Từ "Giải khăn sô cho Huế" của Nhã Ca

đến "Mourning Headband for Hue" của dịch giả Olga Dror

Hồi ký (account) hay Truyện ký (fictionalized account)?

 

 

 

 

  

 

Tôi thề sẽ không bao giờ im lặng khi nào và chỗ nào con người phải cam chịu đau đớn và tủi nhục. Chúng ta phải chọn một bên. Thái độ trung lập giúp kẻ đàn áp chứ không bao giờ giúp nạn nhân. Thái độ yên lặng khuyến khích kẻ khủng bố chứ không khích lệ gì người bị khủng bố …”  [Elie Wiesel, sống sót nạn Holocaust, trích trong bài diễn văn nhận giải Nobel về Hòa bình, 10 tháng Chạp, 1986]

olga--peter-nha ca

Từ trái, dịch giả Olgar Dror trong buổi nói chuyện về quyển Mourning Headband for Hue, ngày 25 tháng 2, 2015 tại Đại Học UC Berkeley.
Trên bàn thuyết trình là Giáo sư Peter Zinoman (Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Đại học UC Berkeley) và nhà văn Nhã Ca.

I. Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca và cuộc giới thiệu bản dịch với cộng đồng ngoại quốc qua Mourning Headband for Hue: An Account of the Battle for Hue, Vietnam 1968 của dịch giả Olga Dror

Tháng chín 2014, Nhà xuất bản Đại học Indiana University Press, Bloomington, tiểu bang Indiana, cho phát hành cuốn Mourning Headband for Hue: An Account of the Battle for Hue, Vietnam 1968 do giáo sư kiêm dịch giả Olga Dror thuộc phân khoa Sử học, Đại học Texas A&M University, tiểu bang Texas, dịch sang Anh ngữ từ cuốn Giải khăn sô cho Huế, Nhã Ca.

Ngày 25.2.2015, Đại học UC Berkeley, tiểu bang California, tổ chức một buổi ra mắt sách với sự có mặt của cả tác giả lẫn dịch giả. Bài nói chuyện của Nhã Ca đã được in lại trên nhật báo Việt báo Kinh tế. Trước đó, toàn bộ 50 trang "Lời giới thiệu của dịch giả" [trang xv-lxv, sđd, Anh ngữ] cũng đã được Huỳnh Kim Quang dịch sang Việt ngữ.

Nguyên bản và bản dịch Giải khăn sô cho Huế [GKSCH] đã được vài học giả hay sử gia Hoa Kỳ chuyên về lịch sử và văn hóa vùng Đông Nam Á và Việt Nam khen ngợi một cách nhiệt tình. Giáo sư Shawn F. McHale (1) cho rằng, trong toàn thể số sách về trận chiến Việt Nam, rất ít cuốn được viết bằng kinh nghiệm của người dân, một thứ kinh nghiệm dã man, hung hãn và thảm khốc. GKSCH–một hồi ký bỏng sém và không khoan dung mà tác giả của nó cũng là một chứng nhân đã là một minh chứng thống khổ cho thực tế ấy (2).

Tương tự, giáo sư/dịch giả Peter Zinoman(3) trong ngày giới thiệu bản dịch này tại UC Berkeley [Đại học California tại thành phố Berkeley] cũng đồng ý với giáo sư McHale rằng đó là một cuốn hồi ký: Cái nhìn của một người dân miền Nam bị kẹt giữa làn đạn của quân cộng sản chiếm thành phố này ba tuần lễ và sự phản công giành lại kiểm soát của quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa. Hồi ký của Nhã Ca còn là chứng liệu về lực lượng võ trang Việt Cộng đã giết thường dân trong những khu vực họ chiếm đóng. (Bùi Văn Phú, "Sách về Mâu Thân ra mắt đôc giả Mỹ" - bbc vietnamese/forum/2015/03/150301).

Trong khi đó, Nhã Ca, tác giả của nó, cũng tái khẳng định tính chất trung thực của hồi ký này qua lời phát biểu trong ngày ra mắt sách tại Đại học UC Berkeley như sau: Là người sống sót từ trận chiến Tết Mậu Thân, tôi viết ‘Giải Khăn Sô cho Huế’. Đây không phải tiểu thuyết hư cấu. Cũng chẳng phải văn chương thơ phú. Chỉ là chuyện thật, chuyện chạy bom chạy đạn. Chuyện mình, chuyện người. Mắt thấy tai nghe. Có sao viết vậy…" [Nhã Ca, "47 Năm Sau Vụ Tàn Sát Tết Mậu Thân Giải Khăn Sô Cho Huế Tới UC Berkeley: Bài nói chuyện tại UC Berkeley vào ngày 25 tháng 2.2015". Đăng trên Việt Báo Kinh tế ngày 28.2.2015, http://vietbao.com/p112a234271/47-nam-sau-vu-tan-sat- tet-mau-than-giai-khan-so-cho-hue-toi-uc-berkeley]

Tiếp đó, dịch giả Olga Dror cũng có chung một nhận định: bà lập lại nhiều lần quan điểm ấy của tác giả trong Bài Giới thiệu dẫn vào cuốn sách (4): Tất cả con người và sự kiện trong tác phẩm này đều thực. Nhã Ca cũng là chứng nhân các sự kiện mà bà diễn tả hay nghe về chúng từ những người bà đã gặp trong thời gian trải nghiệm cực kỳ đau khổ. Nó là sự miêu tả hay là tập hợp của những miêu tả được viết ra trong sự tỉnh giác của những sự kiện bi thương[… ] Mục đích của Nhã Ca là mang sự kiện này phô bày ra, để nhắc nhở những hung bạo đã tàn hại thành phố Huế, dân Huế và gánh trách nhiệm. Miêu tả của bà về các sự kiện không bóng bẩy chút nào nên không có sự lừa dối sự thật và vì vậy đây là một trong những giá trị lớn nhất […]. Nó không phải là cuốn tiểu thuyết, không là tác phẩm hư cấu, mà là cuốn sách mô tả không bóng bẩy về các sự kiện như được chứng kiến qua cặp mắt của tác giả và những người chung quanh bà vào lúc đó. Nó cho chúng ta “những bức ảnh chụp tức thì” của cuộc sống bị hủy hoại và vỡ nát ở thời điểm Trận Tấn Công Tết. [Olga Dror-Huỳnh Kim Quang dịch, sđd]

Bởi thế, Olga Dror đã xác quyết về GKSCH một cách mạnh mẽ và rất không dè dặt rằng (5): Tác phẩm mà bạn sắp đọc […] là một bản tường thuật về các sự kiện đã được chứng kiến qua đôi mắt của tác giả và những người dân khác bị kẹt trong cuộc tấn công vào thành phố Huế trong khoảng từ ngày 30 tháng giêng tới ngày 28 tháng 2, 1968 [trang ix].  Hy vọng rằng những sự kiện này và các yếu tố khác sẽ giúp bảo toàn GKSCH như một tài liệu trung thành với nền văn hóa và quãng lịch sử của thời chiến tranh Việt Nam ấy và để đặt nó vào vị trí của một văn kiện cần thiết cho việc tìm hiểu rõ ràng hơn về cuộc tấn công Tết Mậu Thân rồi cả cuộc chiến này nữa xuất xứ từ một tiếng nói đương thời [trang xii]. [Olga Dror, sđd-Nguyễn Tà Cúc dịch]

Nhưng chính vì thế, chính vì GKSCH nằm trong một khung cảnh chính trị và thời điểm chiến tranh, người viết đã chú ý đến một vấn đề thập phần quan trọng khác: vấn đề sự thật trong lịch sử, một vấn đề mà chính Dror cũng đã kêu gọi khi chọn cuốn sách này để phiên dịch. Những người như người viết– nghĩa là những người tạm cho là đã có đủ chứng cớ để đặt vấn đề nghiêm trọng về thể loại [ký hay truyện] của cuốn GKSCH — không nêu vấn đề nghiêm trọng này ra chỉ đơn giản vì Nhã Ca không chống Cộng đủ hay không chống Cộng theo ý mình, mà vì hậu quả đương nhiên là văn chương không phải là một chỗ để ngụy tạo lịch sử khiến sự hư cấu lại được đánh tráo hay tán dương nhiệt liệt như hoặc hơn sự thật. Qua mấy lần biên tập, ngoài mấy thay đổi liên quan trực tiếp đến tư cách nhân chứng của tác giả, tác phẩm này lại còn có vài người hầu như được nêu đích danh để bị mô tả hay ám chỉ là những kẻ khủng bố một cách man rợ hoặc sát nhân một cách bệnh hoạn trong một biến cố có một không hai trong chiến tranh Việt Nam: cuộc thảm sát tại Huế, Tết Mậu Thân.

II. Mourning Headband for Hue, hồi ký ["an account"], theo Olga Dror hay Giải khăn sô cho Huế, "tập truyện ký" [a fictionalized account], theo Nhã Ca?

Trước đây, từ những năm 1969 [GKSCH xuất bản lần thứ nhất], 1971 [tái bản tại Sài gòn], 1973 [trả lời ký giả Markham, The New York Times] hay mới đây, 2008 [tái bản tại Hoa Kỳ], Nhã Ca đã nhân danh Giải khăn sô cho Huế để không bao giờ ngần ngại mà phát biểu công khai với cả cộng đồng ngoại quốc lẫn cộng đồng người Việt trong và ngoài nước, rằng thứ nhất bà chọn thái độ trung lập ("đứng giữa") trong cuộc chiến Việt Nam vì hai bên Cộng sản (Miền Bắc) và Tự do (Miền Nam) đều "hung hiểm như nhau". Thứ hai, hơn thế nữa, bà đã kết án dân quân Miền Nam "phải chịu trách nhiệm" về "tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế" (1969) hay ghê gớm hơn thế nữa, là phải đeo trên ngực cái án "phải lãnh phần trách nhiệm" về tội "tàn sát" (2008) ít nhất là ba ngàn người dân Huế cùng một số giáo sư đại học hay các nhà truyền giáo người ngoại quốc bằng nhiều cách dã man như đập bể óc, chôn sống v.v…:

[…] Đứng giữa – "Tôi không thể là thành viên của bất cứ bên nào", bà Nhã Ca nói, "và hầu hết người Việt Nam cũng đang ở cùng một hoàn cảnh như tôi." […] Bà nói thêm: "Chúng tôi đang sống trên quê hương của chính mình, mặc dù vậy, ở phía này hay phía kia, đều hung hiểm như nhau"/ Neutral Stance-‘I cannot be a partisan of either side,"says Mrs. Nha Ca […] ‘and most Vietnamese are in the same situation,’she says, ‘even though we are living in our own country. It is equally dangerous to be with this side or the other side.’…[Nhã Ca trả lời ký giả James M. Markham, "Saigon Writers Finds Everyone Guilty" /Một nhà văn Sài gòn thấy mọi phía đều có lỗi, ngày 19.11.1973 — Giải khăn sô cho Huế, Việt Báo tái bản, 2008, trang 618-619]   Và:

"Nhiều loạt súng đạn, nhiều loại tang tóc, đã đổ xuống đầu Huế. Dù do đâu đi nữa, thì cái tội tàn phá và tàn sát ấy đã diễn ra trong thời đại chúng ta và chính thế hệ chúng ta phải lãnh phần trách nhiệm …" [Nhã Ca, "Tựa nhỏ cho lần in đầu tiên: Viết để chịu tội", tái bản tại Hoa Kỳ, 2008, trang 28-Người viết in đậm]

Bỏ qua một thói quen rất tai hại của Nhã Ca là phát biểu thay cho người khác ["và hầu hết người Việt Nam cũng đang ở cùng một hoàn cảnh như tôi"], nhưng nếu cuốn GKSCH không phải là một cuốn hồi ký /an account mà chỉ là một cuốn truyện ký /a fictionalized account do chính tác giả của nó công nhận, rồi lại thêm một số vấn đề liên quan đến các sự kiện và nhân sự quan trọng trong đó mà cho đến nay vẫn còn gây thắc mắc, thì liệu GKSCH còn có đáng được xem là "tài liệu trung thành với nền văn hóa và quãng lịch sử của thời chiến tranh Việt Nam ấy và để đặt nó vào (vị trí) của một văn kiện cần thiết cho việc tìm hiểu tốt đẹp hơn về cuộc tấn công Tết (Mậu Thân) rồi cả cuộc chiến này nữa xuất xứ từ một tiếng nói đương thời." [trang xii, sđd] như Olga Dror kết luận hay không? Và liệu những lời kết án thế hệ quân dân Miền Nam thượng dẫn của Nhã Ca còn có giá trị nào chăng?

Bởi thế, nếu là một cuốn hồi ký, nghĩa là "không phải là cuốn tiểu thuyết, không là tác phẩm hư cấu, mà là cuốn sách mô tả không bóng bẩy về các sự kiện như được chứng kiến qua cặp mắt của tác giả và những người chung quanh bà vào lúc đó/ It is not a novel, not a work of fiction, but an unvarnished account of the events as seen through the eyes of the author and the eyes of those who surrounded her at that time." [Olga Dror, trang lvii, sđd] thì tại sao GKSCH được biên tập ít nhất là hai lần –nghĩa là có thêm bớt, đôi khi một cách hết sức quan trọng– ngay cả sau khi Nhã Ca rời Việt Nam? Nhưng yếu tố quyết định và không thể tranh luận là, ngay từ Sài gòn, thể loại "truyện ký" đã do chính Nhã Ca sử dụng bằng cách phân loại GKSCH vào trang cuối của tác phẩm này khi xuất bản lần đầu tại Sài gòn vào năm 1969, khi nộp đơn rồi nhận giải ba về Bộ môn Văn của Việt Nam Cộng hòa năm 1970 rồi tái xác nhận với ký giả James M. Markham thuộc nhật báo The New York Times trong một cuộc phỏng vấn vào ngày 19.11.1973 và tại Hoa Kỳ mới đây, với phóng viên Mặc Lâm vào năm 2008.

Như thế, đợt xuất bản nào mới chứa đựng sự thực, hoàn toàn sự thực, hay tất cả các lần biên tập này đều chỉ chứa một phần sự thật, một thứ sự thật chỉ được sử dụng để làm nền cho cuốn truyện ký GKSCH khi ngay cả "Tựa nhỏ: Viết để chịu tội" nghĩa là lời giới thiệu của tác giả –đương nhiên không phải là "tiểu thuyết"– rồi ra cũng bị thay đổi? Sự kiện đó có thể làm người ta ngạc nhiên nhưng nếu đặt GKSCH vào lại thời điểm nó xuất hiện và kỹ thuật dựng truyện của Nhã Ca thì có lẽ sẽ không còn gì bí ẩn. Nhà phê bình/ nhà báo kỳ cựu/ hoạt động chính trị Uyên Thao đã đưa ra một giải đáp tài tình về sự mâu thuẫn từ ngay chính Nhã Ca về truyện ký-bút ký-hồi ký GKSCH: đó là thói quen đưa chính bản thân cùng nhân vật có thật ngoài đời vào tiểu thuyết: Việc thắt một giải khăn sô cho Huế dù được nhắc tới trước, nhắc tới như một động lực trọng yếu nhưng nó không đóng một vai trò nào đáng kể trong ý thức hình thành tác phẩm Giải khăn sô cho Huế của Nhã Ca. Cái ý thức quyết định chính là ý thức phải ghi lại một cơn biến động mà tác giả ở một vị thế chứng nhân […] Nhã Ca đã nhiệt thành với vai trò chứng nhân của mình tới độ mượn cả những nhân vật thực của xã hội để biến thành nhân vật tiểu thuyết. Trong Một mai khi hòa bình, hồi chánh viên Phạm Thành Tài đã xuất hiện với đầy đủ họ tên, chức nghiệp và với cả hành động tặng hoa cho cô Mai, một nhân vật của truyện […] Nhã Ca tất nhiên không có thắc mắc trên trong ý thức của một người viết hiện thực. Dụng ý của Nhã Ca có lẽ không ngoài việc biến tác phẩm của mình thành hình ảnh sống động và sống thực…[Uyên Thao, Các nhà văn nữ Việt Nam 1900-1970, trang 142-143, Cơ sở xuất bản Nhân Chủ ấn hành, 1973]

Nhận xét của Uyên Thao không khỏi làm người ta liên tưởng đến lý do của Olga Dror khi chọn GKSCH để phiên dịch: "Tính cách sống trong tác phẩm của Nhã Ca là nét độc đáo mà tôi thấy độc giả Mỹ nên tìm hiểu trong lúc này." [http://damau.org/archives/33014]. Cũng theo Uyên Thao, chính vì hai lý do đó mà GKSCH là một tiểu thuyết: Trong Đêm nghe tiếng đại bác, trong Một mai khi hòa bình, trong Tình ca trong lửa đỏ, người ta đã bắt gặp sự nhắc lại không ngừng cái tình tiết người tình chết trận của Bóng tối thời con gái […] Đó là cái kết cho mọi cuộc tình. Đó cũng là cái kết cho mọi cuộc tình trong tác phẩm của Nhã Ca […] Cực độ thảm kịch đó của Nhã Ca thêm một lần nữa trong Giải khăn sô cho Huế đã được ghi lại qua cái chết của một người lính Mỹ. [Uyên Thao, sđd, trang 153].

Người viết sẽ phân tích kỹ lưỡng hơn về tính chất hồi ký hay truyện ký này vào một bài khác nhưng hầu như chắc chắn là Nhã Ca không bao giờ chịu công nhận bản GKSCH tái bản tại Hoa Kỳ đã có nhiều điều khác hẳn với hai lần xuất bản tại Việt Nam —thậm chí còn nói với phóng viên Mặc Lâm rằng bà không hề thay đổi chút nào – tuy dịch giả Olga Dror đã lương thiện mà báo cho độc giả biết. Như thế ngoài sự mâu thuẫn về tác phẩm qua mấy lần xuất bản, giữa tác giả và dịch giả cũng có một sự mâu thuẫn nữa về một phương diện sẽ quyết định rất lớn vào việc đánh giá thể loại và bởi thế, nội dung của nó. Đoạn dưới đây được trích trong bài phỏng vấn " ‘Giải Khăn Sô Cho Huế’, RFA phỏng vấn Nhã Ca" đã đăng trên Mạng Đài Á châu Tự do, 2.3.2008. (http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/TetOffensive1968/InterviewNhaCa).

Mặc Lâm: Xin chị cho biết thêm chi tiết. Trong lần tái bản này, có thay đổi gì đáng phải bàn tới trong tác phẩm, hoặc có điều gì tác giả muốn gửi gấm?[…]

Nhã Ca: […]Như đã thưa với anh, Giải Khăn Sô Cho Huế chỉ là bút ký hoặc truyện ký của một người chạy loạn Tết Mậu Thân tại Huế, kể lại những điều mắt thấy tại nghe[…] Chữ nghĩa đã viết là chuyện đã rồi, có sao để vậy[…] [Người viết in đậm]

Nghĩa là, người đọc (và nghe) có thể nhận ra ngay Nhã Ca đã trả lời là bà không hề biên tập lại GKSCH, nghĩa là hoàn toàn mâu thuẫn với sự nhận xét của Olga Dror rằng, có, có thay đổi trong bản tái bản 2008, đến nỗi trung bình ra, mỗi trang lại có nhiều hơn một chữ được thay đổi:

Tôi có thể đoan quyết với độc giả rằng […] nhiều hơn một chữ đã được thay đổi trong bản tái bản; thực tế là, tính trung bình ra, mỗi trang đã được thay đổi nhiều hơn một chữ/I can assure the readers that […]more than one word had been changed in the new edition; in fact, on average, more than one word has been changed on each page. [Olga Dror, sđd, trang li- Nguyễn Tà Cúc dịch)

Về phần Olga Dror, ngoài dấu hỏi về sự không đề cập chi tiết đến những thay đổi mà bà cho là không quan trọng vào lần tái bản 2008 nhưng rõ ràng có thể gây tranh luận về quyết định ấy, còn phạm nhiều lỗi lầm– có khi có thể dung thứ được hoặc rất trầm trọng đến nỗi khó tưởng tượng được– về nhân sự, về Văn học Miền Nam và còn về một phần lịch sử Cộng đồng người Việt tỵ nạn. Theo sự phán đoán thường tình thì những lỗi lầm kiểu ấy nếu có thể dung thứ được thì đàng khác vẫn là một thái độ khinh xuất rất khó hiểu từ một tác giả đã nỗ lực đưa tiếng nói của Miền Nam ra trước thế giới. Trên hết thẩy, tình trạng này cho thấy, một lần nữa, sự nghiên cứu về Văn học Miền Nam hay/và Cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng sản tại hải ngoại trong môi trường đại học Hoa Kỳ vẫn còn gặp trở ngại qua sự giới hạn về một kiến thức không phải dễ dàng mà tạo được. Sự khó khăn ấy bắt nguồn từ một thực tế giản dị: cho tới nay, nói chung, nhân chứng từ Văn học Miền Nam và Cộng đồng tỵ nạn người Việt vẫn bị gián cách với văn học và cộng đồng văn chương hay đại học bản xứ. Sự bi quan ấy không phải là một sự xúc phạm tới các giáo sư khả kính hay các giáo sư chúng tôi có nhắc đến danh tính ở đây và nhất là dịch giả Olga Dror. Bà đã nỗ lực tìm tới những người không cùng quan điểm với Nhã Ca, kể cả người viết bài này (6), nhắm trình bày sự đa dạng của vấn đề Quốc-Cộng trong trận chiến vừa qua. Nó chỉ là một nhận xét, có thể bị kết án ngay tại đây là sai lầm, nhưng rất khó tránh khỏi một khi người viết đi sâu vào nội dung của trường hợp GKSCH.

Càng đáng thất vọng hơn, Nhã Ca đã nhân danh những điều thiêng liêng nhất và đã sử dụng di sản văn hóa và lịch sử của không riêng Việt Nam mà còn cả Hoa Kỳ để kết án cả một tập thể hay mạt sát công khai, không phải một lần mà ít nhất hai lần, những người bất đồng ý kiến trong khi chính bà lại là người kêu gọi tha thứ, một sự tha thứ vô điều kiện. Trong buổi ra mắt sách tại UC Berkeley, Nhã Ca– so với tư cách của một tác gia Miền Nam từng đoạt giải Văn học Nghệ thuật, Việt Nam Cộng hòa và được Olga Dror giới thiệu một cách hết sức long trọng như là "một trong những tác gia nổi tiếng nhất của Miền Nam trong nửa thế kỷ sau này"– lập lại lời mạt sát một cách rất phi văn chương trước một cử tọa toàn những thế hệ trẻ hơn đang trên con đường đi tìm sự thực: "Vậy mà cho tới nay, tại Việt Nam cũng như tại nhiều nơi, trong nhiều cái đầu, vẫn chưa thấy nghĩ lại." [Nhã Ca, sđd -Người viết in ngả]

Quan trọng hơn nữa, vào Tết Mậu thân 1968, nếu cuốn GKSCH được gọi là "ký," có phải quả thật Miền Nam chỉ là một con chó (chết), bất lực như Nhã Ca đã thuật lại trong tác phẩm này như sau: Mấy người Mỹ đen, Mỹ trắng đứng trên cầu tiếp tục bắn ngăn không cho con chó lội lên bờ. Con chó cứ xa dần bờ, kêu oẳng oẳng, hết sức thảm thương […] Ðoàn người tản cư chạy tới hỗn loạn, kêu khóc rền trời. Tiếng kêu khóc càng to thì tiếng cười của một số người Mỹ bên kia sông cũng càng lớn. Ngã xuống rồi đứng dậy, đứng dậy rồi chúi nhủi. Dân tộc tôi đấy sao? Con chó đang cố lóp ngóp lội vào bờ tìm sự sống đó sao? Ðáng thương cho dân tôi, nước tôi, thân phận người dân không bằng một trò đùa, không bằng một con chó. [Nhã Ca, sđd, Bản Thương yêu 1969-Sài gòn, trang 463]

Khi nói thế, người viết không có ý ám chỉ Nhã Ca bịa đặt, nhưng việc con chó đó quả có chết đuối như đã được miêu tả một cách rất đau thương và tủi nhục trong GKSCH, sẽ được bàn vào bài khác. Chủ đích của người viết, một lần nữa, ngoài vấn đề GKSCH là "truyện (ký)" như chính tác giả công nhận để đối chiếu với "(hồi) ký" như dịch giả và các giáo sư thượng dẫn đề cập đến, còn muốn nêu lên thêm một sự thật hầu như vắng mặt trong GKSCH và trong lời tựa khiến dẫn đến lời kết tội quân dân Miền Nam của tác giả: trên thực tế và trong lịch sử, cuộc Tổng tấn công Tết Mậu thân của Đảng Cộng sản vào Việt Nam Cộng hòa, là một sự thất bại trầm trọng về mặt quân sự. Một nửa dân tộc tại Miền Nam đã chiến đấu như một con mãnh hổ, chứ không bất lực như một con chó con trước họng súng ngoại nhân, để tự vệ và đánh bại một cuộc tấn công không mã thượng. Tuy bị tấn công bất ngờ vì Đảng Cộng sản không tôn trọng sự cam kết hưu chiến trong ba ngày tết 1968, quân lực Việt Nam Cộng hòa và các lực lượng đồng minh đã chống trả hiệu quả khiến từ quân chính quy Bắc việt tới du kích địa phương đều thiệt hại nặng nề. Ngoài quân lực Việt Nam Cộng hòa, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ cũng đã góp phần trách nhiệm đánh bật quân Cộng sản ra khỏi Huế, nhất là tại Thành nội, nơi xẩy ra cuộc giao tranh ác liệt nhất theo lối "cận chiến trong thành phố/urban warfare"

Ký giả Nguyễn Tú [1924-2010] — phóng viên chiến trường nhật báo Chính luận, bị tù sau 1975, vượt biển sang Hoa Kỳ vào năm 1988– theo Chiến đoàn A thuộc Sư đoàn Thủy quân Lục chiến vào ngày 14 tháng 2.1968 để tường thuật về cuộc giao tranh góp sức chiếm lại Huế với nhiều chi tiết rất sống động. Ông tường thuật về cái chết của chuẩn úy Nhựt: Gần chỗ cỏ xanh loáng máu đỏ lẫn với bùn, nơi Chuẩn úy Nhựt vừa gục ngã cho công cuộc giải phóng Thành nội, một chiếc mũ sắt nằm trơ, mở một mắt độc nhất thao láo nhìn bầu trời vẩn mây xám, mưa phùn và gió bão. Tôi không biết có phải là mũ của Chuẩn úy Nhựt không. Tôi cúi xuống nhặt. Trên nền vải bọc ngoài đã bạc màu đấu tranh có vẽ hình vài cây lá, mấy chữ ký trông rất phóng túng ngang tàng. Đặc biệt hai bên phía thái dương mũ sắt, 2 giòng viết nguệch ngoạc từ lâu: "sống bên em, chết bên bạn". Vô tình, giòng chữ viết chơi kia đối với tôi, lúc đó đã trở nên một khẩu hiệu nặng nghĩa hy sinh âm thầm, lặng lẽ nhất của Đại đội 4, của Tiểu đoàn 1, của cả chiến đoàn A TQLC/VN. [Nguyễn Tú, "Huế", Tổng công kích-Tổng khởi nghĩa của Việt Cộng Mậu Thân 1968, Khối Quân Sử-Phòng 5, Bộ Tham Mưu, Quân lực Việt Nam Công Hòa, trang 194-Chủ biên: Trung tá Phạm Văn Sơn]

Cuối tháng 4, 1975, nhiều sĩ quan và binh sĩ Thủy quân Lục chiến tự sát có khi tập thể. Số còn lại hoặc bị tử thương, bị thương hay bị bắt giam. Một số nhỏ thoát đi được nhưng đa số các hạ sĩ quan và sĩ quan đều bị bắt giam hay mất tích. Trong số mất tích có Trung tá Lữ đoàn trưởng (Robert Lửa) Nguyễn Xuân Phúc và Trung tá Lữ đoàn phó Đỗ Hữu Tùng, Lữ đoàn 369- hai sĩ quan chỉ huy đã từng nói rõ "sẽ không bỏ lính". Như thế, có thể nào dân quân Miền Nam lại phải chịu trách nhiệm về sự tàn phá cố đô Huế và tàn sát dân Huế như Nhã Ca kết luận trong cuốn GKSCH hay chăng?

III-Cuộc thảm sát và tàn phá tại Huế: Dân quân Miền Nam "phải lãnh trách nhiệm" và phải "chịu tội" (Nhã Ca)?

Trước đó, vào tháng 8. 2014, trong một bài phỏng vấn đăng trên Diễn đàn Da Màu, người phỏng vấn Đinh Từ Bích Thúy đã đề cập trực tiếp đến lời kết tội quân dân Miền Nam của Nhã Ca bằng câu hỏi: Trong Giải Khăn Sô Cho Huế, ở lời "Tựa nhỏ cho lần in đầu tiên: Viết Để Chịu Tội", Cô đã viết, ‘Thế hệ chúng ta, cái thế hệ ưa dùng những danh từ đẹp đẽ phô trương nhất, không những chúng ta phải thắt một giải khăn sô cho Huế, cho quê hương bị tàn phá, mà còn phải chịu tội với Huế, với quê hương.’ Thưa cô, ‘chúng ta’ đây là những ai? Và tại sao ‘chúng ta’ mà không chỉ người Cộng sản, phải chịu tội với Huế?" [Đinh Từ Bích Thúy, "Giải Khăn Sô cho Huế: Chờ Đợi Một Ngày giỗ Chung cho Việt Nam," 20.08.2014 http://damau.org/archives/33014-Người viết in đậm]

Nhã Ca đã trả lời câu hỏi đó như sau: Khi cùng nhau thắp đèn châm nhang – nếu có được ngày ấy – hẳn không phải là lúc để hạch tội tranh công hay đấu tố chụp mũ. Nếp nhà và văn hóa của một dân tộc biết tôn thờ sự linh thiêng, dạy bảo tôi viết vậy. Cũng không chỉ dân tộc Việt, văn hóa Việt mới dạy bảo điều này. Hai năm trước khi Nội Chiến Nam Bắc Mỹ kết thúc, Tổng Thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln đã chỉ định “một ngày tủi nhục quốc gia” cho nước Mỹ. Trong ngày đó ông kêu gọi cả nước cùng nhận chung “tội lỗi dân tộc của chúng ta,” cùng nhau xưng tội, cầu nguyện sự khoan dung, tha thứ. […] Chiến tranh Việt Nam, anh em một nhà bị lừa phỉnh đẩy tới chỗ giết nhau, cũng đã 60 năm, 70 năm. Vậy mà cho tới nay chưa tỉnh. Tại Huế cũng như tại quê nhà và đâu đó trong nhiều cái đầu, vẫn chưa thể có được một ngày giỗ chung, bàn thờ chung..." [Nhã Ca, sđd- Người viết in đậm]

Phản ứng đầu tiên là một sự sửng sốt: Không ai dám nhân danh bất cứ điều gì dù cao quý đến đâu để đòi hỏi hay bắt buộc nạn nhân phải tha thứ cho kẻ sát nhân. Theo chúng tôi, như thế, Nhã Ca vẫn đã chưa giải đáp được tại sao bà đã kết tội cả một thế hệ của dân quân Miền Nam về cuộc đổ vỡ và thảm sát tại Huế trong “Tựa nhỏ: viết để chịu tội”:

Có nhiều loạt súng đạn, nhiều loại tang tóc, đã nổ và đã tàn phá Huế. Công trình ấy không biết từ đâu, nhưng dù do đâu đi nữa, thì cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế, chính thế hệ chúng ta, thời đại chúng ta, phải chịu trách nhiệm…” [Nhã Ca, GKSCH, Thương Yêu xuất bản, 1969, trang 9-10-Người viết in đậm]

Như đã nói trên, khi Nhã Ca cho tái bản GKSCH vào năm 2008 tại Hoa Kỳ, lời kết tội "thế hệ chúng ta" đã phạm "tội ác" ấy còn được thay đổi nhiều hơn một chữ để tội ác "tàn phá một thành phố lịch sử ấy" còn thêm tội "tàn sát" (dân lành) để trách nhiệm đổ lên dân quân Miền Nam còn được xác quyết hoàn toàn hơn nữa:

Nhiều loạt súng đạn, nhiều loại tang tóc, đã đổ xuống đầu Huế. Dù do đâu đi nữa, thì cái tội ác tàn phá và tàn sát ấy đã diễn ra trong thời đại chúng ta và chính thế hệ chúng ta phải lãnh phần trách nhiệm. [Nhã Ca, GKSCH, Việt báo tái bản, 2008, trang 28 – Người viết in đậm]

Dĩ nhiên Nhã Ca có quyền đính “cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế” và "tội tàn sát" lên ngực cả một thế hệ dân quân Miền Nam, và nhận xét rằng cuộc chiến sinh tử giữa Tự do và Độc tài chỉ đơn giản là một cuộc chiến tầm thường khi "anh em một nhà bị lừa phỉnh đẩy tới chỗ giết nhau". Nhưng, thứ nhất, “thế hệ” dân quân bấy giờ– có nhiều người ngã gục cho sự chiếm lại Huế và bảo vệ quyền tự do phát biểu của Nhã Ca– có muốn lên tiếng tự vệ trước sự kết án ấy hay không, thiết nghĩ Nhã Ca phải tôn trọng sự phát biểu của họ. Đằng này bà tiếp tục bẻ chệch qua “ngày giỗ chung, bàn thờ chung”, là một vấn đề hoàn toàn không mảy may liên hệ gì đến cái “cái tội tàn phá và tàn sát” mà cả một thế hệ dân quân Miền Nam bị kết án cần phải được Nhã Ca giải đáp cho ra lẽ khi được hỏi đến. Thứ hai, ngoài thế hệ bây giờ bị Nhã Ca kết án, còn những thế hệ khác, nhất là thế hệ nhà văn như Nhất Linh Nguyễn Tường Tam đã cầm súng chống lại người Cộng sản thì họ có bị "lừa phỉnh" như Nhã Ca quyết đoán chăng? Hãy đọc "Trưởng thành" của Thanh Tâm Tuyền, từ Tôi không còn cô độc:

Anh biết vì sao cộng-sản thủ tiêu Khái-Hưng […]
anh biết vì sao cộng-sản thủ tiêu Phan-văn-Hùm […]
anh biết vì sao cộng-sản thủ tiêu Tạ-thu-Thâu
mỗi lần hoàng hôn tôi cố thở cho nhiều
các anh nhớ tôi còn sống
quờ quạng tay dan díu
cách mạng nổ trong sự nín thinh
anh biết vì sao cộng-sản thủ tiêu
vì sao cộng-sản thủ tiêu
vì sao cộng-sản thủ tiêu
Mỗi lần hoàng hôn tôi chỉ là người văn nghệ bé nhỏ
hoặc tôi câm mồm hoặc tôi thét la
mặc chúng dụ dỗ mặc chúng doạ nạt
chúng sợ cách mạng vô cùng
cộng-sản thủ tiêu Hưng Hùm Thâu
[…] mỗi lần hoàng hôn tôi đốt lửa người tôi tới trước
và các bạn tôi
nghĩa là điệp điệp trùng trùng
có ngã xuống còn kịp nói với nhau
chúng mình chết tự do quá chừng.

Hay "Cờ dân chủ" của Quách Thoại, từ Giữa lòng cuộc đời:

[…] Giờ cách mạng hôm nay vừa khởi điểm
Ta nhìn lên trời tự do hiển hiện
Đường tương lai gió thổi lá cờ bay
Ôi lá cờ dân chủ mến thương thay
Qua thế kỷ lầm than giờ mới thấy
Ta sùng kính trời ơi là biết mấy
Suốt trăm năm nô lệ cúi đầu đi
Qua mười năm cộng sản nhét ngu si
Hồn tin tưởng biết tìm đâu chí hướng[…]
Đường rộng mở thênh thang trời dân chủ
Ôi tự do thật vô cùng quyến rũ.

Nghiêm Xuân Hồng, một nhà văn di cư vào Nam rồi di tản sang Hoa Kỳ tránh họa Cộng sản, đã không đồng ý với thái độ trung lập, đứng giữa, phản chiến v.v... vì ông cho rằng đó là một thứ "bẫy chiến lược" của người Cộng sản:

Chú thích (1): Ngay từ năm 1954, khi Nehru còn quá tin tưởng ở sức quyến rũ cá nhân của mình đối với các lãnh tụ Trung Cộng và cổ xúy chính sách trung lập, nhóm Quan Điểm trên mặt tờ báo ‘Tiếng Miền Nam’ đã nhiều lần tố cáo chính sách trung lập như cái bẫy chiến lược của quốc tế cộng sản. [Nghiêm Xuân Hồng, Cách mạng và Hành động (1789-1917-1933-1949, trang 398, Quan Điểm xuất bản, Sài gòn, 1962]

Và ông kêu gọi chống trả để tự vệ: "Vấn đề chính yếu ngày nay là hiểm họa xâm lăng của hàng ngũ sô-viết. Thiết tưởng chúng ta không thể nuôi một ảo tưởng gì về cuộc đấu tranh này. Nó hiện vẫn còn là một cuộc "so gươm khủng khiếp" như lời Henrich Heine đã tiên đoán từ 1842. Một trận so gươm khủng khiếp giữa những người còn muốn giữ tính chất người, và những đoàn người man rợ muốn dầy xéo nhân tính! Nó sẽ khủng khiếp đến mức độ khiến "thần linh cũng phải che mặt thương hại cho con cháu loài người, thương cho thế gian phải chịu đầy ải lâu dài và biết đâu chẳng thương cho cả số mệnh của chính thần linh nữa" [Lời của Henrich Heine, trích dẫn bởi Lâm Ngữ Đường, trong cuốn Secret Name, dịch bởi Từ Chung, Ngôn Luận xuất bản]. Cho nên, thiển nghĩ không thể kết luận tập sách này bằng cách nào khác. Trên quan niệm hành động, thế giới tự do, cùng những lớp người có khát vọng tự do, sẽ bắt buộc phải áp dụng ngay những phương châm hành động của người bôn-xê-vích để trả đũa lại những đợt tấn công của chúng. Và đây chỉ là một trường hợp tự vệ chính đáng!" [Nghiêm Xuân Hồng, sđd, trang 400]

Như thế, lời nhận xét ["anh em một nhà bị lừa phỉnh" v.v... ] của Nhã Ca khó có căn cứ khi sau 1975, đúng như Nghiêm Xuân Hồng đã viết, cuộc "so gươm khủng khiếp" ấy đã kết thúc bằng các trại tù từ Nam ra Bắc, từ các thây người chìm sâu đáy biển và cũng từ các cảnh đổi đời oan nghiệt kết quả của các cuộc đổi tiền hay kinh tế mới v.v… Người viết muốn nhấn mạnh một lần nữa ở đây, rằng Nhã Ca không phải là nhà văn đầu tiên và quan trọng trong Văn học Miền Nam đã cổ võ cho một thứ thái độ bấy giờ vẫn được gọi là "phản chiến" hay "đứng giữa", "trung lập". Trước 1975, nhà văn Miền Nam [trừ người Cộng sản nằm vùng như Vũ Hạnh hay Lữ Phương] vẫn có khuynh hướng đối nghịch nhưng không hề có thái độ phi văn nghệ bằng cách xỉ mạ nhau. Bởi thế, khi Nhã Ca sử dụng loại chữ nghĩa phán quan rất nôm na "anh em một nhà bị lừa phỉnh đẩy tới chỗ giết nhau, cũng đã 60 năm, 70 năm. Vậy mà cho tới nay chưa tỉnh. Tại Huế cũng như tại quê nhà và đâu đó trong nhiều cái đầu, vẫn chưa thể có được một ngày giỗ chung, bàn thờ chung" là một sự rất bất thường trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật của truyền thống Miền Nam ấy.

Cách đây 70 năm, Khái Hưng bị người Cộng sản thủ tiêu năm 1947, Nhượng Tống bị ám sát năm 1949. Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ (Đạo Hòa Hảo) bị người Cộng sản âm mưu bắt giữ và mất tích từ năm 1947. Tạ Thu Thâu bị giết năm 1945. Phan Văn Hùm bị bắt rồi biệt tích cũng vào năm 1945. Cách đây 60 năm, vụ án Nhân văn-Giai phẩm bùng ra tại Miền Bắc và Thụy An lấy đũa chọc mù một mắt trong tù. Cũng cách đây 60 năm, hơn một triệu người Bắc bỏ nhà cửa thân nhân di cư vào Nam. Cách đây 40 năm, 1975, cả triệu người Việt vượt biển, tạo thành chữ "thuyền nhân" (boat people) trong lịch sử nhân loại với báo cáo về những vụ hãm hiếp và giết người man rợ do hải tặc gây ra. Dịch giả Phùng Thăng [1943-1975] cùng con gái, rồi Hồ Điệp (ngâm thơ nổi tiếng) bị sát hại tại Kampuchia trên đường vượt biên. Hàng trăm ngàn quân dân cán chính Việt Nam Cộng hòa bị bắt giam. Văn nghệ sĩ chết trong tù có Nguyễn Mạnh Côn, thả ra thì qua đời có Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng Chương…Tô Thùy Yên cứa vào cổ tay tự tử mà không chết cũng trong tù… Danh sách này còn dài dằng dặc. Ai giết ai? Ai lừa phỉnh ai? Câu hỏi ấy hãy để lịch sử trả lời bằng con số và nhân chứng. Mà lịch sử ấy không chỉ liên quan đến người Việt, nó liên quan đến lịch sử thế giới với đại hồng quân Liên bang Xô viết, với Trung hoa, với Kam-pu- chia…nghĩa là đến khắp nơi nào có họng súng và nhà tù của người Cộng sản.

Riêng các con số và nhân chứng người Việt, kể cả những nhân chứng đã nằm lại dưới đáy biển hay trên đất người, có lẽ chứng minh rằng hình như Nhã Ca đã nhầm lẫn giữa nhà cầm quyền Cộng sản và dân chúng Việt Nam. Theo thiển ý, chính bà và gia đình cũng đã phải rời khỏi Việt Nam không phải vì người dân Việt Nam không biết "xưng tội, cầu nguyện sự khoan dung, tha thứ" mà chắc chắn phải vì người nắm quyền Cộng sản, thắng cuộc chiến bằng vũ lực, cho tới nay đã vẫn còn không "dung thứ" các quyền tự do tư tưởng và tôn giáo và vẫn còn "hạch tội tranh công hay đấu tố chụp mũ". Hãy đọc lời kêu cứu mới đây của mục sư Nguyễn Mạnh Hùng: "Mới đây đêm 09-6-2014, công an các cấp từ tỉnh Bình Dương tới cấp phường cùng lực lượng ô hợp hùng hậu khoảng mấy trăm người đến khủng bố tinh thần, đánh đập thô bạo 29 Mục sư cùng 49 sinh viên trường thần học Mennonite tại đường D10, Mỹ Phước, Bến Cát, Bình Dương. Trước khi tấn công vào nhà nguyện, họ cho cắt toàn bộ điện nước khu vực nhà nguyện và một số hộ xung quanh để che dấu tôi ác dã man của họ. Sau khi đánh đập, họ bắt toàn bộ nam giới cởi trần đưa 2 tay lên đầu áp giải về đồn công an như áp giải tù binh gây ra cảnh kêu khóc thảm thiết làm náo loạn cả một khu dân cư…"  [Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng, Giáo hội Mennonite, "Tình hình đàn áp đạo Tin Lành ở Việt Nam", http://www.chuacuuthe.com/2014/07/tinh-hinh-dan-ap-dao-tin-lanh-o-viet-nam/]

Trong khi đó, người dân cả nước đã hành động cụ thể bằng cách kết hợp để công khai vinh danh các cựu quân nhân thuộc quân lực Việt Nam Cộng hòa hay Dòng Chúa Cứu thế đã giúp Giáo hội Mennonite phổ biến lời kêu cứu tới thế giới và người Việt ngoài nước. Lời kết án này càng làm người viết ngạc nhiên hơn khi Trần thị Thu Vân lấy bút hiệu Nhã Ca, vốn là chữ của Phan Khôi trong Kinh thánh Tin lành Việt ngữ. Theo tinh thần của câu trả lời trên, chẳng lẽ bà lại có thể kết án giáo hội Mennonite khi họ báo động về tội ác của người Cộng sản, kể cả với các em thiếu niên theo học trường Kinh thánh tại Bình Dương?!

Theo chúng tôi, không cần nhắc tới Tổng thống Lincoln chi cho xa xôi. Hãy nhắc đến Đài kỷ niệm Nạn nhân Cộng sản được Tổng thống George W. Bush khánh thành tại thủ đô Hoa Kỳ vào ngày 12.6.2007. Sau nữa, ngoài người bản xứ Hoa Kỳ, dĩ nhiên chúng ta cần phải nhắc tới Cộng đồng người Việt tỵ nạn tại đây. Trong "nhiều cái đầu" của cộng đồng này, có hiện diện ít nhất của bốn người với bốn xuất xứ khác nhau trong giới cầm bút nhưng cùng một sự phân biệt rạch ròi giữa nhà cầm quyền Cộng sản và người dân Việt Nam, nghĩa là có thể họ đã từ chối đeo cái án tàn sát do Nhã Ca tròng vào cổ và bởi thế không cần về làm giỗ chung với kẻ sát nhân nếu họ không muốn nhất là khi kẻ sát nhân này lại không ăn năn mà còn tiếp tục giết người.

Trong số bốn người ấy, còn có người [Võ Phiến] chỉ trích trực tiếp hay có người [Tưởng Năng Tiến] từ chối không chia trách nhiệm với người Cộng sản và yêu cầu phải có những phiên tòa xử các tội ác của họ từ cuộc thảm sát Tết Mậu thân tại Huế tới các vụ Nhân văn-Giai phẩm, thu vàng bán bãi vượt biên v.v…Bốn người đó là: nhà văn Võ Phiến, chuyên viết tạp luận, giám khảo tuyển chọn tác phẩm đoạt Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc trước 1975 tại Miền Nam; ký giả kỳ cựu Đinh Từ Thức, bút danh Sức mấy, Nhật báo Chính Luận, Sài gòn– bị chính phủ bắt giam và được thả chỉ vài ngày trước khi Miền Nam mất– chuyên viết xã luận; nhà văn Ngô Thế Vinh, Sĩ quan Quân Y, nhà văn duy nhất bị chính phủ Việt Nam Cộng hòa đưa ra tòa về tội "làm suy giảm tinh thần chiến đấu của binh sĩ" qua truyện ngắn "Mặt trận tại Sài gòn" và nhà xã luận Tưởng Năng Tiến, một tác giả chuyên bàn về hậu quả của chế độ Cộng sản.

Phần Võ Phiến, ông châm biếm một cách cay đắng như sau trong phần viết về Nhã Ca, Bộ môn “Ký”-Văn học Miền Nam: Sau khi biến cố Mậu Thân ở Huế xẩy ra được hai năm, sau khi nghiền ngẫm chán chê, Nhã Ca phát biểu: ‘Công trình ấy không biết từ đâu, nhưng dù do đâu đi nữa, thì cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế, chính thế hệ chúng ta, thời đại chúng ta, phải chịu trách nhiệm…” (sđd, trang 9). Vụ Mậu Thân là một “công trình”! Công trình lớn lao ấy không biết do đâu. Đã không biết do đâu thì lỗi phải bất phân: Chia đôi trách nhiệm? Thành quả công trình nọ, mỗi bên một nửa? Huề?!” [Võ Phiến, sđd, trang 2053, Nhả xuất bản Văn Nghệ, 1999, Hoa Kỳ]

Ông còn chỉ ra cái mâu thuẫn chứng tỏ Nhã Ca phải biết “công trình” ấy do đâu mà đến: nó đến từ đoàn quân chính quy Bắc Việt, Mặt trận Giải phóng Miền Nam và du kích địa phương: […] Chị em Nhã Ca đã đắn đo: ‘Chúng tôi thường dùng tiếng ‘họ’ để chỉ Việt Cộng và để tránh tiếng Giải phóng. Thật không gì mỉa mai tàn tệ bằng tiếng ‘giải phóng’ khi nhìn cảnh đau thương tan tành trong thành phố như thế này,’ (sđd, trang 198). Chị em bà nghĩ vậy, phải quá. Nhưng không biết diễn biến rủi ro nào đã xui khiến sau hai năm suy tưởng, lúc chấp bút thảo nên Giải khăn sô cho Huế, Nhã Ca lại dùng tiếng “Giải phóng” để gọi Cộng quân, và không gọi trong ý nghĩa mỉa mai. Khi thì là ‘quân giải phóng’ (trang 40), khi lại hóa ra ‘anh giải phóng’ (trang 163, 302,489, 514) nghe thân ái ghê…” [Võ Phiến, trang 2053, sđd]

Quả Nhã Ca hơi "coi thường độc giả " khi tái bản GKSCH đã lẳng lặng bỏ đi mấy chữ "công trình" đã bị Võ Phiến chỉ trích: hẳn bà không nghĩ người đọc sẽ khám phá được: Lẽ ra ít nhất cũng phải báo cho Mặc Lâm biết!

Phần Đinh Từ Thức, khi phân tích về cuốn Nếu đi hết biển… của đạo diễn Trần Văn Thùy, ông đã viết rất rõ về nguyên ủy của sự "hận thù":  […] Muốn giải quyết vấn đề hận thù, phải truy tận gốc. Nó bắt nguồn từ hai guồng máy cai trị tại Bắc và Nam. Chính quyền miền Nam đã tan biến từ năm 1975. Chỉ còn lại chính quyền miền Bắc hiện đang cai trị cả nước. Đây chính là nguồn gốc còn lại của hận thù. Nguyên do của hận thù là bất công. Cá nhân hay tập thể tạo bất công, là gây bất hòa, đưa tới hận thù. Trên lý thuyết, Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện đang nắm quyền cai trị phải chịu trách nhiệm về những bất công do mình gây ra từ 60 năm qua. Nhưng trên thực tế, hơn hai triệu đảng viên cũng chỉ là công cụ của một nhóm thực sự nắm quyền hành, đó là Bộ Chính Trị. Dù núp dưới danh nghĩa gì, cái nhóm này, thực sự chỉ là một băng đảng ăn cướp. Đừng ngần ngại gọi họ bằng tên thật của họ.

Họ đã cướp công cách mạng của các đảng phái Quốc Gia. Họ đã cướp quyền cai trị mà chính họ từng long trọng tuyên bố thuộc về toàn dân. Họ đã cướp của cải, vàng bạc của dân để hối lộ cho tướng Tầu. Họ đã cướp mạng sống của người dân trong vụ Cải Cách Ruộng Đất. Họ đã cướp tự do sáng tác của các văn nghệ sĩ trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Họ đã cướp cả Miền Nam Việt Nam từ vĩ tuyến 17 đến Mũi Cà Mâu (họ nói phải đánh Miền Nam để dành lại độc lập từ tay Đế Quốc Mỹ, nhưng do những tài liệu đã được công bố, trước năm 1975, Bắc hay Nam Việt Nam đã lệ thuộc ngoại bang nhiều hơn? Miền Nam đâu có nghe lệnh Mỹ giết dân như Miền Bắc tuân lệnh Tầu trong vụ Cải Cách Ruộng Đất? Miền Nam đâu có nhượng một tấc đất nào cho Mỹ như Miền Bắc đã nhượng cho Tầu?). Họ đã cướp mạng sống của hàng triệu binh sĩ Bắc cũng như Nam vì chủ xướng cuộc chiến mệnh danh giải phóng Miền Nam. Họ đã ăn cướp hạnh phúc của hàng triệu gia đình có thân nhân phải đi cải tạo. Họ đã ăn cướp tài sản của những người phải đi Kinh Tế Mới. Và họ đã ăn cướp của cả dân tộc Việt Nam nửa thế kỷ tiến bộ. Tóm lại, dân tộc Việt Nam không có hận thù gì với nhau, nên không cần đặt vấn đề hòa giải dân tộc. Hiện tại, chỉ có hận thù giữa băng đảng ăn cướp đang nắm quyền cai trị, và khối dân tộc bị trị. Kẻ nào, thành phần nào gây ra bất công, là nguyên nhân của bất hòa, phải đóng vai chủ động trong việc hòa giải. Do đó, không phải người dân hòa giải với nhà cầm quyền, ngược lại, Bộ Chính Trị phải hòa giải với dân. Thay vì thể hiện hòa giải qua hành động, như nhận lỗi và sửa lại những gì đã làm sai, đền bù những gì đã gây thiệt hại v.v…Họ kêu gọi người dân, nhất là những nạn nhân của họ, hãy hòa giải với họ. Nghĩa là chấm dứt chỉ trích, chống đối, hãy tiếp tay họ, chấp nhận để họ tiếp tục gây bất công, hận thù. Đây là điều phi lý, ngược ngạo." [Đinh Từ Thức, "Chuyện đi, về – đọc nếu đi hết biển…", 13.2.2009, http://damau.org/archives/3973]

Phần Ngô Thế Vinh, ông đặt một câu hỏi mà ai cũng biết câu trả lời: Trên đường đi, tôi không thể không có ý nghĩ nếu làm một con toán cộng những năm tù đầy của mỗi văn nghệ sĩ Miền Nam, con số ấy phải vượt trên nhiều thế kỷ. Không phải chỉ có oan nghiệt giam cầm huỷ hoại những thân xác, họ còn giết chết sức sáng tạo của văn nghệ sĩ trong khoảng thời gian sung mãn nhất. Một nỗ lực huỷ diệt cả một nền văn hóa đến tận gốc: trước lịch sử, ai phải nhận lãnh trách nhiệm cho những tội ác thiên thu ấy?… [Ngô Thế Vinh, ngày 20.2.2015]

Mới đây, Ngô Thế Vinh viết về Thanh Tâm Tuyền, một nhà thơ Miền Nam bị tù một thời gian dài sau 1975, bị đưa ra Bắc, qua đời năm 70 tuổi tại Hoa Kỳ khiến (bác sĩ) Ngô Thế Vinh tự hỏi phải chăng 7 năm ròng rã hút thuốc lào chống đói chống rét có ảnh hưởng chút nào tới căn bệnh ung thư phổi của Thanh Tâm Tuyền. Nhưng đời sáng tác của ông đã bị cướp đi ngay cả sau khi ra tù. Vâng, nhưng nếu đúng như Nhã Ca phán xét thì một trong ba nhà thơ danh tiếng nhất của Thơ Việt Nam hiện đại, chưởng môn phái Thơ Tự Do, cũng sẽ phải chịu trách nhiệm về việc tàn phá và tàn sát tại Huế! Ôi những kiếp người đã trượt ngã trên con đồi tịch mịch của lịch sử mà cả cái bóng của mình cũng vẫn còn bị thản nhiên dẫm đạp.

Phần Tưởng Năng Tiến phát biểu mới thật đích đáng. Ông không công nhận làm "tòng phạm" với Đảng trong những vu giết người như vụ Mậu Thân. Ông đòi hỏi phải xử cho phân minh về tội ác, kể cả tội ác Mậu Thân tại Huế, của người Cộng sản trước khi lập trai đàn giải oan, nghĩa là còn ý nghĩa hơn cả những ‘bàn thờ chung" của Nhã Ca: Hồi đầu thập niên 1950, trong Chiến Dịch Cải Cách Ruộng Đất, Đảng CSVN đã hiểu lầm và qui sai thành phần đâu chừng vài trăm ngàn người, khiến họ đều phải bỏ mạng. Cuối thập niên 1960 – trong trận Tổng Công Kích Mậu Thân – Đảng cũng đã hiểu lầm những người dân ở Huế là “tay sai của Mỹ/Ngụy,” và đã đập đầu hay chôn sống tập thể khoảng vài ngàn (hay vài chục ngàn) mạng nữa.Cuối thập niên 1970, sau khi giải phóng miền Nam, chỉ vì hiểu lầm rằng những kẻ sống bằng doanh nghiệp (hay còn gọi là bọn tư sản – mại bản) là kẻ thù của nhân dân, nên bằng vào chiến dịch Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Đảng làm cho vô số gia đình tán gia bại sản, khiến cho không ít kẻ đã chết trong uất ức […] Trong vụ này, làm ơn bỏ hai chữ “nhân dân” qua một bên cho đám dân đen chúng tôi được nhẹ nhõm – đôi phần. Dẫu vẫn biết rằng theo truyền thống thì “đâu cần nhân dân có, đâu khó có nhân dân” nhưng làm tòng phạm (với Đảng) trong những vụ giết người tập thể – như vừa dẫn – là điều khó quá. […] Nếu có được sự biện biệt rõ ràng giữa nạn nhân và thủ phạm như thế thì hy vọng (mỏng manh) sẽ có một số vong linh được siêu thoát, sau những Trai Đàn Giải Oan – theo “giải pháp tình thế” hiện tại. Số còn lại thì đành phải chờ thôi. Chờ cho đến khi có sự thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam, và hoàn cảnh cho phép để tỗ chức những phiên toà liên quan đến những vụ án chưa xử – như Nhân Văn, Xét Lại, Đổi Tiền, Mười Ngày Học Tập, Thu Vàng Bán Bãi Vuợt Biên … – và bắt buộc phải xử, trước khi thiết lập những Trai Đàn Giải Oan (thực thụ và chính thức) trong tương lai. Những phiên toà này, tưởng cũng nên nói cho rõ, không có mục đích truy thù hay báo oán. Truyền thống văn hoá bao dung của dân tộc Việt không cho phép bất cứ ai nghĩ đến điều này. Tuy nhiên, quá khứ cần phải được thanh thoả – và không thể thanh thỏa thuần túy chỉ bằng những Trai Đàn Giải Oan – để mọi người đều cảm thấy được nhẹ lòng, và an bình hơn khi hướng đến tương lai. [Tưởng Năng Tiến, 2.2007]

Mượn lời Tưởng Năng Tiến, chúng tôi cũng có thể nói, chỉ thay chữ “trai đàn giải oan” bằng “bàn thờ chung” của Nhã Ca: "Hãy tổ chức những phiên toà liên quan đến những vụ án chưa xử – như Nhân Văn, Xét Lại, Đổi Tiền, Mười Ngày Học Tập, Thu Vàng Bán Bãi Vuợt Biên … – và bắt buộc phải xử, trước khi thiết lập những bàn thờ chung (thực thụ và chính thức) trong tương lai. Những phiên toà này, tưởng cũng nên nói cho rõ, không có mục đích truy thù hay báo oán. Truyền thống văn hoá bao dung của dân tộc Việt không cho phép bất cứ ai nghĩ đến điều này. Tuy nhiên, quá khứ cần phải được thanh thoả – và không thể thanh thỏa thuần túy chỉ bằng những bàn thờ của người dân Việt Nam khi người gây ra tội ác vẫn chưa bị xét xử công minh."

IV- Có phải "Mourning Headband for Huế  là quan điểm, là tiếng nói đích thực của người dân miền Nam Việt Nam" [Olga Dror] ?

Như thế, vấn đề luôn luôn còn lại là GKSCH có phải thực đại diện cho một phần hay toàn thể tiếng nói của người Miền Nam lúc bấy giờ nếu phản ảnh những sự kiện có thực, không thêm bớt do tác giả chứng kiến và đã được nghe tại chỗ; hay chỉ là một thứ truyện ký-trá hình - hồi ký mà sự trá hình đó sẽ lộ dạng qua lần Talawas rồi lần xuất bản 2008, Hoa Kỳ?

Mặt khác, hình như chính Olga Dror cũng không hình dung được những trở ngại thực sự về việc "đối thoại" liên quan đến cuốn GKSCH (trang lvi, sđd). Nếu Nhã Ca đã không trả lời trực tiếp vào câu hỏi của người phỏng vấn như trường hợp Đinh Từ Bích Thúy, thì việc mong mỏi một sự đối thoại từ giới đại học [đòi hỏi một sự trực diện với tài liệu] hay giới cầm quyền ở Việt Nam [tự công nhận trách nhiệm của người Cộng sản] hay với công chúng [đòi hỏi một sự bạch hóa về sự mâu thuẫn giữa tác giả/truyện ký và dịch giả/hồi ký] lại càng là điều không tưởng. Nhã Ca không công nhận có thay đổi trong GKSCH khi tái bản và nhiều lần nói rõ GKSCH là một cuốn truyện ký, nghĩa là tiểu thuyết hóa sự kiện. Olga Dror nhất quyết minh định rằng "Nó không phải là cuốn tiểu thuyết, không là tác phẩm hư cấu". Như vậy, đối thoại trên căn bản nào? Đối thoại căn cứ trên một bản gốc nhưng biết chắc là có biên tập lại khi tái bản sau này và không phổ biến rộng rãi cho công chúng? Hay trên một bản tái bản với những thay đổi, mà theo người viết, phải kể là rất quan trọng? Đối thoại bằng những sự kiện đã được tiểu thuyết hóa theo lời chính tác giả hay được coi như sự thật theo dịch giả?

Olga Dror còn thông tin rằng người ta có thể đọc cuốn GKSCH trên các mạng lưới Internet [trang lvi, sđd] nhưng nếu chúng tôi không nhầm, chỉ có bản Hoa Kỳ 2008 hay bản Talawas – là 2 bản đã được biên tập lại – lưu hành trên Internet. Đa số các bản này lại không kèm "Tựa nhỏ: viết để chịu tội" chứa đựng lời kết án quân dân Miền Nam như đã dẫn. Chúng tôi đã có ý tìm kiếm nhưng chưa hề thấy bản Thương Yêu 1969 xuất hiện ở trang mạng nào cả. Như vậy, sẽ rất khó để các nhà nghiên cứu hay độc giả tại bất cứ nơi đâu, trong hay ngoài Việt Nam, có thể bàn thảo với Nhã Ca và Olga Dror giản dị chỉ vì họ không có phương tiện đọc được nguyên bản Thương Yêu 1969 mà bà đã sử dụng. Đó là chưa kể đến bản đã tái bản ở Sài gòn. Trong khi đó, để công bằng cho Nhã Ca, một nhà nghiên cứu phải có ít nhất bốn bản GKSCH đã xuất bản thì mới có đủ tài liệu để so sánh và nhận định. Theo như người viết nhận xét, trong Mourning Headband for Hue, Olga Dror cũng chỉ nhắc tới 2 bản, là bản Thương Yêu và bản Việt Báo, cho nên, nếu thế, chính bà cũng chưa thể đối thoại được với một người có đủ bốn bản về những thay đổi quan trọng có thể liên quan trực tiếp tới giá trị nhân chứng của tác giả và sự chính xác của các sự kiện trong tác phẩm.

Thêm vào đó, ngoài vấn đề sự thật và các thay đổi liên quan đến tác phẩm, những tin tức khác liên quan đến thân thế Nhã Ca khiến phản ảnh văn sử Miền Nam và lịch sử cộng đồng tỵ nạn đương thời có đúng như Olga Dror đã trình bày trong cuốn này không? Nếu không thì cuốn sách dịch-từ-nguyên bản này sẽ tiếp tục được đánh giá như một tài liệu, một văn kiện như Olga Dror mong muốn hay sẽ là một thí dụ cảnh cáo những nhà phê bình Văn học Miền Nam tương lai khi, theo Nhã Ca trong bài nói chuyện thượng dẫn:

Sau khi liệt kê đầy đủ và đối chiếu với các loại quan điểm khác nhau về trận chiến đã được nói lên từ nhiều phía, nhiều nơi, nhiều nước, Olga nhấn mạnh "Mourning Headband for Huế" là quan điểm, là tiếng nói đích thực của người dân miền Nam Việt Nam.[Nhã Ca, "47 Năm Sau Vụ Tàn Sát Tết Mậu Thân Giải Khăn Sô Cho Huế Tới UC Berkeley": Bài nói chuyện tại UC Berkeley, Feb 25. 2015 trong buổi họp mặt với "Giải Khăn Sô Cho Huế/Mourning Headband for Hue, http://vietbao.com/a234271/47-nam-sau-vu-tan-sat-tet-mau-than-giai-khan-so-cho- hue-toi-uc-berkeley, Ngày 28. 2.2015-Người viết in đậm]

Nếu quả GKSCH "là quan điểm, là tiếng nói đích thực của người dân miền Nam Việt Nam" thì dịch giả Olga Dror nghĩ sao về việc họ bị Nhã Ca kết thêm "tội sát nhân" chỉ vì họ có cái không may mắn là sống cùng thời với người Cộng sản và Nhã Ca? Liệu bất cứ ai, chứ chưa nói đến Olga Dror, có thể có đủ thẩm quyền để tấn phong một tác phẩm, nhất là một tác phẩm đang có quá nhiều nghi vấn về tính chất "hồi ký" của nó và thân thế của tác giả, vào vị trí "đại diện" cho cả một dân tộc như thế không?

Đằng khác, có phải cũng trong cùng cuốn "ký" này, có một nam ký giả ngoại quốc chạy loạn Mậu Thân Huế "râu ria xồm xoàm" trông giống như "con đười ươi trong rừng chạy lạc về phố" [Nhã Ca, GKSCH bản 2008, trang 73] không? Trong khi đó, ở bản GKSCH Thương Yêu 1969 thì người ký giả này tuy cũng "râu ria xồm xoàm" nhưng chỉ "trông như sống trên rừng sâu mới về" (trang 82, sđd) mà thôi. Bỗng dưng 40 mươi năm sau, ông ta lại hóa thành …"con đười ươi"?! Mới đây, Nhã Ca đã nại Tổng thống Lincoln ra làm chứng: lẽ ra bà phải nhìn rất kỹ chân dung vị tổng thống Hoa Kỳ này trước khi biên tập lại GKSCH vào năm 2008! Cái lối viết khinh mạn cả một giống nòi khác, và trong trường hợp này về một người cũng đang chạy trốn cái chết như mình, phải chăng giải thích được thói phát biểu khiếm nhã đến nỗi kết tội cả một thế hệ của chính dân tộc như Nhã Ca đã làm? Đúng, người ta có thể nói "Tôi làm tôi mất nước", "Tôi là một thằng hèn" hay "Tôi không bảo vệ được binh sĩ và đất nước của tôi nên tôi phải tự sát" (như bao nhiêu quân nhân Miền Nam đã làm) nhưng cao giọng gán tội sát nhân cho cả triệu người khác –có cả những người mất mạng như chuẩn úy Nhựt –để bảo vệ và chiếm lại thành phố Huế thì quả là rất cần nên xét lại, đặc biệt là sau khi Nhã Ca đã quả quyết với Đinh Từ Bích Thúy "Nếp nhà và văn hóa của một dân tộc biết tôn thờ sự linh thiêng, dạy bảo tôi viết vậy" ! (7)

Đằng khác, việc Nhã Ca từ chối phản bác những ý kiến trái ngược: "Olga cũng hỏi tôi có muốn phát biểu gì không về vài ba trường hợp chỉ trích Giải Khăn Sô Cho Huế mà Olga trích dẫn trong phần Giới Thiệu của Dịch Giả, tôi cám ơn bà và nói không"; nhưng sau đó, chính bà lại ra lời mạt sát "những cái đầu" không nghĩ như bà đến ít nhất là hai lần thì càng là một sự mâu thuẫn rất rõ ràng. Thực ra, nếu Nhã Ca có trả lời thì cũng chỉ là bầy tỏ một tinh thần mã thượng giữa những người cầm bút –là truyền thống của Văn học Miền Nam– và quan tâm đến vấn đề chung; chứ nếu không, vấn đề kết án dân quân Miền Nam vẫn còn đó, nói sai về lịch sử Hoa Kỳ vẫn còn đó, mạt sát một người Tây phương như một "con đười ươi trong rừng chạy lạc về phố" cũng vẫn còn đó và quả độc giả sẽ là người phán xét sau cùng, không chỉ độc giả đời này mà còn độc giả của bao thế hệ đời đời sắp tới.

Người viết muốn nhấn mạnh một điểm sau đây: người viết hoàn toàn tôn trọng quyền phát biểu của Nhã Ca và quyền nhận định của Olga Dror; nhưng là một người dân trưởng thành tại Miền Nam, được may mắn theo học cả trong hai hệ thống giáo dục tại Miền Nam và Hoa Kỳ, lại nghiên cứu về văn học và sinh hoạt nghệ thuật Miền Nam đủ để có tài liệu làm bằng chứng cho những điều đã dẫn, người viết muốn đưa ra một cái nhìn khác về những phát biểu và nhận định nói trên mà người viết nghĩ rằng sẽ làm thiệt hại cho hình ảnh của một Miền Nam nay được phổ biến, nhất là trong môi trường đại học Hoa Kỳ.

Cái nhìn khác đó của người viết đương nhiên không đại diện cho ai và có khiếm khuyết, nhưng đó cũng là một điều nữa mà người viết muốn bày tỏ ở đây và cũng là lý do khiến có bài viết này: cũng không ai có quyền đó cả. Khi Olga Dror, qua Nhã Ca, phát biểu rằng GKSCH "là quan điểm, là tiếng nói đích thực của người dân Miền Nam Việt Nam"– một Miền Nam, mà theo Nhã Ca, "phải lãnh phần trách nhiệm" về tội tàn sát dân lành tại Huế và tội ác tàn phá thành phố Huế vào tết Mậu Thân 1968 với Giải khăn sô cho Huế đi kèm– thì lời phát biểu đó cần phải có sự phản bác từ bất cứ một người dân Miền Nam nào khác. Sự phản bác đó càng cần thiết khi chính Olga Dror lập lại lời của Nhã Ca về "một ngày giỗ chung" mà bà sẽ vui mừng nếu xẩy ra: […] Nếu một ngày nào đó, dân tộc Việt Nam có thể họp lại mà cùng nhau tưởng niệm những người đã chết vào Tết Mậu Thân tại Huế, cũng như Nhã Ca cũng muốn như vậy/If one day the people of Vietnam would be able to together commemorate those who died at the time of Tet Mậu Thân in Hue, as Nhã Ca also desires." [Olga Dror, sđd, trang lvi]

Người viết thành thực mong rằng, sau khi được đọc quan điểm của bốn nhân sự thượng dẫn (nhất là của ký giả Đinh Từ Thức), thì Olga Dror phải nhận ra rằng có một khác biệt rất lớn giữa "dân tộc Việt Nam/the people of Vietnam" và chính phủ Cộng sản Việt Nam. Cứ đọc các tin người dân Việt Nam bây giờ làm lễ công khai vinh danh người lính Việt Nam Cộng hòa và tử sĩ cuộc hải chiến Hoàng Sa (1974) thì rõ: cần gì phải đợi chính phủ Cộng sản Việt Nam cho phép mới tưởng niệm hay vinh danh được? Còn nếu nói về dân tộc Việt Nam thì làm gì có chuyện thù hận nhau đến nỗi đó? Ngoài ra, nếu nói riêng đến trường hợp này, nghĩa là đến "bàn thờ chung" của Nhã Ca, thì vấn đề phải đặt ra là chúng ta mang gì tới bàn thờ đó? Mang một cuốn tiểu thuyết hóa sự kiện [Truyện ký/lời Nhã Ca] để gây tranh luận hay mang sự thật không thêm bớt? Nhân danh tưởng niệm, ngày giỗ, hương hoa, nhang đèn và bàn thờ mà làm gì trong khi tiếp tục gây oan khuất cho cả một thế hệ còn sống với lời "hạch tội" (chữ của Nhã Ca) hạch họe người vô tội phải "chịu tội với Huế, với quê hương" vì đã phạm tội ác "tàn phá" và "tàn sát" (trang 12, Bản Thương Yêu)?!

Tổng chi– cộng với bao điều bất nhất liên quan đến tác phẩm GKSCH do chính tác giả của nó phổ biến– nếu những tin tức khác về tiểu sử tác giả Nhã Ca do Olga Dror mang tới cho độc giả cũng không phản ảnh đúng đắn hay đầy đủ một phần văn sử của Văn học Miền Nam và lịch sử của người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ thì sẽ cần phải được phân tích cho phân minh dù chúng ta rất hoan nghênh sự thành tâm và thiện ý của bà. Đó là những vấn đề quan trọng không kém– vì liên quan đến cả lịch sử và văn sử của cả một nửa dân tộc –sẽ được bàn đến trong một loạt bài khác. Người viết, dĩ nhiên, sẵn sàng hoan nghênh sự lên tiếng của tác giả Nhã Ca và dịch giả Olga Dror để rộng đường dư luận.

V- Một diễn đàn mở rộng để thu thập tài liệu

Người viết đã mở đầu bài này bằng tin tức liên quan đến một số sử gia hay giáo sư tại các đại học Hoa Kỳ thì cũng phải kết thúc bằng một lời tri ân cho phải phép. Trước đây, khi nghiên cứu về tạp chí Sáng Tạo, người viết đã cố gắng tìm kiếm thêm tin tức về thân thế của Graham Tucker– nhân viên Sở Thông tin Hoa Kỳ, người đã đại diện cho cơ quan này tài trợ cho Mai Thảo đề làm Sáng Tạo– mà cho tới nay vẫn còn thất bại. Người viết có ý nghĩ đó vì, sau khi tỵ nạn tại xứ này, người viết mới thâm cảm được sự hy sinh từ máu xương cho tới tiền của mà đất nước này đã đổ vào Việt Nam Cộng hòa (Miền Nam). Cuộc chiến tranh Việt Nam, kết thúc một cách đau thương cho tự do và dân chủ, nhưng sự thất bại hầu như không thể tránh khỏi ấy không xóa bỏ được lòng hào hiệp của một số người Hoa Kỳ muốn giúp một nước nhược tiểu thoát cùm Cộng sản. Đúng, ngay tại đây có người sẽ phản đối rằng Hoa Kỳ tham chiến vì quyền lợi của chính họ trong cuộc chạy đua thời Chiến tranh Lạnh với Nga -xô. Hơn thế nữa, một số quân nhân Hoa Kỳ đã phạm tội ác rất khó tha thứ được như cuộc thảm sát tại Mỹ Lai. Người viết không từ chối điều đó, nhưng như đã trình bày ở trên, Hoa Kỳ không chỉ được đại diện bằng Mỹ Lai, bằng nhóm nhà văn như Susan Sontag hoặc những giáo sư cực tả ở các đại học Hoa Kỳ. Những giáo sư thượng dẫn và cả dịch giả Olga Dror — những nhà sử học hay bản thân cũng là những tác giả đã có những công trình nghiên cứu giá trị về Việt Nam — nay cố gắng giới thiệu tới cộng đồng đại học và người đọc Hoa Kỳ những tác phẩm giúp nới rộng vòng hiểu biết về cuộc chiến và Miền Nam. Đằng khác, trong bất cứ vấn đề nào, tài liệu, sự chính xác của tài liệu và nhân chứng là những yếu tố không thể bỏ qua để xác định vị trí của một tác phẩm hay phát biểu của tác giả trong bối cảnh khi nó xuất hiện.

Nếu bài viết này có cung cấp được bất cứ tài liệu nào cho các giáo sư thượng dẫn, cho Olga Dror, cho Nhã Ca và cho độc giả thì đó là một niềm khích lệ lớn cho người viết trên hành trình nghiên cứu về Văn học Miền Nam của chính mình.

 

CHÚ THÍCH:

Để thêm công bằng cho Nhã Ca–ngoại trừ những trường hợp cần thiết– chúng tôi sẽ sử dụng bản dịch Việt ngữ của Huỳnh Kim Quang, đã đăng trên Việt báo Kinh tế, khi cần trích dẫn lời giới thiệu của Olga Dror.

* "And that is why I swore never to be silent whenever wherever human beings endure suffering and humiliation. We must take sides. Neutrality helps the oppressor, never the victim. Silence encourages the tormentor, never the tormented. Sometimes we must interfere. When human lives are endangered, when human dignity is in jeopardy, national borders and sensitivities become irrelevant. Wherever men and women are persecuted because of their race, religion, or political views, that place must – at that moment – become the center of the universe." [Elie Wiesel, sống sót từ trại diệt chủng Auschwitz II-Birkenau với mã số A-7713, http://www.eliewieselfoundation.org/nobelprizespeech.aspx]

(1) Tác giả cuốn Print and Power: Confucianism, Communism, and Buddhism in the Making of Modern Vietam, thuộc Đại học George Washington University

(2) "In this searing and unsparing memoir, Nha Ca bears witness to the mindless violence against civilians in war. Her civilian focus is important: in all of the writing on the Vietnam War, too little has been written on the civilian experience of conflict, a conflict that profoundly shaped the lives of millions of Vietnamese. It is important that we read about this violence, and through first-hand accounts: the further we move away from the Vietnam War, and the more we clinically dissect the war in terms of high politics and military strategy, the less we seem to remember that the war, on the ground, could be vicious, brutal, and devastating. A Mourning Headband for Hue is an anguished testimonial to that reality." [http://www.amazon.com/Mourning-Headband-Hue-Account-Vietnam/dp/0253014174 hay trên bìa sau của Mourning Headband for Hue]

(3) Giám đốc Trung Tâm Nghiên cứu về Đông Nam Á, tác giả cuốn The Colonial Bastille: A History of Imprisonment in Vietnam, 1862-1940 và dịch giả cuốn Số Đỏ (Vũ Trọng Phụng). Ông cũng là Chủ bút của tạp chí Journal of Vietnamese Studies.

(4) "All people and events in this work are real. Nhã Ca either witnessed the events she described or heard about them from people she encountered during the ordeal. It is an account or a collection of accounts written in the wake of the tragic event [page xviii], Nhã Ca’s goal was to bring these events out for display, to remember the atrocities that were committed upon the city of Hue and its people, and to take responsibility for them. Her account of events is not perfectly polished—a quality that usually betrays (and requires) a much greater distance from a traumatic event– and in this lies one of its greatest values" [page xix]. "It is not a novel, not a work of fiction, but an unvarnished account of the events as seen through the eyes of the author and the eyes of those who surrounded her at that time. It gives us "snapshots" of the ruined and scarred lives at the time of the Tết Offensive. [page lvii]" [Olga Dror]

(5) "The work you are about to read […] is an account of events as seen through her own eyes and the eyes of other civilians caught in the midst of the Tết Offensive in the city of Hue between January 30 and February 28, 1968 "[ix]. "These and some other elements hopefully help to preserve Mourning Headband for Hue as a faithful document of wartime Vietnamese culture and history and to establish it as a necessary text for a better understanding of the Tết Offensive and of the war in Vietnam from a voice of that time." [page xii] [Olga Dror]

(6) Người viết cũng nhân đây cảm ơn dịch giả Olga Dror đã trình bày rất chính xác và cẩn trọng phần phát biểu của người viết– liên quan đến trách nhiệm hoàn toàn của người Cộng sản về cuộc thảm sát tại Huế nhắm đối chiếu với phản ứng tự vệ của quân dân Miền Nam bên cạnh sự hỗ trợ xương máu của quân đội Hoa Kỳ– mà bà đã trích dẫn trong phần giới thiệu cuốn Mourning Headband for Hue (trang lxv, Chú thích số 99). Người viết càng cảm ơn hơn nữa nỗ lực của Olga Dror khi, không những đã trưng ra nhiều quan điểm đối nghịch như của người viết, mà còn hướng dẫn độc giả tới những tài liệu hay ấn bản khác có thể giúp họ đi xa hơn trong vấn đề này. Phần người viết, bà đã nhắc tới cuốn luận án Cao học năm 2010 có tên Literary Friends and Foes: The Story of Vietnamese Exiled Writers in the United States, Pennsylvania State University, Harrisburg, PA.

(7) Lẽ ra, không ai nên nại đến bất cứ sự linh thiêng nào để đánh cược cho quan điểm hay kiến thức của mình. Nhã Ca sử dụng lịch sử Hoa Kỳ để thuyết phục người nghe về ngày giỗ chung do bà xướng xuất nhưng nói sai trầm trọng về mấy sự kiện liên quan đến lịch sử Hoa Kỳ chỉ trong vài dòng ngắn ngủi: "[…] tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln đã chỉ định "một ngày tủi nhục quốc gia" cho nước Mỹ[…] Nội chiến Hoa Kỳ chấm dứt vào vào tháng Tư năm 1865. Liên Bang nước Mỹ, với sự tôn trọng dành cho phía miền Nam- lá cờ miền Nam vẫn được treo, binh sĩ miền Nam vẫn giữ súng cá nhân, liệt sĩ Nam Bắc chung nghĩa trang, cả nước không có một cuộc diễn binh hay lễ hội mừng chiến thắng…" [Nhã Ca, 47 Năm Sau Vụ Tàn Sát Tết Mậu Thân Giải Khăn Sô Cho Huế Tới UC Berkeley: Bài nói chuyện tại UC Berkeley, Feb 25. 2015, http://vietbao.com/p112a234271/47-nam-sau-vu-tan-sat-tet-mau-than-giai-khan-so-cho-hue-toi-uc-berkeley]

Thực ra, thứ nhất, ngày đó có nguyên có tên là " A Day of National Humiliation, Fasting and Prayer " và nghị định của Tổng thống Lincoln có nhắc tới "Thượng đế/ Government of Almighty God/God is the Lord/ the offended Power" trong bối cảnh lúc ấy của nền văn hóa Hoa Kỳ, một nền văn hóa không liên quan tới trận chiến Quốc-Cộng mà sau này Nhã Ca và hầu như tất cả văn nghệ sĩ Miền Nam đều bị người Cộng sản giam giữ sau 1975. Thứ hai, "lá cờ Miền Nam" (the Confederate Flag) không hẳn là được chào mừng tại mọi nơi. Năm 2014, Thống đốc Californa vừa ra lệnh cấm các cơ quan sở tại không được phép bán hay bầy bất cứ thứ gì có in hình lá cờ này. Trước đó, tháng 7. 2000, Thống đốc Tiểu bang S. Carolina ra lệnh hạ cờ xuống tại Viện Dân biểu v.v...

Và có, có một cuộc diển hành rất lớn mừng chiến thắng đã được tổ chức tại thủ đô Washington D.C. kéo dài trong suốt 2 ngày 23 và 24 tháng 5. 1865 dưới sự chủ tọa của Tổng thống Andrew Johnson. Trước đó, cũng có hai buổi mừng chiến thắng thời Tổng thống Abraham Lincoln còn sinh tiền. Tờ Literary Digest, ra ngày 19.5.1919, đã có bài viết về cuộc diễn hành này mà số quân tham dự là khoảng 200.000 với một trong mấy vị tướng mang quân về là tướng William Tecumseh Sherman. Nếu Nhã Ca có xem phim "Cuốn theo chiều gió/ Gone With the Wind" với Scarlett O’hara/Viven Leigh và Rhett Butler/Clark Gable thì sẽ thấy hình ảnh cuộc hỏa hoạn khủng khiếp tại thành phố Atlanta xưa kia vẫn cho rằng do viên tướng này gây ra. Và không, không có lính Miền Nam nào lúc đó còn giữ súng đề làm gì: họ đã giải giới và về đoàn tụ với gia đình sau khi tướng Robert E. Lee đầu hàng ngày 9. 4. 1865 tại Appomattox, Virginia. Riêng đa số quân nhân tham dự cuộc chiến này với quân lực Liên bang thì chính thức giải giới sau cuộc diễn hành mừng chiến thắng tại Washington D. C. Hiện nay, một số tổ chức đang vận động để tổ chức cuộc diễn hành kỷ niệm "The Grand Review Parade" 150 năm trước đây vào ngày 17. 5. 2015 nhưng với sự tham dự của đại biểu của các binh lính da màu nguyên đã không được tham dự vào năm 1865.

Nguyễn Tà Cúc

30.03.2015

http://damau.org/


 

“Giải Khăn Sô Cho Huế”, RFA phỏng vấn Nhã Ca

Mặc Lâm, phóng viên đài RFA

Tết Mậu Tý năm nay vừa tròn 40 năm biến cố Mậu Thân. Trong nỗi buồn chung của dân tộc, từ những gia đình có người thân bị thảm sát cho đến những ai may mắn sống sót trong cơn địa chấn đó đều không nhiều thì ít cùng mang tâm trạng bâng khuâng ngậm ngùi mặc dù thời gian đã trôi qua gần phân nửa thế kỷ.

nha_ca_150.jpg
Tác giả Nhã Ca.
(Photo courtesy of viettribune)

Nhắc đến Tết Mậu Thân hầu như người Việt nào sống trong khoảng thời gian đó đều biết một cuốn sách của tác giả Nhã Ca mang tên Giải Khăn Sô Cho Huế, quyển sách là hình ảnh sống động miêu tả lại hầu như toàn cảnh của biến cố này vì tác giả của nó trực tiếp sống và bị cuốn theo dòng chảy của một cuộc thanh trừng đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam.
Tác phẩm Giài Khăn Sô Cho Huế sẽ được nhà xuất bản Việt Báo tái bản trở lại trong dịp kỷ niệm 40 năm biến cố Mậu Thân, Mặc Lâm mời quý vị theo dõi buổi phỏng vấn đặc biệt với tác giả Nhã Ca trong chương trình văn học nghệ thuật tuần này để biết thêm những chi tiết liên quan đến vấn đề này.

Mặc Lâm: Thưa chị Nhã Ca, Tết Mậu Tý 2008 là đúng 40 năm biến cố Huế Tết Mậu Thân. Ðược biết nhân dịp này, lần đầu tiên tại hải ngoại, cuốn Giải Khăn Sô Cho Huế đã được tác giả cho tái bản. Xin chị cho biết về lần tái bản này, cuốn sách mới có gì khác biệt với sách cũ.

Nhã Ca: Cám ơn anh Mặc Lâm và đài RFA đã có lòng nhớ Huế Tết Mậu Thân và hỏi thăm. Sách mới “Giải Khăn Sô Cho Huế” ấn bản đầu tiên tại hải ngoại do Việt Báo ấn hành, sách dầy 640 trang, khổ lớn, bìa cứng, sẽ được phát hành trong tháng 2-2008.
Như anh biết, sách cũ “Giải Khăn Sô Cho Huế” in lần đầu tại Việt Nam cuối năm 1969, là một... bút ký chạy loạn. Sách mới, ngoài bút ký cũ, còn in thêm đầy đủ tất cả chữ nghĩa Nhã Ca đã viết về biến cố Tết Mậu Thân tại Huế, gồm một truyện dài, thêm nhiều bút ký và truyện ngắn.

Mặc Lâm: Xin chị cho biết thêm chi tiết. Trong lần tái bản này, có thay đổi gì đáng phải bàn tới trong tác phẩm, hoặc có điều gì tác giả muốn gửi gấm?

Nhã Ca: Thưa anh, trong lời tựa nhỏ cho bản in lần đầu của “Giải Khăn Sô Cho Huế” tôi có viết là “Nhân ngày giỗ thứ hai của Huế Tết Mậu Thân sắp tới, xin coi cuốn sách này như một bó nhang đèn góp giỗ.” Tinh thần ấy không thay đổi.
Về chi tiết cuốn sách mới vừa được in lại, tôi có kể thêm chút chút trong ‘tựa nhỏ’ là:
“Tôi tin vào tương lai của Huế và tương lai Việt Nam, như tin vào những tình ca về lòng yêu thương và sự ăn ở tử tế giữa con người với nhau. Với lòng tin ấy, sau “Giải Khăn Sô Cho Huế” còn có thêm hai cuốn sách nhỏ viết về Tết Mậu Thân: “Tình Ca Cho Huế Ðổ Nát” là tập truyện viết về tình yêu và lòng thành của Huế trong đau thương, tang tóc. Tiếp đó là “Tình Ca Trong Lửa Ðỏ,” một truyện dài về tình yêu của cô gái Huế dành cho một chàng lính Bắc tử tế.
“Từ sau 1975, sách vở miền Nam bị đốt, và nhà văn đi tù. Cho tới nay, Huế không còn được phép chính thức có một ngày giỗ chung cùng hướng về những người chết tức tưởi hồi Tết Mậu Thân.
Vẫn với lòng tin xưa, đây là lần đầu cả ba cuốn sách về Huế Mậu Thân được gom lại làm một. Và sách “Giải Khăn Sô Cho Huế” thêm một lần in lại, như một bó nhang đèn góp giỗ. Góp cho ngày giỗ thứ 40 thầm lặng trong lòng Huế. Và góp cho một ngày giỗ tương lai tại quê hương, nơi từng biết thế nào là tình yêu thương, sự ăn ở tử tế, như từng biết thế nào là văn hoá, lịch sử.”
Thưa anh, đó là lời gửi gấm của người ‘góp giỗ’ khi ‘Giải Khăn Sô Cho Huế’ được in lại.

Mặc Lâm: Thưa chị, khoảng cách thời gian của ‘chữ nghĩa Nhã Ca’ viết về biến cố Tết Mậu Thân tại Huế đến nay đã là 40 năm. Xin chị nhìn lại vài thời điểm chính. Báo New York Times năm 1973 trong một bài về Nhã Ca có kể là ‘khi Giải Khăn Sô Cho Huế khởi sự đăng tải trên một nhật báo tại Saigon, đặc công Việt Cộng đã gửi thư đe dọa, buộc bà ta ngưng viết. Bà đã không nhượng bộ.’ Sự việc đã diễn tiến ra sao từ đó về sau?

Nhã Ca: Thưa anh, đúng như báo New York Times đã viết. Chắc anh còn nhớ thành tích của cái gọi là ‘biệt động thành’ của cộng sản tại Saigon. Họ đã bắn chết nhà báo Từ Chung khi anh là tổng thư ký nhật báo Chính Luận. Họ đã bắn bể mặt của nhà văn Chu Tử khi anh là chủ nhiệm nhật báo Sống. Và sau đó thì đến phiên tôi nhận thư đe doạ.
Chắc anh cũng nhớ, ngay sau ngày Saigon bị đổi tên đổi đời, có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn cộng sản như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này Nhã Ca là nữ biệt kích duy nhất, được xếp hạng thứ sáu. Những tác giả miền Nam khác là Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến... Và sau đó, dĩ nhiên là ‘nữ biệt kích’ được vinh dự cùng các bạn văn đi tù...

Mặc Lâm: Vẫn báo New York Times, tháng 2 năm 1988, có đăng bài của nữ phái viên Barbara Crossette thăm Saigon viết là “Tết Mậu Thìn, 20 năm sau biến cố Tết Mậu Thân, Saigon cũ vẫn nhắc nhở đến Giải Khăn Sô Cho Huế của Nhã Ca.. Tác giả sách này đã bị bắt sau khi cộng sản chiếm miền Nam cùng với chồng là thi sĩ Trần DạTừ. Cả hai đã bị nhốt nhiều năm như những tù nhân chính trị. Người chồng thì cho mãi đến nay hình như vẫn chưa được thả ra.” Chị có gặp bà Barbara?

Nhã Ca: Thưa anh, tôi chưa từng gặp bà Barbara. Thực sự thì vào thời điểm Barbara muốn thăm tôi tại Saigon vào Tết Mậu Thìn, tôi còn đang bận xách đồ đi thăm nuôi ông chồng vẫn còn đang ở tù.

Mặc Lâm: Bên cạnh những lời khen thường gặp chị có nhận được những băn khoăn hay nghi ngờ gì về mức khả tín mà độc giả đặt ra đối với tác phẩm? Có nhân vật “thật” nào trong “Giải khăn sô cho Huế” công khai chống đối hay đồng tình với những gì chị trình bày trong tác phẩm hay không? Nếu có chị có thể cho biết phản hồi của chị?

Nhã Ca: Cám ơn câu hỏi đặc biệt của anh. Như đã thưa với anh, “Giải Khăn Sô Cho Huế” chỉ là bút ký hoặc truyện ký của một người chạy loạn Tết Mậu Thân tại Huế, kể lại những điều mắt thấy tại nghe. Trong cảnh bom đạn, chết chóc, dù mắt chính mình có thấy vẫn không thể thấy hết mọi phía. Tai nghe là nghe người khác kể lại. Dù tai nghe mắt thấy, có sao viết vậy, hẳn nhiên cũng không khỏi thiếu sót hoặc sai sót. Ðiều quan trọng là tấm lòng. Chữ nghĩa đã viết là chuyện đã rồi, có sao để vậy. Tôi thật tình mong những thiếu sót sẽ dần được bổ túc, những sai sót sẽ dần được chỉ rõ.
Về “những nhân vật thật”, nêu đích danh chỉ có anh Lê Văn Hảo, thị trưởng Huế Mậu Thân do phía quân giải phóng cử ra. Anh Hảo nay đã tị nạn cộng sản tại Pháp, đã chính thức lên án việc quân giải phóng tàn sát dân Huế hồi Tết Mậu Thân. Nhân vật thứ hai trong sách mang tên Phủ là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nguyên Tổng Thư Ký Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế thời Tết Mậu Thân. Ðây là chức vụ “phụ trách công việc chính trị” có nghĩa là “xếp” của cả chức thị trưởng. Năm 1997, anh Tường đã đến Paris, lên tiếng trên đài RFI, nói về -xin trích nguyên văn: “nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Ðó là một sai lầm không thể nào biện bác được...”. Anh cũng đã công khai “gửi lời cám ơn sự khách quan của chị Nhã Ca dành cho tôi” và nói nguyên văn rằng “Giải Khăn Sô Cho Huế đối với tôi, vẫn là một bút ký hay viết về Huế Mậu Thân; hàng chục năm qua đọc lại, tôi vẫn còn thấy quặn lòng.” Văn bản lời anh Tường trả lời cuộc phỏng vấn của chị Thụy Khuê đài RFI hiện còn lưu trên internet, ai cũng có thể đọc được. Nhân vật thứ ba trong sách có tên là Ðắc, theo lời kể mà tai tôi nghe, liên quan tới cái chết đau thương của người bạn tên là Mậu Tý. Nhà báo Nguyễn Ðắc Xuân, một phụ tá của anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, có viết bài phản bác, nói là anh không hề liên quan.
Cả ba nhân vật kể trên, đều đã có lòng đích thân đến gặp tôi trước ngày chúng tôi rời Saigon sang Thụy Ðiển. Ðoạn kể lại những gặp gỡ này trong Hồi Ký Nhã Ca có được trích in trong sách mới Giải Khăn Sô Cho Huế.

Mặc Lâm: Cho tới nay, điều gì còn đậm lại rõ nét nhất nơi chị khi nhìn lại tác phẩm “Giải khăn sô cho Huế”. Xin nhắc câu đã hỏi, là chị có thể nói về sự “phản hồi” của chị, nếu có.

Nhã Ca: Về điều mà anh gọi là “còn đậm nét nhất” khi nhìn lại “Giải Khăn Sô Cho Huế”, tôi thấy đó là sự oan khiên nối dài chưa biết đến bao giờ. Hàng ngàn người chết oan cho tới nay không có được một lời xin lỗi, một ngày tưởng niệm. Cuộc đại tàn sát Tết Mậu Thân, ngày giỗ lớn nhất của Huế, thì được đánh trống thổi kèn như ngày hội chiến thắng. Phần oan khiên riêng của cuốn sách và tác giả thì đủ cảnh tức cười, sách bị những người cộng sản treo để “triển lãm tội ác”, tác giả đi tù.
Từ cảnh Huế Mậu Thân trong sách được viết lại thành chuyện phim Ðất Khổ, phim quay xong năm 1972 bị cấm chiếu ở Saigon vì tội phản chiến. Bốn mươi năm sau, mới đây thôi, tháng 5 năm 2007, cuốn phim được một hãng Mỹ khai thác làm DVD bán ngay tại Mỹ và dán cho nó cái bìa là... cờ đỏ sao vàng. Chi tiết chuyện oan khiên tức cười này báo Tết Việt Báo năm nay có đề cập.
Về điều anh gọi là “phản hồi”, tôi thấy chỉ có thể nói thế này: Bi hài kịch của thời đại chúng ta là sự ngộ nhận. Nó ở khắp nơi, phe này, phe kia, chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ, ông này, bà kia, tác giả, nhân vật... đâu đâu cũng có nó. Như dân tộc của mình, tất cả chúng ta, dù người bị giết hay kẻ giết người, đều chỉ là nạn nhân. Thuốc chữa sự ngộ nhận cho người hay cho chính mình, theo tôi, nên là sự hiểu biết và ăn ở tử tế, với cả người sống lẫn người chết.

Mặc Lâm: Cám ơn chị Nhã Ca.



DIỄN TIẾN CUỘC THẢM SÁT ĐỒNG BÀO VÔ TỘI TẠI HUẾ

VÀO TẾT MẬU THÂN 1968

Liên Thành

Ai ra lệnh Tàn sát?
Hồ Chí Minh và Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam

Ai thi hành?
Thiếu Tướng Lê Khả Phiêu Chính Ủy Khu Ủy Trị Thiên.
Trung Tướng Trần Văn Quang Tư lệnh Quân khu Trị Thiên.
Đại Tá Lê Tư Minh, Tư lệnh mặt trận Huế

Đại lực lượng an ninh của cộng quân thi hành cuộc tắm máu đồng bào vô tội Huế gồm:
1- An Ninh Khu Ủy Trị Thiên do Tống Hoàng Nguyên chỉ huy.
2- Lực lượng Công An của Ty Công An Thừa Thiên-Huế do Đại Tá VC Nguyễn Đình Bảy tự Bảy Lanh chỉ huy.
3- Lực lượng An ninh và Bảo vệ Khu Phố do Nguyễn Đắc Xuân chỉ huy.
Ước lượng quân số khoảng trên hai ngàn người của Quân Khu Trị Thiên tung vào cuộc hành quân để lùng diệt, truy quét thành phần ác ôn, tàn binh “ngụy”, Công An Cảnh Sát “ngụy”, các thành phần làm tay sai cho tình báo CIA.
Trong hai ngàn người trên, lực lượng An Ninh và Bảo Vệ Khu Phố của Nguyễn Đắc Xuân có khoảng từ 700 đến gần một ngàn người. Đây là một lực luợng nguy hiểm nhất đối với dân chúng Huế và cũng sát máu tàn bạo như lực lượng Công An Khu Ủy Trị Thiên của Tống Hoàng Nguyên, và Công An Thừa Thiên-Huế của Nguyễn Đình Bảy.
Tại sao lực lượng An Ninh và Bảo vệ Khu phố của Nguyễn Đắc Xuân lại nguy hiểm nhất? Vì bọn chúng là đám cơ sở nằm vùng đã bám rể lâu đời trong thành phố Huế, dưới dạng là những tên thầy bói như tên thầy bói Diệu Linh, những tên làm việc lao động như tên thợ nề Nguyễn Bé, đặc biệt là những tên núp lén kín đáo dưới dạng các Phật tử, các khuôn hội gia đình Phật tử như các tên: Lê Hữu Tý, tên Nguyễn Xin chủ nhà máy cưa, tên Nguyễn Hải chủ khách sạn Hương Bình, chủ tiệm thuốc Bắc Thiên Tường. Và quan trọng nhất là đám phản loạn Học Sinh Sinh Viên Phật Tử, lực lượng trực thuộc của Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu đã tích cực tham gia cuộc phản loạn vào năm 1966. Sau khi thất bại bọn chúng đuợc Khu Ủy, Thành Ủy, Thị Ủy Việt Cộng đưa lên mật khu để bảo toàn lực lượng nay trở về lại thành phố tha hồ chém giết dân lành trả mối hận xưa.

Kế hoạch của cuộc bạo lực cách mạng hay bạo lực đỏ được cộng quân phân chia làm 3 giai đoạn:
1. Gọi trình diện đợt 1
Đại lực lượng sát thủ nầy được chia thành nhiều toán nhỏ, rãi đều mọi khu gia cư thuộc 3 quận trong thành phố Huế đó là Quận I, Quận II, và Quận III.
Mỗi toán nhỏ của bọn chúng đi lục soát từng nhà một, từng gia đình một, kêu gọi tàn binh “Ngụy” quân, “Ngụy” quyền, Cảnh Sát Công An “Ngụy” ra trình diện và giao nạp vũ khí để được khoan hồng. Ngoài ra trong khi lục soát các tư gia bọn chúng cũng tìm bắt những người đã có trong sổ đen của bọn chúng. Một số trong những người nầy bị bọn chúng đem ra bắn tại chỗ trước sự đau đớn tột cùng của vợ con thân nhân nạn nhân, như trường hợp của Thiếu Tá Từ Tôn Kháng, Tỉnh Đoàn Trưởng Xây Dựng Nông Thôn Tỉnh Thừa Thiên.
Trường hợp của ông Trần Ngọc Lộ ở tại Cồn Hến, Nguyễn Đắc Xuân và đồng bọn còn có hành động dã man và tàn bạo không còn tính người. Nguyễn Đắc Xuân không những xử bắn chồng là ông Trần Ngọc Lộ trước mặt vợ và 4 con dại của ông ta, đứa lớn nhất không quá 6 tuổi, đứa nhỏ nhất không quá 4 tháng tuổi, mà ngay khi ông Lộ gục ngã dưới những loạt đạn AK của Nguyễn Đắc Xuân và đồng bọn, thì Nguyễn Đắc Xuân và đồng bọn lập tức quay súng nổ súng xối xả vào bà vợ ông Lộ. Thi thể bà Lộ bị bắn nát như chồng, để lại những đứa trẻ thơ dại, bé nhất chỉ 4 tháng tuổi, lớn nhất chưa quá 6 tuổi. Vợ chồng ông Trần Ngọc Lộ đã bị Nguyễn Đắc Xuân và đồng bọn sát hại chỉ vì nghi họ là đảng viên đảng Đại Việt Cách Mạng.
Còn bốn cháu bé, đứa lớn nhất chưa quá 6 tuổi các cháu cuộc đời lớn lên bơ vơ không cha không mẹ, ai người bảo bọc dạy dỗ chăm sóc? Nguyễn Đắc Xuân mi lớn lên trên mảnh đất xứ Huế của VNCH, mi có cha có mẹ đầy đủ, những người quốc gia có ai giết cả cha lẫn mẹ mi đâu Xuân? Cớ sao mi nỡ giết đi cả cha lẫn mẹ của những trẻ thơ kia hả Xuân?
Mi có còn là người nữa không Nguyễn Đắc Xuân?
Câu chuyện thương tâm nầy dân cư trong vùng Cồn Hến ai cũng biết và ngậm ngùi xót thương cho 4 em bé bất hạnh con ông bà Trần Ngọc Lộ. Đã bốn mươi hai năm trôi qua rồi nhưng cứ mỗi độ Tết đến Xuân về thì những nhân chứng vụ thảm sát gia đình ông Trần Ngọc Lộ tại Cồn Hến vẫn còn nhắc đến câu chuyện bi thảm này. Vụ thảm sát này là một chứng minh cụ thể cho lịch sử thấy bản chất những kẻ chạy theo cộng sản, những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, chúng đã xây dựng thiên đường cộng sản bằng cách như thế này đây.
Thảm kịch này cũng là một sự nguyền rủa đến những kẻ đến nay đã hơn 35 năm rồi, chúng ác như thế đó thế mà có kẻ vẫn còn bênh vực, đi đêm, trở cờ nối giáo cho bọn cộng sản.
“Bốn đứa trẻ thơ con ông bà Trần Ngọc Lộ bây giờ ra sao?”
Câu hỏi đó đến nay vẫn còn đeo đuổi trong lòng tôi và trong lòng những người dân Cồn Hến.
Nguyễn Đắc Xuân quả thực là con quỷ khát máu xứ Huế.
Điều nghịch lý là kẻ sát nhân Nguyễn Đắc Xuân vẫn còn sống nhởn nhơ tại thành phố Huế mà lại còn tự phong cho mình là “Nhà Huế Học”. Nên chăng phải gọi tên tội đồ của dân Huế Nguyễn Đắc Xuân là “Nhà Tắm Máu Mậu Thân Học”, “Nhà Đồ Tể Học”?
Một thời gian nữa chúng tôi hoàn tất thủ tục tố tụng trước tòa án quốc tế truy tố Nguyễn Đắc Xuân về Tội Ác Chiến Tranh, xin cho tôi gởi lời nhắn đến bốn người con của Ông Bà Trần Ngọc Lộ: Ở phương trời nào, nếu có dịp đọc được những dòng chữ nầy, xin hãy liên lạc với tôi: Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Đảng Cộng Sản Việt Nam để bổ túc thêm hồ sơ truy tố tên tội phạm Nguyễn Đắc Xuân, kẻ đã hạ sát cha mẹ các em.

Trở lại trường hợp đợt gọi trình diện lần thứ nhất:
Tất cả Ngụy Quân, Ngụy Quyền, tàn binh, Cảnh Sát Công An Ngụy ác ôn, nhân viên tình báo CIA đến trình diện Chính Quyền Cách Mạng đều được Chính Quyền Cách Mạng đặc biệt khoan hồng. Mỗi người đều được chính quyền cách mạng cấp cho một giấy chứng nhận có giá trị như giấy thông hành hay căn cước, có quyền đi lại tự do trong vùng không bị lực lượng an ninh của chính quyền cách mạng làm khó dễ gì cả. Cũng cần nói thêm rằng, trong thời gian nầy còn có hai loại giấy tờ có giá trị đi lại không bị bọn chúng làm khó dễ đó là:
1. Thẻ Sinh Viên Đại Học Huế.
2. Giấy chứng nhận do Ôn Đôn Hậu ấn ký.

Màn kịch trình diện khoan hồng được sắp xếp như sau: Đầu tiên bọn chúng kêu gọi những Quân, Cán, Chính, và Cảnh Sát Quốc Gia bị kẹt trong vùng bọn chúng kiểm soát ra trình diện giao nạp vũ khí. Những người cả tin này được bọn chúng cấp cho mỗi người một giấy chứng nhận đã trình diện và được tự do đi lại. Những người ra trình diện với cách mạng này được tự do ra về với gia đình, tin rằng đây là chính sách khoan hồng của “cách mạng” cũng giống như chính sách Chiêu Hồi của VNCH.
Thật ra là chiếc lưới rộng đang được giăng để hốt trọn ổ đàn cá.

2. Gọi trình diện đợt 2
Lời kêu gọi tàn binh, Ngụy Quân, Ngụy Quyền, Cảnh Sát Công An Ngụy, nhân viên tình báo CIA trình diện và giao nạp vũ khí cho chính quyền Cách Mạng của Cộng Quân vẫn tiếp tục.
Một số lớn anh em quân nhân, Cảnh Sát Quốc Gia, Công Chức, cán bộ chính quyền VNCH còn trốn tránh chưa ra trình diện ở đợt I thấy những người ra trình diện đợt I được bình yên trở về nhà, không những thế mà lại còn được “Ủy Ban An Ninh chính quyền cách mạng” cấp giấy thông hành cho tự do đi lại, cho nên khi nghe cộng quân kêu gọi trình diện đợt II giao nộp vũ khí để được cách mạng khoan hồng tiếp, một số người còn chưa tin cộng sản ở đợt I và đang lẫn trốn liền ra trình diện. Rồi cũng như những người đã trình diện đợt I, họ được cấp giấy và cho về.

3. Gọi trình diện đợt 3
Những người cẩn thận còn nghi ngờ chưa ra trình diện hai đợt trước nay nghe lời kêu gọi đợi III này thì tất cả lũ lượt ra trình diện giao nộp vũ khí, và rồi họ cũng được cấp giấy thông hành và cho về với gia đình, thầm nghĩ “quả là “cách mạng” thật sự khoan hồng”!

4-.Trình diện đợt 4: Ra đi không bao giờ trở lại
Sau 3 lần tung lưới giả, mẻ lưới thật sự mới là đây: Đợt IV. Chỉ vài ngày sau, cơ quan an ninh của chính quyền Cách Mạng kêu gọi tất cả những ai đã trình diện trong 3 đợt vừa qua, và những ai chưa ra trình diện, hãy ra trình diện tại những địa điểm mà bọn chính quyền Cách Mạng ấn định để học tập.
Ngoài ra bọn chúng sử dụng lực lượng Công An, đoàn Vũ Trang Thanh Niên của Nguyễn Đắc Xuân và một số nằm vùng mở cuộc hành quân lùng xét từng nhà thúc đẩy mọi người trình diện học tập.
Tin tưởng như ba lần trình diện trước, đi rồi lại về có sao đâu (?), mọi người yên tâm kéo nhau đi trình diện "cách mạng"...
Nhưng rồi… vợ con mong đợi, cha mẹ trông chờ… Đêm qua đêm, ngày qua ngày, tháng qua tháng, sao đi mà không trở lại?
Quả thật, những người thân đi trình diện học tập đã không bao giờ trở lại… vĩnh viễn không trở lại. Tất cả đã đến cõi chết. Thân xác đã bị vùi lấp chồng chất trong những nấm mồ tập thể.
Đơn vị Công An của Tống Hoàng Nguyên thuộc Khu Ủy Trị Thiên, đơn vị đặc công của Đại tá Nguyễn Đình Bảy, Đoàn Vũ Trang Thanh Niên của Nguyễn Đắc Xuân đã xử bắn hoặc chôn sống, trói họ từng chùm bằng dây điện thoại, dây kẽm gai, rồi hoặc dùng cuốc xẻng đập vào đầu họ cho ngất xỉu rồi xô sống xuống hố đã được đào sẵn, kết thúc bằng cách vùi lấp thân thể họ, dù còn sống hay đã chết. Các nấm mồ tập thể rãi rác cùng khắp tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, con số nhỏ thì vài chục, con số lớn thì vài trăm nhân mạng trong một nấm mồ.
Sau nầy ty CSQG Thừa Thiên Huế tìm được thân xác họ trong những hầm sâu hố cạn, một số tại các địa điểm trong thành phố, số còn lại tại các hầm chôn tập thể ở các quận Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy, Nam Hòa. Các bác sĩ pháp y khám nghiệm thấy rằng đại đa số bị chết ngộp vì bị chôn sống vì thân hình không bị trúng đạn, một số khác xương sọ xương đầu bị vật cứng đập vỡ. 5327 nạn nhân nầy đã chết không như tên Việt Cộng nằm vùng Trịnh Công Sơn đã viết “nằm chết như mơ” mà họ chết trong tư thế nằm nghiêng, nằm ngữa hai tay bị trói bằng dây điện thoại, bằng dây kẽm gai, họ chết trong kinh hoàng trong nỗi sợ hãi tột cùng.

Tòa án Nhân Dân tại Bãi Dâu thuộc Quận II thành phố Huế: phiên tòa man rợ ở cõi âm ty địa ngục
Song song với những đợt gọi trình diện trong ba quận tại thị xã Huế, độc nhất tại Quận II (Tả Ngạn) bộ chỉ huy cuộc tổng nổi dậy của cộng quân quyết định mở Tòa Án Nhân Dân.
Trong thời gian Mậu Thân, Hoàng Kim Loan là người được phân công chịu trách nhiệm phát động cuộc “Tổng Nổi Dậy” tại Huế. Xin viết lại đoạn thẩm cung của tôi với tên Trung Tá Điệp Viên Hoàng Kim Loan, kẻ đã bị chúng tôi bắt vào tháng 5/1972.
Liên Thành:
– Có bao nhiêu tòa án Nhân dân đã được thiết lập tại thành phố Huế trong thời gian trên?
Hoàng Kim Loan
– Chỉ độc nhất một Tòa Án Nhân Dân được thành lập tại quân II mà thôi.
Liên Thành:
– Tại sao không thành lập tại Quận I và Quận III?
Hoàng Kim Loan
– Tại Quận I và Quận III, lực lượng đoàn Vũ Trang Thanh Niên của Nguyễn Đắc Xuân phối hợp cùng các toán Công An của Khu ủy và Tỉnh thị ủy đã thanh toán hầu hết các đối tượng chống đối phản cách mạng các mục tiêu nguy hiểm rồi, nên không cần thiết. Hơn nữa tình hình tác chiến ở hai Quận nầy rất căng nên không thể thiết lập Tòa Án Nhân Dân.
Liên Thành:
– Tại Tòa Án Nhân Dân, ai là người ngồi ghế chánh án?
Hoàng Kim Loan
– Tống Hoàng Nguyên, Hoàng Lanh, và tôi, chúng tôi hội ý nhau. Lúc đầu chúng tôi định đưa Nguyễn Đắc Xuân ngồi ghế chánh án, nhưng sau đó chúng tôi chọn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bởi lẽ vào thời điểm đó Hoàng Phủ Ngọc Tường đang giữ chức Tổng Thư Ký của lực lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình. Đây là một lực lượng kết hợp các thành phần trí thức, tôn giáo, kết hợp những lực lượng và cá nhân các nhân vật có uy tín tại Huế đứng lên chống Thiệu-Kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, vậy tòa án Nhân dân giao cho Tổng Thư Ký của lực lượng nầy đại diện dân chúng Huế ngồi xử án các tên ác ôn, các tên tay sai của Thiệu-Kỳ và của đế quốc Mỹ xâm lược là thích hợp nhất.
Liên Thành:
– Những ai có mặt và chứng kiến những phiên tòa do Hoàng Phủ Ngọc Tường ngồi ghế chánh án xét xử?
Hoàng Kim Loan
1- Tôi, Trưởng Ban Tổ Chức Tổng Nổi Dậy tại Huế, Thành Ủy Viên.
2- Tống Hoàng Nguyên Trưởng Ban An Ninh Khu Ủy Trị Thiên.
3- Hoàng Lan: Thành Ủy Viên.
4- Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Quận II, Nguyễn Thiết.
5- Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Quận I, Nguyễn Hữu Vấn.
6- Nguyễn Đắc Xuân Trưởng Đoàn Vũ Trang Thanh Niên, các phụ tá của Nguyễn Đắc Xuân như Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm, Nguyễn Thị Đoan Trinh.
7- Nguyễn Bé, Chủ tịch Khu phố.
8- Trần Văn Linh tức thầy bói Diệu Linh, an ninh khu phố.
Ngoài ra còn một số người tham dự nữa mà tôi không nhớ hết.
Liên Thành:
– Có bao nhiêu “tội nhân” bị giết, bị chôn sống trong phiên tòa đó?
Hoàng Kim Loan
– Tất cả có trên 200 “thành phần ác ôn” tay sai Thiệu-Kỳ, Mỹ
Liên Thành:
– Anh có nghĩ như vậy là quá dã man và tàn bạo không?
Hoàng Kim Loan
– Hành động đó hơi quá đà, nhưng cần thiết để răn đe quần chúng, bắt buộc họ phải thuần phục chính quyền cách mạng mới thành lập tại Huế.

Lời nói này của Hoàng Kim Loan làm tôi rợn người nhớ lại các phiên tòa cũng gọi là tòa án nhân dân của cuộc cải cách ruộng đất giai đoạn 1955 đến 1956, 1957. Cũng mục đích răn đe quần chúng bắt phải thuần phục chính quyền cách mạng mà khoảng 200 ngàn người dân vô tội Miền Bắc đã bị thảm sát, đạo đức xã hội bị đảo ngược và chà đạp, con đấu tố cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, bằng hữu, thầy trò chủ tớ đấu tố lẫn nhau. Qua bao dâu bể, nhưng bản chất này của cộng sản không bao giờ thay đổi. Mậu Thân 1968 chúng diễn lại tòa án nhân dân man rợ tại quận II Huế. Sau 1975 thì các phiên tòa án nhân dân tại các trụ sở phường, trụ sở quận trên toàn Miền Nam để đấu tố bè lũ Mỹ Ngụy rồi đưa đi lao cải trong các trại tù cải tạo, hoặc lên vùng kinh tế mới mà tổng số thiệt mạng cũng lên đến khoảng hơn 200 ngàn người, gần bằng con số mà Quân Cán Chính Miền Nam đã bỏ mình trong cuộc chiến ý thức hệ Quốc Cộng bảo vệ lý tưởng VNCH.


huan chuong cua Hoang Kim Loan
Huân chương Kháng Chiến Hạng Nhất do Chủ Tịch Nước CHXNCNVN Trần Đức Lương trao tặng vào năm 2002 cho Liệt sĩ Trung Tá Điệp Viên Hoàng Kim Loan thuộc Tổng Cục 2 Tình Báo Cộng sản Việt Nam.

Sau Mậu Thân, công việc đầu tiên của Bộ Chỉ Huy CSQG Thừa Thiên/Huế là chúng tôi bắt đầu mở cuộc điều tra sâu rộng về tất cả các vụ giết người của bọn chúng. Trưởng ban Cảnh Sát Đặc Biệt Quậnn II Thị xã Huế,Trung Úy Cảnh Sát Nguyễn Trọng, cho mời một số nhân chứng trong vụ tòa án Nhân Dân tại Bãi Dâu để lấy lời khai của của họ hầu bổ túc vào hồ sơ vụ thảm sát tại Bãi Dâu. Tất cả đều tường thuật giống nhau:
Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là người ngồi ghế chánh án để xét tội.
Đại đa số nạn nhân là anh em Quân Đội, Công Chức, Cảnh Sát Quốc Gia trốn tại nhà bị bắt. Những người nầy Ông Tòa Hoàng Phủ Ngọc Tường xếp họ vào loại ác ôn. Một số khác là cô nhi quả phụ vợ con của anh em Quân Nhân, Cảnh Sát, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cán Bộ Xây Dựng Nông thôn đã tử trận. Tất cả những người nghèo khổ nầy đi làm tạp dịch như dọn dẹp phòng ngủ, giặt quần áo cho binh lính Mỹ tại các căn cứ quân sự của Mỹ tại Dạ Lê hay Phú Bài, hoặc tại cơ quan MACV để kiếm sống nuôi con, nuôi cháu. Số người này được ông tòa Hoàng Phủ Ngọc Tường xếp vào loại làm việc cho tình báo Mỹ, CIA.
Với những tội danh trên, tất cả thành phần trên phải bị nhân dân anh hùng Thừa Thiên-Huế và Chính Quyền Cách Mạng trừng phạt đích đáng, loại trừ như loài rắn độc để làm gương bằng bản án tử hình. Và án lệnh đã được thi hành ngay tức khắc tại hiện trường của phiên tòa mà không cần có kháng án.
Kết quả có 204 nạn nhân bị ông Quan Tòa Hoàng Phủ Ngọc Tường ban lệnh chôn sống hoặc đập chết bằng cách dùng vật cứng đập vào đầu nạn nhân trước khi xô nạn nhân xuống hố mà đã được đào sẳn tại ngay khuôn viên Tòa Án.
Sáng ngày 26 tháng 2 năm 1968 thân nhân những nạn nhân đó đi tim kiếm mới phát giác mồ chôn tập thể có 204 xác người tại chính ngay khuôn viên trường trung học Gia Hội nơi mà phiên tòa của Tòa Án Nhân Dân đã mở tại đó trong những ngày trước.
Xin nhắc lại, sau này các đài truyền thanh, truyền hình và báo chí quốc tế nhiều lần phỏng vấn Hoàng Phủ Ngọc Tường tất cả đều nêu câu hỏi:
-“Tại sao lại giết người tàn bạo như vậy?”
Thì tên quỷ đội lốt người nầy hiên ngang xác nhận rằng:
-“Giết bọn chúng thì cũng chẳng khác gì giết những con rắn độc”.

Đã từng rất hãnh diện về hành động giết người hăng say thực hiện cách mạng “đấu tranh giai cấp”, nhưng trong một vài năm gần đây, khi tuổi đời đã cao, có lẽ một góc nhỏ nào đó trong lương tâm cảm thấy có gì không ổn nên Hoàng Phủ Hoàng Tường, và cũng như các đồng bọn của hắn, đã không còn hãnh diện như xưa, mà ngược lại, lại chối bỏ hành động giết người dã man của y tại Huế trong Tết Mậu Thân 1968. Biện minh cho chuyện nầy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nói:
“Tôi không hề nhúng tay vào những vụ tàn sát trên, vì thời gian đó tôi đang nằm trong hầm trú ẩn tại Khe Trái phía tây nam quận Hương Trà.”
Khe Trái nằm gần khe Điêng thuộc vùng rừng núi quận Hương Trà, cách thành phố Huế gần cả năm sáu chục cây số đường bộ, nơi đây là vùng tập trung các đại đơn vị của cộng quân trước khi tấn công Huế. Đây là tuyến xuất phát của Cộng quân, cho nên suốt thời gian tấn công và chiếm Huế không còn một đơn vị nào của Cộng quân trú đóng tại vùng nầy nữa. Như vậy lời chối tội của Hoàng Phủ Ngọc Tường hoàn toàn không hợp lý.
Tôi xin trích một đoạn hồi ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường để quý độc giả suy nghĩ, xin trích:
Những năm kháng chiến ở Trường Sơn, trong mỗi người đều nung nấu một ngọn lửa không gì dập tắt nỗi của khát vọng chiến thắng, khát vọng ấy trong từng phút từng giờ được ném tung vào một hoàn cảnh chiến đấu đầy những yếu tố khốc liệt, bất ngờ.
Chuẩn bị vào chiến dịch xuân Mậu Thân, cán bộ các cơ quan đều được điều về phía trước, đi từng đợt cách nhau một hai hôm. Đợt sau cùng ở cơ quan tôi đến lượt Văn và Tứ. Chúng tôi đang làm việc suốt ngày và đêm cố in rô-ne-ô cho xong năm trăm bản tập thơ “Nổi Lửa” mang về Huế theo chiến dịch. Mỗi người đều sẵn sàn gùi và súng ở đầu giường hồi hộp chờ đến lượt mình.
Tôi chưa được gọi nhưng chắc mẩm thế nào cũng sẽ đi…
Sáng sớm hôm sau tôi được lệnh rời cơ quan đến Sở Chỉ Huy Tiền Phương Mặt Trận Cánh Bắc.”
(Trích Hoàng Phủ Ngọc Tường tuyển tập 3. Trang 346-347-348)

Xin nhắc lại để đọc giả rõ hơn:
Theo chiến thuật điều quân của cộng quân khi tấn cống Huế, bọn chúng chia đại đơn vị ra làm hai cánh, cánh Bắc và cánh Nam, lấy sông Hương làm giới hạn hai cánh.
Cánh Nam là Quận III (Quận Hữu Ngạn). Nỗ lực chính là Trung Đoàn 5 Đặc Công của Đại Tá Thân Trọng Một.
Cánh Bắc là Quận I (Quận Thành Nội) và Quận II (Tả Ngạn). Nỗ lực chính là Trung Đoàn 6 của Trung Tá Nguyễn Trọng Đấu.
Trong suốt thời gian 26 ngày tấn công và chiếm Huế, Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Trung Đoàn 6 Cánh Bắc (hay sở chỉ huy tiền phương mặt Trận Cánh Bắc) lưu động tại Quận I và Quận II thị xã Huế.
Những ngày cuối cùng trước khi tháo chạy, bộ chỉ huy Mặt Trận Cánh Bắc của Việt Cộng đóng tại Chùa áo Vàng Téreveda thuộc Quận II (Quận Tả Ngạn) thị xã Huế đã bị 2 Tiểu Đoàn 21 và 39 Biệt Động Quân, Quân Lực VNCH vây đánh tan tành, xóa tên Bộ Chỉ Huy Hành Quân Trung Đoàn 6 của Cộng Quân.

Tóm lại, bộ chỉ huy Mặt Trận Cánh Bắc lưu động tại Quận I và Quận II Thị xã Huế hoàn toàn không đóng ở Khe Trái trong 26 ngày tấn công và chiếm Huế, mà đóng tại Quận II thì làm sao Hoàng Phủ Ngọc Tường lại núp dưới hầm tại Khe Trái như ông ta nói? Hơn nữa trên 100 nhân chứng nhận diện Hoàng Phủ Ngọc Tường ngồi ghế Chánh Án Tòa Án Nhân Dân tại Bãi Dâu là không xác thực hay sao?
Và đây chúng tôi xin ghi lại nguyên văn lời nói của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong một buổi phỏng vấn thì chính y đã trả lời một đài truyền hình London trong trang web http//openvault.wgbh.org khi được hỏi về những nấm mồ của vụ Tàn Sát Mậu Thân như sau:
… Thế nhưng mà có những sự chết chóc đã xảy ra. Sự chết đó là một cái khối lớn. Cái khối lớn đã làm nên những nấm mồ đầy dẫy ở trong thành phố này và được địch Mỹ và Ngụy đưa ra quay phim và đưa đi thì những nấm mồ đó là ở đâu? Những cái xác chết nằm ở dưới đó là ai? Cái thứ nhất là chính nhân dân đã bị bom của Mỹ thả xuống và chết không biết bao nhiêu ở trong các đợt mà chúng nó phản kích. Thí dụ là như ở một bệnh viện nhỏ ở bên phố Đông Ba thì nó đã thả 1 trái bom và đúng 200 người vừa chết vừa bị thương ở tại chổ đó. Tôi đã đi trên những cái đường hẻm, mà ban đêm tôi tưởng là bùn thì tôi mở ra, bấm đèn lên, thì thấy toàn là máu lầy lội như vậy. Và đó là cả khu phố bị bom Mỹ đã giết thì cái số đó nhất là trong những ngày cuối cùng thì chúng tôi rút ra và nó đã thâu lại và đem đi chôn..”
Câu hỏi dành cho lời phát biểu trên của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
– Ai đã đi trên những con đường máu lầy lội ở phố Đông Ba?
– Ai đã rút ra trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến?
– Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm gì trong những ngày chiến cuộc đó?
Với những bằng chứng như vậy, thì câu hỏi mà chúng ta đặt ngược lại cho Hoàng Phủ Ngọc Tường và những kẻ tin vào luận điệu của hắn như sau:
– Hắn có thể chối không có mặt ở thị xã Huế và tham gia tích cực vụ thảm sát Tết Mậu Thân Huế hay không?
– Hắn có thể chối tội đã là thủ phạm thảm sát Tết Mậu Thân Huế hay không?
Câu trả lời: chắc chắn là hắn không thể chối cãi tội ác Giết Người Mậu Thân của hắn được.
LIÊN THÀNH
(trích Huế Thảm Sát Mậu Thân 68 của Tác giả Liên Thành)