Đọc Trần Doãn Nho
Trần Thúy Phương
Khi mà người người – già trẻ lớn bé — ngày càng xa dần những tờ giấy, những màu mực, những cây viết… thì chị vẫn không hề thay đổi thói quen của mình.
Mỗi sáng, chồng chị bỏ mấy đồng xu vào thùng báo đặt dọc theo lối đi trong dãy phố, lấy một tờ NV, trước khi vào office làm việc. Ông liếc qua sơ sài, xong đặt trên bàn giấy của chị. Không phải ông thích đọc những giòng chữ hay những hình ảnh in trên giấy như vợ - ông nằm trong cái thế giới “người người” kia: computer, cell phone… với đủ loại thông tin mới nhất, là những gắn bó không thể thiếu trong sinh hoạt hằng ngày. Ông mua báo chỉ vì muốn “ủng hộ tờ báo của Việt Nam mình”!
Luôn nói với người quen rằng cuối ngày, sau khi xong hết mọi việc trong nhà, thay bộ pyjama sạch sẽ thơm tho, cầm cuốn sách lên tay là thời gian hạnh phúc của mình… Vài năm gần đây, chị thường nói thêm “Cầm được cuốn sách lên thì cũng vừa buồn ngủ…” Mặc dù ưu tiên cho sách báo, chị không thích đọc các tờ nhật báo Việt ngữ. Có nhiều lý do khác nhau, thí dụ tin trong nước Mỹ hay tin thế giới thì chậm hẳn so với TV hoặc với tờ The OC Register mỗi sáng tinh mơ đã được ném vào cổng nhà; hoặc các quảng cáo thương mãi ngây ngô như trêu tức, thách thức người đọc… Dầu sao, tờ báo Việt ngữ mỗi ngày nằm trên bàn giấy, chị vẫn luôn lướt qua đủ mọi bài viết. Có khi cắt giữ một bài thơ cũ, có khi bần thần nhìn tấm ảnh của một kiếp người gian nan đang la lết trên đất mẹ mà ruột thắt lại…
Cách đây độ một-hai năm, hay lâu hơn không chừng, khi lướt qua một trang báo của tờ NV, chị ngừng lại ở cái góc có bài viết về cuốn Nineteen Eighty-Four (1984) của George Orwell. Vui như gặp cố tri, chị đọc vội vã. George Orwell của Animal Farm. Đọc Animal Farm dễ dàng chừng nào thì đọc Nineteen Eighty-Four khó khăn hơn chừng ấy… theo ý của riêng chị. Chị nhớ đã bỏ lững cuốn sách ấy một thời gian trước khi tự nhủ “Cũng như mọi việc khác, mình không thể không hoàn tất”. Chị nhớ mình nói với con gái, “Đọc cuốn này khá chán, dù những điều George Orwell viết rất thấm thía…” Vậy mà cái người viết về cuốn “1984” này, với tư cách là một độc giả, đã làm tròn trịa những góc cạnh sần sùi còn vương trong ký ức, đã làm cho trí nhớ và cảm nhận của chị về “1984” bỗng trơn tru, nhẹ hẫng. Chị nhìn lên chính giữa bài, đọc tên người viết: Trần Doãn Nho. Cái tên khá quen thuộc với chị, nhưng đồng thời không để lại dấu ấn sâu đậm nào cho đến hôm ấy…
Từ ngày ấy, mỗi khi gặp một bài có tính cách “điểm sách” hay “phê bình” của ông ta, chị đều đọc cẩn thận, để xem mình có sai lầm không khi có cái ấn tượng rằng đó là một người đọc nghiêm trang và biết cảm nhận sâu sắc… Hầu như chị chưa hề thất vọng, từ đó đến nay.
Tháng trước anh THT gởi qua email một tác phẩm của Trần Doãn Nho, “Em đọc và cho ý kiến với tư cách là nữ độc giả nghe! Lâu nay toàn mấy ông viết cảm tưởng thôi hà”. Trời, cuốn sách dày trên 400 trang, dạng ebook. Anh THT không biết chị là “hai lúa”. Chị dùng computer thành thạo chỉ trong bàn giấy của chị. Ra khỏi việc làm “kiếm sống hàng ngày”, cầm đến cell phone hay rờ vào computer là “đụng đâu hư đó”. Chưa kể chị không thích, không có thói quen đọc sách trên computer. Con gái hỏi, “Mẹ muốn con bỏ vào kindle để đọc cho tiện không?” Chị ngần ngừ, “Thôi, để mẹ đọc lẹ lẹ xem có viết được gì không…”
Đọc lẹ lẹ, quả thế thật. Thoạt đầu chị kéo “con chuột” rẹt rẹt, những trang giấy nhảy tới nhảy lui, có khi biến mất khỏi màn hình… Chị khổ sở bực dọc tìm kiếm, lôi cuốn sách trở lại… “Dặm Trường”, à, nghe hai chữ đó thôi là liên tưởng ngay tới “thân gái dặm trường”. Chị lướt qua vài trang đầu, biết tên nhân vật chính, nhân vật phụ, bối cảnh xã hội… Rồi ngưng, trở về với bao thứ phải chu toàn, ở office, ở nhà… Rồi cũng đến lúc cầm được cuốn Thư Quán Bản Thảo số mới nhất, chị thấy một đoạn truyện đăng trong đó, trích từ Dặm Trường. Đọc, và chợt thấy một cảm giác gần gũi, thông hiểu, như gặp lại các người quen đã cùng lớn lên với nhau, đã sống qua với nhau những cảnh ngộ rất đặc biệt… Đã quyết định, chị loay hoay tìm cuốn Dặm Trường trong computer…
Bắt đầu đọc cuốn sách từ mấy trang cuối, chị hoang mang theo nỗi bấn loạn của người tù tên Lục. Tại sao lại như thế? Chị kiên nhẫn trở lại những trang đầu, và chỉ cần hai ngày để xong hết cuốn sách dày gần 500 trang.
Dặm trường của Trần Doãn Nho không phải là những “dặm trường” cá biệt trong quá khứ xa xưa, khi mà xã hội còn được luật pháp bảo vệ và đạo đức hướng dẫn trong chừng mực nào đó; cũng không phải là những “dặm trường” cá biệt chỉ đủ để làm nên một thiên tiểu thuyết mà khi buông quyển sách xuống, người ta có thể buồn-vui-thương-giận theo nỗi truân chuyên của một phận đàn bà, nhưng khó lòng tìm thấy một cái gì chung trong bối cảnh của câu chuyện kia. Thân gái dặm trường. Phận đàn bà của Trần Doãn Nho trong Dặm Trường là những mảnh đời thực mà chị từng nghe, từng thấy trong hơn mười năm sống dưới sự cai trị của Cọng Sản Bắc Việt sau khi miền Nam sụp đổ. Đó cũng là mười năm cam go nhất của miền Nam—để người đã từng biết cọng sản càng thêm cay đắng và người ngây thơ chưa biết cọng sản là gì thì lại đắng cay hơn.
Các nhân vật trong Dặm Trường lớn hơn chị nhiều ở cùng những ngày tháng đó, nhưng kỷ niệm của họ cũng là kỷ niệm của các ông anh bà chị trong gia đình, của những người bạn lớn thường xuyên lui tới căn nhà có cánh cổng xám của thời thiếu nữ an nhàn mơ mộng. Những cuốn sách mà Hồng, Lục… nhắc tới là những tác phẩm chị ưa thích. Tên một quyển truyện vừa nhác thấy trên trang giấy của Dặm Trường thì đầu chị đã bật ra tên tác giả. Một câu thơ vừa thốt ra bởi một nhân vật của Dặm Trường thì chị đã nói thầm tên thi sĩ. Có phải các thứ nhỏ nhặt đó đã làm nên mối tương quan lớn giữa người viết và người đọc?
Đọc lẹ lẹ thật, nhưng chắc không mấy chi tiết trợt qua khỏi mắt chị. “Chìa tàu” hay “chè tàu”? Chín năm đầu đời như chồi non nẩy mầm và được vun xới bởi mưa, bởi nắng, bởi sương mù xứ Huế, chị làm sao quên được những hàng rào được cắt xén để che chắn cái thế giới đàng sau nó? Những hàng “chè tàu”… Nhưng trong Dặm Trường “chìa tàu” được nhắc lại nhiều lần. Người sai chắc là chị… Nếu có dịp, sẽ hỏi.
Đọc lẹ lẹ thật, bởi các câu đối thoại quá thực; các địa danh quá gần gũi, các miêu tả từng nhân dáng-tính tình vẽ rõ từng đường nét trong trí chị, và trang nọ tiếp trang kia, giữa đống giấy tờ công việc ngổn ngang, chị không muốn ngừng lại bàn tay rà rà “con chuột”… Thỉnh thoảng nói chuyện với những người đã ra đi trước khi miền Nam sụp đổ, hoặc với những người không phải lênh đênh trên biển để đến “bến bờ tự do”, chị thường chun mũi cười, “À, quí vị may mắn thật đấy, nhưng cuộc đời quí vị thiếu sót nhiều lắm… Bao nhiêu kinh nghiệm chúng tôi có đã làm phong phú thêm đời sống của mình!!!” Nói, để mà nói thế thôi. Nói mạnh miệng bởi vì trong vô số sự tàn mạt của đời sống bị đổi thay, chị vẫn luôn được hưởng các ưu đãi của định mệnh--những thử thách của cuộc đời đã ngừng lại ở các giới hạn mà Thượng Đế đã nhân từ vạch ra trên trán chị. Ung dung, tự tin và kiêu hãnh ngồi giữa những chữ “nhân phẩm và đạo đức”, mỗi khi bắt gặp sự yếu đuối hay sai lầm của người khác, chị vẫn thường tự hỏi , nếu định mệnh không khoan dung, nếu Thượng Đế không rộng lượng với mình, liệu mình có sống khác kẻ kia chăng? Khi đọc Dặm Trường, chị hốt hoảng theo bao lần xuôi tay giữa hoàn cảnh nghiệt ngã của người phụ nữ trong truyện. Và một lần nữa, chị ý thức được rằng, những đau đớn khốn khổ kia chẳng bao giờ là phân bón làm cho cây trái xanh tươi, chẳng bao giờ là hoa lá cho kiếp người thêm phong phú như mình từng lớn lối. Nạn nhân của chế độ và của lớp người dã man cuồng bạo, cuối cùng chỉ là thân cây bị đốn gục, chồi non bị chà đạp, lót đường cho một thứ chủ nghĩa hoang tưởng, nhảm nhí, và cuối cùng tan nát trong bùn lầy. Những trang cuối của Dặm Trường không hề có một chút hơi hướm nào của “happy ending”. Người đàn ông hiền lành thật thà bước vào nhà tù lần nữa cũng chỉ vì sự thật thà vẫn còn tồn tại trong cuộc đời thảm hại của anh. Ba đứa nhỏ con anh lưu lạc phương nào? Làm sao để chúng sống còn giữa cảnh nhiễu nhương? Nhân vật chính, thân gái dặm trường, gặp lại chồng trong tù giữa hoàn cảnh vô cùng lạ lùng, trớ trêu, nhuốm sự tàn khốc của chính bản năng mình. Chị mơ hồ nghĩ đó là giấc mơ của Lục, nhưng đồng thời nhận ra đấy thật là cảnh thực… Một sự thực “bàng hoàng, bất chợt và đau đớn…”
Nhân loại đã có bao nhiêu nghệ sĩ đã để lại các tác phẩm của họ như là “nhân chứng của thời đại”. Ngày nào đó, khi mà thế hệ của tác giả, của lớp người trẻ hơn, trẻ hơn nữa, lần lượt ra đi, thì Dặm Trường sẽ là “nhân chứng của thời đại”-- thời sau biến cố 30 tháng tư 1975. Từ kiểu nói, ngôn ngữ, cách ứng xử của dân chúng hai miền Nam-Bắc, từ vấn đề tù cải tạo đến đổi tiền, buôn lậu, đánh tư sản, vượt biên… (rất nhiều thứ nữa mà chị không thể nhớ hết) sẽ là những trang sử quí giá cho bất cứ ai muốn tìm thấy những thước phim tài liệu trung thực.
Dặm Trường--có người đàn bà nào chọn lựa bước đường xa xăm mù mịt đầy bóng tối kinh hoàng? Chỉ định mệnh oan nghiệt núp sau lưng mới có thể xô đẩy người ta té nhào vào con đường đó. Và núp sau lưng cái định mệnh ấy chính là bàn tay dơ bẩn, dối trá, tàn bạo của những kẻ tự nhận mình là anh em, là người “đồng chí hướng”. Có hy vọng nào cho dân tộc chị vẫn còn phải đi trên con đường mù mịt đó không? Con đường nào rồi cũng phải chấm dứt, liệu chúng ta có thể thấy một chỗ quẹo sáng sủa hơn ở cuối con đường?
Trần Thúy Phương
(Trích "Thư Quán Bản Thảo" số 82, tháng 11.2018)
Trần Doãn Nho
Tên thật Trần Hữu Thục.
Sinh năm 1945 ở Huế.
Bút hiệu Trần Doãn Nho và Thế Quân.
Học ở Huế và Sài Gòn. Tốt nghiệp đại học, ngành Triết.
Trước 1975, viết văn viết báo, đi lính, dạy học. Cộng tác với các tạp chí văn học Văn, Vấn Đề, Khởi Hành, Bách Khoa, Tân Văn, Đối Diện.
Sau tháng 4/1975, ở tù cho đến năm 1981.
Năm 1993: định cư tại Hoa Kỳ.
Hiện cùng gia đình sinh sống tại Worcester, bang Massachusetts, làm việc cho Sở Giáo Dục Thành Phố.
Cộng tác với các tạp chí văn học và website hải ngoại: Văn Học, Văn, Hợp Lưu, Việt, Thế Kỷ 21, Phố Văn, Gió Văn, Talawas, Gió O.
(Nguồn: vanngheboston.wordpress.com)
http://www.hocxa.com/TieuSu/TranDoanNho_TieuSu.php
Đăng ngày 27 tháng 9.2020