banner

Sau 15 năm hoạt động (2008-2023), website Ái hữu Đại học Sư Phạm Sài gòn ngưng việc đăng thêm bài vở và tin tức.

Độc giả muốn lưu giữ bài viết và hình ảnh để làm tư liệu, xin vui lòng truy cập vào các tiết mục đã đăng trên trang web để download.

Xin chân thành cảm tạ sự hợp tác của tất cả các tác giả và độc giả đã dành cho trang web.

20.07.2023
Admin Website Ái hữu Đại học Sư phạm Sàigòn

Cái căm thù của người cộng sản

Nguyễn thị Cỏ May

Căm thù là "đức tánh cách mạng" mà người cộng sản phải có, phải thắm nhuần như xương thịt của mình được kinh điển "Giáo lý của người cách mạng" dạy để làm cách mạng cộng sản cướp chánh quyền (Le catéchisme du révolutionnaire, Serge Netchïaev).
Người cộng sản căm thù giai cấp, căm thù xã hội chưa được cộng sản "giải phóng" chưa đủ, mà còn phải biết căm thù cả người chết. Căm thù nấm mồ.
Ở Viêt nam, sau 30/04/1975, chiếm xong Miền Nam, sau khi bỏ tù tập trung tất cả nhơn viên các nghành nghề của chánh phủ Sài gòn, cộng sản hà nội bắt đầu xử lý nghĩa địa. Họ cho đập phá ngay bức tượng Thương Tiếc trước cổng Nghĩa trang Quân đội Bìên Hòa, phong tỏa nghĩa trang không cho mọi người lui tới cúng lễ, tu bổ mộ phần thân nhơn.
Tới thập niên 90, cộng sản Hà nội vẫn còn tiếp tục thể hiện tánh căm thù nhằm vào hai ngôi mộ của nhà thơ lớn Bích Khê và nhà ái quốc Huỳnh Thúc Kháng với những lý do đã quá lỗi thời và vô cùng ngu ngơ, lố bịch một cách thật quá đáng thương!

Nhà thơ Bích Khê và ngôi mộ ở Thu Xà

Đầy cỏ xanh xao mây lớp phủ
Trên mồ con quạ đứng im hơi
(Nấm mộ, Bích Khê)
Phải chăng đây là lời tiên tri của nhà thơ về nấm mồ của chính mình ở Thu Xà, tỉnh Quảng Ngãi, nửa thế kỷ sau ?
Bích Khê sanh trưởng ở làng Phước Lộc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi năm 1916. Năm 15 tuổi, ông đã bắt đầu làm thơ Đường. Bích Khê được đề cao là nhà thơ có những vần thơ hay nhứt trong thi ca Việt nam. Phê bình Bích Khê :
"Nếu Nguyễn Bính là một miền đồng bằng thân thuộc thì Bích Khê là một đỉnh núi lạ. Có những nhà thơ làm thơ. Có những nhà thơ vừa làm thơ vừa đẩy lịch sử thơ ca duy tân thêm một bước. Có những nhà thơ đem đến một mùa lương thực... (Chế Lan Viên, Đỗ Ngọc Thạch trích dẫn).
Khi giới thiệu Bích Khê trên cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã viết:
Bích Khê cónhững câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam”, như:
Ô! hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông...
Hay:
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm ?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương... »
Nhưng liền sau đó Hoài Thanh thú nhận: “Tôi chưa thể nói nhiều về Bích Khê. Tôi đã đọc không biết mấy chục lần bài Duy Tân. Tôi thấy trong đó những câu thơ thật đẹp. Nhưng tôi không dám chắc bài thơ đã nói hết cùng tôi những nỗi niềm riêng của nó. Hình như vẫn còn gì nữa... Còn các bài khác hoặc chưa xem hoặc mới đọc có đôi ba lần. Mà thơ Bích Khê, đọc đôi ba lần thì cũng như chưa đọc...”.
Và đây hai câu thơ ẩn ý nhìn về tương lai của nhà thơ. Tuy đã hơn nửa thế kỷ qua nhưng khi đọc lên, người đọc vẫn còn thấy lời thơ như mới đây. Như hãy còn nóng bỏng mô tả tương lai của ông, nấm mồ của ông ở Thu Xà vào thập niên 90 :
"Sau nghìn thu nữa trên trần thế,
Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi "...
Báo Lao Động số ngày 20/01/1994 có đăng một bài phóng sự của nhà báo Trần Đăng về ngôi mộ của nhà thơ Bích Khê ở Thu Xà. Nhà báo đã vất vả lặn lội tới tận ngôi mộ Bích Khê để thăm viếng. Có lẽ một phần do lòng ngưỡng mộ nhà thơ tài hoa mà mệnh yểu. Động cơ chánh, có tính thời sự, là để quan sát tại chỗ ngôi mộ nhà thơ bị nhà cầm quyền địa phương đã phá bỏ chưa?. Với lý do hận thù theo nguyên lý " Ta/Địch".

Nhà báo Trần Đăng tới xã nơi có ngôi mộ Bích Khê, hỏi thăm Bí thư xã về ngôi mộ để đi thăm viếng, được Bí thư xã trả lời : "Quanh chuyện Bích Khê còn nhiều vấn đề lôi thôi lắm. Năm 1991, gia đình có làm đơn xin chánh quyền địa phương bốc mộ ông về xây trong vườn nhà, nhưng chúng tôi không đồng ý ". Lý do, viên Bí thư tiếp, với giọng của người cộng sản đạt lý : " Thứ nhứt, ông ấy bị bịnh lao phổi rồi chết, giờ đem về vườn nhà sẽ gây ô nhiễm môi trường khu dân cư. Thứ hai, ông ấy là trốt-kít".
Ông Trần Đăng giả vờ không hiểu, hỏi lại Bí thư xã " Kít, Kít...gì đó, sự thật là gì? ". Viên Bí thư xã, tuổi lối 30, thật thà trả lời hắn cũng không biết. Chỉ nghe các cụ cách mạng lão thành trên huyện, trên tỉnh nói "Trốt-kít là phản động lắm".
Thế là bản án tử hình về tội phản động, chống cách mạng đã ban cho nhà thơ qua nấm mồ một cách chắc nịch như đinh đóng cột.

Trong quyển "Tìm hiểu phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (1885-1645, trg 179, Ban Nghiên cứu lịch sử đảng và Sở Thông tin Văn hóa Nghĩa Bình xb, 1985), tác giả Bùi Định viết : "Từ năm 1935, ở Quảng Nghĩa có nhóm tờ-rốt-kít ở vùng Thu Xà, Tư Nghĩa, do Lê Quang Lương (Thi sĩ Bích Khê) cầm đầu. Nhưng theo gia đình thì năm 1935, Bích Khê ở Phan thiết dạy học.
Thế mà năm 1945, nằm trên giường bịnh, Bích Khê lại bảo gia đình khiêng ông ra ngỏ để nhìn thấy đoàn người bìểu tình ủng hộ cuộc Cách mạng mùa Thu !
Trotsky là kẻ thù không đội chung Trời của Staline, bị Staline cho mật vụ theo dõi ám sát năm 1940 ở Mễ- tây-cơ (Mexique). Ở Việt nam, hơn hai mươi năm sau, Hồ Chí Minh, học trò ngoan của Staline, ra tay sát hại những người trốt-kít nhưng là những người yêu nước tài hoa : Tạ Thu Thâu, Trần văn Thạch, Nguyễn văn Sâm, Hồ văn Ngà,... và nguyền rủa hằn học "Đồ chó chết...".
Vì tính giai cấp, Hồ Chí Minh đã thù và giết đồng bào yêu nước giùm cho Staline !

Định phá mộ bia Chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng
Trong chuyến về Đà nẵng dự lễ kỷ niệm hai Cụ Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng, Giáo sư quốc văn Nguyễn Q. Thắng, người Quảng Nam, nghe chuyện chánh quyền địa phương dự định đập bỏ tấm bia trước mộ Cụ Huỳnh Thúc Kháng có khắc bài thơ chữ Hán mà theo đó, chánh quyền hiểu là Cụ Huỳnh có ý "thù Cụ Hồ".
Gs Nguyễn Q. Thắng xem lại bài thơ bằng chữ Hán do một người cháu họ của cụ Huỳnh Thúc Kháng đọc lại và diễn dịch cho chánh quyền địa phương nghe để can thiệp, bảo vệ ngôi mộ của cụ Huỳnh cho nguyên vẹn.
Bài thơ nguyên văn như sau :
"Ngũ hành linh địa phụng tề phi,
Thúc Kháng tiên sinh chiếm nhứt chi.
Quốc tỉnh thành chung văn tứ cảnh,
Dân Thanh báo quán đạt tam kỳ.
Cừu Tần tạm tá Hồ công thủ,
Phá Lỗ trường lưu Lộ Bố thi.
Vị toái hương hoài mai ánh lãnh
Thiên thu chánh khí nhật tinh huy".
Dịch nghĩa :
"Đất thiêng của Ngũ Hành Sơn là nơi sản xuất ra nhiều bậc văn nhân,
Tiên sinh Huỳnh Thúc Kháng riêng chiếm một cành.

Tiếng chuông hoán tỉnh nhân dân vang dội khắp bốn cõi,
Báo Tiếng Dân tiếng vang cả ba kỳ.
Tạm mượn tay ông Hồ để trả thù giặc Tần tàn ác.
Có thơ Lộ Bố phá Lỗ còn lưu lại lâu đời.
Hương mai còn tỏa nơi đỉnh núi lạnh.
Vầng chính khí ngàn năm vẫn còn rực rỡ như ánh trăng sao".
Chánh quyền địa phương nghe lời diễn dịch của Gs Q. Thắng, không còn thấy Cụ Huỳnh Thúc Kháng có ý thù cụ Hồ nữa nên hứa sẽ không đập phá mộ bia, trái lại, sẽ cho trùng tu lại mộ phần. Nhưng đó là lời nói của người cộng sản ở ngày hôm ấy.
Người đọc bài thơ trên mộ bia thắc mắc có phải câu thơ thứ 5 “Cừu Tần tạm tá Hồ công thủ” bị chánh quyền ở Quảng Ngãi hiểu là ngụ ý nói Cụ Huỳnh Thúc Kháng có lòng căm thù Hồ Chí Minh chăng?
Cụ Huỳnh Thúc Kháng là nhà nho uyên bác, đỗ Tiến sĩ năm 1904, cùng với các nhà ái quốc Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quí Cáp lãnh đạo Phong trào Duy Tân, tranh đấu cho Việt nam độc lập. Năm 1945, Hồ Chí Minh muốn có chánh nghĩa, mời cụ tham gia chánh phủ liên hiệp với chức Bộ trưởng Nội vụ. Năm 1946, cụ Huỳnh Thúc Kháng được Hồ Chí Minh mời thay thế ông làm Quyền Chủ tịch nước trong lúc ông qua Pháp tham dự hội nghị về Việt nam với Pháp. Thế mà Cụ chỉ muốn mượn tạm tay Hồ Chí Minh để chống kẻ thù, chớ không chọn theo Hồ Chí Minh vì sự lãnh đạo của Hồ sao ?

Mà cụ Huỳnh Thúc Kháng có thiệt tình không theo Hồ chí Minh, có chống chủ thuyết Mác-Lê hay không?
Trong tập Kỷ yếu Hội thảo Khoa học do Nhà xuất bản Đà Nẳng xuất bản năm 1993, có bài viết về cụ Huỳnh Thúc Kháng:
Chúng tôi cố gắng tìm kiếm thêm tài liệu để minh chứng rằng Huỳnh Thúc Kháng không phải là “người chống cộng” , thậm chí sau Cách mạng tháng tám (1945) vẫn “chưa từ bỏ hẳn lập trường chống cộng”, như một số người viết về cụ Huỳnh mà tiêu biểu là Lâm Quang Thự, Quảng Nam (địa lý, lịch sử, nhân vật) và nhất là một số tác giả ở vùng tạm chiếm miền Nam muốn mô tả Huỳnh Thúc Kháng như một người chống cộng triệt để (Anh Minh Ngô Thành Nhân (*), Nhà cách mạng công khai không đảng phái nào hết, Anh Minh xuất bản, Huế).
Riêng trên báo Tiếng Dân (1929,1930), cụ Huỳnh Thúc Kháng phê phán truyền đơn Cộng sản và chủ nghĩa Nga đỏ và ngỡ ngàng với Cách mạng tháng tám 1945 (Trần Viết Ngạc, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng nghĩ và viết về chủ nghĩa Mác, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng , NXB Đà Nẵng 1993 , trang 311-313).
Và trong một loạt bài “Cứu thời chi luận” cũng trên báo Tiếng Dân, cụ trách than “truyền đơn Cộng sản chỉ mang họa đến cho nhân dân vô tội“  (Tiếng Dân , ngày 16-11-1929) , và “chủ nghĩa Nga đỏ truyền sang nước ta trở thành nguy hiểm vì tiếng bom, tiếng súng xen lẫn tiếng than khóc. Càng kể bao nhiêu, càng đau lòng bấy nhiêu“ (Tiếng Dân , ngày 9-8-1930).

Cộng sản thành hình, lớn mạnh, cướp được chánh quyền, cai trị dân, nhờ biết căm thù. Và đối tượng cộng sản căm thù khi nắm trọn quyền lực không ai khác hơn là nhơn dân. Vì họ bìết chỉ có nhơn dân mới có đủ sức mạnh thanh toán họ. Họ nổ lực đàn áp nhơn dân, làm cho nhơn dân hoại liệt sức đề kháng. Nhưng có ai biết đâu một lúc nào đó, vì sức chịu đựng có hạn, nhơn dân sẽ nổi lên tiêu diệt cộng sản, giành lại cho mình quyền sống trọn vẹn.

Lịch sử thường có những cái bất ngờ. Trước đây, có ai ngờ cả khối cộng sản Liên-xô và Đông Âu đã sụp đổ như chưa bao giờ có cộng sản !

Nguyễn thị Cỏ May

Ghi chú :
(*) Anh Minh, theo lời kể của Lê văn Hảo ở Parìs, Giáo sư ở Đại học Huế, chạy theo VC năm 68, thì Anh Minh Ngô Thành Nhân bị VC bắt cầm tù trên vùng núi Huế, sau Tết Mậu Thân 1968, và bị bắn chết trên đường vượt ngục!


Bích Khê (1916-1946)

Thụy Khê

bich khêBích Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24/3/1916 tại quê ngoại, xã Phước Lộc, quận Sơn Tịnh, nhưng lớn lên tại quê nội thị xã Thu Xà, xã Nghiã Hoà. Hai nơi đều thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Mất ngày 17/1/ 1946, tại Thu Xà.
Là con út trong gia đình tám anh chị em (4 chị, 3 anh), cha là Lê Mai Khê một nhà nho mất sớm và mẹ là bà Phạm Thị Đoan. Thủa nhỏ Bích Khê học ở Thu Xà, rồi Đồng Hới và lên trung học vào trường dòng Pellerin Huế. Sau ra Hà Nội học tú tài, ban Triết. Năm 1934, Bích Khê bỏ học, cùng người bạn vào Phan Thiết mở trường tư, vừa dạy vừa sáng tác trong 2 năm (1934-1936). Mắc bệnh phổi từ 1935 (19 tuổi). Phải điều trị ở bệnh viện lao Pasquier, Huế, trong hơn một năm (1936-1937). 1938 trở lại Phan Thiết mở trường dạy học lần thứ nhì (1938-1939) và xuất bản tập thơ đầu tiên : Tinh huyết (1939) do Hàn Mặc Tử viết tựa.
Năm 1941 về Huế dạy học, được ít lâu, bệnh phổi tái phát, lại phải trở vào bệnh viện Pasquier điều trị lần thứ nhì, năm 1942. Mất năm 1946, ở tuổi ba mươi, đúng lúc cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
Làm thơ từ 15 tuổi (1931), theo các thể cổ điển như: Đường luật, từ khúc, hát nói, đăng trên các báo Tiếng dân (Huế), Phụ nữ tân văn (Sàigòn), và Đông Tây (Hà nội). Khoảng 1936, Bích Khê chuyển sang Thơ mới.
Tập Tinh huyết (1939), là tác phẩm duy nhất được in khi Bích Khê còn sống.
Thơ ông không được nhắc đến trong một thời gian dài ở miền Bắc, phần vì người ta không hiểu thơ Bích Khê, nhưng lý do chính là chính trị: Bích Khê dịch cuốn Retour de L’U.R.S.S (Ở Nga về) của André Gide, viết năm 1936, kể lại nỗi thất vọng sau khi đi thăm "thiên đường cộng sản". Mặc dù chưa in, nhưng việc dịch này, kèm thêm sự kiện Bích Khê tỏ ý bất bình khi nghe tin Tạ Thu Thâu bị ám sát, đã khiến người ta liệt Bích Khê vào hàng ngũ phản động Trotskite, và tên tuổi ông bị chính thức loại ra khỏi danh sách những nhà thơ tiền chiến.
Năm 1966, tại Sàigòn, báo Văn (do Trần Phong Giao quản nhiệm) làm số tưởng niệm Bích Khê (số 64, ra ngày 15/ 8/ 1966), với những tư liệu do gia đình cung cấp và bạn thân viết. Nhờ những bài của bà Lê Ngọc Sương (chị ruột nhà thơ), của Tam Ích, của Quách Tấn... mà chúng ta biết rõ thêm những chi tiết về cuộc đời Bích Khê, và một số thơ của ông cũng đến được với độc giả.
Tập Tinh hoa xuất bản sau này, gồm hai phần: Một số làm sau Tinh huyết và một số đã có trong Tinh huyết, được sửa lại, hoặc cắt ngắn đi.
So sánh hai cuốn thì Tinh huyết vẫn là tác phẩm chính. Những sáng tạo mới đều nằm trong Tinh huyết. Tinh hoa trở lại gần với thơ truyền thống. Tinh huyết là thời kỳ sáng tạo sung mãn, có Hàn Mặc Tử khuyến khích. Bích Khê xuất hiện sau Hàn Mặc Tử vài năm, chịu ảnh hưởng thơ Hàn Mặc Tử. Tác phẩm của Bích Khê cũng chịu những chìm nổi, đau thương, như tác phẩm của Hà Mặc Tử.
Tuy nhiên, trong Tinh huyết, Bích Khê đã hình thành cấu trúc thi ca của riêng mình, một cấu trúc hiện đại, khác hẳn các nhà thơ mới, mà cũng không giống thi pháp của Hàn Mặc Tử.

Thi pháp Bích Khê
Thơ Bích Khê là sự giao lưu giữa thơ cổ và thơ hiện đại, trong một kiến trúc âm nhạchội họa. Đặc biệt trong lối tạo hình, ông đã sử dụng một phương pháp mới, lúc ấy chưa thịnh hành ở Việt Nam: phương pháp cắt dán (collage).
Bài Tỳ bà của Bích Khê là một khúc ngâm mới, dựa trên tinh thần Tỳ bà hành.
Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị, bản dịch của Phan Huy Thực (nhiều nơi vẫn còn ghi là của Phan Huy Vịnh, con trai Phan Huy Thực) có những lời tuyệt bút:
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt,
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng ngắt, bấy giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông.
(Tỳ bà hành diễn nôm)

Tỳ bà hành là sự giao hoà âm nhạc và cảnh sắc trong một bút pháp thần diệu. Bích Khê mượn tinh thần Tỳ bà hành, tức là tinh thần giao hoà âm nhạc và cảnh sắc, nhưng thay đổi toàn diện bối cảnh, kiến trúc âm nhạc và kiến trúc hình ảnh, để tạo ra một tác phẩm hiện đại:
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi ! nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê

Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi

Buồn lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô ! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi ! Vàng rơi: Thu mênh mông
(Tỳ bà)
Phạm Duy - vẫn Phạm Duy - là người duy nhất nghe thấy tiếng nhạc lạ trong bài Tỳ bà và ông đã tạo ra một ca khúc réo rắt, âm hưởng giao thoa kim cổ. Phải nghe Thái thanh hát Tỳ bà mới thấm được cõi nghệ thuật linh diệu của ba thiên tài: Bích Khê, Phạm Duy, Thái Thanh.
Kiến trúc âm nhạc trong Tỳ bà Bích Khê dựa trên âm bằng (dấu huyền hoặc không có dấu). Toàn bài hầu như không có âm trắc (sắc, hỏi, ngã, nặng). Lối lập âm này, trong thơ mới, có một số người đã làm (đặc biệt Phạm Huy Thông), nhưng không mấy ai thành công như Bích Khê. Vì chỉ có âm bằng nên nhạc thơ đổi cung bậc, không còn điệu cổ điển và cũng khác hẳn thơ mới.
Về mặt tạo hình, lần đầu tiên, trong Tỳ bà, một nghệ sĩ Việt áp dụng thủ pháp cắt dán: các hình ảnh được "cắt dán" rồi ghép cạnh nhau, cho nên ảnh sau không "liên hệ" gì đến ảnh trước. Ví dụ, trong câu Vàng sao nằm im trên hoa gầy, hai hình ảnh vàng saohoa gầy, chẳng dínhdáng gì với nhau, nhưng được nhà thơ cho nằm im trên nhau. Sự kiện này hầu như không có trong thơ cổ điển và thơ mới. Vì trong cấu trúc cổ điển và lãng mạn, chữ đi đôi với nghĩa, cho nên các yếu tố chữ phải có liên hệ chặt chẽ, để tạo thành một câu "có nghiã". Trong khi "vàng sao nằm im trên hoa gầy" của Bích khê là một câu gần như "vô nghiã".
Lại cần phải phân biệt một điểm nữa: việc Bích Khê đem hình ảnh sao vàng ở trên trời xuống, cho nó nằm im trên hoa gầy (dưới đất) là một động tác cắt dán; không giống với động tác của Hàn Mặc Tử trong những câu " Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối" hay "Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ / Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu" là những động tác tưởng tượng. Và cũng không giống câu: "Bóng gương lồng bóng đồ mi chập chùng", Nguyễn Gia Thiều dùng biện pháp ẩn dụ: bóng gương để chỉ nhà vua, bóng đồ mi, người cung nữ.
Tóm lại, cùng mô tả một cảnh "mây mưa", mỗi nhà thơ có một thủ pháp khác nhau, để đi tới đích.
Những phương pháp khác nhau đó, phản ánh thời đại, lối viết, và cá tính của nhà thơ: Ôn Như Hầu dùng ẩn dụ, phong cách tạo hình trong thơ cổ điển. Hàn Mặc Tử dùng tưởng tượng, một phong cách sáng tạo hiện đại phát triển từ Thi sơn (Parnasse). Và Bích Khê dùng phương pháp cắt dán (collage) trong hội hoạ hiện đại (Matisse). Nhưng việc đặt những yếu tố hoàn toàn khác nhau cạnh nhau, còn là phương pháp của Siêu thực nữa.
Cho nên có thể nói rằng ngay từ năm 1936, Bích Khê đã áp dụng những phương pháp rất mới của Tây phương để làm thơ, trong một tinh thần hết sức Đông phương.

Cấu trúc gián đoạn
Hình ảnh trong thơ Bích Khê là do cát dán lắp ghép. Hình ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử là do tưởng tượng. Nhìn bề ngoài có vẻ giống nhau nhưng thật ra rất khác: Tuy Hàn Mặc Tử là "thày" của Bích Khê, nhưng thơ Bích Khê "hiện đại" hơn thơ Hàn, vì có thêm kỹ thuật cắt dán và siêu thực, mà Hàn chưa kịp tiếp thu, đã mất. Nhưng cùng trong hoàn cảnh bệnh hoạn, Bích Khê không cô đơn, tuyệt vọng như Hàn, nên thơ Bích Khê không đạt được mức đớn đau tuyệt đỉnh và tuyệt tác như thơ Hàn Mặc Tử.
Biện pháp siêu thực trong thơ Bích Khê hiện rõ ở cả chữ, lẫn câu: Ông không chỉ để hai hình ảnh khác nhau cạnh nhau, mà còn để cả hai câu thơ hoàn toàn khác nhau cạnh nhau, như:
Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây.
Câu trên mô tả sự khăng khít xác thịt: Vàng sao nằm im trên hoa gầy
Câu dưới: Tương tư người xưa thôi qua đây, mô tả sự tan vỡ.
Nói đúng hơn, vừa đang yêu: tương tư, vừa tan vỡ: người xưa thôi qua đây.
Bích Khê đã đảo lộn trật tự thời gian sống, để tạo một nghịch cảnh, nghịch lý mới: thường thì người ta tương tư, rồi khăng khít và sau cùng mới lìa nhau; đằng này, người ta khăng khít trước, rồi mới tương tư, rồi xa nhau.
Tóm lại câu thơ của Bích Khê không có logique, vì vậy mà Hoài Thanh và nhiều người khác đọc không hiểu. Hoài Thanh ca tụng câu:
Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông!
Vì đó là câu thơ hay, dễ hiểu. Sau này người ta cứ chép lại lời Hoài Thanh như cái máy, và không cần tìm hiểu gì thêm nữa về thơ Bích Khê.
Tỳ bà là một trong những bài thơ đầu tiên của Việt Nam có cấu trúc gián đoạn: Bích Khê dán những chữ không liên lạc gì với nhau cạnh nhau, dán những câu không liên lạc với nhau lại gần nhau, để tạo ra những hình ảnh tuyệt vời, hoàn toàn siêu thực: tay-đêm, giăng-mền, trăng- đan, mây-nhung, thuyền-hồn...
Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mền
Trăng đan qua cành muôn tay êm
Mây nhung phơi màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi
Cây đàn yêu đương làm bằng thơ
Dây đàn yêu đương run trong mơ
Hồn về trên môi kêu: em ơi
Thuyền hồn không đi lên chơi vơi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu.
(Tỳ bà)

Mỗi câu thơ của Bích Khê là một đứt đoạn: Bích Khê là nhà thơ tiên phong, đã đi trước thời đại, thể hiện sự đứt đoạn trong không gian và trong thâm hồn. Sự đứt đoạn của đời sống là một trong những khám phá của nghệ thuật hiện đại trong toàn bộ thơ, văn, nhạc, hoạ, từ đầu thế kỷ XX. Bởi mỗi ý nghĩ của chúng ta là một đứt đoạn, mỗi hình ảnh chúng ta nhìn thấy trong đời sống là một đứt đoạn.
Bích Khê đã nhìn thấy sự đứt đoạn đó từ những năm 1936-39. Và bẵng đi một thời gian dài, mãi sau này, ở miền Nam mbich khêới thấy xuất hiện trong thơ Thanh Tâm Tuyền, trong ca từ Trịnh Công Sơn, và ở miền Bắc, trong thơ Lê Đạt.
Không nên đọc thơ Bích Khê như thơ cổ điển hoặc thơ mới, vì Bích Khê không làm thơ theo logique truyền thống, nghiã là thơ có mạch lạch có nghiã. Nên đọc thơ ông như xem tranh: khi ấn tượng, khi lập thể, khi siêu thực, khi trừu tượng... và cuộc triển lãm này có nhạc đệm.

Khó phân biệt được lúc nào Bích Khê dùng bút để viết, lúc nào ông vung cọ để vẽ, lúc nào ông vung đũa để đánh nhạc.
Và cũng cần phân biệt nhạc trong thơ Bích Khê khác với nhạc trong thơ Hàn Mặc Tử: Nhạc trong thơ Hàn là nhạc thầm trong mỗi chữ. Nhạc trong thơ Bích Khê là nhạc nổi trong thanh âm lạ, âm bằng.
Ở những bài thật hay, thơ Bích Khê là sự hoà âm giữa các điệu nhạc cổ, như điệu Hoàng hoa, điệu Mộng cầm, với những màu sắc tân kỳ của hội hoạ hiện đại :
Lam nhung ô ! màu lưng chừng trời;
Xanh nhung ô ! màu phơi nơi nơi.
Vàng phai nằm im ôm non gầy;
Chim yên eo mình nương xương cây.
Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa :
Đông nam mây đùn nơi thành xa...
Oanh già theo quyên quên tin chàng !
Đào theo phù dung: thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:
Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;
Theo chàng ta làm con chim uyên;
Làm mây theo chàng bên nhung yên.
Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,
- Hồn ta? hay là hồn tình lang ?
Non Yên tên bay ngang muôn đầu...
Thâm khuê oan gì giam xuân sâu ?
- Ai xây bờ xanh trên xương người ?!
- Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?!
(Hoàng hoa)
Bài Hoàng hoa thể hiện rõ sự giao hưởng giữa thơ và họa. Nhà thơ như một cánh chim, bay qua những khung cảnh khác nhau, vẽ lại trước mắt ta những bức tranh khác nhau, trong cùng một khoảnh khắc: Vàng phai nằm im ôm non gầy / Chim yên eo mình nương xương cây / Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa / Đông nam mây đùn nơi thành xa...
Những bức tranh trên đây (phần nhiều là ấn tượng) chỉ khơi cảm xúc, mà không mô tả. Ví dụ, trong bức đầu: Vàng phai nằm im ôm non gầy
Người đọc, người xem, người nghe, không thấy rõ hiện tượng "vàng phai nằm im ôm non gầy" nó như thế nào, mà chỉ mơ hồ cảm thấy một ấn tượng nào đó.
Những câu thơ kế tiếp cũng thế: Chim yên eo mình nương xương cây, rồi Đông nam mây đùn nơi thành xa, toàn là những bức ấn tượng, mơ hồ như sương phủ.

Ấn tượng mờ sương
Vì đâu có cảm tưởng mờ sương toả lên từ những bức tranh?
Khảo sát kỹ hơn, trong Vàng phai nằm im ôm non gầy, sự mờ sương toả ra ở bốn chữ vàng phai nằm im.
- Ai nằm im ?
- Một màu nằm im
- Màu gì ?
- Màu vàng. Không hẳn thế, màu vàng phai.
Nhưng không ai biết và không ai có thể định nghĩa được màu vàng phai ấy như thế nào?
Và cũng không ai có thể hình dung "vụ" vàng phai đó nằm im trên non gầy đó, như thế nào? Ấy là chưa kể: non gầy là gì?
Các vị kiểm duyệt thơ hoặc phê bình thơ nhưng không biết thơ, thường hay phê câu này, câu kia vô nghĩa, là vì thế.
Cho nên, nếu không phải là thi-họa sĩ, thì không thể vẽ đượcnhững hình ảnh Vàng phai nằm im ôm non gầy, ấy.
Sự gợi hình trong thơ Bích Khê, luôn luôn bắt nguồn từ hội hoạ, từ cách tạo ấn tượng trong lòng người xem trước, rồi mới ngheđọc.
Bài Hoàng hoa, không chỉ bắc cầu giữa hội hoạ và âm nhạc, mà còn là nhịp cầu kim cổ. Hoàng Hoa, vùng đất Trung Hoa, thời Chiến quốc và đời Đường thường có "rợ" Hồ quấy nhiễu. Hoàng Hoa là bãi chiến trường.
Hoàng hoa còn là cúc vàng. Hoa cúc nở mùa thu, mùa lá vàng và cũng là lúc các thanh niên, thời chiến quốc, đến tuổi đi lính phải nhập ngũ, đi "quân dịch", năm sau mới về. Vì vậy Hoàng hoa vừa là cúc vàng, vừa là bãi chiến trường, vừa là thời đi lính.
Trong Chinh phụ ngâm có câu :
Xót người lần lửa ải xa
Xót người nương chốn Hoàng hoa dậm dài
Chữ Hoàng hoa trong Chinh phụ ngâm có hai nghiã: vừa là hoàng hoa thú (người lính thú ở chiến trường), lại còn có thể là trại cúc vàng, nơi người chinh phụ tựa cửa nhớ chồng ngoài quan ải.
Vì vậy, hai câu: Đây mùa hoàng hoa mùa hoàng hoa/ Đông nam mây đùn nơi thành xa... tưởng như không có gì liên hệ với nhau, nhưng thực ra đó chính là khúc chinh phụ ngâm mới của Bích Khê, ngẫu hứng từ những câu: Xót người nương chốn Hoàng hoa dậm dài Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt trong Chinh phụ ngâm.
Người chinh phụ ngày xưa, ngâm:
Thủa lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về ước nẻo oanh ca
Nay quyên đã giục oanh già
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo
Thủa đăng đồ mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông
Nay đào đã quyến gió đông
Phù dung lại đã bên sông bơ sờ
(Chinh phụ ngâm)
Và người chinh phụ ngày nay, trong thơ Bích Khê, hát:
Oanh già theo quyên quên tin chàng !
Đào theo phù dung: thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:
Làm trăng theo chàng qua muôn nơi;
Theo chàng ta làm con chim uyên;
Làm mây theo chàng bên nhung yên
Cùng bối cảnh nhớ chồng đi chinh chiến, nhưng hai khúc ngâm, xưa và nay, khác nhau.
Và đây, cảnh chết chóc nơi chiến trường, trong Chinh phụ ngâm:
Non Kỳ mộ chỉ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn?
Trong thơ Bích Khê, sa trường là giao hưởng giữa những hồn ma chiến trường trong cơn ác mộng của người chinh phụ:
Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,
- Hồn ta? hay là hồn tình lang ?
Non Yên tên bay ngang muôn đầu...
Thâm khuê oan gì giam xuân sâu ?
- Ai xây bờ xanh trên xương người ?!
- Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?!

Ánh sáng trong thơ Bích Khê
Thơ Bích Khê là sự gặp gỡ hai không gian cổ điển và hiện đại, là sự hoà tan hai không gian ấy trong lòng chữ. Nhìn một lõa thể, một cảnh thu, một vũ khúc, Bích Khê không vẽ lại những ấn tượng ấy trong hiện tại mà ông đẩy lùi chúng về hàng trăm năm, hàng ngàn năm trước, rồi mới đem chúng vào thơ.
Ví dụ, nhìn một điệu múa, Bích Khê viết :
Ô trời hôm nay sao mà xanh!
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành,
Nhung mây tê ngời sao kim cương,
Dạ lan tê ngời say men hương;
Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô?
(Nghê thường)
Vũ điệu trong thơ không còn là vũ điệu trước mắt ta nữa mà đã trở thành vũ điệu nghê thường của Đắc Kỷ, Bao Tự... trên cung Quảng.
Nhưng những khơi gợi ấy, lần này đến từ ánh sáng, thứ ánh sáng mơ hồ huyền ảo của một đêm trăng giữa ban ngày: Ô trời hôm nay sao mà xanh! / Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành / Nhung mây tê ngời sao kim cương. Tất cả những chữ: trời, xanh, ngọc, trăng, vàng, mây, ngời, sao, kim cương... trong ba câu thơ, đều tỏa sáng. Trong luồng sáng huyền ảo ấy, một đoá lan đêm (dạ lan) gây hương lạ trong câu thơ nối tiếp, chia thế giới làm hai: thế giới của ánh sáng và thế giới của bóng tối qua một chữ dạ (nghiã là đêm): Dạ lan tê ngời say men hương. Rồi tiếp theo đó là một chuỗi những ánh sáng lạ khác:
Lầu ai ánh gì như lưu ly?
Nụ cười ai trắng như hoa lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô?
Không thể biết những luồng sáng như ánh lưu ly, ánh hoa lê, ánh thuỷ tinh, ánh gương hồ, ánh xà cừ, ánh san hô... chiếu vào người đẹp trên lầu hay chính người đẹp trên lầu toát ra những ánh sáng huyền ảo ấy. Tất cả bí mật ở đây nằm trong ánh sáng và thơ dựa vào ánh sáng để hiện hữu, y hệt như trong hội hoạ ấn tượng. Nhà thơ chưa vẽ, chưa đả động gì đến người đẹp, nhưng nàng đã xuất hiện: một sự xuất hiện liêu trai, mờ ảo, nghê thường, qua ánh sáng của vật chất chung quanh.
Và đó là lối tạo chân dung bằng ánh sáng trong thơ Bích Khê.
Trong bài Hiện hình, lại một chân dung khác, vẽ theo lối hiện thực hơn:
Tôi ráp lại xem. Ồ! sự lạ!
Một người thiếu nữ hiện trong trăng.
Khăn hồng chùi lệ ngấn đôi mắt;
Da thịt phô bày ý tuyết băng.
Nường hé môi ra. Bay điệu nhạc
Mát như xuân mà ngọt tợ hương:
Ôi sao là khúc Ba sinh lụy
Rào rạt như đầy nỗi cảm thương
Tiếng ngọc, màu trăng quấn quýt nường
Phút giây người lộ mỏng như sương
-Nường tan ra nhạc? - tan ra nhạc!
Khung trắng trời mây trắng lạ thường!
(Hiện hình)
Người con gái trong bức tranh này hội tụ hai yếu tố tiếngmàu: tiếng ngọc,màu trăng.
Không biết chân dung nàng được vẽ bằng nhạc hay nàng chính là âm thanh?
Dường như bút lông của hoạ sĩ chấm vào nghiên nhạc để vẽ ra chân dung nàng. Rồi cát bụi, nàng lại trở về với cát bụi:
-Nường tan ra nhạc? - tan ra nhạc!
Khung trắng trời mây trắng lạ thường!
Mỗi chân dung người đẹp mà Bích Khê phác lên thường có những nét Bích câu kỳ ngộ. Bức Tranh loã thể là Giáng Kiều khoả thân trong óc người con trai mới lớn đầy khát vọng nhục tình:
Nàng ở mô? Xiêm áo bỏ đâu dây?
Đến triển lãm cả tấm thân kiều diễm.
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm?
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường;
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc.
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi.
Hai vú nàng! hai vú nàng! chao ôi!
Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng.
Ôi lồ lộ một toà hoa nghiêm động!
Tôi run run hãm lại cánh hồn si...
Ồ hai tay rơi chén ngọc lưu ly;
Ồ hai chân nở màu sen ẻo lả;
Cho tôi nàng! cho tôi nàng! tất cả...
Tôi miên man uống lại mộng quỳnh dao
Cho đê mê, chới với, hồn lên cao,
Một tinh cầu sẽ tan ra biển lệ.
(Tranh lõa thể)
Tranh lõa thể, một tác phẩm tuyệt vời mà âm nhạc và màu sắc dâng lên theo nhịp rung thể xác. Chàng trai đứng trong phòng triển lãm, trước bức tranh khoả thân có dáng dấp của một người xưa, chàng vào mộng, trở lại hàng ngàn năm trước, sống lại giấc mơ Tú Uyên- Giáng Kiều.
Hoặc ngược lại, chàng chính là Tú Uyên, đứng trước bức họa Giáng Kiều vừa hoàn tất, chàng xao động bối rối, sống một giấc mơ mới mà nhịp độ thể xác đồng tiến với đam mê, với âm nhạc, màu sắc và thời gian.
Chàng đã vượt ra trên lễ giáo cổ truyền để tiến tới tự do nghệ sĩ, dám phô bày nhục cảm xác thịt của mình trên trang giấy: Tú Uyên đã "hiện đại hoá tư tưởng" của mình qua thơ Bích Khê: Bích Khê nói hộ người xưa những ẩn ức dục tình của họ bằng tiếng thơ đời nay.

Đôi mắt Bích Khê
Châu, bài thơ cuối trong tập Tinh huyết là một trường khúc, diễn tả hành trình sáng tạo của Bích Khê, hành trình biến hoá từ chữ sang châu. Bài thơ có ba phần:
Phần I, định nghiã những cái đẹp: Đẹp câm trong pho tượng. Đẹp huyền ảo của người trong mộng. Đẹp rã rượi của tiếng đàn, của đôi mắt mùa thu. Đẹp đau thương trong đôi mắt lệ, biến thành giọt châu.
Phần II, sự chuyển hoá từ cái đẹp sang cảm xúc và rung động trong tâm hồn nhà thơ.
Phần III, sự biến hoá những tinh lực, những rung động trong tâm hồn nhà thơ thành những giọt châu.
Đối với Bích Khê mắt là tác nhân chính và châu là thành quả của sáng tác.
Bích Khê coi mắt châu như những tinh thể của thi ca.
Mắt nơi Bích Khê, tương đương với tưởng tượng nơi Hàn Mặc Tử.
Nếu Hàn Mặc Tử dùng óc tưởng tượng để sáng tạo thì Bích Khê dùng mắt để làm thơ.
Và đó là sự khác biệt sâu xa giữa hai người: Tất cả tinh anh nơi Bích Khê tụ vào đôi mắt. Nếu ai gần Bích Khê, chắc không thể nào tránh khỏi bị cuốn hút bởi đôi mắt. Ngày nay, chúng ta chỉ còn lại tấm ảnh duy nhất, chân dung một thiếu niên, có đôi mắt to đen đẹp tuyệt vời.
Bích Khê đã diễn tả hành trình sáng tạo của mình như sau: Trước tiên nhà thơ tiếp nhận những cảm xúc của thiên nhiên và đời sống, rồi nhập đồng trong tâm hồn:
Tôi dường nghe trong một phút mê man
Hồn thanh thiên cho đến phách dương gian
Đều vỡ lở cho rung rinh thần thức
-Một thế giới mờ đi trong sáng đục
Và im hơi cho xuất khí âm hư...
Từ vùng đồng thiếp ấy, đánh lên những âm giai và màu sắc, và những yếu tố này đọng lại trong ánh mắt, rồi từ tinh cầu mắt đó, biến thành những giọt châu thơ:
Sao? Màu nàng vấn vít lấy màu thơ
Với tình tiết và tên hoa vô thượng
Với đôi mắt đẹp câm trong sắc tượng
Biến ra châu nguyên vẹn cốt thiên đàng
Nên Thiên Tài đang tắm ở suối vàng
Theo trực giác bay lên nguồn ngọc lệ
Như thế, mỗi lần nhả châu trong mắt ngọc, thiên tài phải chết đi trong đê mê huyền bí, trong giếng loạn của tâm hồn:
Cho đã khát trong đê mê huyền bí
Ánh tiên tri nức nở sóng anh linh
Đường kinh tuyến hút nhiễm chất vô hình
Dẫn địa ngục đi vào đôi giếng loạn?
Đỉnh hoang loạn thể xác và tâm hồn cũng là đỉnh thơ: muốn đạt tới thơ, tức cõi châu, nhà thơ phải thăng hồn tới cực của đớn đau hoang loạn, tới sự mất trí, tới sự rã rời thể xác, tới xuất huyết, tới địa ngục và thiên đàng:
Tôi chết ngay đây chẳng nói rằng
Cả mình lạnh khớp đến hàm răng
Thần gì đã xuất ra đôi mắt
Vội đẩy hồn tôi tới bóng giăng
Một bóng giăng rồi một bóng giăng
Hồn vẫn phiêu lưu rất nhẹ nhàng
Đến mút không gian là bát ngát
Một trời thơ mộng đẹp mê man
Và trong vùng ánh sáng và âm thanh thần tiên ấy, đôi mắt thần tiên hiện ra:
Bỗng khúc dương cầm nấc tiếng thu
Bỗng đôi mắt ngọc hiện xanh mờ...
Và châu và báu và thanh khí
Nức nở tan thành vạn giọt thơ
Đạt đến cõi thơ, mọi sự lại bắt đầu trở lại.
Toàn bài thơ là hành trình của sáng tác, trong một vòng tử sinh huyền bí:
Tối hôm nay mùa thu đang ảo não
Trong gió rên và trong lá vàng bay
Mỗi gân trắng rúng rẩy một luồng say
Mỗi hơi thở hoa hồng vang nức nở
Và mạch máu không gian dường vỡ lở
Hú ma điên... kinh động vạn hồn đau
Muôn u phiền đầy đặc ứ trong đầu
Muôn sầu hận xây mồ ngay giữa phổi
Tôi ngây ngất trong bể lòng sôi nổi
Để hồn mê trôi dạt cõi xa mơ
Mình lặng ngồi trên tảng đá trơ vơ
Tình khóc mướt trong đêm thu ấp ủ
Đôi mắt Bích Khê chính là nguồn sáng tạo, nguồn khổ đau và hạnh phúc. Chưa ai hỏi mắt mình: Người là ai? Nhà thơ cũng không biết rõ nguồn sáng trong đôi mắt ấy từ đâu đến và sẽ dẫn mình đến đâu? Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn như người ta thường nói, nhưng linh hồn Bích Khê là một cõi huyền bí xa lạ, của một cuộc đời ngắn ngủi trên dương gian, nhưng vô tận ở cõi siêu hình:
Hỡi đôi mắt! Nơi người là ngọc thạch
Nơi giếng người phản chiếu ảnh thiên thần
Nơi suối người giữ kín tiếng châu ngân
Nơi triển lãm cả một bầu tiên động
Nơi rung rinh cả một trời thơ mộng
Người là ai?Người hỡi! Người là ai?
-Nhưng đôi mắt lờ lặng và mê say
Nhìn đắm đuối không một lời náo nức
Nhạc khiêu vũ đâu đây lan sóng múa
Tôi tưởng chừng... da thịt biến ra thơm
Những đầu lâu rã hết khí xanh dờn
Những xiêm áo bay rờn trong cảnh mộng
Cả địa ngục đi vào trăm lỗ hổng
Bắn tinh ra trộn trạo giữa nguồn hương
-Hỡi đôi mắt! hồ thuỷ tinh trong suốt
Soi trần gian địa ngục vạn đời ma
Hãy nói tên thần bí của muôn hoa
Hãy kể hết nhiệm mầu muôn thế giới
Những bí quyết khí nhạc lên vời vợi
Những màu thiêng khi đau khổ lên cao
Những thơm ngào phối hiệp giữa trăng sao
Những khoái trá truyền qua hai xác thịt
Bằng hơi điện - bằng hơi điên tha thiết
Người là ai? người hỡi ! người là ai ?
Nhưng đôi mắt lờ lặng và mê say
Nhìn đắm đuối, không một lời náo nức

Bích Khê, ngàn đời sau vẫn còn là vì tinh tú mới, chiếu vào cõi thơ, bằng đôi mắt ngọc của một thiên thần, biến chữ thành châu.

http://thuykhue.free.fr

Đăng ngày 16 tháng 08.2016