ra vì nghĩ chắc thằng Út nhà mình được “Ơn kêu gọi”. Vào dòng mới đầu thật hứng thú, buổi chiều được đá banh, đôi khi trời mưa, được chơi banh bầu dục (Rugby), trơn trợt té ngã trong bùn, vui quá đi thôi. Thỉnh thoảng còn được các Cha dẫn đi tắm sông An Cựu, cách Dòng chừng mười phút đi bộ. Bên cạnh niềm vui được “giải phóng” lại có cái giá phải trả. Sáng nào cũng bị đánh thức vào lúc khoảng 5 giờ sáng để đi Lễ sáng. Ăn uống thì kham khổ, nên nhiều đêm nghe vang vọng từ xa tiếng “lóc cóc” của ông già Tàu bán mỳ hoành thánh, tôi vừa nhớ nhà, vừa nhớ mùi khói thơm bốc lên từ tô mỳ nóng hổi mà nước mắt cứ muốn trào ra. Chỉ vì có chừng đó mà Giáo Hội đã… may mắn mất đi một Linh Mục như tôi.

Mãi tới khoảng năm 63, 64, chú Phúc được thuyên chuyển vào Đà Nẵng và đưa gia đình vào theo, để lại một khoảng trống cho những người ở lại.
Vàì năm sau khi gia đình chú thím Phúc đưa gia đình vào Đà Nẵng, Chị Bạch Mai, con gái đầu, hiền lành, khá xinh, lập gia đình sớm. Chồng chị, anh Bùi Xuân Hồng, một thiếu úy đẹp trai và là em của GS Bùi Xuân Bào. Lấy nhau chưa được bao lâu thì xảy ra vụ Tết Mậu Thân. Hai vợ chồng vào trú ngụ trong nhà thờ DCCT Huế, VC xâm nhập và bắt theo một số giáo dân, trong đó có anh Hồng. Xác anh đã được tìm thấy và nhận diện vài tháng sau khi Huế được giải phóng.
Trong số những người con của chú thím Phúc, tôi nhớ nhiều tới hai người là Định và Sa.
Hoàng Trọng Định: Lớn hơn tôi cỡ hai tuổi, nhưng chưa đủ lớn để được tôi gọi bằng anh, nên cũng chỉ “mi tau” thôi. Định có đặc điểm là mắt hơi lé, tóc hơi quăn, vóc dáng trung bình và là con thứ hai sau chị Mai. Tánh tình hiền lành tuy hơi “tửng tửng”. Tôi nhớ có nhiều lần sang nhà Định chơi, thấy y ngồi trên mấy bậc tam cấp trước nhà, mắt nhìn xa vắng. Thỉnh thoảng dùng hai tay đánh chết con ruồi hay con muỗi, xong y thích thú xoa mạnh hai tay và đưa lên mũi ngửi, miệng cười cười trông thật ngộ. Trò chơi nào cũng có sự tham gia tích cực của Định. Những buổi trưa Hè, Định và thỉnh thoảng có cả anh kế tôi, dẫn một đoàn con nít đi bắt cắc kè bằng cách làm một cái thòng lọng bằng dây cước, cột vào đầu một cần câu, trong khi cắc kè đang say nắng, đầu đỏ rực và gật gù trên bức vách hoặc trên dây rào kẽm gai, người bắt phải nhẹ nhàng tròng cái thòng lọng vào cổ cắc kè và giật ngược. Cắc kè sẽ vùng vẫy và được tháo gỡ khỏi thòng lọng để bỏ vào thùng không. Lúc trở về cũng được hơn chục con hoặc có khi nhiều hơn. Các con bắt được thường được chọn để đem ra giao đấu. Mỗi bên lựa con nào xung nhất trong đám, dùng tay chụp ngang cổ và bóp mạnh, con cắc kè há miệng lớn, đem hai con châu miệng vào nhau cho đến khi chúng khoá miệng lại và cắn chặt, trong sự hoan hỉ la ó của lũ nhóc cổ võ cho hai phe. Cuộc đấu chấm dứt khi có con thua bỏ chạy, miệng bị thương tích, rách miệng, bễ hàm chảy máu là chuyện thường… Sau đó đến cặp khác. Tuổi trẻ Việt Nam khác tuổi trẻ ở phương Tây ở lòng yêu thương súc vật. Lý do cũng thật dễ hiểu, chúng đâu được tiếp cận với các sách báo, phim hoạt họa, trong đó chó, mèo, chim, chuột đều là những “nhân vật” có tên tuổi, có tiếng nói hẳn hòi, nên đứa trẻ thấy gần gũi và thân thuộc. Con nít VN nhìn con vật như một món đồ chơi rẻ rúng vậy thôi. Tôi từng chứng kiến các con cắc kè sau khi bị bắt bỏ vào thùng, chúng chạy ngang dọc, ̣đan đuôi rối lại với nhau. Thay vì tìm cách tháo gỡ, bọn nhỏ lấy cái kéo và cắt cụt đuôi 5, 7 con là chuyện thường. Lần khác, tôi thấy bọn nhóc trong xóm bắt được một mớ cắc kè, không biết chơi gì, chúng lấy pháo còn sót lại từ dịp Tết, cho cắc kè cắn chặt vào đuôi pháo, sau đó châm lửa và thả cắc kè chạy cho đến khi nghe tiếng đùng là con cắc ké cũng tan theo xác pháo trong sự la hét ầm ỹ của bọn nhỏ. Có lần ông anh tôi bắt được con cắc kè khá xung, đầu đỏ ké, ông cầm ngay cổ đưa cao như khoe với đám nhóc, ai ngờ con cắc kè vùng mạnh và thoát khỏi tay, thay vì chạy trốn, sẵn đà nó phóng ngang qua Định và cắn chặt vào trái tai anh ta. cả đám la ó vì sợ hãi, riêng Định mặt mày nhợt nhạt, cắt không còn giọt máu. Ông anh tôi cũng teo không kém, vói tay bóp mạnh cổ con cắc kè, may sao nó buông ra… Chuyện xảy ra trên 60 năm mà nghĩ lại còn thấy mắc cười.
Không bắt cắc kè thì đi bắt ve. Cũng dùng cần câu dài, lấy mủ mít quẹt lên đầu cần xong hơ lửa cho mủ sánh lại, làm nhiều lần cho đến khi gom đủ. Mùa Hè, ve đậu la liệt, kêu như điên như dại, người bắt dùng đầu có mủ chấm nhẹ vào cánh ve thế là cánh ve bị dính ngay vào cần, ve vùng vẫy tuyệt vọng nhưng đã quá trễ, thế là hạ cần và bắt ve cho vào bao. Nói về sự ác độc đối với loài vật phải kể thêm chuyện… “chó tháng Bảy”. Thời đó thỉnh thoảng bắt gặp hai con chó “dính” nhau, trẻ con trong xóm dù không hiểu lý do tại sao, chỉ thấy lạ và thế là nhập bọn chạy theo vừa cười giỡn, vừa la hét, có đứa còn nghịch ngợm cầm cây thọc phá, mặc cho các người lớn tuổi phải can thiệp để bọn nhóc giải tán. Mà không phải chỉ ác độc với thú vật mà còn ác độc luôn cả với con người. Thời đó thỉnh thoảng xuất hiện một nhân vật mà con nít trong xóm đặt tên là “Tề Thiên Đại Thánh”, mà quả thật, ông này vừa nhỏ con, mặt mày choắt lại và  xấu xí. Ông này được các rạp xi nê thuê đi lòng vòng để phát các tờ “programme” về các phim đang chiếu. Mỗi lần thấy ông ta xuất hiện ở đầu ngõ là cả đám con nít chạy theo, vừa trêu chọc “Tề Thiên Đại Thánh, đi gánh cứt trâu…” , có đứa còn lượm các cục đá nhỏ liệng theo. Ông ta tức giận quay lại rượt là cả lũ bỏ chạy, và cứ thế, lập đi lập lại cho đến khi ông ta biến mất. Một trường hợp khác, trong họ đạo có một bà bị bệnh mập phì có tên là “Mụ Liếc”, tuy nhiên nếu đem so với những người mập phì hiện tại ở Mỹ, mụ ta còn có vẻ… hơi gầy. Vậy mà mỗi lần thấy mụ đi ngang qua, thế nào bọn nhỏ cũng vừa chạy theo vừa la to trong tiếng cười ngặt nghẽo “Mụ Liếc! Mụ Liếc!”. Nghĩ lại, đúng là một lũ con nít mất dạy, điều đáng nói là ít khi thấy người đi đường can thiệp. Xã hội Việt Nam thời đó dù hiền hòa, mộc mạc nhưng cũng lắm tệ nạn do sự thiếu hiểu biết, thiếu giáo dục không những trẻ con mà ngay cả người lớn.

Trong khu vườn nhà Đức Cha ở ngay phía bên kia cầu, có mấy cây “cốc” mà bọn con nít bọn tôi hay gọi đùa là “Cốc ma ru”, trái xanh nhỏ, chua lè nhưng chấm với muối ớt ăn cũng không tệ lắm. Với đám nhóc trong xóm, đó không những là một cám dỗ mà còn là một thách thức. Một buổi trưa, tôi chỉ nghe kể lại, Định đột kích vào khu vườn, leo lên cây bẻ trái. Xui xẻo là hôm đó ông làm vườn thay vì ngủ trưa lại đi lang thang nên bắt gặp. Nghe tiếng hô hoán, Định hoảng quá nhảy vội xuống, đạp nhằm miếng miểng chai, cắt sâu vào lòng bàn chân, nhưng cu cậu chẳng còn biết đau đớn là gì, dù chân đau và chảy máu, vẫn cứ cắm đầu phóng vội về nhà. Cốc đâu chẳng thấy chỉ thấy Định đi cà lết hết cả mấy ngày.
Sở dĩ tôi nhắc nhiều đến Định vì trò chơi(*) nào tôi nhớ cũng có Định, tích cực tham gia chứ không ỡm ờ như một số, hiển nhiên trong đó có tôi. Các người em trai của Định còn có Châu và Quý. Châu chỉ thua tôi chừng một hai tuổi, đẹp trai, rất ngoan và học giỏi. Châu học cùng trường Thiên Hữu, nhưng sau tôi một lớp, sau này Châu tốt nghiệp ĐHSP Huế ban Pháp Văn. Nhưng không hiểu vì sao, tôi hầu như không có một kỷ niệm nào về Châu. Có thể những người hiền lành, ngoan ngoãn như Châu, thường ít để lại những dấu vết sâu đậm như những “tên” quậy phá. Tây đã chẳng nói “Sage comme une image” sao? Ngoan như một nhân vật trong hình vậy.
Gặp lại Định vào năm 2002 sau gần bốn thập niên khi tôi ghé thăm Huế. Định góa vợ và đang sống với hai đứa con gái, đứa con trai đầu thì ở riêng trên mảnh vườn của ông nội và đang khai khẩn trồng tiêu. Định già đi nhiều dù mới khoảng 55, răng mất khá nhiều… nhưng vẫn hiền lành với ánh mắt và nụ cười xa vắng. Lần thứ hai vào năm 2014, khi tôi ghé lại Đà Nẵng, gặp lại nguyên gia đình Thím Phúc, Chị Mai, Định, Châu và Quý cùng vợ con. Những tình cảm gần gũi, xa xưa bỗng trở lại. Sau mấy chục năm xa cách, nay ai cũng đã già, nhưng ký ức về những ngày xưa cũ vẫn còn nguyên vẹn. Gặp lại nhau ai cũng dành nhau nhắc lại những kỷ niệm xưa cũ.

 
Lần gặp nhau ở Đà Nẵng. Từ phải qua trái: Chị Mai, Châu, Định, Thuận và Quý. (2014)

 

Thím Phúc tuy gầy nhưng sống thọ, năm đó chắc cũng đã trên 90 tuổi nhưng vẫn còn phảng phất dáng vẻ ngày xưa. Tôi ngồi sát cạnh, thím cứ mân mê bàn tay tôi và cứ nhắc mãi về mạ tôi. Tôi nói đùa: “Ai bảo chú thím dọn nhà vô Đà Nẵng sớm, bằng không, nếu ở lại, biết đâu không chừng hai gia đình đã sui gia rồi đó". Thím và cả bọn đều cười thật vui vẻ.

Có thể xem thím là người may mắn nhất nếu so sánh với những người già đang sống ở hải ngoại, thay vì vào Viện Dưỡng Lão, thím ở chung với vợ chồng Quý, cậu con trai út, chị Mai và Châu cũng gần kề, con cháu đầy đàn cung phụng thì còn gì hơn. Thím mất chừng bốn, năm năm sau đó. Định cũng đã mất cách đây mấy năm.

 


Thím Phúc (2014)

Hoàng Thị K.S.: Sau Định là Kim Sa, cô em gái kế. KS lớn hơn tôi chừng một tuổi, đã vậy, Trời sinh con gái phát triển và chững chạc sớm hơn con trai. Ở tuổi dậy thì, KS rất đẹp, với đôi mắt sắc và thật quyến rũ. Trong khi tôi còn là một thằng nhóc con ở độ tuổi 13, 14, vừa mới qua thời kỳ… “sổ sữa” không bao lâu, thì cô hàng xóm của tôi lại đang dần biến thành một thiếu nữ, đã biết làm đẹp, làm duyên. Làm sao cô ta đoán biết được là tôi cũng đã biết và đang “si tình”, dù là một thứ si tình ngây thơ, vô điều kiện, không cần thổ lộ và cũng chẳng cần đáp trả. Nếu ngày xưa triết gia Descartes đã từng khẳng định: “Je pense donc je suis”, “Tôi tư duy nên tôi hiện hữu”, thì một cậu bé mới lớn như tôi cũng có thể rập khuôn phát biểu: “J’aime donc je suis”, “Tôi yêu nên tôi hiện hữu”, nghe vừa dễ hiểu, vừa có cơ sở còn hơn cả câu nói nguyên thủy nữa!
Nhìn lại, tôi tự hỏi, phải chăng tôi đã “quỷ” hơi sớm, hay đó cũng chỉ là hậu quả thường tình do kích thích tố của cái tuổi giao thời?
Giữa nhà tôi và nhà nàng chẳng có… “giậu mồng tơi” nào ngăn cách, như trong bài thơ “Người hàng xóm” của nhà thơ Nguyễn Bính: “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn”...  mà chỉ có một bức vách phủ chút rêu xanh bằng xi măng, với các khoảng trống, mà nếu gọi theo cách bình dân là “lỗ… chó chui”, hay nếu muốn thi vị hóa, thì cũng có thể gọi đó là những “khung cửa hẹp” mà bọn nhóc tụi tôi hay chui qua lại, mỗi khi muốn sang nhà hàng xóm chơi. Tôi muốn qua chơi nhà nàng lúc nào mà chả được, con cháu trong nhà cả mà.
Tên cô nàng tôi viết cùng khắp, ngay cả trong những trang sách học mà tôi phải đóng tiền thuê ở trường mỗi năm, chỗ nào cũng viết bốn chữ HTKS. Cũng may là khi trả lại sách, không ai phát hiện, bằng không mấy trăm bạc tiền “caution” (*) đã bị đi đong.
Ở cái tuổi mà Tây thường gọi là “L’âge ingrat”, cái “tuổi ngu dại”, những tình cảm non nớt, đơn phương chỉ dừng lại ở đó, nhưng với tôi, chúng thật đẹp, trong sáng và đáng được nhắc đến trong tập hồi ký muộn màng này.

(*) Tiền “thế chân” khi thuê sách, trong trường hợp mất sách hoặc hư hại sẽ bị khoán trừ tùy theo thiệt hại. Số tiền đó sẽ được trả lại nếu không có hư hại vào ngày bãi trường.

“Thằng” Ấm:  Một nhân vật khá đặc biệt mà tôi muốn nhắc tới trong đám nhóc phá làng phá xóm của bọn tôi là “thằng Ấm”. Ấm chắc cũng lớn hơn tôi một hai tuổi và thuộc diện “ở đò”, có nghĩa là sống trên đò, không được đi học như bọn tôi vì phải phụ giúp bà mẹ vớt rong, và thỉnh thoảng cũng phải gánh rong đi giao cho người mua để cho heo ăn. Vì vậy Ấm to con, đen như “Ma Rốc”, tóc húi cao và rất “trâu” (mạnh và chịu húc) nhưng lại rất hiền lành, dễ bắt nạt. Ai nói gì, làm gì, y cũng nhường nhịn, chỉ nhe răng cười, khoe một hàm răng thật trắng và tốt. Thời đó bọn tôi thích tổ chức đá banh trước sân nhà cho thuê. Nghèo quá  làm gì có banh mà đá, nhưng với bầy nhóc đầy nhiệt huyết và đầy óc sáng tạo, cũng chỉ là chuyện nhỏ. Cứ việc kiếm giấy báo, sách cũ vo chặt lại lớn cỡ cái tô nhỏ là có banh ngay. Về sau còn biết lấy giây thun cột thêm bên ngoài cho banh tưng hơn… Sân thì không có một cọng cỏ, đất ít sõi nhiều, nhưng vui quá nên chẳng có gì thành vấn đề. Banh tưng thì ít mà… lóc móng thì nhiều. Tiền vệ Ấm mà dẫn banh lên, đố thằng nào mà cản được. Lớn lên nghe kể lại, Ấm tình nguyện vào Biệt Động Quân và nghe đâu đã tử trận trước ngày mất nước.

Chú Thím Huyện:  Chú Huyện Ba, người Quảng Nam, người hơi mập, cao trung bình, tóc hay chải ngược bóng láng. Chú hiền lành, mẫu mực, ăn nói từ tốn, khôn ngoan, là một người cha, người chồng gương mẫu luôn tận tụy với vợ con. Nghe đâu Thím thuộc gia đình
quan lại, quý tộc, ít xông xáo, lại sinh đẻ quá nhiều, sức khoẻ lại không có, nên chú phải cáng đáng nhiều hơn. Dùng theo ngôn ngữ đương đại, chú là một “Mister Mom”.
Ba mạ tôi rất quý chú, đặc biệt mạ tôi, nói tới chú là vừa thương vừa phục. Thời gian đó chú là Giám Đốc nha Bảo An Huế.
Thím Huyện người Bắc, cũng cỡ tuổi má tôi mà có tới mười một người con: Tám trai, ba gái. Những người con trai được Chú đặt tên theo các loại cây rất hay và đặc biệt: Anh Bách, Tùng, Hoè, Quế, Thông, Mai, Bích, Trúc, Chị Chi, Chị Diệp, và Tuyết Lê, ở nhà tên Ty, cùng tuổi với tôi nên hay bị các anh chị “cặp đôi”…
Làm công chức ngạch Giám Đốc và sĩ quan cỡ Đại Úy mà còn phải ở nhà thuê, thì rõ ràng chế độ không những nghèo mà còn sạch, chưa nhuốm mùi tham ô. Tuy nhiên giá trị đồng tiền thời đó cũng rất lớn, một người đi làm, đủ tiền nuôi vợ và một “bầy“ con!
Gia đình chú Huyện với một đám con trai đã lớn hoặc đang lớn mà ba mạ tôi thường hay nói đùa là đủ để lập hai đội banh. Mấy anh lớn học giỏi, có người đã đi du học ở Pháp, những người còn lại cũng khá lớn nên không tham gia đùa nghịch với đám nhóc bọn tôi. Duy có một lần tôi nhớ chú Huyện cho người qua mời ba má tôi, sau bữa cơm tối ghé qua để nghe anh Hoè ở Sài Gòn, qua làn sóng Radio, sẽ gửi lời chúc Tết hai bác… Tối đó, cơm nước xong, bọn tôi tò mò, thích thú theo ba mạ qua nhà chú. Trong nhà đã sắp một số ghế ngồi dành cho người lớn ngồi, đợi tới giờ “phát thanh”. Đúng giờ, vặn Radio lên và nghe tiếng nói phát ra từ Radio: Con là Hoè, hiện đang ờ Sài Gòn, nhân tiện Tết sắp đến, xin được mừng tuổi hai bác “chủ nhà” được bình an, sức khoẻ… Đang lúc tất cả đang ngỡ ngàng được nghe lời chúc Tết từ Sài Gòn phát đi, thì bỗng ông anh lớn của tôi từ phòng sau, vừa chạy ra vừa la ré lên: “Không phải anh Hoè mô, đó là Quế đang ngồi đọc vào micro từ phòng sau đó!” Thế là cả hai nhà cười rú lên. Cho đến bây giờ nhắc lại còn thấy mắc cười. Lần khác chú Huyện đem nguyên đoàn hát bội của Tỉnh về nhà để biểu diễn cho cả xóm coi.
Về sau Chú Huyện được bổ nhiệm làm Phó Tỉnh Trưởng tại Quảng Nam và đưa gia đình vào Hội An. Tuy nhiên liên lạc giữa hai gia đình vẫn tiếp tục cho đến ngày hôm nay.
Trong các người con của chú thím Huyện, do cơ duyên, tôi gặp lại người con trai út tên Trúc trên đường vượt biên, dù đi hai chuyến khác nhau, nhưng đã được tàu Đức đón để chuyển vào cùng trại Tỵ Nạn KuKu , Nam Dương. Chi tiết cuộc vượt biên và gặp gỡ được nhắc đến trong hồi ký của cùng tác giả “Vượt biên lan man tự truyện” trong “link” sau  đây: Vượt biên - lan man tự truyện (daihocsuphamsaigon.org)

Nguyễn Văn An: Tuổi trẻ tài cao. Thỉnh thoảng bọn nhỏ chúng tôi thích thú khi có các anh lớn ở trên họ đạo xuống tắm sông. Thời đó dù chưa có các phòng tập chính thức, phong trào thể dục thẩm mỹ khá phổ biến, thanh thiếu niên tập họp lại thành từng nhóm nhỏ và xử dụng các phương tiện nghèo nàn, tự chế. Thay vì dùng bột Protein hoặc các thức ăn uống tẩm bổ đặc biệt và tốn kém như hiện giờ, phương cách rẻ tiền và phỗ thông nhất thời đó là “nút” sữa đặc sống, hoặc có người uống sữa bột do Mỹ viện trợ. Các anh đó trông cũng giống lực sĩ thứ thiệt, với các bắp thịt nở nang, đã trở thành những mẫu người mà bọn nhóc như tôi rất hâm mộ.
Trong số đó, ngoài một vài anh lớn như các anh Tín, anh Tưởng, tôi nhớ khoảng độ tuổi 20, con bà Khoá ở họ đạo Phú Cam, người tôi muốn đặc biệt nhắc tới là anh Nguyễn Văn An, con bà dì ruột tôi, lúc đó cũng chừng 17, 18 tuổi. Nhà Dì tôi nằm sát cạnh bờ sông và bến nước, nên anh An cũng rất thường xuất hiện. Anh An cũng có một thân hình rất chuẩn, với “bắp xô” và thân hình chữ V với “sáu múi” nổi cộm. Tôi nhớ anh tự đúc các cục tạ đủ cỡ, bằng xi măng trộn đá, đỗ vào các hộp không, lớn có, nhỏ có, với tay cầm là một ống thép rỗng. Anh còn sáng chế một máy kéo tạ với một tảng đá khá bự được cột chặt bằng giây điện sau đó được thắt gút lại, kết nối với một sợi dây xích xe đạp khá dài với một tay nắm bằng gỗ và tháp vào với một “ổ líp” của xe đạp, được treo trên cành cây ngọc lan trước nhà. Ngày nào anh cũng miệt mài, đứng tấn và kéo tảng đá lên xuống, nên thân hình anh cũng nở nang, ngon lành ra phết, chỉ tiếc anh không được cao lắm…
Ngoài tài luyện tập thể thao, ông anh bà con của tôi còn có rất nhiều tài đáng được tuyên dương. Anh An là một tay bơi lội rất giỏi. Thời đó anh rất chú trọng đến đầu tóc của mình, ai mà đụng chạm đến đầu tóc của anh là anh nổi cáu ngay. Cũng tắm sông nhưng ít khi anh tắm chung với bọn nhóc vì anh sợ ướt tóc. Anh thường lội ngang, lội dọc dòng sông một cách dễ dàng, thoải mái, mà không ướt một sợi tóc.                            
Bên trên mới chỉ là những thành tích thể thao, anh An còn có “hoa tay”, năm nào vào dịp Noel, anh cũng làm lồng đèn ngôi sao bằng sườn tre, dán giấy màu, cũng cắt, đục giấy thành nhiều hình tượng rất nghệ thuật. Lúc đầu để treo, hoặc làm quà tặng bà con, về sau do nhu cầu đòi hỏi, anh chuyển sang “sản xuất” đèn và bán đắt như tôm tươi, đến độ phải huy động thêm sự giúp đỡ của những anh em khác trong nhà.                                  
Riêng với tôi, tài nghệ nổi bật và đáng ể̃ nhất của anh phải nói là óc phát minh. Cho đến giờ phút này, tôi vẫn không thể hiểu làm thế nào mà một cậu bé mới mười bốn, mười lăm tuổi, vào thời điểm trên 60 năm về trước, trong một gia đình cũng không khá giả bao nhiêu, với trình độ lớp đệ thất, đệ lục, mà theo tôi biết cũng không có gì xuất sắc, lại có thể tự tay làm lấy một “thùng chiếu phim”, thực ra chỉ là một máy rọi (Projector), được làm bằng một hộp bằng ván ép được cưa và ráp lại khá nghệ thuật, ống kính có gắn kính khuếch đại, có thể điều chỉnh tùy theo khoảng cách xa gần, để hình ảnh rõ hơn, và dùng đèn để rọi hình vẽ lên vách.
Mà thời đó lấy đâu ra những kiến thức khoa học dù rất căn bản để học hỏi, làm gì có Google, làm gì có sách vở hướng dẫn khoa học để tham khảo, bắt chước. Tôi tin chắc là anh cũng chưa bao giờ được tận mắt nhìn thấy một cái máy chiếu phim nữa… Với tài hội họa, anh vẽ các hình rời như cao bồi, mọi da đỏ, Tarzan, cọp, voi , sư tử và kết nối lại thành một câu chuyện, do chính anh diễn giải. Máy chiếu phim của anh là một màn hấp dẫn lũ nhóc bọn tôi, trong những dịp “Hội Chợ” tổ chức trong khu xóm.
Một kỷ niệm khác rất riêng tư và rất đặc biệt về anh An. Thời đó bọn tôi mê phim cao bồi vô cùng, và diễn viên ăn tiền nhất thời đó là Kirk Douglas, với cái cằm chẻ rất chi là đặc biệt. Anh An mê thần tượng đó đến nỗi anh đã tự tạo cho anh một vết “chẻ” ở cằm, không nhờ dao kéo thẩm mỹ viện, mà bằng cách lấy cán muỗng và cào vào cằm ngày này qua ngày khác, cuối cùng anh cũng tạm thỏa mãn với một “vết sẹo” khá sâu ở giữa cằm. Sau 1975, Đại Úy Nguyễn Văn An, sau khi đi tù CS, đã được qua Mỹ cùng vợ con theo diện HO và cư ngụ tại Dallas. Rất tiếc chưa có dịp gặp mặt lại thì anh đã mất, lúc còn rất trẻ, khoảng dưới 60 tuổi.

Tôi có Thiên Thần hộ mạng.
Trong suốt 19 năm tôi sống ở Huế, tôi đã sống sót qua một số tai nạn chết người. Xin được vắn tắt kể lại một vài trường hợp theo thứ tự thời gian.
Chết trôi:  Năm đó tôi vào khoảng 13 tuổi. Như đã nói ở trên, nhà tôi nằm sát cạnh sông Phú Cam. Một hôm, vào khoảng 8 giờ tối, sau bữa cơm tối, khi nghe Chú Sa, người làm vườn của gia đình tôi, nói là chú tính đi xuống sông tắm, tôi xin đi theo. Thay vì xuống bến Ông Tám, chú chọn bến “Đức Cha”, vì bến nằm ngay phía bên kia cầu, bên hông Tòa Giám Mục. Trời tối thui, Chú Sa biết lội, nên tôi thấy chú lội qua sông khá dễ dàng vì sông tương đối không rộng lắm. Thay vì ngồi đợi chú lội trở về, tôi lon ton băng cầu, chạy qua phía bên kia, nơi chú đang ngồi nghỉ trên bờ cỏ. Không biết điều gì xui khiến, tôi nói với chú để tôi lội cùng chú về lại phía bên kia. Chú người quê mùa, đơn sơ, mộc mạc, nên chắc chú tưởng tôi cũng biết lội, nên đồng ý. Nói cho ngay, qua những lần đi tắm lén, tôi cũng biết “bơi chó” chút chút, nhưng chưa bao giờ có ý nghĩ lội qua sông, Thế là hai chú cháu xuống trở lại sông, chú lội trước, tôi lội sau. Lúc mới bắt đầu, thì cũng tàm tạm, nhưng qua hơn nửa sông, tôi bắt đầu thấm mệt và hơi hoảng hốt. Chừng năm phút sau, chú Sa đã vào tới bến, riêng tôi thì còn cách khoảng chừng ba bốn thước và… đang chìm. Chú Sa nhìn thấy vậy, vội nhảy lại xuống nước, khi tôi chỉ còn cách chú chừng hai sãi tay, vì nước khá sâu nên chú vẫn chưa với tay đến tôi được. Tôi nghe chú la cứu, nhưng tiếng la quá nhỏ trong đêm nên không ai nghe. Lúc tôi bắt đầu chìm cũng là lúc chú với được tôi và lôi tôi lên. Người tôi lạnh ngắt. Tối đó đang thiu thỉu ngủ, tôi thấy chú mở mùng tôi ra, đưa tay tới trước mặt tôi, tôi hỏi chú đang làm gì vậy. Chú cười và nói: Tui coi anh còn thở không?

Chết vì chất nổ: Cũng trong khoảng thời gian này, lúc tôi khoảng 14 tuổi, một buổi tối, anh kế tôi xin phép ba mạ tôi chở tôi đi xem Hội Chợ tổ chức ở Bến Thương Bạc, bên kia cầu Trường Tiền. Tiếng là nói vậy nhưng khi đến nơi, anh tôi nói tôi cứ vào đó chơi rồi khoảng chừng hai tiếng sau, anh sẽ trở lại đón tôi về. Hội Chợ hôm đó thật đông đúc người đi xem. Sau một hồi lâu đi lang thang từ gian hàng này, đến gian hàng khác, tôi đến ngay gian hàng Lô tô. Số người có mặt ở đó khá đông, tiếng ồn ào, chen lấn, tiếng hò Lô tô nghe inh ỏi. Bỗng mọi người giật mình đánh thót khi nghe một tiếng động lớn trên mái tôn của gian hàng, như ai đó liệng một cục gạch vậy. Vừa định mở miệng rủa tên vô lại thì một tiếng nổ kinh hoàng phát ra. Đèn đóm tắt ngấm, trong tiếng la thất thanh của các người đang túa chạy khắp nơi. Tôi cũng tính chạy, nhưng biết chạy đi đâu bây giờ. Nhìn quanh, tôi thấy một số người bị thương tích, máu me đầy người. Một người đàn ông, mặt hớt hãi, đang ôm cánh tay, máu vọt ra có vòi. Tuy sợ hãi, nhưng tôi chỉ kiếm một chỗ riêng rẽ và ngồi xuống, quyết định không bỏ chạy như phản ứng của đa số người tham dự. Tôi còn nhớ mãi tiếng người ta đang cố phá những bức vách tôn bao quanh khu Hội Chợ để tìm đường thoát thân, cọng thêm tiếng cầu cứu, tiếng la thất thanh khắp cả một vùng. Gần nửa giờ sau, khi Cảnh Sát và xe cứu thương đã có mặt, đám đông đã giảm bớt, tôi mới ra tới cổng và ra về, áo quần mang nhiều vệt máu nhưng rất may là không phải máu của tôi. Về tới nhà lúc khoảng hơn 11 giờ đêm, người đầu tiên tôi nhìn thấy là ông anh tôi, đang đứng thấp thỏm trước cổng nhà. Thấy tôi từ đàng xa, anh tôi chạy lại mừng rỡ ôm lấy tôi và cho tôi biết, khi nghe có vụ bom nổ, anh đã vội chạy trở lại kiếm tôi. Vào bên trong, chạy hết nơi này, đến nơi khác, nhưng không thấy tôi. Cuối cùng anh quyết định về đợi tôi ở nhà, vừa chờ vừa đọc kinh vì không biết thằng em mình có mệnh hệ gì không? May mà ba má tôi hoàn toàn không hay biết, bằng không anh Năm tôi đã bị te tua rồi. Kết quả vụ nổ là đã có 9, 10 người chết, không hẳn do chất nỗ mà số lớn chết vì bị dẫm đạp lên nhau.
 
Chết vì tai nạn súng: Một kỷ niệm may mắn khó quên của hai anh em tôi lúc tôi độ 14 tuổi. Một hôm, ông anh tôi tìm được một khẩu súng “rouleau” mà ba tôi đã có khá lâu rồi nhưng cố tình giấu trong một ngăn hộc bí mật. Không những giấu mà vì sợ con cái tìm thấy nguy hiểm, ông đã tháo rời ổ đạn và vứt vào ngăn đựng kềm búa. Cây súng này tôi nhớ ba tôi đã mua của một tên lính Tây Lê Dương rất lâu trước đó. Súng nặng chịch theo kiểu Django, thời Viễn Tây ở Mỹ, với cỡ đạn 45. Sau khi tìm thấy súng và tìm cách kết hợp thành công với ổ đạn nằm lây lất bấy lây nay, anh tôi đã ráp lại được nguyên vẹn cây súng. Mừng rỡ, anh tôi kêu tôi vào phòng và đem ra khoe với tôi. Một điều may mắn là không tìm được đạn cùng cỡ, lý do theo tôi nghĩ là tuy mua súng nhưng cỡ đạn đó không phải dễ kiếm. Tuy nhiên trong cùng ngăn chứa bí mật, có một hộp đạn cỡ nhỏ, tôi đoán chừng cỡ 9 ly, vừa nhỏ hơn, vừa ngắn hơn, thích hợp với một cây súng khác mà ba tôi đã có trước đây. Tiện tay anh tôi bốc đại một viên, tra vào lỗ đạn nằm ngay phía trái nòng súng, đưa súng lên, nhắm hướng tôi và vừa cười vừa bóp cò súng. Tôi cũng cười và lấy cái áo bên cạnh lên che trước mặt, làm ra vẻ sợ sệt. Tiếng “chát” của búa súng (Hammer) đập xuống nghe lạnh lẽo và viên đạn nhỏ bị đẩy ra khói nòng, rớt ngay vào túi áo tôi đang cầm trên tay. Hai anh em cười ra vẻ đắc chí mà không hiểu mình vừa thoát khỏi một tai nạn chết người. Cầm viên đạn vừa bị đẩy ra, dòm vào đít đạn, thấy một lỗ lõm vào, ngay 1, 2 ly bên trên ngòi nổ của viên đạn Hai anh em ngưng cười và mặt mày tái mét. Sự ngu dại của anh tôi là đã không biết khi bóp vào cò súng, ổ đạn sẽ xoay theo chiều kim đồng hồ, đưa viên đạn đang nằm bên trái vào ngay đúng vị trí nòng súng, trước khi “búa” đập xuống để kích hỏa. Nếu đúng cỡ đạn 45, thí búa đã kích đúng ngay ngòi nổ và tôi chắc đã ra người thiên cổ, nhưng tại viên đạn nhỏ, không đúng cỡ, nên nằm tụt thấp xuống trong ổ đạn, khi búa đập xuống chỉ trúng phần trên của đít viên đạn nên đã không nổ. Sau lần đó anh tôi lật đật tháo ổ đạn ra như trước đây và đem súng trả về với ngăn dấu bí mật.

Chết vì pháo kích: Tết Mậu Thân năm 68, tôi 18 tuổi. Sáng mồng 3 Tết, một ngày sau khi Việt Cộng đã chiếm được TP. Huế và đã dàn quân quanh khu vực tôi ở. Lúc khoảng 10 giờ sáng, một tiếng nổ rầm trời đã phá sập một nửa căn nhà tôi đang ở(*). Mọi người trong hầm cát túa ra tìm đường chạy. Như đã chuẩn bị trước, điểm tập họp trong trường hợp di tản là khu nhà của Cậu Cẩn đang bị bỏ trống từ Cách Mạng năm 63. Tôi tháo chạy, trong tay còn cầm cái gối từ hầm cát. Sang đến nhà ông Cậu, tôi đang ngồi ẩn giữa hai bức vách trong lúc pháo kích vẫn còn tiếp diễn. Một tiếng nổ cách tôi không bao xa, mắt tôi hoa lên, bàn chân mang dép bị bụi cát bắn trúng đỏ ửng vì tươm máu. Sau khi tìm được nơi trú ẩn an toàn cho cả gia đình, nhìn lại chiếc gối mà tôi đã ôm trong lòng lúc bị pháo kích, tôi ngạc nhiên thấy một vết thủng xuyên qua gối. Nhìn lại chiếc áo veste mà tôi đang mặc, tôi cũng thấy một vết cháy sém ở phía trên tay áo ở gần vai. Tôi ôm lại gôi vào lòng trong cùng tư thế lúc ngồi tránh đạn giữa hai bức vách. Chính xác là tôi đã suýt chết, miểng đạn pháo kích đã đâm thủng gối và xuyên cắt tay áo tôi đã mặc.
Trong vòng có 19 năm đầu tiên của cuộc đời, mà tôi đã thoát ngần ấy tai nạn, mà không hề hấn gì, đã củng cố niềm tin là tôi đã được sự che chở, quan phòng đặc biệt của Thiên Thần hộ mạng của tôi. Và còn rất nhiều những chứng cớ khác trong suốt hơn 50 năm sau mà tôi không tiện kể nơi ̣đây.

(*) Tôi tin là đạn pháo kích của Mỹ nhắm vào lực lượng VC đang tập trung trong khu vực nhà tôi.

Các trò chơi và sinh hoạt trong xóm
Thời đó làm gì có computer, điện thoại Smart phone, hay các Games này nọ nên mọi thứ đồ chơi phải tự tay làm và các trò chơi đều phải tổ chức và chơi với nhau. Các trò chơi tùy thuộc óc sáng tạo và tùy mùa.
Trong mọi sinh hoạt của đám nhóc trong khu xóm, tôi thường “bị” đóng vai quan sát viên, hoặc chỉ tham dự vào những trò chơi “hiền lành” như đá “banh giấy”, câu cá ở gầm cầu Phú Cam, cắm trại trong khu vườn nhà tôi, hoặc thi đua trồng rau quả. Các trò chơi khác như đánh căn, bắt cắc kè, bắt ve vào những trưa nắng cháy da, cháy thịt, bắn nhau bằng dây thun, đạn giấy, bằng súng tre tự chế với các hột trái “bì lời”, tắm sông… thì tôi ít được tham dự. Là con út tôi bị gia đình bao bọc và giám sát khá chặt chẽ. Sang nhà hàng xóm chơi chừng nửa tiếng là có người kêu về trình diện mạ tôi, sau đó lại đi tiếp nếu được phép. Dù còn bé nhưng tôi đã khó chịu và bất mãn vì quy chế khắt khe đó. Cũng may những phản ứng đó chỉ đến rồi đi chứ không phải là những cọ xát dài hạn giữa tôi và gia đình, cũng như đã không biến tôi thành một thứ “Mama’s boy” luôn bám váy mẹ, không giống ai.
Ông anh kế tôi, hơn tôi bốn tuổi thì được hưởng quy chế thoải mái hơn. Nhưng dù lớn dù nhỏ, dù gái hay trai, tôi nhớ là luôn có hai buổi “điểm danh” trong ngày, lúc 12 giờ trưa và 7 giờ rưởi tối, tất cả con cái phải có mặt ở bàn ăn. Sau này dù đã ra trường đi dạy học và ngay cả khi đã có “fiancée” rồi, tôi vẫn phải giữ truyền thống đó trong buổi ăn tối ngoại trừ khi có thông báo trước.

Cắm trại:  Khu vườn nhà tôi đã mang nhiều kỷ niệm thời còn bé. Bọn trẻ con trong xóm tôi thỉnh thoảng tổ chức cắm trại trong khu vườn này. Cũng chia thành nhóm nhỏ, có trai có gái, trai thì lo giăng “lều” làm trại, gái thì lo bắt bếp nấu cơm, thức ăn thì tùy tiện… nhưng với bọn nhóc chúng tôi các món ăn tuy nghèo nàn nhưng sao ngon lạ, mọi chuyện khác đều là phụ. Cơm nấu trong lon sắt và theo nhóm, chỉ đủ mỗi đứa ăn một chén nhỏ, khi cháy, khi nhão, ăn với hoa mít xắt lát, bóp với mắm ruốc, hay sang lắm là có một hai cái trứng gà tráng mặn chát, hoặc nếu có chuẩn bị trước, bọn tôi chỉ cần xuống ngay móng cầu, câu chừng vài chục con cá cấn, loại cá nhỏ bằng ngón út, mắt đỏ, đem về đánh vảy, kho lên cũng ngon hết ý và vui đáo để. Cho đến khi mấy cô bé lớn lên và biết làm dáng thì màn cắm trại cũng chấm dứt. Một chi tiết rất nhỏ là trong khu vườn này có một cái hố được đào để chứa rác và lá khô, nằm kế gốc một cây xoài khá lớn. Mỗi khi hố đầy, chị người làm sẽ châm lửa để đốt lá. Bọn tôi thường bu quanh để xem và cũng để phá, mặc cho khói tỏa ra bao phủ cả góc vườn. Khói từ lá khô đốt cháy có một mùi thật đặc biệt mà bao nhiêu năm về sau, cứ mỗi lần tôi ngửi thấy, là cứ như tôi được đưa trở lại trọn vẹn với những kỷ niệm đốt lá ngày xưa.

Tắm sông:  Bến nước “ông Tám” thời đó cũng là một “địa danh” được nhiều người biết đến. Rất tấp nập vì đáp đúng nhu cầu của khu vực, buổi sáng thì mấy chị người làm hay xuống đó gánh nước, giặt mền chiếu, áo quần, buổi chiều thì lũ trẻ trong xóm hoặc các anh lớn xuống tắm sông. Nói thì ngon lành vậy chứ trong lúc tụi con nít trong xóm tung tăng bơi lội chí choé dưới sông, thì thằng tôi đứng trên bờ, mắt buồn vời vợi, nhìn xuống thèm thuồng. Lý do là mấy anh chị em bọn tôi, mỗi đứa sinh ra đều có một lá số tử vi mà ba tôi nhờ ông bạn “cắc cớ” nào đó ở trong sở, chuyên nghiên cứu khoa tử vi chấm giúp. Xui xẻo cho tôi và luôn cả ông anh kế tôi, trong lá số có nói kỵ thủy, có nghĩa cần tránh sông, tránh biển. Vì thế mà dù nhà ở cạnh bờ sông, nhưng hai anh em tôi chẳng được tắm sông nên chẳng ai biết lội. Đúng là thất sách, vì không cho học lội thì nếu bị té sông, té biển khả năng chết đuối là chuyện chắc. Tuy nói vậy chứ tôi cũng thuộc loại cứng đầu, không cho công khai tắm sông thì thỉnh thoảng tôi lén tắm chui vậy. Đã biết thân phận hẩm hiu phải tắm lén, và mới chừng mười hai, mười ba tuổi đầu, vậy mà tôi đã biết điệu. Tôi cảm thấy có nhu cầu phải sắm một quần tắm thật “chiến”, chứ không chịu mặc quần xà lỏn bậy bạ như bao trẻ con khác. Vậy là tôi lẳng lặng lục tìm trong tủ áo của ba tôi, trong bốn, năm bộ veste mà ba tôi hay mặc, tôi chọn một cái quần tây của một bộ veste mùa đông của ông, vải dày trông gồ ghề, xong tôi gói ghém cẩn thận, mang xuống một tiệm may có tên tuổi ở Huế thời đó tên Tiệm “Chữ”, tên ông chủ, và yêu cầu lấy vải quần tây ba tôi để may cho tôi… một cái quần tắm! Tôi từng theo các anh xuống đó may quần áo nên biết tiệm đó khá rành rẽ. Mà nghĩ lại cũng lạ, tôi không hề thấy ông chủ tiệm tỏ ý thắc mắc, gặng hỏi hoặc có thái độ nào để ngăn cản tôi. Không biết tại tôi bé nhưng có… uy hay tại ông chủ chỉ muốn ngậm miệng ăn tiền. Nghĩ lại tôi thấy mình thật đáng tội. Bé bằng củ khoai mà sao tôi lại “ba trợn” đến thế? Đúng là vừa điên lại vừa ngu. Mấy thằng quý tử con tôi mà vô tình phạm cùng tội và nếu tôi biết được, không xử trảm đ̣ược thì chắc tôi cũng đét bể đít chúng. Có quần tắm rồi, thỉnh thoảng tôi cũng lén theo bọn nhóc xuống tắm dù không biết lội. Ngay cạnh bến có một cây sung, có nhánh mọc đâm ra hướng sông, một số bọn nhỏ lội giỏi hay leo lên cây và nhảy ùm xuống sông, có đứa còn dám nhảy chúc đầu xuống sông nữa. Vậy là thằng tôi thấy khoái quá cũng bắt chước, cũng leo lên cùng cành cây và nhảy ùm xuống, bất kể nguy hiểm. Cũng may lúc nhảy xuống thì có lực đẩy từ dưới lên, chỉ cần đập tay bậy bạ theo kiểu lội chó là có thể lội lại gần, chụp được thành bến và leo lên.

- Đánh căn: Đại khái cũng giống môn baseball của Mỹ, nhưng thay vì dùng đùi gỗ và banh, bọn trẻ dùng hai cây gỗ một ngắn, một dài.
- Bắn bi: cũng tương tự như chơi Golf, nhưng chỉ dùng mấy ngón tay bắn bi, hoặc cho bi vào lỗ. Cũng là một trò chơi đòi hỏi năng khiếu và tập luyện. Chơi bi nhưng đồng thời cũng sưu tập những viên bi đẹp, nhiều vân và màu sắc.
- Chọi hình: Hình màu đủ thể loại, thú vật, cao bồi, hoa cảnh… in trên tờ giấy cứng, chia thành nhiều ô, mỗi ô một hình. Mua về dùng kéo cắt rời ra. Lúc chơi, mỗi người đóng một số hình, gom chung lại, đặt trong một khung hình vuông vạch dưới đất. Sau đó đứng ở một vạch khá xa, dùng một viên ngói hay một ô gạch mỏng chọi làm sao trúng được chồng hình đó cho bắn tung khỏi ô hình. Hết phiên người này đến phiên người khác.
- Bắn “nắp ken”: (Nam Kỳ gọi là nút khoén): Nắp các loại chai, nước ngọt hay bia. Giống trò “chọi hình” nhưng đứng gần hơn và chỉ dùng một nút khoén khác để chọi. Lại một trò chơi khác đòi hỏi nhiều tập luyện. Nhiều đứa còn móc miếng bấc ra, bỏ thêm miếng chì nặng ở bên trong và lấy miếng bấc đậy lại. Làm nút khoén nặng hơn giúp khả năng bắn các nút khoén khác trong ô dễ hơn.
- Câu cá: Cần câu làm từ cây hóp (Một loại tre), phao làm bằng lông con công, lưỡi câu… tất cả đều phải mua. Thời đó chỉ câu được các loại cá nhỏ: cá cấn lớn lắm cũng chỉ cỡ ngón tay út, với đôi mắt đỏ hồng, cá lúi, cá bống… thường dùng mồi ruột bánh mì, nhồi với lòng đỏ trứng gà; cá rô to cỡ bằng hai ngón tay, thường  dùng mồi châu chấu, trùn (giun). Câu được một con cá rô đã là một thành tích của đám nhóc. Nói chung chỉ câu được cá dọc theo bờ sông. Tôi thường thích ngồi ở móng cầu hoặc trên một phiến đá lớn gần kề móng cầu. Một điều đáng ghi nhận, ngày xưa nước sông trong xanh ngoại trừ mùa lụt lội, hai bên bờ cỏ cũng xanh rì. Lần đầu tiên tôi trở về thăm Huế vào năm 1996, nước sông đục ngầu và hai bờ cỏ thì xơ xác, lỗ chỗ vì bị đào xới trồng khoai mì.


Cầu Phủ Cam, cạnh móng cầu, vẫn còn tảng đá ngày xưa. (1996)

Nói về dòng sông không thể không nói đến những kỷ niệm mùa lụt lội. Thời đó người ta hay nói ”Tháng Bảy nước nhảy lên bờ”. Đúng hay sai tôi cũng chẳng nhớ, chỉ biết là sau vài ngày mưa lớn, nặng hột, nước trên nguồn chảy về làm mực nước sông dâng  lên cao, thỉnh thoảng nước sông tràn lên quá mặt đường nhất là trong những trận lụt lớn. Nhìn dòng sông đục ngầu, nước cuồn cuộn chảy mang theo các thân cây gãy từ nguồn về, bọn trẻ bọn tôi háo hức kéo nhau đi lội nước hoặc lấy giấy xếp làm tàu và lên đứng trên cầu thả xuống để nước cuốn trôi giữa tiếng cổ võ của lũ nhóc. Các “rớ” cá cũng được người ta dựng lên. Có hai loại rớ: rớ thường và rớ bà. Rớ thường được làm bằng hai cây tre cột chéo ở giữa tạo hình chữ thập, lưới được cột vào bốn đầu tre. Một thân tre khác được cột vào khung lưới và tạo thành trục kéo lên xuống. Người phụ trách rớ dùng dây hạ rớ xuống quá mặt nước và vài phút sau kéo lên và bắt cá dính trong lưới. Rớ bà không xử dụng lúc lụt lội vì lưới rộng ôm trọn nguyên cả đoạn sông từ bờ này sang bờ kia. Mỗi lần kéo lưới, người phụ trách phải dùng cả tay lẫn chân để vừa đạp vừa kéo cái bánh xe bằng tre để cuốn lưới hỏng lên khỏi mặt nước và một người khác phải chèo một ghe nhỏ bên dưới lưới để gom cá về một lỗ lưới ngay ở giữa lưới để thu hoạch cá. Mùa nước lụt các con cá gáy mập tròn, có con to bằng bắp chân, đầy trứng từ nguồn trôi về, khi được rớ lên, chúng nhảy đành đạch trông thật hấp dẫn và lý thú. Mạ tôi hay mua lại mấy con cá gáy này để làm mắm thính. Mắm thính làm với muối với thính. Khi mắm chín tới, kho mắm với mỡ và ớt bột, mắm thơm lừng có chút vị chua, ăn với thịt heo ba chỉ và rau húng thì sẽ nhớ đời.


Móng cầu Phủ Cam (1996). Tảng đó ngày nào vẫn còn đó.

- Thi đua trồng cây: Đôi khi nổi hứng thì chia nhóm thi trồng rau quả như trồng ớt, trồng cà chua, bí bầu, mướp đắng. Vui vẻ thì không sao nhưng gây gỗ nhau là thế nào cũng có màn đột kích, phá hoại vườn địch…
- Đánh giặc: Trò chơi bạo động thì có đánh giặc, đại khái chia phe và chạy rượt nhau. Thường giữa hai xóm, xóm nhà tôi và xóm nhà anh An. Khi thì đánh kiếm gỗ, khi thì bắn đạn giấy hoặc bằng súng tre bắn bằng trái “Bì lời”. Tạo cho ra vũ khí cũng rất công phu. Kiếm gỗ thì phải kiếm cho ra gỗ, rồi cắt, cưa, đánh bóng… Làm khiên bằng giấy carton cứng, vẽ hình rồng rắn…
- Hội chợ: Tổ chức hội chợ liên xóm, có “phụ diễn ca nhạc”. Tôi nhớ chỉ được tổ chức một lần duy nhất. Đại khái cũng tổ chức các trò chơi tập thể, bốc thăm trúng số. Thay vì xử dụng tiền để tham dự, hoặc mua vé thì dùng các viên bi, hình cắt, các sợi cao su, nút khoén… Con gái thì tập hát, tập múa. Thời đó có Chị Diệp và bé Ty con chú Huyện Ba đảm trách tập luyện. Sân khấu được dựng phía sau bức vách nhà bếp của nhà thuê xoay mặt sang hông vườn nhà tôi. Khán giả ngồi ở phía sân nhà tôi, cạnh giếng nước để xem màn múa hát. Nói không ai tin, sau trên 60 năm, giờ này tôi vẫn còn nhớ điệu nhạc trong vở hát múa đó.

Ngoài ra còn màn chiếu phim do nhà sản xuất phim Nguyễn Văn An đã thành công và được đám nhóc hưởng ứng nhiệt liệt. Ông anh tôi thì làm một cái bàn quây xổ số, giống như bàn quay của mấy tay bán kẹo kéo vậy. Các giải trúng đặt quanh bàn quay hình vuông có một trục quay làm bằng gỗ. Tôi nhớ mãi, để “câu khách” và để tăng sự hấp dẫn của bàn quay xổ số, ông anh tôi “mượn tạm” một kính mát mà ba tôi để trong ngăn kéo làm giải độc đắc. Nhờ vậy, bàn xổ số nhiều người tham dự trông rất xôm tụ, Anh An con dì tôi cũng hăm hở tham gia bằng cách đóng một số bi và nút khoén. Ai ngờ anh lại trúng ngay lô độc đắc. Hăm hở ông chụp ngay kiếng và mang vào ngay, miệng cười khà khà trước sự hưởng ứng của ̣đám trẻ. Ông anh tôi teo quá vì sợ ba tôi biết nội vụ, nhưng chưa biết xử trí làm sao, bèn vừa cười vừa  tuyên bố vu vơ “Cái kiếng đen này là của ông chú tau hôm trước bị đỏ mắt nên mua đeo đó!” Chỉ nghe chừng đó thôi mà An đã giận tím mặt, tánh anh vốn dễ nổi nóng, từ hoan hỷ chuyển sang tức giận, anh chụp vội kiếng, liệng xuống đất, lấy chân dẫm lên kiếng và kéo đám đàn em cùng xóm rút về như một lời tuyên chiến.

Nói về trò chơi con trai mà không bàn đến trò chơi con gái thì đúng là không công bằng và… không phải phép. Tuy nhiên thật sự không có nhiều và để mô tả thì thật dài dòng. Nói tổng quát con gái thời đó hay chơi đánh thẻ, “Ô làng” mà trong Nam hình như gọi là “Ô quan”, nhảy “Cò cò”...

- Nhu Đạo Lửa Hồng:  Một sinh hoạt thể thao mà cũng là một kỷ niệm thời mới lớn mà tôi muốn nhắc lại là môn Nhu Đạo mà tôi đã thích thú theo học tại “Dojo” Lửa Hồng của Hướng Đạo Sinh, do Huấn Luyện Viên Nguyễn Văn Nho, đệ nhị huyền đai, với sự phụ tá của hai anh Trung và Tân. Sàn tập đóng đô tại tầng dưới cùng của cơ sở của ông Viễn Đệ, gần Cầu Bến Ngự. Cơ sở này nếu tôi nhớ đúng, trước đây là Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế. Ba tôi qua sự điều động của LM. Cao Văn Luận, Viện Trưởng Đại Học Huế, đã từng làm Tổng Giám Thị khi Trường mới được di chuyển về địa điểm này.
Thời đó làm gì có Kimono may sẵn mà mua, nhưng với dân nhà nghèo cũng chẳng sao, chuyện nhỏ. Sẵn các bao vải đựng bột mì của Mỹ Viện Trợ, chỉ cần mua vài bao không, đem giao cho ông thợ may là chừng hai ngày sau là xong ngay. Áo may khá chắc chắn, có chỗ phải may hai lớp và may chằn nhiều đường nên dù xài gần như mỗi ngày không hề thấy rách. Thời đó tôi cũng đã 14, 15 rồi chứ không còn bé và tôi rất thích bộ môn tự vệ này. Ngày nào cũng tập hai tiếng ngoại trừ ngày Chủ Nhật, hết buổi tập mồ hôi ướt đẫm áo tập nhưng đâu giặt được mỗi ngày, do đó lâu ngày bị thâm kim giặt hết ra.
Sàn tập Lửa Hồng nổi tiếng “hắc ám” vì thay vì dùng mạt cưa để làm “nền”, sàn tập của bọn tôi chủ yếu 70% là cát và dùng các tấm bạt quân đội phủ lên. Mỗi lần té đập tay xuống sàn phát ra một tiếng “bép” khô khan, lạnh lẽo nghe mà phát sợ, nhưng cái gì rồi cũng quen. Tôi nhớ có lần có dịp vào Sài gòn, tôi lén xách kimono lẻn vào tập “chùa” ở sàn tập nổi tiếng Quang Trung của Thầy Thích Tâm Giác. Ôi sàn tập của người ta với các “Tatami” thứ thiệt nhập cảng từ Nhật sao mà đẹp và êm đến thế, nếu so với những gì tôi biết trước đây. Chỉ có điều là các học viên ở đây trông “ẻo lả”, chứ không “trâu”, dày dạn và cứng đòn như nhóm “nhà lá” của bọn tôi ở Lửa Hồng, dù mang đai cao hơn. Lý do là Trung Tâm Nhu Đạo Quang Trung có cả ngàn học viên, nên chỉ có một số nhỏ xuất sắc, được chọn và được Thầy Thích Tâm Giác huấn luyện riêng, trong đó tôi nhớ có hai sinh viên Vạn Hạnh mang tên Kháng và Năm, đã thắng giải Nhu Đạo toàn quốc vào những năm 1969- 70.
Trở lại sàn tập Lửa Hồng, tổng số học viên khoảng trên dưới 40, trong đó có hai “người đẹp” một cô tên Giao Thừa và cô kia tên Túy(*). Cũng nhờ thưa thớt nên việc huấn luyện có hiệu quả hơn. Thi lên đai trầy vi tróc vảy, chứ không phải dễ dàng như thường thấy ở các Trung Tâm lớn, nặng tính thương mãi. Đậu “giao đấu”, thì rớt “kỷ thuật” hoặc ngược lại, phải thi kỳ sau. Ở các Trung Tâm khác, lớn hơn, đông hơn, nhất là các Trung Tâm dạy võ như thường thấy sau này ở các sàn tập hải ngoại, chỉ học lai rai, một tuần 3, 4 tiếng, nhưng nếu chịu khó đóng tiền đúng kỳ hạn, thì mặc sức mà lên đai. Vào năm 1966, lúc biến động Phật Giáo miền Trung sôi sục, nghe tin chính quyền đưa quân từ Sài Gòn ra dẹp loạn, Trung Tâm Nhu Đạo Lửa Hồng có tổ chức một lớp huấn luyện đặc biệt nhằm chống lại các thế trấn áp biểu tình bằng dùi cui, hoặc bằng súng có gắn lưỡi lê. Một trong các lý do là HLV Nguyễn Văn Nho là một huynh Trưởng Phật Tử. Điều kỳ lạ là lớp huấn luyến đặc biệt này lại được chủ trì bởi một Trung Úy TQLC Mỹ đóng quân ở Phú Bài đảm trách mà tôi đã quên tên. Ông này cao cũng khoảng 6’4 và nặng cỡ 280 lbs. Với kích cỡ này, thật tình ông ta không cần phải dùng đến võ nghệ,  thế mà ông lại bỏ công tu tập trong thời gian ông ta đóng quân tại Okinawa, để lấy được huyền đai đệ ngũ đẳng Aikido, đệ tứ đẳng Tae Kwon Do và đệ tứ đẳng Judo… Ông này thỉnh thoảng ghé lại tập chung và huấn luyện bổ túc cho bọn tôi. Mỗi lần lại, bao giờ tôi cũng thấy có hai ba quân nhân TQLC Mỹ vũ trang súng dài đi theo và thường đứng ngoài sân để bảo vệ an ninh cho ông ta. Nghĩ cũng buồn cười, võ nghệ cùng mình và thể chất vô địch như ông ta mà vẫn cần đến toán bảo vệ sao?

(*) Tên các ông thì tôi chịu thua, nói trước quên sau, nhưng không biết tại sao Trời lại phú cho tôi một trí nhớ đặc biệt về tên… các cô, nhất là các cô Trời bắt xinh đẹp, hoặc có một cái gì đó đặc biệt. Cô Giao Thừa người “tròn trịa”, tóc để ngắn và là đàn chị vì trên đai của tôi. Một trong những kỷ niệm về cô Thừa mà tôi còn nhớ là mỗi lần có ông Trung Úy TQLC Mỹ lại hướng dẫn, thế nào ông ta cũng mời cô Thừa ra… giao đấu. Với một đối thủ với chiều cao gần gấp rưởi, sức nặng gần gấp ba, thế mà cô Thừa thường dùng thế “Sutemi Waza”, vừa kéo mạnh đối thủ về phía mình, đồng thời ngã lui và dùng chân đạp vào bụng hoặc háng của đối phương, đồng thời dùng sức đẩy đối thủ bay qua người mình. Đúng là chơi dại, chân cô làm sao đủ mạnh để làm điều đó, nhỡ ông ta ngã đè lên mình cô thì chỉ có nước tắt thở. Chắc cũng biết vậy nên khi chân cô chưa đụng tới, ông ta đã phóng qua người cô, ngã xuống sàn gây nên một tiếng ầm như voi ngã, sau đó ông ta nhanh nhẹn đứng dậy, mỉm cười và vỗ tay tán thưởng. Đúng là một màn hý lộng nên cả phòng tập cũng hưởng ứng và vỗ tay theo, trên nửa thế kỷ rồi mà tôi vẫn còn nhớ. Sau biến cố Tết Mậu Thân, nghe tin đồn Giao Thừa đã tử thương do đạn pháo kích, mãi đến bây giờ vẫn chưa được ai xác định.
Cô Túy vào tập sau nên là đàn em của tôi. Cô này rất xinh, đang học nghề may, “tóc cột đuôi ngựa”, vừa người, phảng phất nét Trịnh Phối Phối, dáng điệu ngỗ nghịch (tomboy), nên được bọn tôi dành mọi ưu tiên. Tiếc thay mới làm quen và tình nguyện hướng dẫn cô ta chưa được bao lâu, thì mẹ cô ta xuất hiện và công khai tỏ ý không đồng ý cho con gái xông vào chốn… của võ sĩ đạo, nên cô ta đã phải giã từ sàn tập. Phải nói là tôi đã buồn hơn… năm phút.

Một số sinh hoạt trong họ Đạo Phú Cam
Xem Phim, Kịch: Một sinh hoạt khó quên vào thời đó là thỉnh thoảng được đi xem phim hoặc kịch do Ty Thông tin phụ trách, thường diễn ra ở sân nhà thờ Phú Cam. Vào cái thời xa xưa đó, được xem xi nê, xem kịch là một điều họa hiếm dù cho là Phim Thời Sự về các chuyến kinh lý của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, phim câm Charlot, hoặc các vở kịch chống Cộng của ban Tâm Lý Chiến. Ưu tiên này đâu phải ở đâu cũng được, lý do theo tôi nghĩ, là do vị trí nhà thờ Phú Cam chỉ cách nhà Cậu Cẩn chừng trăm thước, nên đây chắc cũng là cách để Ty Thông Tin lấy điểm với Ông Cố Vấn miền Trung. Vào những đêm đã được thông báo trước, các gia đình thường cho con cái ăn tối sớm hơn mọi khi. Từ khắp mọi ngã đường quanh họ đạo, các trẻ con, cũng có một số người lớn, trong đó có các chị người làm, hoan hỷ tập trung về sân dưới của nhà thờ, một khoảng sân cỏ khá rộng nằm thật thấp bao quanh bởi hai đường lên xuống nhà thờ hình móng ngựa, được nối liền với sân chính mặt tiền nhà thờ bằng một cầu thang bằng gạch gồm gần 15, 20 bậc thềm. Các phim hoặc kịch nói tuyên truyền chống Cộng, các phim Charlot được đám nhóc con cổ võ nhiệt liệt. Khán giả phải ngồi trên cỏ hoặc đất sỏi để xem nhưng không thấy ai khiếu nại, chê khen. Đây cũng là dịp để mấy đứa nhóc nghịch ngợm ngồi sau lượm sỏi nhỏ liệng về phía trước trong tiếng la hét, cười ré làm quang cảnh thêm nhộn nhịp.


Hình nhà thờ Phủ Cam vào khoảng năm 1958 trước khi bị phá bỏ và khởi công xây lại vào năm 1960(*) Do hoàn cảnh chính trị và chiến tranh, mãi đến tháng 5 năm 2000, nhà thờ mới được hoàn thành.

(*) Nhà thờ chính tòa Phủ Cam – Wikipedia tiếng Việt

Nhà thờ Phủ Cam là một trong những công trình xây dựng có tầm vóc của Pháp vào những năm đầu thế kỷ 20. Năm 1960, sau khi được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Huế, TGM Ngô Đình Thục, bào đệ của TT. Ngô Đình Diệm cho lệnh phá bỏ toàn bộ nhà thờ cũ và cho khởi công xây cất nhà thờ chính tòa mới, với đồ án do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thực hiện. Phản ứng chung của một số lớn giáo dân thời đó có thể nói là khá ngỡ ngàng trước đề nghị của TGM Ngô Đình Thục vì cho là không cần thiết và quá tốn kém. Nhà thờ cũ thật ra cũng chỉ mới 60 tuổi kể từ ngày hoàn thành, và là một công trình kiến trúc cổ theo kiểu Roman có giá trị còn sót lại. Tôi còn nhớ sau khi phá sập nhà thờ, các gia đình trong họ đạo được kêu gọi đóng góp tiền hàng tháng, cũng như góp công trực tiếp thu dọn công trường trong tinh thần “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”. Tối nào khu xây cất cũng tấp nập giáo dân xung công dưới ánh đèn pha sáng chói.
Sau đảo chánh 1963, công trình bị khựng hẳn lại, một mặt do chính quyền TT. Ngô Đình Diệm bị lật đổ và sự sát hại ba anh em trong gia đình họ Ngô, riêng TGM. Ngô Đình Thục bị kẹt lại Rome. Tuy nhiên dù bị trì hoãn nhưng một số công trình xây dựng căn bản vẫn được hoàn thành cho đến biến cố Tết Mậu Thân, một lần nữa, tất cả đã đổ nát trở lại. Tôi đã có nghe một vài nhận xét chua chát vào thời đó, ý muốn trách cứ quyết định phá bỏ nhà thờ của TGM. họ Ngô là một quyết định sai lầm, ngạo mạn nào khác nỗ lực xây “tháp Babel” đã được mô tả trong kinh thánh. Phải 40 năm sau, ngôi nhà thờ chánh tòa Phủ Cam mới được chính thức khánh thành.

Rước kiệu: Đây cũng là một trong những sinh hoạt để lại nhiều dấu vết trong ký ức non trẻ của tôi. Một năm cũng vài ba lần, vào những dịp lễ lớn, như là vào tháng Đức Mẹ, nhà thờ tổ chức rước kiệu linh đình. Hiển nhiên trong đoàn bao giờ cũng có toán gánh dàn kiệu, với các hình tượng được trang trí với bông hoa, cờ quạt với các ông phu gánh kiệu, ăn mặc theo kiểu lính lệ thời phong kiến. Đôi khi còn có đội kèn trống, cọng thêm với số giáo dân đông đảo, vừa di chuyển vừa đọc kinh, ca hát trông thật trang nghiêm và nhộn nhịp. Cha Đẫu, chánh xứ lâu năm nhất của họ đạo Phủ Cam mà giờ này tôi vẫn còn nhớ nét mặt, thường đi trước dàn kiệu, bao quanh bởi các chức sắc, đoàn thể người lớn như: Hội Đạo Binh Đức Mẹ (Legio Mariae), Hội Công Giáo Tiến Hành, Hội các bà mẹ Công Giáo… Các hội đoàn trẻ thì có: Hội Hùng Tâm Dũng Chí, Hội Thiếu Nhi Thánh Thể… trong các đồng phục, khăn quàng cổ đủ màu. Lộ trình có thể thay đổi, nếu ngắn thì chỉ đi loanh quanh khu vực nhà thờ hoặc nếu xa, có thể đi hơn cây số, đôi khi có cả xe Cảnh sát dẫn đường. Dân chúng thời đó cũng dễ dãi, hiền hòa, dù khác đạo, không tham gia nhưng họ cũng túa ra xem như một lễ hội vậy thôi.

Thời đó, do sự thúc đẩy của mạ tôi, tôi cũng đã hoàn tất các lớp Giáo Lý dành cho thanh thiếu niên trong họ đạo: Rước lễ Vỡ Lòng, Thêm Sức, Bao Đồng… Điều đáng ngạc nhiên ba mạ tôi dù là người Công giáo thuần thành, nhưng không hề khuyến khích hoặc áp lực bắt các anh chị em tôi tham dự các sinh hoạt đoàn thể trong họ đạo như đa số các phụ huynh khác
Các ngày Lễ lớn:  Vào các dịp Lễ lớn trong năm như Lễ Phục Sinh, Lễ Giáng Sinh… giáo dân trong họ đạo “phải” đi xưng tội, sở dĩ tôi nói “phải” vì không những được khuyến khích mà sau khi đã xưng tội xong, còn phải dừng lại ở bàn của các “chức việc” của nhà thờ để ghi tên, xác nhận mình đã xưng tội. Mặc dù là hình thức, nhưng dù còn bé tí teo, tôi đã cảm nhận một điều gì bức bách, khó chịu, nếu không nói là bất mãn. Ấy là chưa nói đến trong các buổi lễ, hoặc chầu mình Thánh Chúa, các ông chức việc mặc áo dài đen, khăn đóng, mặt mày hắc ám, đi đi, lại lại, tay cầm quạt tre, để quạt thì ít mà để dùng cán quạt gõ vào đẩu những thằng nhóc nào dám quay qua quay lại, đùa giỡn hoặc nói chuyện thì nhiều.
Tôi nhớ có lần sau buổi lễ ngày chủ nhật, thay vì được ra về, các trẻ em được lệnh phải ở lại để học thêm Giáo lý. Các cửa nhà thờ được đóng lại, không biết “ngoại có bất nhập” không, chứ “nội bất xuất” là cái chắc.  Với kích thước của một thằng bé 12, 13 tuổi so với thành cửa sổ cao gần gấp hai, không biết suy nghĩ nào đã thúc dục, và bằng cách nào, tôi đã “thoát thân” qua ngã cửa sổ nhà thờ và chui ra… Thành tích đó cũng chẳng kém Papillon là bao. Tôi cứ hay nhớ lại chuyện này và luôn tự hỏi: Tôi là một thằng nhóc bị quỷ ám hay là một thằng bé sớm có tư tưởng nỗi loạn?
Các sinh hoạt tôn giáo trong các họ đạo thời đó được tổ chức rất chặt chẽ, nhằm tẩy não và kiểm soát sinh hoạt, tư tưởng của giáo dân, nào khác gì các sinh hoạt chính trị trong chính quyền Cộng Sản. Phải chăng đó là lý do của sự tranh đấu không khoan nhượng giữa hai tổ chức, một đời, một đạo qua bao thập niên.

Nói thêm một vài sự kiện trong các sinh hoạt nhà thờ thời đó. Trước khi nhà thờ cũ bị san bằng, phải nói các sinh hoạt tôn giáo trang nghiêm hơn sau này. Như đã nói, nhà thờ Phủ Cam khá xưa, nhưng vẫn còn khá kiên cố và rất uy nghi. Khu bàn thờ, cung thánh, tòa giảng, trạm xưng tội… cọng thêm vị trí ưu đãi, nằm riêng rẻ trên khu đồi cao ráo, nhìn thẳng xuống đường Nguyễn Trường Tộ, dễ gây ấn tượng. Sau khi phá bỏ nhà thờ cũ, họ đạo cho xây một nhà thờ tạm, chủ yếu bằng ván gỗ, sức chứa quá hẹp nên không đủ chỗ ngồi cho giáo dân, họ phải đứng lây lất, tạm bợ bên ngoài. Đó cũng là dịp cho một số thanh niên quên rằng mình đang dự lễ, lợi dụng đứng bên ngoài nhà thờ, vừa mãi đảo mắt nhìn theo các cô, vừa bàn tán to nhỏ, cứ như là đang dự một lễ hội nào vậy. Tình trạng này kéo dài trên rất nhiều năm vì ngôi nhà thờ mới không được hoàn tất do thay đổi thời cuộc và chiến tranh.

Thế rồi tai họa Tết Mậu Thân năm 1968 lại ậ̣p xuống, giáo xứ Phủ Cam đã chịu không những thiệt hại đương nhiên về vật chất, thiệt hại nhân mạng của các giáo dân cũng lên trên hàng trăm nạn nhân đã bị lực lượng Cộng sản bắt theo và thảm sát tập thể trên đường rút lui.(*)
Khu nhà thân yêu của tôi cũng đã chịu chung số phận của Huế, với thiệt hại vật chất vượt ngưỡng 80%. Không còn lại một dấu tích dù nhỏ, cho thấy nơi này đã từng là nơi trú ngụ của một gia đình với một cuộc sống êm đềm, hạnh phúc. Nhìn đâu cũng chỉ là đổ nát, hoang tàn, từ căn nhà trú ngụ cho đến dãy nhà cho thuê vừa mới được xây cất lại không quá hai năm. Cũng may, tất cả thành viên trong gia đình tôi đã sống sót qua cơn máu lửa tồi tệ nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Không ai bị thương tích, dù là một vết trầy xước.


Hình nhà thờ Chánh Tòa Phủ Cam dù mới khởi công xây cất nhưng đã bị hư hại nặng nề do biến cố Mậu Thân 1968.

Gia đình tôi đã vội vã di tản vào Sài Gòn khi tình hình chiến cuộc ở Huế tạm ổn, sau khi lực lượng Việt cộng bị đẩy lui, sau 26 ngày tấn công và chiếm đóng thành phố. Riêng tôi phải ở lại vì khóa học tại ĐH Văn Khoa vẫn còn dang dở. Dù có vợ chồng bà bếp ở chung, nhưng những ngày tháng mùa Hạ năm 1968, trong khung cảnh đổ nát, tàn tạ của khu phố, đêm về, sống một mình trong căn phòng rạn nứt, tối tăm, bao kỷ niệm ngày tháng cũ tràn về, lòng tôi bỗng như thấy nhói. Bao hy sinh, phấn đấu, gầy dựng của ba mạ tôi phút chốc đã thành mây khói.
Năm 1969, mạ tôi trở về Huế thuê người dọn dẹp đổ nát và sửa sang lại nửa căn nhà còn sót lại, và giao lại cho gia đình anh Ba của tôi xử dụng, vì anh chị tôi vẫn còn dạy học ở Huế. Năm 1973, anh tôi nhận được học bổng tu nghiệp ở Pháp nên đem trọn gia đình vào Sài Gòn. Căn nhà anh tôi cho một người bạn ở tạm. Năm 1975, sau chiến thắng cuối cùng của lực lượng Bắc quân, dù gia đình tôi vẫn còn ở Sài Gòn nhưng căn nhà vẫn bị chiếm đóng bởi các chức sắc trong quân đội với lý do không người cư trú. Mặc cho những nỗ lực của anh tôi, căn nhà và khu đất vẫn không được trả lại. Về sau bằng cách nào đó, miếng đất hình như đã được “hợp thức hóa” và bán buôn cho người khác.
Dù gì đi nữa, căn nhà đó là nơi “chôn nhau cắt rốn” của tôi, và đó là lý do tại sao tôi vẫn còn quay trở lại hằng đêm, cố tìm lại những dấu tích đầu đời của tôi. Tuy nhiên, giờ này tôi vẫn còn sống, vẫn còn thở, và cách xa cả mười ngàn dặm, do đó những gì tôi có thể làm đều bị hạn chế. Nhưng một ngày không xa khi… những ràng buộc, hạn chế đó không còn, tôi hứa tôi sẽ chính thức hồi hương, trở về đòi lại căn nhà thân yêu đầu đời ấy, và sẽ không ai có thể cản được.

(*) Biến cố Mậu Thân tại Huế - 49 năm nhìn lại (daihocsuphamsaigon.org)

Viết xong ngày 28 tháng 4 năm 2023
Steve Trần

Văn Trần Văn Thuận (daihocsuphamsaigon.org)

Biến cố Mậu Thân tại Huế - 49 năm nhìn lại (daihocsuphamsaigon.org)

 

 

Đăng ngày 12 tháng 05.2023