Vùng xôi đậu
Điệp Mỹ Linh
Công tác xây cất trường tiểu học Sao Mai tại làng Hà Bằng được thành công nhanh chóng là nhờ sự hiện diện của đoàn quân tăng cường cho đồn Ty Hạ. Sở dĩ nhiều người khẳng định như vậy là vì trước khi đơn vị tăng cường cho đồn Ty Hạ được chuyển đến đây – tuy có đồn Nghĩa Quân nơi đèo Quảng Cau – mọi công trình kiến tạo của chính phủ V.N.C.H. đều bị Việt Cộng phá hoại.
Trước lễ khánh thành trường Sao Mai, hội đồng xã tận dụng được một số nhân công tình nguyện để trang hoàng khuôn viên ngôi trường. Nhóm người này ghép gỗ thành một khán đài “dã chiến”. Nhóm người kia chặt lá dừa, xén lại cho gọn, bọc chung quanh mấy trụ gỗ cho có vẻ tươi mát. Nhóm người nọ treo cờ, giăng giây điện để cắm micro. Nhóm người khác đem băng ngồi của học trò sắp ngay ngắn trước khán đài để hôm khánh thành quan khách và phu huynh học sinh ngồi.
Sáng sớm của ngày khánh thành trường Sao Mai, nơi mái hiên, các cô giáo duyên dáng trong những chiếc áo dài tha thướt. Các thầy giáo mặc quần đậm màu, áo dài tay, gài nút ở cổ tay và thắt cà-vạt. Vài thầy hướng dẫn toán học sinh vào giàn chào, dọc theo lối vào từ cổng trường. Vài thầy lăng xăng dợt lại bài Quốc ca cho toán học sinh phụ trách hành lễ, ngay cột cờ, giữa sân.
Trên gương mặt của mỗi người như toát ra sư vui tươi, trang trọng mà từ lâu lắm người dân tại làng Hà Bằng hằng mong đợi.
Khoảng chín giờ, dân chúng trong làng đều quần áo chỉnh tề, cùng nhau đến trường Sao Mai dự buổi lễ quan trọng. Một số nông dân vẫn ra đồng, ra rẫy, làm công việc thường lệ. Riêng Thêm và đứa em trai – viện lý do là ngày giỗ – không tham dự lễ khánh thành.
Nhân ngày giỗ, Thêm mời người yêu, tên Duệ – hiệu thính viên của đại úy Phong, chỉ huy trưởng đoàn quân tăng phái cho đồn Ty Hạ – đến nhà ăn giỗ. Duệ từ chối, vì biết ngày đó Phong bận đón phái đoàn của ông Quận Trưởng đến dự lễ. Thêm năn nỉ rồi giận hờn làm cho Duệ khó xử. Duệ đành xin phép Phong.
Nhận thấy buổi lễ dự trù kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ, không có gì quan trọng phải cần đến hiệu thính viên; nếu trường hợp khẩn cấp Phong có thể dùng máy truyền tin của ông Quận Trưởng, Phong cho phép Duệ vào làng dự đám giỗ.
Khi Duệ vừa qua khỏi hàng rào bông bụp thì nghe tiếng em trai út của Thêm hát: “…Các anh đi, đến bao giờ trở lại… Các anh về, tưng bừng trước ngõ. Lớp lớp đàn em hớn hở theo sau. Mẹ già bịn rịn áo nâu. Vui đàn con ở rừng sâu mới về…”(1). Dù là một người không chơi nhạc, Duệ cũng thoáng giật mình vì câu “…đàn con ở rừng sâu mới về!” Duệ tự hỏi “Đàn con nào mà ở rừng sâu? Chỉ có đàn con Việt Cộng mới ở rừng sâu!” Hơi khó chịu trong lòng, Duệ chưa kịp đến hỏi đứa bé thì Thêm xuất hiện, niềm nở chào hỏi và mời Duệ vào nhà. Duệ hỏi “hai bác” đâu? Thêm đáp Ba Má của Thêm phải đi xuống đầm Ô-Loan mua lác về dệt chiếu gấp. Duệ chẳng để ý, miễn được gặp và ăn cơm cùng người yêu là Duệ vui trong lòng.
Trong khi Duệ chia xẻ những giây phút ấm cúng với Thêm thì trước sân trường Sao Mai, dân làng tề tựu rất đông. Các bô lão mặc áo dài đen, đội khăn đóng, được mời ngồi nơi hàng ghế đầu tiên.
Chiếc Jeep “lùn” và một chiếc Dodge chở lính hộ tống dừng lại bên lề quốc lộ. Toán lính hộ tống từ chiếc Dodge nhảy xuống. Ông Quận Trưởng và Phong – được ông Quận Trưởng ưu ái ghé đồn Ty Hạ đón, đưa đến nơi hành lễ – từ chiếc xe Jeep bước xuống trong khi quý vị trong ban tổ chức từ trong trường đi nhanh ra cổng, đón tiếp hai vị thượng khách.
Khi ông Quận Trưởng, Phong cùng toán binh sĩ theo đại diện của ban tổ chức vào nơi hành lễ thì mọi đôi mắt chăm chú nhìn theo. Trong lòng mỗi người dân hiện diện tại buổi lễ đều nảy sinh mỗi ý nghĩ khác nhau. Người thì thở dài, thầm ước: Phải chi con trai của họ đi “lính Cộng Hòa” thì sẽ được sống tự do, ăn mặc tươm tất, oai phong chứ không phải sống chui rúc, rách rưới nơi xó xỉnh, hầm cống nào đó; thỉnh thoảng mới lẻn về xin gạo, xin tiền! Kẻ thì thầm tiếc, phải chi đơn vị của Phong về đây sớm hơn, chắc chắn đồn Nghĩa Quân đã không bị Việt Cộng dùng chiến thuật biển người “đánh úp” để con của họ phải chết! Có người lại buồn; vì từ ngày đồn Ty Hạ được thành lập – và nhất là từ ngày đơn vị của Phong tăng phái cho đồn Ty Hạ – thằng con của họ cứ trốn miết trong rừng, không dám về!
Sau phần nghi lễ thông thường, ông Hiệu Trưởng trường Sao Mai, đại diện ban tổ chức cảm tạ sự hiện diện của quan khách và đồng bào. Tiếp theo, ông Quận Trưởng – đại diện chính quyền – ngỏ lời cùng đồng bào. Sau khi một vị bô lão nói lên cảm tưởng của dân làng đối với sự lưu tâm của chính phủ V.N.C.H. dành cho con em của làng Hà Bằng, một đại diện học sinh cũng lên khán đài bày tỏ lòng biết ơn và niềm tin tưởng tốt đẹp của các em vào chính thể Quốc Gia.
Người cuối cùng được ban tổ chức mời lên khán đài là đại úy Phong. Phong được giới thiệu như là một người đã đem yên bình cho thôn làng; người được cảm tình của hầu hết dân làng và – quan trọng hơn cả – chính Phong chủ xướng và đề nghị lên Quận về công tác thiết yếu để xây trường Sao Mai. Ngoài ra, Phong còn liên lạc với đại úy cố vấn cũ – Gary Card, hiện là cố vấn cho ông Quận Trưởng – để xin xi-măng, tôn và các vật dụng xây cất.
Đây không phải là lần đầu tiên Phong xuất hiện trước đám đông, cũng không phải là lần đầu tiên chàng ban huấn từ; nhưng tại sao lần này Phong cảm thấy xúc động lạ thường!
Nhìn quanh, Phong thấy như gốc chuối này, bờ tre nọ, khóm sậy đong đưa, bụi cam đường oằn trái, khóm lan leo tím nhạt bên bờ rào thưa, v.v… vẫn còn vương vấn bóng dáng thằng bé “đầu cá trê”! Danh từ “đầu cá trê” được dân làng dùng cho những đứa bé – vì gia đình đơn chiếc và nghèo quá – suốt ngày Mẹ phải bỏ đứa bé nằm trong một cái thúng, gánh theo để đi mót lúa, mót khoai hoặc bán dạo những thứ vặt vảnh như kẹo thèo lèo, đậu phọng rang, ổi, cốc v.v… vì vậy, đầu của đứa bé bị dẹp ở phía sau, trông giống “đầu cá trê”.
Người dân làng Hà Bằng không thể nào tìm thấy vết tích của thằng bé “đầu cá trê” năm xưa qua nhân dáng vạm vỡ, đạo mạo và thái độ lịch lãm của Phong. Nhưng, quanh đây, nhìn đâu Phong cũng tưởng như thấy lại cu Phong với những trưa lang thang dưới gốc vong đồng, rình bắn mấy con chim sẻ với chiếc ná bằng giây thun; những buổi chiều chơi “u mọi” dưới bóng cây đa già; những buổi sáng – với đôi bàn chân cáu bẩn, đầy ghẻ – bước nhè nhẹ, rón rén trên khóm đá cuội im lìm bên con suối cạn để bắt mấy con chuồn chuồn kim…
Không ai có thể tìm lại để sống với quá khứ của mình. Nhưng, tại Hà Bằng, Phong đã tìm lại được chàng. Từ lúc tìm lại được chính mình, Phong cảm thấy thương yêu mảnh đất này như thương yêu tuổi thơ đã mất. Và Phong thầm nguyện sẽ bảo vệ an ninh tuyệt đối cho ngôi làng này!
Ý tưởng của Phong vừa đến đây và bước chân của Phong còn cách micro một khoảng ngắn thì nhiều và rất nhiều trái đạn pháo kích của Việt Cộng rơi ngay địa điểm khánh thành trường tiểu học Sao Mai!
Phong quỵ xuống. Trong cảnh hỗn loạn của đạn rơi, của tiếng nổ, của tiếng la khóc, của bụi đất và mảnh đạn bay mịt mờ, Phong không hiểu tại sao chàng không thể gượng dậy được! Trước khi chìm vào hôn mê, Phong tưởng như chàng thấy rõ hình ảnh cu Phong đứng chàng hãng, giăng hai tay ngang cửa, không cho cán bộ Lục vào nhà…
Trong số những cán bộ cao cấp cùng đơn vị với ông Thưởng – Bố của cu Phong – đến nhà học Pháp văn do ông Thưởng dạy, cu Phong không hề thấy Lục. Nhưng mỗi khi ông Thưởng đi công tác thì Lục lại đến thăm bà Thưởng! Lần nào cũng vậy, Lục mặc quân phục màu “cứt ngựa”, bên hông đeo “súng lục”, chân mang dép Bình Trị Thiên và cưỡi ngựa – chứ không đi xe đạp hoặc đi bộ như ông Thưởng và các “đồng chí” cùng đơn vị với ông Thưởng. Sau khi vào sân nhà bà Thưởng, Lục xuống ngựa, cột giây cương vào gốc tre trước nhà rồi thong thả đi vào.
Thấy cu Phong vẫn trong tư thế đứng chàng hãng ngang cửa chứ không né tránh, Lục gọi: “Chị Thưởng ơi!” Bà Thưởng từ bếp chạy ra: “Dạ, chào cán bộ. Ông nhà tôi không có ở nhà.” Lục cười: “Biết rồi. Chị khỏe chứ? Tôi muốn ghé thăm chị.” Trước khi bà Thưởng kịp đáp lời Lục, cu Phong nhìn thẳng cán bộ, hỏi: “Ba tui hỏng có ở nhà mà sao bác cứ tới thăm Má tui ‘wài’ dậy?” Đã bị cu Phong cản trở nhiều lần, lần này, Lục chuẩn bị trước, lấy từ túi quần viên đường thẻ màu nâu đậm, gói trong lá chuối, trao cho cu Phong: “Hôm nay bác có cái này, ngon lắm, cháu cầm đi”. Cu Phong nghênh mặt: “Hỏng thèm!”. Mẹ xoa tóc cu Phong: “Con phải trả lời bác một cách lễ độ”. Cu Phong uất quá, òa lên khóc! Bà Thưởng khom xuống, ôm con, hôn con như thầm cảm ơn con trong khi Lục hơi chần chừ một chốc rồi quay gót, đến bên con ngựa.
Con ngựa đưa Lục đi xa nhưng hệ lụy do Lục để lại thì không thể nào ông bà Thưởng – và cả cu Phong – có thể ngờ được!
Ông Thưởng bị thuyên chuyển lên Chùa Lầu, một vùng núi thâm u, chỉ dành riêng cho những nhân vật thiếu tinh thần giác ngộ! Vì Chùa Lầu là nơi “chó ăn đá, gà ăn muối” cho nên chỉ có ngôi chùa cổ cạnh con suối cạn. Sư trù trì là ni sư Mẫu Đơn. Ni sư Mẫu Đơn phải “tình nguyện ủng hộ” chánh điện để bộ đội cư ngụ và phục vụ cho Đảng và bác Hồ; còn ni sư Mẫu Đơn và các ni cô khác phải dọn dẹp hậu liêu rồi thỉnh tượng Phật xuống thờ nơi hậu liêu!
Vì điều kiện sinh sống ở vùng núi quá khó khăn, “đồng chí” nào đem theo vợ con thì tự tìm cây rừng và tranh để dựng lên những túp lều trống trước hở sau. Trong thời gian chờ dựng lều tranh, gia đình cu Phong được ni sư Mẫu Đơn cho tá túc dưới mái hậu liêu. Cu Phong theo ông Thưởng chặt cây rừng, gặt tranh để dựng lều.
Lều chưa dựng xong, ông Thưởng phải đi công tác xa. Bà Thưởng trông em gái của cu Phong. Cu Phong lén bà Thưởng âm thầm đi gặt tranh.
Đến tối vẫn không thấy cu Phong về, bà Thưởng bế em bé đi quanh chùa, vừa khóc vừa gọi tên Phong. Đến khuya, vẫn nghe tiếng gọi đã khàn của người Mẹ mất con, các đồng chí từ chánh điện quát: “Có im đi để người ta ngủ hay không?”. Bà Thưởng vẫn gào khóc: “Các đồng chí làm ơn tìm giùm con tôi”. Một giọng vang lên: “Ai đồng chí với chị? Toàn dân vùng lên chống thực dân Pháp mà vợ chồng chị cứ dạy con học tiếng Tây; thế mà đòi là đồng chí với chúng tôi à!”. Chợt nhớ, từ khi tản cư đến Hà Bằng, bà Thưởng đã nghe đồn Chùa Lầu và đèo Quảng Cau là hai nơi cọp nhiều nhất, bà Thưởng van lơn: “Các ông tìm giúp con tôi chứ ở đây cọp nhiều lắm!”. Không nghe trả lời, bà Thưởng thất vọng, trở về hậu liêu khi tiếng niệm kinh của các ni cô cũng vừa dứt.
Ni sư Mẫu Đơn bước ra sân, thấy bà Thưởng đang khóc ngất trong khi đứa bé gái ngủ say trong lòng Mẹ. Ni sư Mẫu Đơn hỏi nguyên nhân.
Sau khi biết nguyên nhân, ni sư Mẫu Đơn đưa Mẹ con bà Thưởng vào hậu liêu và dặn bà Thưởng không được ra ngoài. Ni sư Mẫu Đơn cùng các ni cô thắp bốn ngọn đèn lồng, cầm theo giây dừa, gậy gộc và một “phèng la”.
Ni sư Mẫu Đơn cùng các ni cô vừa rời hậu liêu một tý, bà Thưởng nghe tiếng “phèng la” vang lên cùng tiếng la hét của những người con của Phật đã quen chống chọi với thiên nhiên để tồn tại. Lúc này bà Thưởng mới nghĩ – có lẽ – tiếng “phèng la” và tiếng la hét là để dọa cho cọp sợ.
Đi dọc con suối cạn, không thấy dấu vết gì lạ, ni sư Mẫu Đơn chợt nhớ giếng lạng – giếng cạn, không xây thành – gần vườn xoài. Ni sư Mẫu Đơn vội ra dấu cho nhóm ni cô theo ni sư rẻ phải, đi lên vườn xoài.
Đến vườn xoài, ni sư Mẫu Đơn ra dấu im lặng. Đang vạch cỏ và tranh để bước đi, cả nhóm người cùng nghe tiếng kêu khóc văng vẳng. Ni sư Mẫu Đơn ra dấu cho nhóm ni cô tiến về giếng lạng – đã bị tranh phủ đầy. Càng đến gần giếng lạng, tiếng khóc la nghe đã khàn hẳn.
Sau khi ra dấu cho các ni cô cẩn thận và đứng xa bờ giếng, ni sư Mẫu Đơn một tay vin vào cành xoài, một tay thòng đèn lồng khỏi bờ giếng, hỏi lớn: “Có ai dưới đó không?” Tiếng cu Phong khóc òa: “Dạ, con! Cứu giùm con!”
Được ni sư Mẫu Đơn và nhóm ni cô thòng giây dừa, kéo lên khỏi miệng giếng, người cu Phong tái ngắt và run lập cập…
Nhớ ơn cứu tử ngày xưa và cũng vì tình hình quân sự tại Chùa Lầu rất căng thẳng, sau khi đem đơn vị đến tăng cường cho đồn Ty Hạ, Phong tổ chức cuộc hành quân truy lùng toàn vùng Hà Bằng và Chùa Lầu.
Đến Chùa Lầu, Phong gặp lại ni sư Mẫu Đơn. Ni sư Mẫu Đơn vẫn nhớ từng chi tiết. Chính lúc đó ni sư Mẫu Đơn mới cho Phong biết rằng: Ông bà Thưởng đã khuyên ni sư Mẫu Đơn nên cùng gia đình ông bà Thưởng trốn về Thành nhưng ni sư không thuận. Đã không thuận mà ni sư cũng không hề tiết lộ cho bất cứ ai về việc gia đình Phong trốn về lại “vùng tạm chiếm”.
Trong khi tâm trí của Phong cứ miên man chìm vào quá khứ thì Duệ chạy như bay khi được tin Việt Cộng pháo kích ngay vào buổi lễ khánh thành trường Sao Mai. Chiếc xe Lam chạy cùng chiều với Duệ dừng lại. Bác Sáu Nhỏ – chủ và lái xe Lam – chồm ra, hỏi:
- Tụi nó pháo kích ở đâu vậy?
Nhận ra người dân làng tốt bụng, Duệ thở gấp:
- Tụi nó pháo vô chỗ khánh thành trường Sao Mai. Bác cho tôi “quá giang” tới đó giùm.
Vì vội vàng – và cũng vì biết bác Sáu Nhỏ lúc nào cũng cho “lính Cộng Hòa” “quá giang” mà không nhận tiền – đến nơi, Duệ không kịp cảm ơn bác Sáu Nhỏ, vội chạy vào tìm Phong.
Nhìn hiện trường la liệt xác thường dân và trẻ em, Duệ uất đến lặng người! Trong đời lính, thấy biết bao xác người, bạn có, thù có, nhưng toàn là những người có liên hệ trực tiếp đến cuộc chiến cho nên trong lòng Duệ chỉ thương tiếc, ngậm ngùi, ngao ngán chứ không có cái ghê tởm, uất nghẹn như bây giờ! Đang phụ khiêng xác chết của một bé trai gom chung một chỗ với những xác chết khác, Duệ bị thiếu úy Cảnh – người vừa đem quân từ đồn Ty Hạ đến – vỗ vai:
- Ổng đâu, mày?
- Ý, chết tui! Bị thấy con nít chết nhiều quá, tui nổi sùng, tui rối trí, quên ổng luôn!
Cảnh và Duệ đi nhanh đến chỗ đông người và thấy ông Quận Trưởng bị thương nhẹ, đang tựa vào gốc cây bàng để được chăm sóc; Phong nằm im trên đất với đôi chân bê bết máu và được kẹp bằng hai thanh tre nhỏ. Duệ và Cảnh cùng khom xuống, sờ vào ngực Phong, thấy nhịp tim vẫn đập – nhưng yếu. Thấy Phong hé mắt, Duệ hỏi:
- Ông thầy! Ông thầy biết em là ai không”
- Biết. Duệ.
- Dạ. Ông thầy làm em “teo” wá! Em cứ sợ dại…
Nghe tiếng trực thăng văng vẳng xa xa, Cảnh và Duệ đều thầm mừng, vì nghĩ rằng văn phòng Quận đã biết tin và gọi trực thăng tải thương.
* * *
Sau khi thăm viếng, vấn an, đại úy cố vấn Gary Card bắt tay kiếu từ ông Quận Trưởng. Gary vừa xoay lưng, ông Quận Trưởng chợt nhớ, vội gọi:
- Gary!
Gary quay lại “Vâng”. Ông Quận Trưởng tiếp:
- Anh nhớ đại úy Phong mà cách nay vài tháng đã xin dụng cụ xây cất để xây trường Sao Mai không?
- Vâng. Hồi trước Phong cùng trong Lực lượng Đặc biệt với tôi.
- Đúng rồi! Phong cũng bị thương cùng lần với tôi.
- Vậy sao? Hiện tại Phong như thế nào? Đang điều trị tại đâu?
- Cũng điều trị tại bệnh viện này, cách phòng tôi khoảng vài phòng; tiếc rằng tôi không nhớ số phòng.
- Tôi sẽ tìm Phong. Cảm ơn. Giữ gìn sức khỏe.
Gary vừa đi chầm chậm vừa nhìn vào từng phòng. Đến phòng số 9 Gary nhận ra Phong ngay. Hai người xúc động, nắm tay nhau thật lâu. Phong cười, mai mỉa:
- Gary thấy không? Tôi đúng là “đi sông đi biển không chết, về nhà sụp lỗ chân trâu”!
Vừa nhìn đôi chân của Phong được băng bột, trở nên to, cứng và sậm màu, Gary – tay phải vẫn nắm tay Phong – đưa tay trái vỗ vỗ lên tay Phong:
- Bạn là con hổ dũng mãnh! Đừng lo.
Phong cười, chưa kịp nói gì thì Phong chợt cảm thấy như đang bị say sóng, nghe tiếng “u u” bên tai và hơi nóng hừng hực nơi cổ.
Thái độ của Phong và hơi nóng hâm hấp từ cơ thể của Phong lan qua bàn tay của Gary khiến Gary lo ngại, nói với Cảnh và Duệ:
- Nắm tay Phong, tôi biết Phong đang bị sốt. Nhiệt độ cao, có thể vết thương đã nhiễm trùng. Hai bạn nghĩ mình có nên đưa Phong ra tàu bệnh viện của Đệ Thất hạm đội để chữa trị hay không?
Duệ nhìn Cảnh vì Duệ chẳng hiểu gì. Cảnh đáp lời Gary:
- Sorry, tôi không dám có ý kiến trong việc này; vì việc này thuộc pham vi chuyên môn của các bác sĩ thuộc quân y viện này.
- Thôi được, tôi sẽ hỏi ý kiến Phong. Nếu Phong đồng ý, tôi sẽ can thiệp bằng mọi cách.
Gary khom xuống gần tai Phong, gọi nhỏ:
- Phong! Tỉnh dậy đi, Phong! Tỉnh dậy đi, Phong!
Nghe gọi, Phong cố mở mắt. Rất trầm tỉnh, Gary hỏi từng tiếng:
- Phong! Anh tỉnh chưa? Anh nghe tôi rõ không? Tôi có một việc hệ trọng, muốn hỏi anh. Anh tỉnh chưa?
Phong nhìn Gary, môi cười méo xệch:
- Có gì quan trọng quá vậy, Gary?
- Tôi muốn đưa anh ra tàu bệnh viện của Đệ Thất hạm đội nhờ chữa trị. Anh nghĩ thế nào?
Phong giật mình, tỉnh hẳn, không ngờ Gary dành cho chàng nhiều ưu ái đến như vậy! Trong khi mọi người đang chờ sự quyết định của chàng thì Phong nhớ lại – trong lần đầu tiên đưa quân càn quét vùng Hà Bằng, Chùa Lầu và biết mắt của ni sư Mẫu Đơn bị lòa – Phong đã thầm nguyện sẽ gặp lại ni sư Mẫu Đơn và sẽ tìm phương tiện giúp ni sư chữa bệnh mắt. Bây giờ, nghe những lời chân thành của Gary, Phong biết điều khấn nguyện của chàng đang trở thành hiện thực. Phong đáp lời Gary với giọng đầy xúc động:
- Không ngờ Gary tốt với tôi đến như vậy! Tôi xin ghi ơn bạn suốt đời. Có điều, tôi xin Gary hãy giúp đỡ một người thiếu phương tiện hơn tôi. Người ấy rất xứng đáng nhận đặc ân của bạn. Xin bạn hãy giúp người ấy.
Gary ngạc nhiên, nhìn Phong:
- Phong! Anh thật là lạ! Anh bị thương nặng, vết thương đang làm độc. Tôi ngại bác sĩ ở đây không đủ dụng cụ, thuốc men, rồi anh sẽ mất đôi chân; vậy mà anh lại từ chối để nhường cho người khác. Tại sao?
Phong nhìn vào mắt Gary; trong ánh nhìn đó Gary đọc được tất cả sự khẩn khoản của Phong:
- Nếu Gary có lòng giúp tôi thì xin Gary giúp người ấy. Tôi ở đây có bác sĩ; vả lại, bạn nhớ rằng tôi sẽ không chết vì “lổ chân trâu” đâu!
- Người ấy là ai? Cha Mẹ, vợ con của bạn, phải không?
- Không. Người này không họ hàng gì với tôi.
- Anh nói gì? Không họ hàng với anh mà tại sao anh lo cho người đó hơn là lo cho anh?
- Người ấy cũng như Mẹ tôi vì người ấy đã cứu tôi thoát chết khi tôi còn bé. Người ấy là một ni sư.
Gary lập lại nho nhỏ:
- Một ni sư!
Giọng của Phong trở nên khẩn thiết vô cùng:
- Gary! Làm ơn cứu ni sư. Tôi thề sẽ làm tất cả những gì Gary muốn để Gary giúp ni sư thấy được ánh sáng mặt trời.
- Bà ấy bị mù à?
- Chưa mù hẳn; nhưng nếu Gary không giúp thì bà sẽ…
Gary nhíu mày, ra vẻ khó nghĩ vừa khi bác Sáu Nhỏ đến thăm Phong. Thấy nét mặt mọi người quanh Phong đều có vẻ nghiêm trọng, bác Sáu Nhỏ lặng lẽ đến bên Duệ.
Phong tiếp:
- Kỹ thuật giải phẫu mắt tại Việt Nam còn phôi thai lắm, Gary ạ! Hơn nữa, cuộc đời của một ni sư thì làm thế nào bà ấy có tài chánh để trang trải cho cuộc giải phẫu tốn kém như vậy. Please, Gary!
- Phong đưa tên họ và địa chỉ của ni sư cho tôi. Tôi không dám hứa gì cả. Tôi sẽ cố gắng trong khả năng của tôi.
Gary cười, vỗ vỗ vào vai Phong. Phong bảo Cảnh viết vào mảnh giấy nhỏ: Ni sư Mẫu Đơn, Chùa Lầu, Hà Bằng. Nhìn mảnh giấy, Gary ngạc nhiên:
- Sao không thấy tên đường và số nhà?
Cảnh lên tiếng:
- Trời ơi! Chùa Lầu là “ổ” Việt Cộng mà ai dám một mình lên đem ni sư đi, đại úy?
Bây giờ Phong mới thấy sự hiện diện của bác Sáu Nhỏ, vội vẩy mấy ngón tay:
- Chào bác Sáu. Cảm ơn bác đã đến thăm tôi.
- Chu cha! Nhiều người muốn đi thăm đại úy lắm mà tui hỏng dám cho đi. Tui hỏng biết mình tui có thăm đại úy được hay không mà chở cả đám, rủi “nẫu” hỏng cho dô thăm thì làm sao!
Quay sang Gary, Phong trở lại đề tài lúc nãy:
- Gary! Nếu có người đưa ni sư ra Qui Nhơn, bạn nghĩ bạn có thể giúp ni sư được không?
- Tôi sẽ cố gắng. Tôi sẽ liên lạc trực tiếp với anh về việc này.
- Xin đa tạ lòng nhân đạo của anh. Khi nào anh lo xong thủ tục, giấy tờ, xin cho tôi biết. Tôi sẽ nhờ người đưa ni sư đến Qui Nhơn, nghỉ tạm tại nhà bà con của tôi rồi tôi sẽ liên lạc với anh, cho anh địa chỉ của ni sư – tại Qui Nhơn.
- Tốt! Bạn có thể tin tưởng rằng ước nguyện cao cả của bạn sẽ được Đức Chúa trợ giúp. Bây giờ tôi cần tên họ, ngày, tháng, năm sinh của ni sư. Khi nào có những chi tiết cần thiết này, bạn liên lạc với tôi.
Sau khi Gary từ giã, Phong nhìn bác Sáu Nhỏ:
- Bác Sáu! Có lẽ bác đã biết bệnh tình của ni sư Mẫu Đơn rồi, phải không, bác?
- Dạ, biết.
- Nhờ bác lên Chùa Lầu thưa với ni sư Mẫu Đơn là tôi cần biết ngày, tháng, năm và nơi sinh của ni sư.
- Dạ, dễ mà. Tui dân dả đi lên Chùa Lầu hỏng sao đâu. Để tui lo.
- Cảm ơn bác. Sau này, bác có thể giúp đưa ni sư Mẫu Đơn từ Chùa Lầu xuống Hà Bằng; rồi bác đưa ni sư đến Qui Nhơn, gửi ni sư ngụ tại nhà người bà con của tôi, mọi phí khoản tôi sẽ ứng trước hoặc hoàn lại cho bác, được không, bác Sáu?
- Cái gì chớ cái đó có gì khó khăn đâu! Đại úy cứ tịnh dưỡng cho mau lành. Bất cứ lúc nào đại úy cần, cứ nói chú Duệ cho tui hay thì mọi việc đều xong. Tiền nong mình tính sau, nhen, đại úy!
- Cảm ơn bác Sáu nhiều lắm! Tôi sẽ không để bác Sáu thiệt thòi đâu. Thôi, chiều rồi Bác Sáu, Cảnh và Duệ về đi.
* * *
Trên đường đến chỗ xe Lam đậu, bác Sáu Nhỏ chợt nhớ một chi tiết lạ, vội hỏi Duệ:
- Nè, chú Duệ! Chú là “đệ tử” của Ổng, tại sao hôm Ổng bị thương chú không ở bên Ổng mà chú lại chạy ngơ ngơ ngoài đường dậy?
- Tại bữa đó cô Thêm mời tôi ăn giỗ.
- Con Thêm bà con với chú hả?
- Không phải. Thêm là “bồ” của tôi.
- Chú “bồ” với con Thêm hả? Chết cha! Coi chừng nghe, chú!
- Dạ. Sao, bác Sáu?
- Bữa đó nhà con Thêm giỗ ai?
- Dường như tôi nghe Thêm nói giỗ bà ngoại thì phải.
Bác Sáu Nhỏ dừng bước, nhìn Duệ:
- Bà ngoại của con Thêm còn sống sờ sờ đó mà ai nói với chú là giỗ bà ngoại của nó? Chú cẩn thận, đừng để ông đại úy bị liên lụy, nhen, chú!
Duệ hoang mang, nhớ lại câu hát của thằng bé “…Vui đàn con ở rừng sâu mới về…” Và, hôm đó, Duệ thấy một cụ bà lưng còng, ngồi trên phản, lặng lẽ têm trầu chứ không ăn cơm; mà bữa cơm cũng chẳng có gì ra vẻ là bữa giỗ! Lại cũng chẳng thấy nhang, đèn, vàng bạc gì cả! Mà bữa giỗ thì tại sao ba má của Thêm lại đi mua lác dệt chiếu? Duệ lại nhớ, mỗi lần “hai đứa” hẹn nhau bên bụi dù dẻ hoặc bên gò mối, Thêm cứ hỏi dò Duệ: “Cái máy gì mà anh cứ đeo trên lưng rồi ‘nẫu’ nói ra, anh nói dô trong đó dậy?” Duệ tìm cách không đáp lời Thêm.
Bây giờ, nhận ra được nguyên nhân của sự việc, Duệ – dù rất thương Thêm – cũng cảm thấy uất trong lòng vì chàng đã bị lợi dụng và lừa dối! Duệ chửi thề:
- Mẹ nó!
Cảnh hỏi:
- Cái gì vậy, Duệ?
- Dạ, không có gì, thiếu úy.
Đáp lời Cảnh như vậy, nhưng trong lòng, Duệ đã quyết định dứt tình với Thêm. Duệ thầm nhủ, sau khi Phong xuất viện, Duệ sẽ trình bày mọi việc và xin Phong cho chàng được thuyên chuyển đến đơn vị khác!
ĐIỆP MỸ LINH
(1) "Các anh đi" – Thơ Hoàng Trung Thông – Nhạc Văn Phụng
Orange County, California-USA
Ngày 10 tháng 8 năm 2017
THƯ CỦA LIÊN THÀNH
KÍNH GỞI THẦY, ANH: LUẬT SƯ LÊ TRỌNG QUÁT
Kính thưa Thầy, thưa Anh:
Em là Liên Thành, học trò của Thầy năm đệ lục [lớp 7] trường Quốc Học, Huế niên khóa 1955-1956 thời Đệ I Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Sau đó thầy rời trường Quốc Học để đi vào lãnh vực chính trị với chức vụ là Dân Biểu Hạ Viện, Quốc Hội Đệ I VNCH.
Ngoài ra, thưa Thầy, em còn là bạn học chí thân của Lê Trọng Cận, em ruột của thầy. Hai đứa em cùng học chung với nhau đến năm đệ nhất thì hai đứa em, mỗi đứa mới đi theo một ban chuyên biệt: em đi ban B (ban toán), Lê Trọng Cận đi ban A (vạn vật).
Ngoài tình thầy trò và còn vì là bạn chí thân của Lê Trọng Cận, em xin phép thầy cho em được gọi thầy là Anh như Lê trọng Cận gọi thầy, như vậy sẽ dễ dàng thưa chuyện với thầy trong tình thân anh em.
Thưa Anh,
Những gì em sắp trình bày với anh là những suy nghĩ riêng tư của em, của kinh nghiệm sống, của sự thật của một chứng nhân trôi nổi theo dòng sinh mệnh điêu linh của Tổ Quốc, Quê Hương và Dân Tộc.
Có lẽ những lời trình bày của em sẽ là chén thuốc đắng, nhưng em vẫn trình bày cùng anh như là một góp ý của một học trò đối với thầy tôn kính, và là của một thằng em trong gia đình đối với một người anh mà em quý trọng.
Thưa Anh,
Trong những năm gần đây, anh và một số các vị khoa bảng, trí thức, luật sư, chính trị gia thuộc thời Đệ I và Đệ II VNCH ngồi lại với nhau với ý định như là một tập thể của VNCH yêu cầu Hoa Kỳ, Cộng sản Việt Nam, Nga Sô, và Trung Cộng, cùng với các nước liên hệ trong Hòa Đàm Paris (27-1-1973) như Ba Lan, Canada, Indonesia, Hungary -- cũng là bốn quốc gia kiểm soát ngưng chiến tại Việt Nam -- phải thi hành đúng đắn những điều khoản trong Hiệp Định Paris về vần đề Việt Nam. Điều này có nghĩa là miền Nam Việt Nam phải được trả lại cho Việt Nam Cộng Hòa. Anh và họ cũng có ý định đi vận động các quốc gia Ba Lan, Canada, Indonesia, Hungary và một số quốc gia hội viên của Liên Hiệp Quốc hỗ trợ ký vào bản yêu cầu trên. Nếu mọi chuyện được như ý thì tổ chức của Anh và họ sẽ đứng ra nhận lại miền Nam Việt Nam từ tay cộng sản Việt Nam.
Mấy ngày gần đây em đã nghe, đã đọc thư Anh gửi cho Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump về vấn đề thực thi bản thỏa ước Hòa Đàm Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Thưa Anh,
Theo kinh nghiệm hoạt động và thiển ý của em, em thấy đây là một việc làm không dựa trên cơ sở thực tế, không thể đem lại kết quả tốt đẹp. Em rất kính nể Anh và họ là những nhà khoa bảng, những đại trí thức, những chính trị gia lỗi lạc; nhưng em không thể không nói khi nhìn thấy việc làm, do anh chủ trì mà em nghĩ là sai, đối với đất nước thân yêu, dựa trên những thực tế sau đây:
1. Hiệp Định “Đình Chiến Tái Lập Hòa Bình” ký ngày 27/1/1973 tại Paris là một hiệp định lừa đảo không mang bản chất trung thực. Đó là bản án tử hình mà Hoa Kỳ, Trung Cộng, và Nga Sô đã dành cho Việt Nam Cộng Hòa. Đó là cái thòng lọng bắt Việt Nam Cộng Hòa phải đút đầu vào cho họ thắt cổ cho đến chết, sau khi đã chia chác quyền lợi với nhau.
Bằng chứng là trước khi ký Hiệp Định, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã tỏ ý không chịu ký, nhưng Tổng Thống Mỹ Nixon hứa hẹn đủ điều với Tổng Thống Thiệu: “Đừng lo, nếu ông ký xong mà thằng cộng sản Hà Nội vi phạm tôi sẽ đem bom dội trên đầu nó ngay.” Tổng thống Thiệu chần chừ không chịu ký, thì trong cuốn băng ghi âm đã được chính phủ Hoa Kỳ giải mật, chính giọng của Tổng Thống Nixon nói rõ ràng rằng nếu ông Thiệu không chịu ký thì ông ta [Nixon] sẽ cắt đầu ông Thiệu.
“I don’t know whether the threat goes too far or not, but I’d do any damn thing, that is, or to cut off his head if necessary.” President Richard Nixon, January 20, 1973.
Điều đau đớn cho Việt Nam Cộng Hòa và dân chúng miền Nam là hành động đểu giả của Hoa Kỳ: Kissinger và Nixon không muốn thấy Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ trước cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ vào tháng 11/1972, vì nếu chuyện này xảy ra, thì việc tái đắc cử của ông Nixon sẽ rất mong manh. Xin hãy đọc một đoạn thâu băng của Nixon đã được giải mật để thấy số phận của Việt Nam Cộng Hòa và dân chúng miền Nam đã được Nixon và Chính phủ Hoa Kỳ an bài từ trước:
“The country would care if South Vietnam became Communist in a matter of six months. They will not give a damn if it’s two years.” President Richard M. Nixon, March 17, 1973.
Hoa Kỳ không muốn miền Nam Việt Nam mất nhanh chóng trong vòng sáu tháng sau khi Hiệp Định Paris được ký kết. Như vậy Hoa Kỳ không bị nỗi nhục thua trận. Nhưng nếu là hai năm, sẽ không có vấn đề.
Tài liệu giải mật cũng cho thấy rằng ông Kissinger và ông Nixon cùng đồng ý là Việt Nam Cộng Hòa có thể mất vào tay cộng sản Bắc Việt sau cuộc bầu cử Tổng Thống tại Hoa Kỳ vào tháng 11/1974. Nhưng nếu điền này xảy ra vào mùa xuân 1975 thì thời điểm này tốt hơn là mùa xuân 1976.
Hòa đàm Paris vừa được ký chưa ráo mực thì Hà Nội đã đem quân và cả chiến xa tấn chiếm Tỉnh Lỵ Phước Long của VNCH. Tổng thống Thiệu kêu cứu, và xin viện trợ; Hoa Kỳ ngoảnh mặt làm ngơ. Sau đó tuần tự chúng ta mất Quảng Trị, Huế, Vùng II, Đà Nẵng, Vùng I và cuối cùng là Sài Gòn.
Ba tên đồ tể Hoa Kỳ, Trung Cộng, và Nga Sô đã giết chết VNCH.
Bây giờ Anh và các ông trong tổ chức của anh lại đòi hỏi ba tên đồ tể đó hồi sinh cho Việt Nam Cộng Hòa đã chết 42 năm rồi bằng cách thi hành cái hiệp định Paris giả kia, thử hỏi anh và các ông đó có dựa hành động của mình trên cơ sở thực tế không?
Thưa Anh,
Thằng cộng sản Việt Nam hiện có trên 90 triệu dân, mặc dầu dân không theo nó. Nó có quân đội, công an, nó có quan hệ ngoại giao quốc tế với hầu hết các quốc gia trên thế giới và quan trọng nhất là nó có quá nhiều US dollars, hằng tỷ US dollars. Anh và tổ chức của Anh có cái gì?
Không một quốc gia nào đã có quan hệ ngoại giao, quan hệ kinh tế làm ăn với cộng sản Việt Nam lại trì độn đến độ ký vào bản thỉnh nguyện đó. Không bao giờ.
Hơn nữa, điều quan trọng là Anh và tổ chức của anh có đem lợi lộc gì đến cho họ và cho quốc gia họ hay không, để họ giúp Anh. Những lời hứa còn mang tính viễn vông không thể thuyết phục họ bằng những thực tại mang lại lợi lộc trước mắt được.
Em nghĩ Anh cũng thừa biết bang giao quốc tế xưa cũng như nay chỉ đặt trên căn bản quyền lợi trao đổi. Trong bang giao quốc tế, người ta đòi hỏi quyền lợi thực tế chứ họ không đi mua “vịt trời”.
Ông Tổng Thống Trump là một tỷ phú, một tay buôn quốc tế, ông ta tính lời lỗ bằng đồng đô-la, chứ không bằng tình cảm, luân lý, hay ngay cả luật pháp.
Cộng sản Việt Nam và Hoa Kỳ đang bắt tay nhau, đu dây, chia bài xấu cho thằng Tàu chệt Trung cộng, thì hà cớ gì lại đồng ý giúp Anh tái lập thỏa ước Hòa Bình Paris, bắt cộng sản Việt Nam thi hành đúng đắn thỏa hiệp Paris giao lại miền Nam Việt Nam cho người Việt Quốc Gia chúng ta, thưa anh?
Đảng cướp cộng sản Việt Nam từ tên nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc đã qua Mỹ, ký với Mỹ những thỏa ước kinh tế lên dến 12 tỷ US đô-la, quá lợi cho Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Ông tài phiệt Donald Trump xoa tay cười vui vẻ, không nói đến một chữ nhân quyền cho người dân Việt Nam. Thật là đau lòng cho người Việt Quốc Gia hy vọng ông Trump can thiệp nhân quyền cho những người Việt đấu tranh trong nước.
Thưa anh,
Như em đã thưa anh ở phần trên: Thuốc đắng đã tật, sự thật mật lòng.
Chính phủ Hoa Kỳ và bất cứ chính phủ Hoa Kỳ nào sau Ông Trump cũng sẽ mãi mãi không bao giờ nhớ đến thỏa hiệp Hòa Đàm Paris 44 năm về trước vì đó là một sỉ nhục của họ: một cường quốc đã đi lừa phỉnh một nước nhược tiểu, đã bóp chết, bức tử Dân, Quân Đệ I và Đệ II VNCH vì quyền lợi kinh tế, ngoại giao chính trị của quốc gia Hoa Kỳ.
Thưa anh,
Với tình nghĩa thầy trò, tình nghĩa anh em, em xin thưa với Anh rằng:
Không ai thương ta bằng ta thương ta. Nếu ta không có vốn thì đừng mong cầu cạnh ai để có lời.
Xin Anh và tổ chức của anh dồn mọi nỗ lực tiếp tay phụ giúp cho người Việt Quốc gia trong nước đấu tranh giành lại quê hương Việt Nam trong tay đảng cướp cộng sản.
Xin Anh đừng bao giờ nghĩ đến thỏa hiệp, hòa giải, hòa hợp với đảng cướp cộng sản Việt Nam.
Đối với bọn chúng, chúng ta phải dùng tất cả sức mạnh trí tuệ của những người việt quốc gia yêu nước mới có thể lật đổ chế độ CSVN và giành lại độc lập, tự do, và dân chủ cho trên 90 triệu đồng bào thân yêu của chúng ta.
Cuối cùng xin anh đừng dể cho những kẻ bẩn thỉu, những tổ chức tay chân của cộng sản len lỏi vào nằm vùng trong tổ chức của anh.
Thưa anh, Việt Tân tiền thân của tổ chức Hoàng Cơ Minh đã xâm nhập vào tổ chức của anh nhiều lắm rồi đó.
Kính trọng.
Liên Thành
P.O.BOX 6147
Fullerton, CA 92834
USA,
Tele: 626-257-1057
Email:
SỰ TỒN TẠI CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA
Phạm Đình Hưng
Chánh thể và Quốc gia
Trong thời gian lưu vong ở hải ngoại, một số ít người Việt tị nạn cộng sản đã đơn giản nghĩ rằng Việt Nam Cộng Hòa đã chết sau ngày các sư đoàn của Bắc Việt cộng sản (nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) đánh chiếm một quốc gia láng giềng là miền Nam Việt Nam, quốc hiệu Việt Nam Cộng Hòa. Họ muốn nói đến chánh thể Cộng Hòa (Republic) của miền Nam Việt Nam đã bị kẻ xâm lăng Bắc Việt, môt nước cộng sản ở trên vĩ tuyến 17, xóa bỏ và thay thế bằng một chế độ độc tài toàn trị do đảng Cộng Sản lãnh đạo từ 42 năm nay. Họ đã không phân biệt chánh thể (political regime) với quốc gia (state).
Về mặt địa lý, Việt Nam Cộng Hòa là miền Nam Việt Nam có lãnh thổ trải dài từ mũi Cà Mau đến vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải). Về mặt chánh trị, Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia độc lập đã được quốc tế công pháp minh thị công nhận: Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7-1954 và Hiệp định Paris ký kết ngày 27-1-1973 trước sự chứng kiến của Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc Kurt Josef Waldheim, môt nhà ngoại giao của nước Áo. Đến ngày nay, không có quốc gia nào đã ký kết hai hiệp định nầy, kể cả nước Việt Nam cộng sản, cáo bải (revoke) hiệp ước. Thời gian không làm mất hiệu lực của các hiệp ước, hiệp định và công ước quốc tế. Ngoài ra, Việt Nam Cộng Hòa còn là Quan sát viên thường trực Liên Hiệp Quốc, thành viên của một số Tổ chức Quốc tế và có quan hệ ngoại giao với trên 50 quốc gia trong Thế Giới Tự Do (Free World). Sự xâm lăng, chiếm đóng và thôn tính miền Nam Việt Nam của quân đội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt cộng sản) không thể tước bỏ quyền độc lập tự chủ của một nước láng giềng. Trong hoàn cảnh của một nước nhỏ bị xâm lăng và chiếm đóng bằng bạo lực của súng đạn cộng sản, Việt Nam Cộng Hòa tức Nam Việt Nam sẽ tiếp tục mất độc lập và chủ quyền sau khi toàn bộ đất nước Việt Nam từ Bắc chí Nam, trên đất liền và ngoài Biển Đông (South China Sea), bị sát nhập vào Trung Quốc năm 2020 căn cứ theo mật ước Thành Đô do hai đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc và Việt Nam lén lút ký kết năm 1990 để biến cải nước Việt Nam thành một phần lãnh thổ của nước Tàu. Hai cuộc Chiến Tranh Đông Dương do đảng Cộng Sản Việt Nam gây ra dưới sự chỉ đạo của Thiếu tá Tình báo Tàu Hồ Quang đã có hậu quả hạ thấp cương vị của quốc gia Việt Nam từ một nước độc lập trở thành một tỉnh cũa Trung Quốc, một khu Tự trị như khu Tự Trị của dân tộc Choang trong tỉnh Quảng Tây hoặc môt quận trực thuộc tỉnh Quảng Đông
Mất độc lập và chủ quyển từ ngày 30-4-1975, Việt Nam Cộng Hòa hiện nay vẫn là một thực thể chánh trị (political entity) cỏn hiện hữu ở trong nước Việt Nam, tại Đông Nam Á và trên thế giới mặc dầu đã bị một quốc gia khác (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa) xâm lăng, thôn tính và đô hộ. Nói tóm lại, Việt Nam Cộng Hòa, nạn nhân của một cuộc xâm lăng do người đồng chủng chủ động theo chỉ thị của Nga-Hoa trong cuộc Chiến Tranh Lạnh (1948-1989), chỉ mất độc lập và chủ quyền nhưng vẫn còn tồn tại trên bình diện quốc tế công pháp và trong thực tại ngày nay. Khi cần, tôi sẽ đưa ra các dẫn chứng và chi tiết để hậu thuẫn quan niệm của tôi.
Thành lập thể chế Cộng Hòa
Tại miền Nam Việt Nam bao gồm Nam Phần (thủ đô Sài Gòn và 21 tỉnh) và Trung Phần (các tỉnh duyên hải và trên cao nguyên), thể chế Cộng Hòa đã được thiết lập lần đầu tiên từ năm 1955 dưới thời cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, người khai sáng nền Đệ Nhứr Cộng Hòa xây dựng trên cơ sở Hiến pháp ngày 26-10-1956 do Quốc Hội Lập Hiến dân cử soạn thảo và biểu quyết. Trong khi quốc sách Ấp Chiến Lược và Khu Trù Mật đang ngăn chận hữu hiệu sự xâm nhập ban đêm của cán binh cộng sản vào các thôn xóm hẽo lánh, cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 đã giựt sập nền Đệ Nhứt Cộng Hòa và giết hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng bào đệ Ngô Đình Nhu, một chiến lược gia có kiến thức uyên bác. Sau gần 3 năm xáo trộn chánh trị, nền Đệ Nhị Cộng Hòa đã được thành lập trên cơ sở Hiến pháp ngày 1-4-1967 do Quốc Hội Lập Hiến bầu cử ngày 11-9-1966 soạn thảo và chung quyết. Tôi đã được vinh dự tham gia công tác đúc kết và thuyết trình trước Quốc hội khoáng đại để 117 Dân biểu thảo luận và biểu quyết trong tinh thần hoàn toàn tự do. Một hiến pháp tôn trọng nguyên tắc quân bình và kiểm soát hỗ tương giữa ba cơ quan Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp đã được ban hành trong tình trạng chiến tranh để đảm bảo nhân quyền và các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam. Ngoài ra, Hiến pháp còn thành lập Giám Sát Viện, một định chế đặc biệt độc lập có thẩm quyền bài trừ tham nhũng, thẩm tra kế toán của tất cả các cơ quan công quyền và kiểm kê tài sản của tất cả viên chức, kể cả Tổng Thống.
Nhằm mục đích thuộc địa hóa miền Nam Việt Nam vô cùng trù phú, sự xâm lược của Bắc Việt cộng sản đã có hậu quả cướp đoạt tài sản dồi dào của nhân dân miền Nam, đình chỉ thi hành Hiến pháp Đệ Nhị Cộng Hòa, chấm dứt hoạt động của Nhà nước, Quân lực và các cơ chế hiến định, hủy bỏ tất cả các quyền tư do dân chủ, gián đoạn công vụ của toàn thể quân, cán, chánh Việt Nam Cộng Hòa. Sự cưỡng chiếm miền Nam của 13 sư đoàn công sản Bắc Việt đã 2748" xóa bỏ thể chế Cộng Hòa của một quốc gia bị chiếm đóng. Từ ngày thất thủ do thiếu hụt phương tiện chiến tranh, miền Nam Việt Nam không còn là một quốc gia độc lập sau khi bị cưỡng bách sát nhập vào nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, hậu thân của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt cộng sản), dưới ngụy danh “thống nhứt” đất nước Việt Nam. Từ ngày 30-4-1975, dưới bạo lực của lưỡi lê và súng đạn, một chánh thể tự do dân chủ với tam quyền phân lập tại miền Nam Việt Nam đã bị thay thế bởi một chế độ độc tài công an trị tập trung mọi quyền bính vào trong tay của đảng Cộng sản Việt Nam, tay sai của Trung Quốc và đệ tử của Liên Xô.
Việt Nam Cộng Hòa còn tồn tại hay không?
Bất chấp quốc tế công pháp, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt cộng sản) đã cố tình vi phạm hai Hiệp định Genève 1954 và Paris 1973 khi công khai xua quân vượt vĩ tuyến 17 đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa, một nước độc lập và có chủ quyền. Khinh thường dư luận quốc tế, Bắc Việt cộng sản năm 1975 đã gấp rút đặt cả thế giới trước chuyện đã rồi (fait accompli) khi vận dụng tất cả sư đoàn vượt khu phi quân sự (DMZ) đánh chiếm toàn bộ miền Nam Việt Nam. Trong quan hệ quốc tế, Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam không bao giờ tôn trọng các hiệp ước, hiệp định, hợp đồng đã ký kết và các định ước, công ước quốc tế đã gia nhập. Mới đây, ngày 23-7-2017, nước Việt Nam cộng sản lại dám sai mật vụ đến nước Đức bắt cóc tại Berlin cán bộ cộng sản Trịnh Xuân Thanh đang tại đào và xin tị nạn chánh trị tại nước nầy. Hành động phi pháp trắng trợn của mật vụ cộng sản Việt Nam tại nước Đức đã tố cáo quán tính khinh thường luật pháp quốc tế của Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam mặc dầu nước nầy đã tham gia Liên Hiệp Quốc, các tổ chức quốc tế và công ước quốc tế.
42 năm đã trôi qua từ ngày Bắc Việt cộng sản đánh chiếm miền Nam tự do. Mặc dầu đã tiếp thâu được nhiều thông tin chính xác từ các mạng xã hội (social media), một số người tị nạn cộng sản tại hải ngoại vẫn phụ họa theo luận điệu tuyên truyền của Cộng sản Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa đã bị khai tử sau khi Quân lực miền Nam Việt Nam sụp đổ trước sự tấn công của quân xâm lăng cộng sản Bắc Việt. Họ còn nông cạn nghĩ rằng sự đầu hàng của Đại tướng Dương văn Minh, Tổng Thống bất hợp hiến do Quốc Hội hấp tấp đưa lên trong ba ngày cuối cùng (từ 28-4 đến 30-4-1975) đã chánh thức xóa bỏ Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia độc lập đã được Hiệp định Genève 1954 minh thị công nhận và là một trong 12 nước đã ký kết Hiệp định Paris 1973 trước sự chứng kiến của Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc. Lập luận của họ hoàn toàn sai trái về cả hai mặt pháp lý và thực tại.
Trong phạm vi hạn hẹp của bài viết nầy, tôi muốn căn cứ vào lịch sử của một số nước ở Âu châu đã có hoàn cảnh giống như miền Nam Việt Nam để khẳng định Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tồn tại và sẽ có nhiều triển vọng thâu hồi quyền độc lập tự chủ trong tương lai không xa.
Lịch sử của một số nước Âu châu đã bị xâm lăng và mất độc lập:
1. Nước Ba Lan (Poland, Pologne)
Thành lập trong thế kỷ 10 do Đại Công tước (Grand Duc) Mieszko, Ba Lan là một nước nhỏ ở Đông Âu đã bị 3 Vương quốc lớn bao quanh (Nga, Phổ và Áo) qua phân lãnh thổ năm 1795 và mất độc lập trong một thời gian dài trên một thế kỷ. Tuy nhiên, nước Ba Lan không mất mà vẫn tồn tại nhờ dân tộc Ba Lan có lòng yêu nước mãnh liệt và tinh thần kiên trì hy sinh tranh đấu để khôi phục độc lập của Ba Lan.
Sau Thế Chiến I, nước Ba Lan độc lập hồi sinh năm 1918. Nhưng đến năm 1939, hai cường quốc láng giềng (Đức và Liên Xô) lại xâm lăng nước Ba Lan để phân chia lãnh thổ của nước nầy. Dân tộc Ba Lan đã dũng cảm tiếp tục tranh đấu chống ngoại xâm và đã phải hy sinh rất nhiều cho độc lập tự chủ của nước nhà.
Sau Thế Chìến II, nước Ba Lan thâu hồi độc lấp và tồn tại đến ngày nay. Ba Lan là một thành viên của Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến tại Việt Nam từ năm 1954.
2. Nước Áo (Austria, Autriche)
Thành lập năm 996 từ lãnh địa Bavaria, một tiểu bang lớn của nước Cộng Hòa Liên Bang Đức ngày nay (có thủ phủ là thành phố Munich), nước Áo là một đế quốc hùng mạnh vào bực nhứt ở Âu châu đã giao chiến với Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte. Đế quốc Áo-Hung (Austro-Hungarian Empire) đặt dưới quyền cai trị lâu dài của Hoàng tộc Habsbourg.
Sau Thế Chiên I, đế quốc Áo-Hung tan rã và trở thành một nước Cộng Hòa (Austrian Republic) từ 1918 đến 1933. Năm 1938, Quốc trưởng của nước Đức Adolf Hitler, một người sanh tại nước Áo, sát nhập nước của mình vào nước Đức.
Sau Thế Chiến II, nước Áo tranh thủ độc lập năm 1955 và thành lập nền Đệ nhị Cộng Hòa.
Cả hai nước Đức và Áo đều nói tiếng Đức. Nhưng dân tộc Áo vẫn muốn có một nước nhỏ độc lập tự chủ tách rời khỏi nước Cộng Hòa Liên Bang Đức, một nước lớn hùng mạnh.
3. Estonia, Latvia và Lithuania là ba nước rất nhỏ ở vùng biển Baltic, giáp ranh với nước khổng lồ Nga.
Sau Thế Chiến I, Estonia, Latvia và Lithuania được độc lập đối với hai nước lớn Nga và Đức. Nhưng năm 1940, thi hành hiệp ước Molotov-Ribbentrop ký kết với nước Đức sau khi Thế Chiến II bùng nổ năm 1939, Liên Xô thôn tính ngay 3 nước láng giềng Estonia, Latvia và Lithuania. Mất độc lập, 3 nước nhỏ nầy bị sát nhập vào lãnh thổ Liên Xô từ năm 1940. Mãi đến năm 1991, sau sự sụp đổ của đế quốc cộng sản Liên Xô, 3 nước Estonia, Latvia và Lithuania mới thâu hồi độc lập, gia nhập Liên Âu (European Union) và Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) để được bảo vệ chống lại sự xâm lấn của nước Nga.
Kết luận
Các nước Ba Lan, Áo, Estonia, Latvia và Lithuania là những nước nhỏ thâu hồi được độc lập tự chủ nhờ lòng yêu nước và tinh thần kiên trì tranh đấu của nhân dân các nước nầy cho độc lập của quê hương xứ sở.
Nhân dân miền Nam Việt Nam cần phải noi theo gương sáng của nhân dân các nước nhỏ kể trên ở Âu châu để thâu hồi độc lập và tái lập chánh thể Cộng Hòa. Sau 42 năm thống trị bạo tàn và tham nhũng bóc lột của đảng Cộng Sản, đại bộ phận quần chúng nhân dân Việt Nam từ Nam chí Bắc đã nhận thấy chánh thể Cộng Hòa có nhiều ưu điểm hơn chế độ độc tài toàn trị của đảng Cộng Sản. Vì vậy, nhân dân Việt Nam cần phải quyết tâm giải thề chế cộng sản để tránh khỏi đại họa Bắc thuộc lần thứ 5. Muốn ngăn chận âm mưu sát nhập nước Việt Nam vào Trung Quốc năm 2020, cần phải nhanh chóng thi hành Hiệp định Paris 1973. Đó là một giải pháp pháp lý khả thi trong hiện tình đất nước Việt Nam.
Thẩm phán Phạm Đình Hưng
Đăng ngày 12 tháng 08.2017