banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

TỰ ĐIỂN DÂN GIAN


Chân Diện Mục

Một vị nghiên cứu địa danh miền Nam. Tới một tên là lạ, thì hỏi người địa phương. Thí dụ như một cửa sông có tên là Cung Hầu. Tra cứu sách vở thì vô ích thôi, bèn hỏi người địa phương, té ra nơi đó là Cồn Ngao. Cồn Ngao, các cụ viết sách bằng chữ nho bèn ghi là Cung Hầu! Nhà nghiên cứu bèn gọi cách giải thích dân gian đó là Tự Điển Dân Gian.
Dĩ nhiên có những địa điểm mà dân gian cũng như trí thức đều mít đặc như các địa danh xóm Cù Bà Cây Mít ở Bình Định và Lá Hanh Chắt đốt ở Sóc Trang! Gặp những trường hợp đó thì người ta đành chào thua thôi! Tôi thấy tìm hiểu đề tài này cũng thú vị lắm. Tôi xin kể hầu quí vị từ Bắc vô Nam.

Bắt đầu từ địa danh Hòn Gay tôi khoái chí tử! Hầu hết các cách giải thích đều không dược người ta thỏa mãn! Tôi đi tìm mấy ông Tây tới thám hiểm đầu tiên. Tôi nắm đầu cái ông Tây đầu tiên ghi tên nơi này. À! Thì ra Kon gai: Viết chữ K chứ không phải chữ H, viết I hai chấm đầu chứ không viết y. Thú vị quá! Mấy ông sau này viết H và y. Cái ông Tây đầu tiên thấy cái hang đẹp quá! bèn chỉ hỏi người địa phương. Trả lời: Con Gái! ngày nay vẫn còn hang con gái đó! Quí vị nào không phục thì cứ việc đi tìm ngữ nghĩa của Hòn Gay, Hòn Gai, Hồng Gai...
Địa danh thứ hai mà tôi giới thiệu ở tuốt phía Hà Giang. Một cái đèo tên là đèo Le, dân gian giải nghĩa là đèo cao quá, leo đến nơi thì mệt le lưỡi! Nhưng thực ra mấy ông Tây khoái trời trong gió mát nơi đây nên đặt tên là Belle air, rồi người dân gọi tắt là đèo Le!

Một con sông chảy từ Tuyên Quang qua Vĩnh Yên đổ vào sông Hồng có tên là Phó Đáy. Tôi nghĩ không thể có sông Đáy ở phía nam rồi sông này là Phó Đáy! Hai con sông này chẳng dính dáng gì tới nhau. Tôi nghĩ Phó Đáy là Pơ Đai, là lúa theo tiếng Thái. Sông Phó Đáy, Đáy và Đuống đều là vết tích xa xưa của Thái, Mường. Cái Địa danh Cổ Bi ở vùng Gia Lâm, Bắc Ninh, nơi tràn ngập vết tích của bộ lạc Trâu, Tlâu, Dâu... Tôi nghĩ Cổ Bi chính là Cà Bây, là con Trâu!

Các cửa sông có tên là Hàn, Cờn, Càn, Thái Khang, Thái Cần, Sa gân, Sài Côn, Sài Quang, Thầy Quơn rải rác từ Móng Cái tới Cà Mau, tôi nghĩ đừng tìm ông thầy nào tên Quang, tên Quơn cho mất công!
Từ Ninh Bình cho tới Quảng Bình có những tên Lòn, Luồn, Ròn...không phải là cái hang phải đi luồn mãi trong đó. Người miền Thanh Hóa không phát âm là lòn mà phát âm rõ ràng là cái... Yoni! Còn cái ông Quảng Bình thì Ròn, Ròn Mạ...! phải chăng tượng trưng cho bà mẹ Vĩ Đại!!!

Những tên Thầy, Sài, Sãi... tôi nghĩ chỉ là một (núi Thầy là núi Sài Sơn). Một số học giả Âu Mỹ nói rằng từ Việt Nam tới Đông Nam Á, xưa có thịnh hành những Phật Phái Sãi, Vãi... Những ông Sư này quyền kiêm thế tục như các sư Miên sau này! Tôi thấy rằng ngay tại Bắc Việt xưa các sãi cũng ăn thịt và lấy vợ, và các chợ thời đó ở ngay trước cửa chùa. Cái chợ Viềng đông đúc và vui... nhộn (!) là một ví dụ:
Em là con gái kẻ Từ
Có chồng bỏ của theo Sư chùa Viềng
Đói ăn thịt chó nấu riềng...

Sãi và Vãi thời đó cũng như một thứ Phù Thuỷ (Pháp sư: Từ Lộ, Minh Không...!) có nhiều phép lạ và mọi người phải nghe theo; Bà Vãi ở Bà Rịa là một ví dụ. Núi Thị Vãi, sông Thị Vãi chứ không phải Thị Vải. Sách ghi rằng sông Nữ Tăng! Truyền thuyết nói rằng ông Trịnh có tình nghĩa với bà Vãi (Phải chăng con cháu ông Trịnh Thiên Tứ sau này viết nên truyện ông Thiên Tứ lấy bà Xuân Tự!)

Giang Tây Quân: Ở Ninh Bình người ta đã thấy những viên gạch khắc: Giang Tây Quân. Người ta giải thích rằng có đội quân Giang Tây đời Đướng đã ở đó và nung những viên gạch ấy. Thực ra thì cuối Lê người ta đã lập đền thờ vua Đinh và không hiểu người ta mua gạch Giang Tây hay ghi đại gạch Giang tây cho oai (!) nên ghi là Giang Tây chuyên (gạch). Bởi chữ Chuyên và chữa Quân giống nhau nên có những người thợ làm gạch ghi là Giang Tây Quân (?). Không hiểu sao gần đó có những viên gạch Giang Tây chuyên, Đại Việt Quốc Quân thành chuyên mà vẫn còn những học giả giải thích Giang Tây Quân (!!!)

Ở Quảng Bình có động Phong Nha, tôi nghĩ nó không phải răng của gió hay gió có răng.... Mà nó chính là động Non Nước: Phong = Phnom; Nha = ya,ea!

Ở Huế có địa danh Vĩ Dạ, tôi nghĩ không phải là đêm vĩ đại hay đêm có đuôi.... Mà nó là Vijaya của Chiêm Thành đấy bởi chung quanh Huế có rất nhiều thành Lồi. Còn phong tục và ngôn ngữ thì có vết tích rơi rớt của Chàm và Mẫu hệ. Cũng như ở Bình Định có tháp Dương Long, nó chẳng có nghĩa tiếng Việt hay Hán Tự, nó phải là Yang Plong có tháp ở Bình Định và Daklak.

Có những tên nghe lạ tai quá đi chứ: Mũi Ba tăng ghềnh hay Pa tăng ghềnh. Chỉ vì ở đó có ba làng bắt đầu bằng chữ An nên dân gọi là ba làng An. Người Pháp tới phiên âm là balangan rồi chữ l viết tháu ra chữ t: batangan, rồi sau này người Việt phiên âm ngược lại là Ba Tăng Găng, Ba Tăng Ghềnh mà tìm hoài chẳng thấy có ghềnh thác nào cả. Cũng ở giữa miền Trung này có sự phiên âm Việt, Pháp Hoa lung tung cả: Láng cò hay làng cò biến thành Lăng Cô, Châu mới biến thành Chu Mãi, Chu Mei, Châu May, Chân Mây. Phường mới biến thành Phương Mai!

Ở miền Trung cũng như Hà Tiên có vũng Nạy, mũi Nạy. Nạy hay Nay tiếng Miên có nghĩa là lớn thôi! Sao nỡ phiên âm là mũi Nai rồi Hán hóa là Lộc Trĩ!
Cũng như tiếng Miên Thom là lớn, nhưng các cụ phiêm âm thom là thơm tho rồi dịch ra Hán là Hương. Hương Úc chỉ là vũng Lớn thôi! Vũng Thơm ở Sóc Trang, bãi Thơm ở bắc Phú Quốc chỉ là những vũng Lớn, bãi Lớn của người Miên. Tôi tức cười nhất là vũng lớn ở nam Phú Yên, chẳng biết có tên Việt hay tên Hán tự gì không ? Nhưng người Pháp thấy vũng lớn thì ghi là Baie Gros rồi bây giờ nó thành vũng Rô của người Việt chứ chẳng có con cá rô nào cả.
Phú Yên xưa, họ Nguyễn đặt một chức quan võ, sau này chia tỉnh rồi thì Phú Yên vẫn cứ là Phú Yên Đạo hoài. Cái Đạo này quản rất nhiều huyện và thuộc của miền núi, trong đó có cái Bun Ma rất lừng lẫy nhưng chịu lệ thuộc. Nhà Nguyễn rất khoái cái Bun Ma Thuộc này vì cống phẩm quá sung !

Ở Phú Yên và Phan Thiết có mũi kê gà! Người ta giải thích là khe gà hoặc khu rừng bên trong có nhiều gà rừng. Đâu có ai biết là Đô Đốc hải quân Kergaradec đã cho lập ở đó những cái đèn hải đăng. Rồi Kerga... hóa thành Kê Gà (Hai cái mũi này đều có tên là mũi điện)

Ông Thiên Hộ Dương (quê ở Bình Định, xứ thập tháp) đánh Pháp ở phía nam Sài gòn, thua chạy xuống Gò Công (Nơi đây có một cái tháp trắng = Bạch Tháp). Thấy không thể tiếp tục đánh Pháp được, ông lên thuyền vượt biển chạy về Thập Tháp (Bình Định có nhiều tháp nên gọi là xứ Thập Tháp), nhưng ông bị chết đuối ở vùng biển Thần Mẫu (Phan Thiết). Còn cái tháp ở Đồng Tháp Mười (tên sau này, đặt một cách ngớ ngẩn) là người ta mới phát hiện gần 80 năm sau!

Núi Bà Đinh ở Tây Ninh, tên xưa của nó là Chưng bà Đênh là vua bà Đênh chứ không có bà Đinh bà Đen nào tên là Lí‎ thị Thiên Hương.
Một phụ lưu của sông Sàigòn, sách ghi là rạch Thị Tính. Nhưng dân gian gọi là rạch bà Toán, bà Táng (mãi tới 1960 mà học sinh của tôi còn nói: Hôm nay có giờ táng). Cũng có người (theo sách Pháp chăng) gọi là rạch bà Tang!

Ở Tân An có rạch Châu Phê. Người ta giải thích rằng chúa Nguyễn châu phê cho Nguyễn cửu Vân nguyên con rạch và ruộng hai bên rạch (nhưng đời Nguyễn mới có châu phê bằng son đỏ, chứ Chúa Nguyễn chưa có). Thực ra thì đó là đất của một ông Châu Phê (Chaufée) người Miên. Người Pháp nói rằng Chaufée là một chức quan lớn hơn trưởng Phum, trưởng Sóc, gần bằng chức Ốc Nha.

Sông Cổ Chiên: Chẳng biết người ta ghi theo Pháp hay Việt không bỏ dấu nên nhiều người giải thích là có cái chiêng đồng rất lớn chìm ở đó mà không chịu đọc sử ghi rành rành là sông Cổ Chiến! Nơi đây người Việt và người Miên đánh nhau nhiều trận khá lớn. Nhất là cái đồn Thiết Thằng. Đồn Thiết Thằng lập ở một sóc Miên khá mạnh. Nhưng người ta cứ ngây thơ rằng người Miên giăng xích sắt ngang sông Tiền (?) để ngăn người Việt. Trong Đại Nam Nhất Thống Chí ghi nơi đó là Thiết Ấp.

Nhà lồng, chợ nhà lồng... có lẽ chữ lồng này có từ thời ta ở Tây Nguyên, rồi mang theo vào Nam. Nhà Lồng đây là nhà Rông, nhà Trung Tâm. Nhiều tỉnh và huyện ở Nam Bộ có chợ Nhà Lồng, không phải chợ nào cũng có cái chóp như lồng chim đâu!
Rạch Bà Đồ là nơi nhóm của ông Thibado, nhóm bạn chiến đấu của Quản Lịch sinh tụ không phải bà đồ nho nào đâu! Mà sau này người ta còn vẽ vời Bà Đỏ, Bà Điều là người yêu của Quản Lịch! Vẽ vời kiểu đó thì thực là quá bôi bác!

Không có chùa Cây Mai trên đời này! Cái chùa bây giờ người ta chỉ bảo là chùa Cây Mai thì tên cúng Mụ của nó là chùa Gò! Chùa Phụng Sơn thì ở tuốt trên 338 Nguyễn công Trứ quận I. Người ta ra Huế nhớ về Mai lĩnh tức là nhớ về núi nhiều cây Mai ở Đại Lãnh, Nha Trang. Lãnh làm sao là Gò được hở trời!!! Người ta vời trông qua Mai Lãnh nhớ về đất Nam Trung, là nhớ về các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ! Nhớ Mai Đình là nhớ về Sân Mai, nhớ nhà! Có học giả giải thích nhớ Mai Đình là nhớ Đình Cây Mai... tức (!) chùa Cây Mai... nhớ Miền Nam (!)... nhớ Quê hương... yêu nước... vì đã bị Pháp chiếm! Ôi, sao có thể giải nghĩa Mai Lĩnh, Mai Đình, chùa Cây Mai ở chỗ chùa Gò được hở trời!!! Mấy ông cai tổng ít học mượn danh Tôn thọ Tường rồi làm thơ bằng cách... cầu cơ! Nói Tôn thọ Tường vịnh cây mai ở chùa cây Mai như sau:
Đau đớn cho mai cách dưới đèo
Ôi! Lạy Chúa Ở Chợ Lớn có cái đèo nào đâu! Ẹ quá! Sách chữ nho ghi CÂY MAI TỰ phải chăng là ghi cái chùa ở Chợ Lớn! Nếu chùa cây mai thì chỉ có thể ghi là Mai Hoa Tự hoặc Mai Thụ Tự. Ghi Cây Mai Tự thì chỉ có thể là Khơ Me Tự. Tóm lại là chẳng có mai mù u, Thuỷ mai, Bạch mai... nào cả. Một số học giả trước đây đã xác định cây Bạch Mai ở chùa gò là đem từ Cam puchia về... khoảng năm 1945. (Xin lỗi quí vị, tôi tếu một chút cho đỡ buồn. Người Pháp tới vùng có gò ở Chợ Lớn. Hỏi: Đây là đâu? người Miên nói: Chey Me. Người Pháp ghi: Cây Mai)

Cồn Ngao người ta phiên âm Hán tự là Cung Hầu thì dễ hiểu rồi. Nhưng cái ông cửa Ban Cung, Băng Cung, Băng Côn thì làm phiền ta quá! May thay, chính ông Trương Vĩnh Kí cho ta hai chữ Thuỷ Cồn. Mặc dù trong Tiếu Giáo Trình Địa Lí Nam Kỳ ông viết lung tung... chỗ tên này, chỗ tên kia. Nhưng ta hiểu ra rằng chữ Thuỷ và chữ Băng giống nhau. còn Cồn biến ra Côn, Công, Cung thì cũng chẳng có chi là lạ. Cái cồn ở cửa sông lập lờ trên mặt nước, nhưng nơi này bồi lấp quá nhanh, cái cồn đó trở thành một xã trên đất liền, hai cửa sông hai bên cồn chỉ còn một, và cái tên Ban Cung biến mất trên thế gian này (xem thêm Địa Chí Bến Tre )

Chiêm Khê. Nguyễn Hiền Điều tử trận ở Chiêm Khê. Các vị chỉ đại giếng cây trâm ở Rạch Sỏi, Rạch Giá thì sai quá rồi! Khê không thể là giếng được, ông trời ạ! Chiêm Khê chỉ có nghĩa là Khe Chàm, Rạch Chàm (của người Chàm) mà thôi!

Con sông Trẹm hay chèm chẹm chỉ có nghĩa là sông Chàm, sông Chăm. Ông Tầu lai oái oăm gọi là Chăm Phố! Chăm phố là sông của người Chăm thì chỉ nhà nho và ông tầu lai hiểu được thôi:
Gác mái ngư ông về viễn phố
Nhưng một ông trí thức Tây (Tây Gô Loa thứ thiệt chứ không phải Tây lai, Tây ba rọi đâu) bỏ một thời gian dài tới đó nghiên cứu (có lẽ ông ta còn bị kích thích bởi cái Nền Công Chúa gần đó). Ông này bèn kết luận đó là một “Thị Trấn Trăm Đường“. Ông Tây này đúng là đem chuông rè đi đánh xứ người!

Cũng gần sông Trẹm này có con kinh Cán Gáo. Tôi chẳng thấy có nhiều cây gáo mà cũng chẳng giống cái cán gáo múc nước! Ngẫm nghĩ ra thì đúng là mấy ông Tầu vào cửa này để ăn sáp ong và lông chim. Cảng Khẩu: mấy ông Tiều và Minh Hương phát âm là Cán Gáo!!!

Ở gần núi Ba Thê có cái xã Vọng Thê. Người ta giải thích rằng đi xa mong ngóng về vợ. Thực ra thì người Pháp đã đóng cái thang bốn chân, chắc, khỏe. Người ta leo lên cầm cờ phất qua phải qua trái để điều khiển đào kinh cho thẳng, chứ các cụ không biết đào kinh cho thẳng đâu! Cái thang đó gọi là Thang Trông, chữ nho là Vọng Thê. Cụ đồ nho nào đó đã lấy tên này làm tên xã. Ở tân An cũng có Thang Trông (hình như bên kinh Bảo Định) và người ta vẫn dùng chữ đó làm tên, chứ không đặt lại cho văn hoa!

Hòn Chông ở Hà Tiên cũng tốn khá nhiều giấy mưc tranh luận. Người nói hòn chông, người nói hòn chồng. Tôi có chút chữ nho trong bụng nên xác định với quí vị rằng: Ở Hà Tiên là hòn Chông bởi các cụ viết chữ nho là Kích Sơn, còn ở Nha Trang là hòn Chồng các cụ viết là Điệp Thạch!

Tôi xin cùng quí vị xuống cuối Cà Mau, phía vịnh Thái Lan. Nơi có cái địa danh Bay Hap. Người ta giải thích là trúng mùa thì đựng đầy bảy cái hạp. Nhưng tôi thấy vịnh Thái Lan cũng nhiều Nghêu không thua gì biển phía Đông, nên nghĩ Bay là Bãi. Còn con Nghêu thì các nhà nho Bắc Việt đọc là Cáp, nhưng chữ thì viết một bên trùng, một bên hợp (hạp). Vậy người Tiều hay người Minh Hươntg gọi con nghêu là con háp hay hạp. Bay Hap đích thị là Bãi Nghêu rồi!
Tự điển dân gian thì còn nhiều lắm! Nhưng chữ nghĩa lem nhem của tôi có bấy nhiêu. Chỉ xin quí vị đừng cười!

21-11-2015
Chân Diện Mục

 

Đăng ngày 08 tháng 01.2016