Nhã Ca sinh trưởng tại Huế, năm 1960 vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960-1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm.
Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa". Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế, Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam.
Tiếng kêu Tết Mậu Thân
Nhã Ca
(Bài nói chuyện của nhà văn Nhã Ca trong buổi họp mặt với giáo sư Olga Dror, dịch giả tác phẩm Giải Khăn Sô cho Huế - Mourning Headband for Hue - tại Đại học UC Berkeley ngày 25-2-2015).
Kính chào quí vị,
Hôm nay, với người Việt chúng tôi, vẫn còn là ngày Tết. Mùng Bảy Tết. Xin chúc tết theo truyền thống Việt Nam: “Kính chúc tất cả quí vị một năm mới Ất Mùi an lành.”
Và xin cám ơn UC Berkely. Cám ơn Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á; Cám ơn Giáo sư Peter Zinoman và quí vị trong ban tổ chức.
Giáo sư Olga Dror, nhà nghiên cứu và giảng dạy về văn hóa lịch sử Việt Nam, đã trình bầy đầy đủ về biến cố Tết Mậu Thân và "Giải Khăn Sô cho Huế." Cám ơn Olga.
Thưa quí vị và các bạn,
Là người viết văn thường viết khi một mình, tôi chỉ quen viết, không quen nói. Sẽ không bao giờ có thể là diễn giả. Bài nói chuyện này được viết trước. Tôi viết tiếng Việt và nói bằng "văn viết".
TIẾNG KÊU TẾT MẬU THÂN
Hình như mỗi người đều có cuốn lịch riêng của mình, trong nhà hoặc trong đầu. Tôi biết mỗi tờ lịch có câu chuyện của nó, cả chuyện hôm qua, hôm nay, lẫn ngày mai. Câu chuyện của từng tờ lịch trong cuốn lịch chung được gọi là lịch sử.
Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến dài nhất của lịch sử Hoa Kỳ trong thế kỷ 20.
Cuộc chiến ấy có cái bóng dài hơn là chính nó. Đó là cái bóng của trận tổng tấn công Tết Mậu Thân tại Huế năm 1968, do phía cộng sản thực hiện. Với những hầm chôn người và hàng ngàn thường dân Huế bị tàn sát, cái bóng oan khiên ấy ngày càng được nối dài. Dài hơn một trận đánh. Dài hơn cả cuộc chiến. Chưa biết đến bao giờ mới ngừng.
Là người sống sót từ trận chiến Tết Mậu Thân, tôi viết "Giải Khăn Sô cho Huế". Đây không phải tiểu thuyết hư cấu. Cũng chẳng phải văn chương thơ phú. Chỉ là chuyện thật, chuyện chạy bom chạy đạn. Chuyện mình, chuyện người. Mắt thấy tai nghe. Có sao viết vậy. Chỉ là những mảnh vỡ của một thành phố tan tác trong cảnh hỗn mang giữa máu lửa, chết chóc. Giáo sư Olga Dror gọi chúng là những "hình ảnh tức thì" của cuộc sống bị hủy hoại và vỡ nát. Bà "nghe" thấy tiếng nói từ loại hình ảnh này.
Là một trí thức Do Thái được sinh ra và lớn lên tại Nga từ thời Sô Viết, bà Olga đã rời khỏi đất nước này khi Liên bang Sô viết còn là một siêu cường. Hơn 10 năm sau khi chế độ Sô viết đã sụp đổ, Giáo sư Olga Dror đã có dịp trở lại nước Nga. Năm 2012, trong một cuộc hội thảo về kinh nghiệm quan hệ giữa nước Nga và Việt Nam tổ chức tại Moscow, Olga thuyết trình về đề tài "Trận chiến Tết Mậu Thân tại Việt Nam và cuốn sách Giải Khăn Sô cho Huế." Nhưng nước Nga hậu Sô viết vẫn không hề khác 25 năm trước. Thái độ của cuộc hội thảo với đề tài này là chỉ có thể đề cập tới "tội lỗi của phía Mỹ" trong trận chiến. Mọi lý lẽ khác bị dập tắt. Olga kể là sau đó, ngay chính trên đất Nga chứ không phải đâu khác, bà thấy mình quyết tâm hơn bao giờ hết, trong việc phải bảo vệ thứ tiếng nói từng bị vùi dập trong chiến tranh. Olga còn cho biết nguồn sức mạnh khích lệ bà trong quyết tâm này là những chuyện mà ông bà nội của bà đã phải chịu đựng trong thời Đệ nhị Thế chiến tại Saint Petersbourg.
Năm 2012 là lúc người dịch và người viết "Giải Khăn Sô cho Huế" bắt đầu liên lạc làm việc với nhau. Nhưng khi sự việc trên đây xẩy ra, tôi không hề biết gì. Khi đó chúng tôi chưa quen nhau. Tôi không biết cuốn sách "Giải Khăn Sô cho Huế" đã cùng đi với Olga tới nước Nga ra sao. Chỉ biết Olga Dror là vị học giả uyên bác, người viết về Bà Chúa Liễu Hạnh của Việt Nam, một công trình nghiên cứu mà chúng tôi khâm phục. Ba năm liên lạc thư từ cùng làm việc, đã coi nhau là bạn, nhưng chỉ khi công việc đã xong, cầm cuốn sách anh ngữ trên tay, đọc bài của Olga, tôi mới biết chuyện này.
Điều mà Giáo sư Olga tìm thấy trong cuốn sách Giải Khăn Sô cho Huế, là "tiếng nói của người dân trong chiến tranh." Bà nói cuốn sách là cái nhìn cuộc chiến không qua cặp mắt của người lính hay chính trị gia, bình luận gia, mà qua cặp mắt của người dân không phe phái. Nó mô tả kinh nghiệm của những người dân bình thường.
Sau khi liệt kê đầy đủ và đối chiếu với các loại quan điểm khác nhau về trận chiến đã được nói lên từ nhiều phía, nhiều nơi, nhiều nước, Olga nhấn mạnh "Mourning Headband for Huế" là quan điểm, là tiếng nói đích thực của người dân miền Nam Việt Nam. Với nhà cầm quyền Cộng sản tại Việt Nam, tiếng nói này hoàn toàn bị cấm kỵ. Tác giả từng bị bắt bỏ tù, cuốn sách từng bị đóng đinh và cho tới nay vẫn tiếp tục cấm đoán. Ngay tại Hoa Kỳ, tiếng nói của người dân miền Nam cũng chưa từng được lắng nghe. Sách viết về chiến tranh Việt Nam hầu hết đều phát xuất từ miền Bắc Cộng Sản.
Olga cũng nói đọc Nhã Ca trong Giải Khăn Sô cho Huế, có khi người ta nghe tiếng la thất thanh, tiếng kêu gào tới mức không còn ra tiếng nữa. Tôi biết đó là tiếng kêu từ Huế Tết Mậu Thân. Tiếng kêu của người dân miền Nam trong cuộc chiến.
Hôm nay, lần đầu tiên tiếng kêu ấy được mang đến UC Bekerley.
Nhờ buổi họp mặt này, hai chị em chúng tôi được gặp nhau lần đầu. Cuốn sách chúng ta có hôm nay không chỉ là bản dịch. Phần chính của sách là công trình nghiên cứu nghiêm túc của Giáo sư Olga về tiếng nói của người dân trong trận tấn công 1968. Giải Khăn Sô cho Huế và Nhã Ca, với hàng trăm chú giải chi tiết kèm theo bản Anh ngữ do Olga thực hiện, chỉ còn là đề tài của công trình nghiên cứu.
Tha lỗi cho tôi, Olga. Tôi đã đẩy sang vai bạn phần lớn gánh nặng. Bạn đã lãnh dùm việc nhìn lại toàn bộ trận chiến Tết Mậu Thân tại Huế. Bạn cũng đã giới thiệu quá đầy đủ về cuốn sách, tác giả và tác phẩm.
Phần tôi, chỉ xin góp thêm chuyện bên lề, lan man không thứ tự. Bắt đầu bằng... Ký ức một thời về chiến tranh, khủng bố.
Tôi ra đời cùng lúc với cuộc Đại chiến Thế giới lần thứ hai. Huế thời đó còn là kinh đô của các ông vua triều Nguyễn, nhưng cả nước đã trở thành thuộc địa của Pháp.
Năm 1937, quân Nhật tiến chiếm nước Trung Hoa rồi tràn vào Việt Nam kéo theo bom đạn của thế chiến.
Từ thủa còn bé thơ, hai ba tuổi, tôi đã biết nếm mùi chiến tranh, bom đạn, nhà cửa bị đốt cháy, cả nhà phải chạy loạn, đi tản cư trên những chiếc ghe, người lớn chèo trối chết, thuận hoặc ngược dòng sông để lánh nạn.
Năm 5, 6 tuổi, có lần theo lũ trẻ chơi đùa trên sân đình làng quê, thấy một bãi máu nhuộm đỏ từ gốc cây sung, bọn trẻ chạy theo, lên thềm đình. Xác một người đàn ông bị cưa ra làm 3 khúc. Đầu treo trên cây, thân nằm giữa sân và tay chân sắp trên thềm đình. Người bị giết là một thợ rèn, hiền lành. Việt Minh giết.
Năm tôi 9 tuổi. Tại Huế, Việt Minh cướp chính quyền, vua Bảo Đại thoái vị, con đường Nam Giao của Huế, nơi có nhiều vườn chùa êm ả bỗng dấy lên nhiều cảnh kinh hoàng. Lúc đó, tôi học ở một trường tiểu học tên là trường Nam Giao. Sáng sớm, mấy bạn trong xóm rủ nhau đi học, bọn con nít chúng tôi thường kinh hoàng la hét, khi thấy một cái đầu bị cắt đứt lìa từ cổ để trong một cái rổ tre với một miểng giấy ghi của Việt Minh lên án Việt gian. Có khi đầu lâu hay thân người, hay cánh tay, đùi chân đặt trên cái rá, cái thúng. Có người tứ chi bị cắt rời, thân bỏ vào bao bố, đầu để ra ngoài, hai con mắt mở trừng trừng, miệng còn dính máu đông, rất hãi hùng.
Nhưng rồi... có một lần, bạn tôi không la, không hét, không xô đẩy. Mà cũng như thấy xung quanh không hề có ai. Cũng không nhấc tay, dợm chân. Bạn đứng sững. Tuy còn là một đứa nhỏ, nhưng tôi biết "đứng như trời trồng" là lúc bạn đứng đó. Hai cái đầu được bày trên hai cái nón lá chính là ba và mẹ của bạn. Bạn ra sao lúc đó? Bạn cứ đứng vậy. Hai mắt bạn cũng trắng dã, trợn trừng như bốn con mắt không thể nhắm của ba mẹ bạn.
Tôi cũng đứng như vậy. Không nhấc nổi tay chân. Không mở miệng. Sau đó, người ta xua đuổi bọn con nít đi. Tôi lạc mất bạn.
Và rồi, Tết Mậu Thân 1968, chuyện tàn sát tập thể bằng cách chôn sống đã diễn ra tại Huế. Hàng ngàn dân Huế bị chôn ở Thành Nội, ở Gia Hội, ở Bãi Dâu, ở Phú Thứ, ở khe Đá Mài... Không chỉ trong núi trong rừng, nơi họ bị chôn còn là đất chùa, đất nhà thờ, đất trường học, và ngay tại vườn nhà.
Trong số những người bị chôn có chị Tâm Tuý, cô bạn trường Đồng Khánh của tôi. Khi xác được đào lên, thấy tóc mọc dài hơn, móng tay mọc dài hơn. Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống, như nhiều nạn nhân khác.
Trong cuộc hưu chiến đêm giao thừa mùng một tháng Giêng Tết Mậu Thân, nhằm ngày 29 tháng Giêng 1968, các đơn vị cộng quân - gồm cả quân chính qui Bắc Việt và dân quân địa phương - lặng lẽ tiến vào Huế, kiểm soát được khu Gia Hội trong 20 ngày. Chỉ trong thời gian ngắn ngủi này, có tới 473 người Huế bị chôn sống.
Tiếng kêu Tết Mậu Thân từ "Giải Khăn Sô cho Huế" mới chỉ là những ghi nhận đầu tiên. Còn hàng ngàn tiếng kêu khác bao năm qua vẫn liên tục cất lên, ngay trên đất Hoa Kỳ. Xin kể một trường hợp mà chính tôi biết rõ: Ông Võ Trang, 56 tuổi, cư dân San Diego, một kỹ sư điện đang làm việc cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại đây, hồi tưởng việc bố của ông được mời đi "họp" chỉ 2 ngày trước khi quân đội quốc gia tái chiếm thành phố Huế. Ngày ấy, ông còn là một thiếu niên 15 tuổi. Sau đây là đoạn trích do ông Võ Trang viết:
"Trong khi tôi đang ngồi cạo chiếc ghế xích đu cũ để sơn lại thì bỗng có người vỗ vai tôi và hỏi nhẹ "Em ơi! Có ba ở nhà không?" Tôi bàng hoàng quay lại. Hai người, một dân quân áo bà ba quần cụt, một chính quy với dép râu và quân phục, nón cối màu vàng. Tôi hỏi lại họ muốn kiếm ai thì họ nói tên ba tôi rõ ràng. Chị giúp việc mà gia đình tôi vừa thuê vài tháng trước đã mở cửa sau cho họ. Tôi vào kêu ba tôi trong hầm dã chiến. Hết đường chạy rồi! Phòng chỉ có một cửa ra vào thì họ đã đứng chận. Ba tôi mặt tái xanh và không nói gì nữa. Trong hầm còn có một người em trai của me tôi, là một cảnh sát viên, đã khuyên ba tôi nên đi ra để họ khỏi xông vào bắt thêm những người họ không dự định. Me tôi đưa thêm chiếc áo len cho cho ba tôi mặc vào. Người anh thứ hai của tôi chạy theo xin đi thế nhưng họ không cho. Hôm đó là ngày 19 âm lịch tháng Giêng năm Mậu Thân...
"Khoảng hơn một tuần sau, các hầm chôn người tập thể nằm phía sân sau của trường Tiểu học Gia Hội được phát hiện. Xác người khi được khai quật, tuy chưa bị rữa nhưng đã sưng phồng lên và bốc mùi.
"Cái thây người được kéo lên để nằm ngửa người trên một u đất, miệng há hốc, mặt đen xám và dính đầy đất, hình ảnh mà cả cuộc đời tôi không bao giờ quên. Đó là ba của tôi. Những chứng cớ không thể chối cãi. Chiếc áo có vẽ 4 cái đầu của ban nhạc "The Beatles" bên ngực trái, là chiếc áo độc nhất vô nhị của anh tôi mà ba tôi rất thích. Hai chiếc tất (vớ) thêu lủng lỗ mà anh em chúng tôi đều biết được chia đều vào 2 túi quần. Rõ ràng là dấu hiệu ba tôi để lại cho gia đình nhận diện. Tôi không biết ba tôi đã vật vã như thế nào vào giờ phút đó nhưng me tôi và các anh em tôi thì vẫn đau đớn cho đến bây giờ...".
Võ Trang cho biết trong số người bị chôn có cả cô gái 19 tuổi ở cách nhà ông 2 căn. Người anh là một cảnh sát viên vắng mặt nhưng có tên trong danh sách được mời, cô em thay thế anh "đi họp"!
Và kể thêm: "Thảm sát tập thể như thế này cũng đã xảy ra ở Sịa, vùng quê gần Huế, vào năm 1947. Trước khi rút lui vì nghe tin quân Pháp sắp trở lại, cộng sản kêu gọi dân chúng đi đào hầm chống Pháp. Những hầm này thật ra chính là những hầm chôn tập thể chỉ trong vài ngày sau đó. Theo lời chú tôi kể lại họ đi bắt người cả ban ngày và ban đêm. Ông cố nội của tôi, đã 70 tuổi cũng đã bị bắt đi vào ngày 17 tháng 2 nhằm ngày 20 Tết Âm Lịch. Lúc đầu người ta phát giác xác anh TH., một nhân vật có võ được biết trong làng, chết bên vệ đường với nhiều vết chém, đứt cả bàn tay. Rồi lần theo vết máu người ta tìm đến những hầm chôn người tập thể trong đó có cả Ông cố nội của tôi và em của Ông. Những vết cắt cho thấy họ bị chặt đầu bằng mã tấu! (1).
Và Đêm Huế 1970. Hai năm sau trận chiến Mậu Thân, họp mặt ra mắt sách "Giải Khăn Sô cho Huế" lần đầu tại Sài Gòn, với sự hiện diện của Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị đại sư huynh của các nhà lãnh đạo Phật giáo Việt Nam. Sau đó toàn bộ số thu từ cuốn sách được mang về trao tặng Trường trung học Đồng Khánh và Đại học Y Khoa Huế. Chuyến đi Huế lần này có sự tham dự của Linh mục Cao văn Luận, viện trưởng sáng lập Đại học Huế, nhà văn Doãn Quốc Sỹ, các nhạc sĩ Phạm Duy, Cung Tiến...
Tại Huế vào thời điểm này, dân chúng ngày ngày đang lùng kiếm đào bới các hầm chôn người do cộng quân để lại, thành phố đổ nát đầy tang tóc. Đêm Huế 1970 cho tôi những hình ảnh nhớ đời.
Một buổi chiều, với chiếc xe Volkswagen, chúng tôi sang Thành Nội. Đây là chiếc xe của ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick để lại trong chung cư y khoa sau khi bị cộng quân bắt đi. Ông bà cùng hai vị bác sĩ người Đức khác là Raimund Discher và Bác Sĩ Altekoester là bốn bác sĩ người Đức sang giúp trường Y khoa Huế từ 1960. Cả bốn vị đều đã bị cộng quân bắt đi xử bắn.
Tại Thành Nội, chúng tôi có buổi ăn tối với các bạn ở Trường Âm nhạc Huế. Đây là nơi trú đóng của cộng quân trong cuộc giao chiến. Trong khu vườn nhà trường, có con mương dẫn nước chạy qua. Lúc đứng ở sân, người vợ của anh bạn giám đốc trường nhạc chỉ tay vào cái mương, nói là sau khi Việt Cộng đã rút chạy, anh chị trở lại đây, thấy xác binh sĩ Việt Cộng nằm chết xếp lớp dày đặc trong con mương. Người chết không còn oán thù, có một mâm cơm, một bát nhang bày ở đó.
Trên đường lái xe về, trong đêm Huế thê lương đâu đâu cũng thấy bầy bàn thờ nhang khói, chúng tôi có ngừng lại thăm một ngôi nhà có người cha người anh đã bị cộng sản chôn sống tại Gia Hội. Con em trong nhà mang áo xô gai, thay nhau cầm bó đuốc chạy quanh gốc cây trước nhà. Theo niềm tin của dân gian, những hồn chết oan không biết đường về nhà. Phải đốt đuốc hướng dẫn cho linh hồn lưu lạc biết đường mà trở về.
Có biết bao hồn oan trong trận chiến Huế Mậu Thân đang chờ ánh đuốc, cả hồn oan của những chiến binh miền Bắc bỏ xác trong mương nước thành nội.
Năm Ất Dậu, 1885, Pháp đã đưa quân vào Huế uy hiếp triều đình. Đêm 23 tháng 5 âm lịch, 30.000 quân Nam tấn công căn cứ Pháp tại Mang Cá nhưng bị đánh bại. Kinh thành thất thủ, đại thần Tôn Thất Thuyết phải mang Vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị mở phòng trào Cần Vương. Trong trận chiến này, hơn 1.500 quân dân Huế bị tàn sát. Ngay từ năm Mậu Tuất tiếp theo, Huế lập Đàn Tưởng Niệm, xây thêm miếu Âm Hồn trong Thành Nội, hàng năm, đúng ngày giỗ, cả thành phố đều đốt nhang, làm lễ.
Thực dân Pháp không cấm việc dân Huế tưởng niệm người chết. Cộng sản thì khác.
Huế Mậu Thân, số nạn nhân bị tàn sát nhiều gấp 5 lần, nhưng từ sau 1975, mọi đài tưởng niệm đều bị phá bỏ, dân chúng thì bị công an đến từng nhà truyền lệnh cấm tụ tập làm giỗ.
Hình ảnh bập bùng của những ngọn đuốc đêm Huế ấy bao năm vẫn chập chờn trong đầu tôi.
Thưa quí vị,
Năm Ất Mùi 2015, bốn mươi năm sau chiến tranh Việt Nam cũng là dịp kỷ niệm 20 năm bang giao Việt Mỹ.
Lịch sử có ghi là hai năm trước khi Nội chiến Nam Bắc Mỹ kết thúc, tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln đã chỉ định "một ngày tủi nhục quốc gia" cho nước Mỹ. Trong ngày này ông đã kêu gọi cả nước nhận chung "tội lỗi của chúng ta" và cùng nhau xưng tội, cầu nguyện sự tha thứ.
"Ngày tủi nhục quốc gia" được công bố tại Mỹ là ngày 30 tháng 3 năm 1863. Đã hơn 150 năm. Nội chiến Hoa Kỳ chấm dứt vào vào tháng Tư năm 1865. Liên Bang nước Mỹ, với sự tôn trọng dành cho phía miền Nam - lá cờ miền Nam vẫn được treo, binh sĩ miền Nam vẫn giữ súng cá nhân, liệt sĩ Nam Bắc chung nghĩa trang, cả nước không có một cuộc diễn binh hay lễ hội mừng chiến thắng. Từ đó mà có được nước Mỹ ngày nay.
Sau Tết Ất Mùi, sang năm sẽ là Tết Bính Thân. Sắp thêm một năm Thân.
Chiến tranh Việt Nam, anh em một nhà bị đầy tới chỗ giết nhau, thù hận nhau. Tháng Tư 1975 của Việt Nam - sau tháng Tư của nước Mỹ 110 - thêm cả triệu người miền Nam bị thủ tiêu, tù đày, chìm dưới đáy biển. Vậy mà cho tới nay, tại Việt Nam cũng như tại nhiều nơi, trong nhiều cái đầu, vẫn chưa thấy nghĩ lại.
Trong bài "Tựa Nhỏ: Viết Để Chịu Tội" mở đầu sách Giải Khăn Sô Cho Huế, tôi có viết rằng chính thế hệ chúng ta, thế hệ của tôi phải chịu trách nhiệm về cuộc tàn sát Tết Mậu Thân cũng như cả cuộc nội chiến. Tầm nhìn thế hệ không phải phân biệt tả hữu, nam bắc. Sau đó là lời mời gọi cùng đứng trước bàn thờ ngày giỗ.
Khi viết lời tựa nhỏ cho bản in lần đầu "Giải Khăn Sô Cho Huế" vào năm 1969, tôi viết với niềm tin vào tương lai của Huế, tương lai Việt Nam.
Vào năm 2008, khi viết thêm ít dòng cho bản Việt ngữ của cuốn sách được tái bản ở Mỹ, tôi viết "Sẽ tới lúc phải có một bàn thờ chung, ngày giỗ chung tại quê hương, nơi từng biết thế nào là sự ăn ở tử tế, như từng biết thế nào là văn hóa, lịch sử."
Và hôm nay, tại đây, vẫn với nguyên vẹn niềm tin xưa, tôi tiếp tục chờ đợi.
Những người Huế từng bị tàn sát Tết Mậu Thân xứng đáng được tưởng niệm.
Các thế hệ tương lai tại Việt Nam xứng đáng được nghe, được nghĩ, được nói điều chân thật, được hưởng một đất nước lành lặn, sạch sẽ.
Ngày ấy sẽ tới.
Kính chào và cám ơn quí vị.
Nhã Ca
(1) Bài “Xuân Này Nhớ Xuân Xưa” của tác giả Võ Trang, sách “Viết Về Nước Mỹ” 2009.
Tháng Chạp giỗ đầu
Năm nay, nhờ có thêm một tháng nhuận, năm dài thêm một chút, thành thử tháng Chạp giỗ đầu ba tôi lại trở thành tháng giỗ đầu cho cả chục ngàn người chết trong biến cố Mậu Thân ở Huế.
Chúng tôi về tới Huế vào những ngày cuối cùng của tháng Mười một. Năm ngoái khi cúng ông táo xong, buổi tối, tôi nhận được điện tín từ Huế đánh vào báo tin ba tôi đã yếu. Ngày hôm sau, khi tôi về tới thì chỉ còn đủ giờ cho ba tôi nhìn thấy khuôn mặt con gái lần cuối cùng để khép mắt. Rồi sau đó biến cố xảy ra, chạy loạn, sống sót trở vào Sài Gòn yên lành, tôi không hình dung được Huế đã tan nát như thế.
Những ngày chạy loạn, những chi tiết, những chuyện kể, bao nhiêu đó tôi vẫn chưa hình dung được vẻ tang thương của Huế, thành thử giải khăn sô cho Huế tôi đã viết gần một năm, xoá đi sửa lại mà vẫn chưa hài lòng.
Lần này chúng tôi về Huế với tất cả sự nô nức chờ đợi. Từ gần một năm qua vợ chồng con cái đã đứng ở sân bay Phú Bài, giữa sân bay cũng đầy bụi cát. Nơi này, năm ngoái tôi về để thắt chiếc khăn tang riêng rồi khi đi, cùng thắt tang chung với thành phố. Nơi này những năm về trước chồng tôi đã đi về, tôi đã cắn răng để lên máy bay, cố tình bỏ Huế, ghét Huế. Và đây là lần đầu tiên, từ ngày bỏ Huế, vợ chồng tôi mới cùng chung một chuyến về, và cảm động thay, trên tay chúng tôi, còn con bồng con mang nữa.
Ba tôi khi sống không được may mắn, quả khi chết đã được đền bù. Nếu ông nhắm mắt chỉ lùi lại vài ngày nữa thì chắc gì chúng tôi có đủ thời giờ để chôn cất tử tế, có đủ vải để thắt một giải khăn sô. Đến ngày giỗ cũng vậy, mấy hôm trước, nghe tin khí tượng tôi biết thời tiết ở Huế lạnh ghê lắm, lạnh và mưa dầm. Chúng tôi đã chuẩn bị như những người đi tới xứ tuyết. Nhưng khi đến nơi, trời nắng khô. Thời tiết không khác gì ở Sài Gòn. Từ Phú Bài chúng tôi lên xe ca vào thành phố. Xe chạy qua những cánh đồng láng nước, những làng xóm nghèo nàn rồi vào An Cựu. Những căn nhà đổ nát đã bắt đầu hiện ra, gần tới nghẹo, tôi cố tìm căn nhà thờ của gia đình tôi ở An Cựu nhưng tôi không nhận ra nổi. Xe chạy quá, tôi cũng chỉ kịp nhìn lên phía núi Tam Thái mà chưa hình dung ra được nấm mộ nhấp nhô trên sườn núi.
Thành phố đã đầy hơi thở nhọc nhằn đang gượng bò dậy. Xe qua chợ An Cựu, nơi đây ngày trước là mục tiêu của đại bác, của rốc kết, nay đã được dựng lại sơ sài bằng những mái tôn còn mới tinh, vừa gội một mùa đông đầu tiên.
Trên những nền nhà, bên cạnh những đống gạch khổng lồ, những mái tôn đã được dựng lên, hoặc những mái che sơ sài bằng những miếng vải dầu có dằn bằng bao cát. Những con đường, ngoài những ổ gà cũ kỹ vẫn còn sạch sẽ.
Xe qua Dòng Chúa Cứu Thế, ngôi nhà thờ sừng sững kiên bền vẫn còn thách thức, vậy mà những ngày đầu xuân vừa rồi, chỉ mấy tấm kiếng rơi xuống, vài viên đạn xuyên qua cửa sổ, bao nhiêu người ngã xuống, bao nhiêu máu đã chảy, khiến chúng tôi xô đạp lên nhau, kêu khóc như ri, chạy bất kể chết ra ngoài để tìm sự sống.
Tôi chỉ cho chồng tôi khu Dòng Chúa Cứu Thế này và nói những ngày đầu tiên tôi đã chạy tới đây. Chồng tôi nhìn ngôi nhà kiên cố với vẻ ngạc nhiên:
"Đâu nào, anh thấy hư hại chi đâu mấy".
Tôi không trả lời, chính tôi, tôi cũng không hiểu tại sao những viên đạn đã lọt vào bên trong những tấm kiếng rơi xuống mỏng manh thế mà có thể cắt xẻ thịt người. Tôi cũng không thể nào hiểu nổi sự sợ hãi đến tê điếng, chết lịm khi nghe một âm thanh xé vèo, ngọt lịm băng qua khoảng không. Cảm giác đó làm sao tôi còn tìm thấy lại một lần nữa trong đời sống?
Xe chạy vòng quanh phía hữu ngạn rồi lên đậu ở sân ga xe lửa. Cũng như mọi nơi khác, đường xe lửa đã tê liệt rồi. Tôi không nhìn thấy phía sau nhà ga nhưng cũng hình dung được những cỏ lùn đang mọc kín những khoảng đường rầy rỉ sét cũ kỹ và những toa tàu bỏ trống. Ở đây, cũng như Sài Gòn, khoảng sân ga thơ mộng của những lần hẹn hò, chia tay, của những tối đi hóng mát, ăn chè ga, ăn nem chả, bún bò đã trở thành trạm hành lý của Hàng không Việt Nam mất rồi.
Những hàng quán vẫn chưa mở lại, và trước thềm ga hình như tất cả những chiếc xích lô còn được nguyên vẹn sau Tết Mậu Thân đã tập trung hết nơi đây, mời mọc, níu kéo khó chịu.
Chúng tôi đi bộ lên dốc Nam Giao để tới Từ Đàm, hai đứa con tôi vừa nắm tay nhau đi dung dăng đằng trước, vừa chỉ những ngôi nhà đổ nát vừa cười khúc khích, hay reo lớn như trông thấy một vật quá lạ mắt. Chúng tôi nhìn nhau. Từ cầm chặt tay tôi, trong tiếng cười của con thơ, tôi nghe chừng lòng lắng lại, và bỗng muốn ứa lệ.
Trên những đống gạch vụn còn ngổn ngang giữa những nền nhà bỏ không, những giọt nắng vàng vẫn tung tăng nhảy múa. Lòng tôi cũng lung linh một giọt nắng của ba tôi đã về trời, và bao nhiêu giọt nắng khác đã về trời sau biến cố Mậu Thân. Nhưng cứ hy vọng đi, bao nhiêu giọt nắng khác đang còn nhảy nhót trên những đổ vỡ. Ba ơi, ba ơi. Tôi gọi thầm những tiếng nhỏ, những tiếng nhỏ nuốt gọn vào lòng tôi như những giọt lệ không cách nào chảy ra được lúc đó.
Chúng tôi đi về ngôi nhà của gần mười năm xa Huế.
Ngay buổi chiều hôm đó, vợ chồng con cái chúng tôi đã vội vã về An Cựu, nơi căn nhà thờ họ ba tôi đã gây dựng, đã chết ở đó.
Ngôi chùa Từ Đàm đã được quét dọn và đang sửa chữa lại, nhưng khi xe xuống dốc Bến Ngự, những căn nhà đổ nát vẫn còn nguyên vẹn. Tuy gạch ngói đã được dọn bớt, nhưng vẻ tiêu điều thê lương vẫn đeo cứng trên những bức tường đổ loang lổ vết đạn, trên những thân cây trơ trụi cành đang mọc lên những cành mới, nhỏ, không đủ sức vươn lên.
Gia đình tôi đã về hết ở An Cựu để lo việc giỗ đầu. Tôi không gặp má tôi, bà bận việc đi chợ. Ông anh cả, bà chị dâu, cô em gái và mấy đứa cháu chạy ùa ra khi xe xích lô vừa đỗ ở cổng sắt. Mấy đứa cháu nhỏ quấn quít hai đứa con tôi, còn chúng tôi thì ríu rít trả lời không kịp những câu thăm hỏi.
Vào sân, tôi nhìn quanh khu vườn, dù căn nhà đã được sửa sang lại, và hôm nay dọn dẹp tươm tất, che rạp ở sân, nhưng khu vườn vẫn mang vẻ thê lương khó tả. Cây cối như đã chết khô gần hết, sân trước, nơi khoảng đất rộng năm xưa trồng toàn cam và ổi nay mọc đầy cỏ, mà thứ cỏ vàng úa. Đứa em gái của tôi phàn nàn:
"Bột khai quang làm chết hết cây cối chị ơi".
Nó chỉ lên mấy đọt dừa:
"Chị coi mấy cây dừa năm rồi chạy loạn về còn hái được vài trái uống nước, năm ni thì không ra trái được nữa".
Mấy cây dừa không đủ sức đâm thêm những tàu lá non và những trái dừa non chưa kịp lớn đã khô quắt lại, như những chùm cau héo. Tôi nhìn ra bể cạn trước sân, cây mai vàng Tết Mậu Thân vừa rồi, dù đặc hơi súng đạn tanh máu người vẫn còn nở hết mình và vàng rực cả khoảng bể nước lớn, năm nay chỉ còn lá vàng khô và vài đọt lá non thưa thớt, chưa có một nụ hoa nào.
Cô em gái kéo hai vợ chồng tôi lại một góc vườn, chỉ xuống phía dưới cây cỏ xơ xác hỏi:
"Anh chị có thấy gì lạ không?"
Chúng tôi cùng nhìn xuống. Không có gì lạ. Trên một vùng đất chỉ có cỏ mọc lởm chởm vàng úa. Thấy chúng tôi sững sờ, cô em giải thích:
"Đây này, anh chị thấy, quanh đây chỗ nào cũng có cỏ, chỉ có khoảng này làm cỏ không mọc nổi. Tại hôm tết, ông Ba bên hàng bún bò đầu ngõ bị bắn chết, người ta chôn dưới đây không hòm không chiếu. Uất khí của ông làm cỏ không mọc được".
Câu chuyện của cô em làm tôi nắm chặt tay chồng tôi hơn. Quả nhiên, theo ngón tay chỉ của cô em, tôi đã nhận ra một vồng đất vừa bằng cỡ người nằm, trên đó không có ngọn cỏ mọc.
Xế chiều tối, khi ánh nắng ma quái của mùa cuối đông đã tắt lịm trên những lá cây héo mòn tàn tạ vì thuốc khai quang, các thầy ở chùa Từ Đàm về. Toàn là những khuôn mặt của Tết Mậu Thân cũ cả.
Tôi nhớ lại ngày chạy loạn mới về An Cựu được một hôm, buổi sáng hôm sau thấy ngoài đường xôn xao và nghe tiếng thầy về. Tôi chạy ra. Thầy Thiện Siêu, một vị thượng toạ của chùa Từ Đàm, nơi mục tiêu tập trung của đại bác câu ngày câu đêm, đã thoát được khu hiểm nghèo và về tới được. Bây giờ Từ Đàm đang ra sao? Chỉ mấy phút ghé qua nhà rồi đi, tôi chưa nhìn thấy gì hết, bây giờ nhìn lại khuôn mặt thầy trang nghiêm trước bàn thờ Phật, đang cầu siêu cho ba, lòng tôi không khỏi xúc động.
Nơi bàn Phật này ngày trước là nơi đặt quan tài của ba, cầu cho ba siêu thoát.
Tiếng cầu kinh đã đều, nhịp nhàng như ru bao giọt nắng của bao linh hồn đã mất vào không gian. Má tôi bắt đầu khóc, chị dâu tôi khóc, rồi tiếng sụt sịt của mấy đứa cháu năm ngoái không về dự đám tang được. Tôi cũng muốn khóc lắm, muốn sụt sùi lắm, nhưng ba ơi, con chỉ có thể nặn ra được hai giọt lệ mà không thể thoát ra một tiếng nấc nào. Sự thương nhớ ba đã dìm con trong suốt gần một năm nay, và bây giờ, không lý gì, con còn không biết con đã mất ba vĩnh viễn. Thôi, chỉ cầu mong linh hồn ba bình yên, linh hồn ba, một trong những giọt nắng vừa còn vương vấn ở ngoài vườn kia, bay trước về cõi siêu thoát. Còn lại bao nhiêu giọt nắng của Tết Mậu Thân, bao nhiêu oan hồn vất vưởng đó, Huế sẽ phải làm gì cho họ? Ba tôi đã có ba ngày cúng chay, cầu siêu, tế lễ, nhưng tháng Mười một của năm nhuận sắp hết rồi, ngày mồng Một tháng Chạp sẽ là ngày giỗ đầu của cả chục ngàn người ngã xuống ngày đầu tiên trong biến cố đầu năm Mậu Thân. Phải làm gì cho họ? Huế ơi.
Từ mười một giờ trưa ngày thứ Hai cho tới xế chiều hôm đó, căn nhà thờ họ của gia đình chúng tôi không ngớt người đến thăm và nhớ tưởng người chết.
Buổi trưa khi trở về, ngồi trong mâm cơm chay, nhiều người khách đã hỏi thăm tôi về Sài Gòn trong những ngày đầu xuân. Hỏi thì hỏi để biết rằng sự tang thương không chỉ có Huế gánh chịu, nhưng trong đôi mắt đang tràn đầy bóng tối u buồn, tôi biết họ đang nghĩ gì. Má tôi nhìn thấy nhiều người đến thăm viếng mà lại là đồng sở của ba tôi, bà lại khóc. Nhiều tiếng phân ưu, an ủi, không khí chỉ buồn lúc đầu, rồi tôi lại thấy vài nụ cười nở trên môi họ. Nhưng nụ cười lại tắt ngay khi những câu chuyện về biến cố Mậu Thân được khơi dậy. Chồng tôi đã mượn được bộ tang phục của đứa em bận công tác không về giỗ đầu ông bác kịp. Anh đứng khoanh tay nghe chuyện mọi người. Tôi đang buồn cũng không nhịn cười được khi có nhiều người gọi chồng tôi là ông nhà báo.
"Ông nhà báo ni, ông ở xa lắm răng biết được bữa Mậu Thân dễ sợ ra răng. Có người chết mà chó nhai hết tay chân, ăn hết mắt. Nơi nhà tôi chứ ở trong vườn còn mấy cái mả mà không biết của ai cũng không dám đào lên chôn chỗ khác, ma hiền không nói chi chớ ma dữ nó phá có mà chết cả nhà".
Khi chết rồi còn hận thù chăng? Câu chuyện của người khách làm tôi thắc mắc. Chồng tôi cười hiền lành và tiếp tục nghe chuyện về Tết Mậu Thân. Thì cũng đại để như những chuyện tôi đã nghe, đã biết. Một bà mẹ bế đứa con nhỏ đã chết chạy loạn, cứ sợ người ta chôn con mình, cứ bọc chặt trong áo và vừa đi vừa ru, vừa khóc vừa cười. Một bà già gánh một thúng đựng gạo, một thúng đựng xác cháu, chạy đi tìm chỗ nào ngớt bom đạn để chôn, cuối cùng chết dọc đường mặt úp trên chiếc thúng còn xác đứa cháu đã sình thúi. Một bà mẹ lạc con cứ chạy kiếm những xác trẻ, gặp xác nào cũng lật lên nhìn, kêu khóc, cuối cùng lượm được một khúc chân mà bà tin chắc là chân con mình. Đến khi bị thương gần chết không chôn được chân con, chị ngậm cả bàn chân vào miệng, ngậm cứng mà chết.
Dù những chuyện này tôi đã được nhìn thấy, đã chứng kiến có khi còn nhiều chuyện thê thảm hơn, nhưng khi nghe lại tôi không khỏi rùng mình nổi gai ốc. Tôi còn chứng kiến cảnh hàng trăm người đàn bà trẻ con, sư có cha có, cầm cờ trắng để chạy ùa qua một cây cầu ngắn có bốn năm thước từ vùng Việt Cộng chiếm đóng về, qua tới cầu An Cựu, ở đây đã bị lính Mỹ gác cầu bắn đùa một con chó xuống nước. Mỗi lần con chó lội được gần bờ thì những loạt đạn làm con chó dang ra xa, và đồng bào ở trên bờ la khóc như ri chạy vứt cả thúng cả gióng, rớt cả con thơ xuống đường. Lần đó tôi đã cầm chặt hòn đá trong tay, nhưng hòn đá mà ra gì? Cả thân phận đất nước chúng tôi không hơn gì một con chó bị thương đang cố bơi vào bờ, dưới những lằn đạn bắn như mưa đó. Hòn đá mà làm được gì?
Hòn đá đã rời khỏi tay tôi, hòn đá to nặng mà nhẹ bấc trong khối tủi nhục. Bên tai tôi, giọng một bà già lạc đi như sắp khóc:
"Mấy bác biết không, tui lượm được chiếc xe ba bánh chở xác ông với thằng con trai. Tui sức già kéo mô có mau, rứa mà cũng kéo được xuống cầu. Mấy thằng Việt cộng nó nói chết rồi mà ra gì, đem đi mần chi. Nó xô cả cái xe và cái xác xuống sông. Tui khóc tui lạy như tế sao mà tụi nó cứ tỉnh bơ nói đồng bào phải giúp quân giải phóng Huế, rồi Bác Hồ vào ai cũng sung sướng. Tui chạy được qua bên quốc gia thì họ nghi tui theo Việt cộng, đi liên lạc. Tui kể chuyện cho họ nghe Việt cộng xô xác chồng tui con tui xuống sông, họ nói chuyện khó tin. Về sau tui khóc quá họ mới tin rồi cho tui gạo cơm, đem tui về trường kiểu mẫu tui mới sống đó chớ".
"Rứa bữa cúng giỗ đầu chị cúng mô. Một ông già hỏi".
"Thì bưng cơm, vàng bạc ra cầu mà cúng chứ biết ông tui con tui ở mô chừ".
"Rứa chừ chị vẫn ở nhà cũ".
"Thì tui che cái mái. Thằng rể của tui đi lính trong Quảng ra mần cho đó. Nó đón tui đi vô Quảng mà tui không đi. Ở đây bao nhiêu ràng buộc mà đi răng cho đành. Tui phải cúng giỗ cho ông tui với con tui chớ. Ở cái nhà cũng sợ quá, nghe nói Việt cộng bữa đó chết trong nhà tui nhiều lắm, chôn ngoài mương cũng nhiều. Có đêm tui nằm chợt thấy đông lắm, mặc áo quần giải phóng, đeo băng đỏ bằng vàng, cứ kêu đói xin ăn. Tui kệ, nhớ lần nó xô xác chồng con xuống sông, tui không cúng".
Kể chuyện người chết xong kể chuyện ma. Cứ hết lớp này đến lớp khác, tôi nghe không biết bao nhiêu chuyện. Cho tới chiều, tôi nhìn thấy một cụ già có khuôn mặt hết sức quen. Nhớ ra là ông Lý Biện, người đánh kiềng hôm đưa đám ba tôi. Ông này có bà vợ chết vì mọt chê mười mấy ngày sau khi Huế xảy ra biến cố. Thấy tôi, ông cười: "Ba cháu rứa mà phước đức sung sướng. Cháu đừng có buồn mà phải mừng. Chết trước được cúng trước, được mồ mả đẹp con cháu đông nhà". Ông không nói thêm nhưng tôi biết là ông đang nghĩ tới bà vợ. Tôi cũng không dám nói lời an ủi nữa, tôi sợ nụ cười gượng trên môi ông sẽ tắt mất.
"Răng, ở lại vài ba bữa nữa coi cúng giỗ đầu. Tháng Chạp năm ni cả thành phố cúng. Ở lại chia buồn với quê nghe cháu".
Rồi ông quay sang mọi người đang ngồi đầy bàn:
"Răng, năm ni các ông các bà có nghe chính phủ đoái hoài chi tới Huế không?"
"Không biết. Nhưng chùa sẽ tổ chức một buổi tuần hành lặng lẽ để nhớ tới người đã khuất. Còn nghe nói thành phố sẽ tổ chức một ngày đi tảo mộ, nhổ cỏ, thăm người chết".
"Rứa cho con vợ tui nó mát mặt. Con vợ tui chết mà nó chết đói chết khát. Trời ơi là trời, đất ơi là đất".
Buổi chiều hôm trước khi nói chuyện với mấy thầy trên chùa Từ Đàm về, tôi cũng nghe các thầy nói về ngày giỗ đầu của Huế trong biến cố Mậu Thân. Anh tôi nói rằng: Dù sao cũng đỡ. Năm nay là năm nhuận, giỗ đầu sẽ vào tháng chạp, và những ngày đầu năm sẽ đỡ tang thương hơn.
Nhưng tôi lại nghĩ khác. Cái tang chung của thành phố sẽ vô cùng bền bỉ. Nó còn to tát, buồn thảm hơn ngày 23 tháng 5 cúng cô hồn, nó còn ngậm ngùi hơn ngày rằm tháng Bảy cúng chiến sĩ trận vong. Mấy trăm người chết ngày tháng Năm của Huế thất thủ đã thành một cái tang thương lớn rồi. Cứ mỗi năm, ngày này của Huế đi đâu nghe tiếng chiêng trống, tiếng kinh kệ cầu nguyện. Huống hồ cái biến cố vừa qua gần mười nghìn người đã chết.
Đám giỗ ba tôi linh đình trong ba ngày liền. Trong ba ngày tôi đã được nghe bao nhiêu mẩu chuyện, về biến cố Mậu Thân, bao nhiêu dự định cho người đã chết. Trong một buổi sáng đi ra đường vội vàng tôi đã nhìn thấy những hàng vàng hương. Đó, cả thành phố đang thành một đám giỗ vĩ đại.
Sau mấy ngày bận việc cúng giỗ, khách khứa, sáng ngày thứ ba, sau khi cúng đốt tang năm đầu cho một vài đứa cháu, chúng tôi lên núi Tam Thái thăm mộ ba tôi. Mộ ba tôi chôn trên cao, sườn núi đá ít cỏ mọc nên trông vẫn còn có vẻ mới. Nghĩa địa vẫn lặng lẽ như cũ. Hình như những người chết trong biến cố Mậu Thân không được lên đây là mấy, chỉ vài nấm mộ mọc thêm, thưa thớt. Vợ chồng tôi đốt nhang và cúi lạy trước mộ ba tôi. Bảy tám năm khi chúng con cùng trở về thì ba không còn nữa, Huế cũng đã đổi khác. Nhưng chúng con còn trở về, còn đứng trước mộ ba, chắc ba vui.
Chúng tôi đứng trên mộ cao nhìn xuống núi. Cảnh vật ở đây thật thơ mộng. Từ nói với tôi thế. Ba nằm đây chắc ba thích, cảnh ở đây hợp với tâm hồn ba lắm rồi. Tôi nhớ tới cái mũ trắng treo cùng với cây đàn bầu, cây đàn Banjo, cây Mandoline, những vật bất ly thân của ba tôi thời còn sống. Ba ơi, chắc nằm ở đây ba không có nhiều bạn bè để ngắm trăng, để làm thơ, để dạo đàn. Vài ngày nữa, ngày giỗ đầu của Huế, ba sẽ gặp nhiều người quen lắm. Ba gặp một số bạn bè cùng xóm này, ba sẽ gặp cậu Đội Hoà. Cậu đã coi dàn nhạc Đại Nội, cậu đã bị một mảnh đạn nơi thái dương và chết trong biến cố, những cây đàn của cậu cũng đã cháy chắc sẽ về theo với cậu. Con cũng mong ba gặp được cậu, ba sẽ nghe cậu đàn, sẽ hoà đàn với cậu. Ba vui nghe ba.
Vài ngày nữa ba cũng có thể gặp được em Trọng, em Trọng chết trong biến cố Mậu Thân ở Sàigòn, em con đi lính mũ đỏ và chết khi về "giải phóng" thủ đô, cạnh khu nhà chúng con ở Sàigòn đó. Khu nhà chúng con vẫn yên lành, ba ơi, thương em Trọng giùm con với. Ba cũng có thể gặp Tâm Tuý, cô bạn nhỏ của con ngày xưa đã có lần ba cho con với nó đi ăn phở đi uống nước ngọt. Nó bị chôn sống ở Gia Hội. Gặp nó ba thương nó như đã thương con ba nhé. Ba đi trước ba được yên, ba không nhìn thấy không chứng kiến đó. Nhưng ba sẽ gặp những người sắp về sau ngày giỗ đầu, rồi ba cũng sẽ biết. Ba cám ơn hết nghe ba, họ đã đi để cho lịch sử biết tủi nhục.
Ngày giỗ đầu sẽ đến, và tháng chạp đã đến, Huế ơi thắt trắng khăn sô, đốt đầy vàng hương để nhủ hồn về, những linh hồn lưu lạc từ ngày Tết Mậu Thân chết đói khát, chết mở mắt trong hầm, bên lạch nước, trong gạch vụn, ngoài cầu, trên đường, chết chôn sống. Một ngày giỗ đầu đầy vàng hương, đầy tiếng khóc đã lảng vảng tới gần với Huế.
Tôi nhặt những viên đá tím bên mộ mân mê trong lòng bàn tay, chiếc hòm sơn xám của ba tôi chắc đã trở màu. Ngày biến cố Mậu Thân, bao nhiêu người đã lấy hòm xẻ ván ra làm hầm núp bom đạn, để sau đó khi quật bao hầm xác lên không có tấc ván để chôn cất lại. Người sống đã hưởng hết phần của kẻ chết.
Ba ngày giỗ đầu ba tôi đã tàn, nhường cho thành phố chuẩn bị một giỗ đầu lớn hơn.
Buổi tối ngày thứ ba, theo lời mời của anh Vĩnh Phối và anh Thành, hai anh Giám đốc của hai trường Mỹ thuật và Âm nhạc, vợ chồng chúng tôi mượn được chiếc xe Suzuki của ông anh họ, đi sang khu Đại Nội dự buổi tiệc đầy tháng của cháu nhỏ con anh Thành.
Đi ban đêm chúng tôi mới thấy cảnh thê lương tăm tối của Huế. Thành phố hết bảy phần mười chưa có điện. Cửa Đông Ba, cửa Thượng Tứ vẫn còn nguyên vẻ sụp đổ. Chúng tôi phải qua hai ba trạm kiểm soát mới vào được khu vực thành nội.
Đường vắng vẻ tối om, chúng tôi lái xe như mò mẫm theo Hiền, một cậu em hoạ sĩ trẻ ở Huế. Những hàng cây mù u còn sót lại sau biến cố in những bóng đậm, đầy vẻ rình rập như lúc nào cũng chực phát ra những tiếng rên khóc của bóng ma. Tôi nép mặt vào lưng chồng, không dám nhìn quanh cảm thấy sau lưng rờn rợn như có tay ai với theo. Cho tới khi nghe tiếng xe dừng lại, tôi mới mở bừng mắt.
Tôi hơi hốt hoảng vì thấy trước mắt mình một ánh nến lung linh, nhưng tôi cũng trầm tĩnh ngay được vì có tiếng chào hỏi reo mừng và vài người bước xuống bực thềm. Chúng tôi đi vào nhà. Căn phòng rộng kê một dãy bàn trắng với một hàng nến lung linh, cắm trên những miếng ngói vỡ. Trên cửa ra vào tôi đọc hàng chữ đề: Phòng giám đốc. Hai hàng ghế đã đầy người, đông lắm. Tôi đứng nghe anh Thành giới thiệu nhưng không nhớ hết. Câu chuyện bắt đầu vui, hết chuyện thời sự rồi bàn qua văn nghệ.
Những người bạn trẻ ở Huế đang thảo luận với chồng tôi về việc trùng tu xứ Huế. Hai trường Mỹ thuật và Âm nhạc đã được sửa chữa lại, tuy nhiên vẫn chưa có điện. Sinh viên thường học ban đêm, phải học dưới ánh đèn cầy và vì lý do giữ gìn an ninh cho thành phố nên việc học hành của các sinh viên rất cực khổ.
Sự trùng tu vật chất là vậy, ít ỏi nhưng cũng có. Trên những nền nhà đổ còn có dăm miếng tôn che tạm. Nhưng còn tinh thần thì sao nhỉ? Có ai nghĩ đến chuyện trùng tu tinh thần cho Huế không, sao bao nhiêu đau thương tang tóc, nghi ngại? Trong lúc chồng tôi ngồi bàn chuyện trùng tu tinh thần cho xứ Huế với những bạn trẻ ở đây, tôi tới dãy ghế cạnh ngồi nói chuyện với một vài bà vợ trẻ. Chuyện đàn bà có nói gì đi nữa rồi cũng xoay quanh chuyện ma chuyện quỷ. Chị Tuấn cho biết trong khuôn viên hai trường này có rất nhiều mồ chôn Việt cộng.
Chị kể lại những điều gia đình chị đã chịu đựng trong Tết Mậu Thân, chuyện anh Thành, giám đốc trường Âm nhạc đã mất bốn tiếng đồng hồ để bò qua một khoảng sân ngắn. Chuyện một người lính đậu xe dưới gốc cây, gió mát anh ngủ gà ngủ gật thì nghe tiếng gọi nhỏ bên tai: Đem tôi về với các anh với, tôi lạnh lắm. Tỉnh dậy, anh nhìn dưới bánh xe, sát đường có dấu đất lồi lên, anh về gọi lính ở đồn đến đào đất bắt gặp bộ xương người. Chị Thành cười:
"Đó, chị Nhã thấy không, Việt cộng khi chết rồi cũng muốn về hồi chánh đó".
Giọng cười của chị giúp chúng tôi cười theo, nhưng tiếng cười vẫn không vui, mà ngậm ngùi, gượng gạo.
Câu chuyện về phía đàn ông đã bàn tới ngày giỗ đầu. Đàn bà ngừng chuyện ma và nép vào nhau, như câu chuyện vừa rồi còn làm cho cả bọn lạnh xương sống.
"Tôi sẽ đi dự với họ, nếu có tổ chức gì cho những người chết trong biến cố".
Tôi nghe một người nói, nhưng không nhớ tên.
Vì giờ giới nghiêm ở Huế ấn định 10 giờ, khoảng gần 9 giờ chúng tôi đứng dậy từ giã ra về. Nhà chúng tôi ở tận An Cựu, quá 10 giờ không một ai được qua cầu. Nhưng khi ra khỏi khu trường Mỹ thuật, mấy anh bạn lại rủ chúng tôi đi chơi. Đi chơi ở Huế trong hoàn cảnh này là đi lông bông ngoài đường. Tôi nhớ tới những quán cà phê như cà phê Dung, cà phê Phấn, nhưng không dám hỏi. Chúng tôi vào một ngôi nhà cổ, nơi trọ của anh Mai. Nhà không đủ ghế, chúng tôi đứng dựa vào tường, nghe anh Mai thổi Harmonica và anh Lê Gia Phàm hát, chị Tuấn hát. Từ đọc một bài thơ trong loạt thơ mới nhất. Sau khi từ giã nhau, ra tới sân, trời đen thui đến nỗi Từ mò mẫm mãi mới mở được công tắc xe.
Trời bắt đầu xuống lạnh, trên đường về, ngoại trừ những nhân viên đứng gác ra, chúng tôi ít thấy bóng xe đạp xe Honda như những ngày Huế còn phong độ. Tôi úp mặt vào lưng chồng, nghĩ thương cha thương mẹ, thương thành phố mình đã bỏ đi, thương những con đường đầy kỷ niệm thơ mộng ngày nào đã kéo đầy máu và nước mắt. Chắc còn lâu lắm chúng tôi mới đi lại được trên những con đường đó và cảm thấy ít nhiều yên ổn.
Đêm đó chúng tôi còn ở lại An Cựu. Căn nhà ngay đầu ngõ vào vườn tôi cũng có mộ chôn. Nhiều nhà ở Huế đều có mộ chôn, mộ còn có người nhận, mộ vô thừa nhận, mộ của kẻ sinh Bắc tử Nam. Nhưng dù sinh ở đâu, vì lý tưởng chủ nghĩa nào, các anh đã nằm xuống với sự khổ đau của Huế, cùng chịu với Huế, trong ngày giỗ đầu tháng Chạp năm nay, các anh cũng sẽ có phần, mồ mả các anh cũng sẽ được thu dọn sạch sẽ. Khi chết phải hết hận thù. Ba ơi, nếu ba có gặp được họ, có thể ba sẽ hỏi được chuyện ngoài Bắc, chuyện Thanh Hoá, nơi ông nội đã sinh ra, đã bỏ đi, nơi mà ba chưa trở về lần nào, và vẫn ao ước khi hoà bình về quê một chuyến.
Suốt đêm tôi không tài nào chợp mắt được. Gần về sáng, tôi nằm thật tỉnh táo và nghe tiếng lao xao và còn có thêm tiếng chân người nữa. Đêm nay, những chân người ngày cũ có còn đi lại trong những ngôi vườn đổ nát không, có còn lướt trên những đống gạch khổng lồ, có nương kịp bước chân trong gió và lá cành xao xuyến?
Không, đêm nay hoàn toàn yên tĩnh. Ánh nến ngoài bàn thờ ba tôi lung linh. Tôi nằm trên chiếc giường ba tôi đã trút hơi thở cuối cùng. Tôi thao thức, trăn trở mong bắt gặp một hơi hướm, dù trong sự tưởng tượng để được cảm thấy gần gũi ba. Nhưng ba xa cách thật rồi, bên tôi chỉ còn hơi hướm đứa con trai nhỏ, đang rúc đầu vào cánh tay tôi ngủ giấc yên lành.
Trong đêm tối gió ngoài vườn dào dạt, tôi bỗng nghe thấy có điềm gì rạo rực, như là cỏ đang cựa mình mọc lên khỏi vầng đất hoang phế sau vườn, nơi ông bà Bún bò bị vùi nông hồi tết.
Nhã Ca
Huế Tết Mậu Thân chết oan:
40 năm, 3 lần bị chôn sống
Nhã Ca
* Bài phát biểu của nhà văn Nhã Ca "Huế Tết Mậu Thân Chết Oan: 40 năm, 3 lần bị chôn sống" tại Lễ tưởng niệm 40 năm các nạn nhân bị thảm sát trong tết Mậu Thân tổ chức tại Houston ngày 24 tháng 2,2008.
***
Đúng vậy. Hàng ngàn người chết oan. Họ bị chôn sống tới ba lần. Lần thứ nhất chôn trong đất Huế. Lần thứ hai chôn ngay tại Hoa Kỳ. Và lần thứ ba, đang tiếp tục bị chôn tại Việt Nam. Những người chết oan nhắc tôi phải nói vậy.
Họ đã bị chôn sống lần thứ nhất tại Huế Tết Mậu Thân.
Bị chôn ở Thành Nội, ở Gia Hội, ở Bãi Dâu, ở Phú Thứ, ở khe Đá Mài... Không chỉ trong núi trong rừng, nơi họ bị chôn còn là đất chùa, đất nhà thờ, đất trường học, và ngay tại vườn nhà... Trong số những người bị chôn có Tâm Tuý, cô bạn trường Đồng Khánh của tôi. Khi xác được đào lên, thấy tóc mọc dài hơn, móng tay mọc dài hơn. Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống, như nhiều nạn nhân khác. Họ bị chôn ra sao, chôn bằng cách nào?
Chỉ riêng 4 khu tại Gia Hội cộng lại đã là 473 người.Chính con cháu những người bị chôn -gồm toàn các thiếu niên 14, 15, 16 tuổi, học trò trường Nguyễn Du- bị buộc phải đào hố.
Những nạn nhân bị cột trói bằng dây điện dính nhau xếp hàng bên hố. Một vài người bị đập đầu. Cả dây người đang sống bị đạp xuống hố đè lên nhau. Cái đầu nào ngóc lên bị đập bằng cuốc.
Rồi báng súng AK và lưỡi lê buộc các thiếu niên phải lấp đất chôn sống cha anh chúng. Mười mấy em trong toán thiếu niên sau đó bị giết hết, chỉ ba em chạy thoát.
Một trong ba thiếu niên, nay là ông Tuấn, 56 tuổi, đang sống ở Úc.
Sau 40 năm câm nín, mới đây ông Tuấn đã bật khóc khi kể về những người chết oan: Dòi bọ trong hốc mắt. Dòi trong lỗ tai. Dòi trong mũi. Và ông vừa khóc vừa la là hôm nay tụi khốn nạn cầm quyền nó ăn mừng đại thắng Mậu Thân, tôi không chịu nổi nữa. Không chịu nổi nữa...
Đúng là ông Tuấn không thể chịu nổi, khi những người chết oan tiếp tục bị chôn sống bằng nhiều hình thức khác.
Huế Tết Mậu Thân bị chôn sống lần thứ hai.
Không ở đâu xa, mà ngay trên đất Hoa Kỳ này. Họ bị chôn không phải bằng cuốc, bằng xẻng mà bằng sự im lặng đồng loã của giới truyền thông Mỹ.
Vào thời điểm ấy, truyền thông khuynh tả tại Mỹ đang cổ võ phong trào phản chiến trong dân chúng, để buộc chính phủ Hoa Kỳ phải rút quân, tháo chạy khỏi Việt Nam. Trận chiến Mậu Thân, cộng quân thảm bại, báo chí truyền hình Mỹ vẫn ca lên mây xanh. Tấm hình Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn một đặc công cộng sản giữa trận địa liên tục bị phóng lớn để bôi bẩn, xoá nhoà mọi chiến thắng của quân dân miền Nam. Trong khi ấy, mọi tin tức hình ảnh cuộc thảm sát tại Huế Tết Mậu Thân bị cố ý dẹp bỏ. Truyền thông Mỹ tiếp tay, chôn sống vụ thảm sát.
Dân Mỹ bị che mắt. Kết quả là kẻ ác không đáng thắng đã thắng.
Và rồi...
Huế Tết Mậu Thân đang bị chôn sống lần thứ ba.
Những ngày trước tết, nhà nước cộng sản đã tổ chức đủ kiểu lễ mừng “chiến công”. Mít tinh, diễn binh ở Saigon. Rồi tổ chức ngay tại Huế cái gọi là “Hội Thảo Khoa Học về cuộc tổng tấn công - tổng nổi dậy Tết Mậu Thân”
Khoa học kiểu gì vậy?
Chỉ là thứ khoa học “khủng bố đào hố chôn người” đang được “đổi mới” để tái diễn. Mục đích là bằng mọi giá, phải đánh tráo hồ sơ thảm sát Huế Tết Mậu Thân bằng cái hồ sơ khoa học giả tưởng về chiến công Tết Mậu Thân của họ. Nói gọn là ngụy tạo một chiến công giả để lấp liếm một tội ác thật.
Tại Huế hiện nay đang có những con đường được đặt tên là đường Mậu Thân, đường 68 để mừng chiến thắng.
Đài tưởng niệm nạn nhân tết Mậu Thân thời trước 75 đã bị phá bỏ. Những gia đình có thân nhân chết oan đều bị công an gọi lên, hoặc cho người đến tận nhà, ra lệnh “muốn sống yên thì im miệng.” Gia đình nào có người liên quan xa gần tới sách Giải Khăn Sô Cho Huế và Nhã Ca còn được thêm lệnh phải nói là họ bị xuyên tạc. Nhiều nhân vật cộng sản từng thú nhận là có giết oan ở Huế thời Mậu Thân đều bị bịt miệng.
Ngoài nước, đặc biệt là tại Mỹ, sách vở báo chí phim ảnh cộng sản tuyên truyền về chiến công tết Mậu Thân sẽ từng bước xâm nhập các thư viện, trường học, nhà sách, truyền hình…
Bốn mươi năm. Hai thế hệ rồi.
Chỉ ít năm nữa thôi, còn ai nhớ chuyện cũ.
Nhà nước cộng sản tính vậy, và đang mở chiến dịch “chôn sống vĩnh viễn hồ sơ thảm sát Tết Mậu Thân.”
Thưa quí vị, thưa các bạn,
Hôm nay tại đây, chúng ta đang cùng nhau trân trọng tưởng niệm.
Hồn thiêng những nạn nhân bị tàn sát, đang ở cùng chúng ta.
Là một người sống sót sau trận tàn sát Tết Mậu Thân, như nhiều người Huế sống sót khác, tôi luôn cảm thấy như con mắt của những người chết oan đang nhìn theo mình, tiếng kêu lấp trong đất của người bị chôn sống vẫn âm ỉ, nhắc nhở.
Với chúng tôi, điều được nhắc nhở lúc này là không cho phép lịch sử tiếp tục bị đánh tráo. Không để con em chúng ta phải học, phải đọc những điều gian dối về cha anh của họ. Không thể để tương lai tiếp tục bị phỉnh gạt.
Muốn vậy, ngay năm nay, năm thứ 40 sau biến cố Mậu Thân, phải làm sao cùng nhau tổ chức tới nơi tới chốn việc sưu tập mọi tài liệu, hình ảnh liên quan tới hồ sơ Tết Mậu Thân, kêu gọi những nhân chứng Mậu Thân còn sống kể ra từng chi tiết sự việc, ghi chép bằng âm thanh, hình ảnh, chữ nghĩa, thành lập một thư khố về vụ thảm sát Mậu Thân. Sau đó là tổng hợp, nghiên cứu mọi yếu tố lịch sử, pháp lý, thực hiện công trình phiên dịch, biên tập và ấn loát đúng mức. Công trình ấy sẽ thành những cuốn sách đủ tầm vóc, Việt ngữ, Anh ngữ và dành lại vị trí xứng đáng cho sự thật lịch sử.
Để làm được những việc trên đây, cần mời gọi mọi người tâm huyết ngồi lại với nhau, cùng bàn bạc, hoạch định, cần góp công góp của. Chính vì mục đích này, sách mới Giải Khăn Sô Cho Huế hôm nay đang trình diện quí vị tại đây. Toàn bộ số tác quyền thu được từ sách sẽ được góp vào quĩ khởi đầu cho dự án kể trên.
Cách đây 40 năm, cũng từ những nhắc nhở của Huế Tết Mậu Thân, tôi đã cầm bút viết. Và sách “Giải Khăn Sô Cho Huế” được in lần đầu tại Việt Nam năm 1969. Toàn bộ tác quyền từ sách này được góp vào việc trùng tu thư viện trường Đồng Khánh và lập giải thưởng hàng năm “Luận án Tiến Sỹ Y Khoa xuất sắc nhất” tại Đại Học Y Khoa Huế.
Ngay sau ngày Saigon bị đổi tên đổi đời, cuốn “Giải Khăn Sô Cho Huế” đã được treo trong cái gọi là “Nhà Trưng Bầy Tội Ác Mỹ Nguỵ”. Bản thân tác giả cùng ông chồng và các bạn nhà văn Saigon thì đi tù, nhà cửa bị tịch thu, con thơ bị đuổi nhà, đuổi trường...
Số phận mỉa mai của cuốn sách sang được tới Mỹ vẫn chưa yên, mà còn bị “cắm cờ oan khiên.” Hồi tháng Năm năm 2007 vừa qua, phim “Đất Khổ” cuốn phim đặc biệt về Huế Mậu Thân, dựng theo một phần “Giải Khăn Sô Cho Huế” và do chính Nhã Ca viết đối thoại, lại được công ty sản xuất phim Mỹ ra DVD mang bán cho dân Hoa Kỳ với bao phim có nền (cờ) đỏ sao vàng. Sách mới “Giải Khăn Sô Ra Mắt” và báo xuân Việt Báo năm nay có lên tiếng than phiền vụ “cắm cờ oan khiên” này. Điều an ủi là sau khi vấn đề được nêu lên, hãng Mỹ đã nhanh chóng dẹp bỏ cái bao bìa có hình là cờ máu, để thay bằng bao bìa mới có hình cờ vàng và bản đồ Việt Nam. Có bạn bảo tôi, dù sao tư bản Mỹ sửa sai cũng nhanh hơn Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa. Khi dự án dành lại sự thật vụ thảm sát Huế Tết Mậu Thân tiến hành, chúng ta sẽ tiếp tục đòi họ sửa sai.
Sách mới “Giải Khăn Sô Cho Huế” đang được trình diện quí vị hôm nay không chỉ là một cuốn bút ký như cũ mà là cả ba cuốn sách gom lại làm một, gồm tất cả chữ nghĩa Nhã Ca viết về Huế Tết Mậu Thân gồm nhiều bút ký, truyện ngắn và thêm truyện dài Tình Ca Trong Lửa Đỏ.
Dự án này sẽ được khởi sự bàn luận chính thức trong tuần lễ triển lãm Tưởng Niệm 40 Năm Huế Tết Mậu Thân, khai mạc tại Việt Báo Gallery tại Little Saigon, vào lúc 2 giờ trưa, Chủ Nhật 24 tháng 3 sắp tới...
Nhã Ca
Truyện cho những tình nhân
Nhã Ca
Vừa dừng xe trước cổng nhà bác, Diễm đã bấm chuông inh ỏi. Chị Bé Tý chạy ra, vừa cười vừa với cái giỏ mây: Vô đây đã Diễm, vô cúng. Diễm lắc đầu quầy quậy: Thôi để em về, sáng mồng một em sang mừng tuổi hai bác, các anh các chị. Em về, nhà em hôm ni cũng cúng ba mươi mà chị.. Chị Bé Tý nhìn chăm chăm vào bàn tay của Diễm đang cầm chặt chiếc ghi đông xe đạp: A, con ni khá quá hí, đeo nhẫn rồi ta. Ra giêng cưới há? Diễm cúi đầu e thẹn: Dạ – Mời tao đi phụ dâu nghe. – Dạ, mời chị chớ. – A, con này đeo nhẫn không sợ tụi bạn cười há? – Anh Phan biểu em đeo. Chị Bé Tý cười ngất: – Khỉ, khi mô cưới xong mới đeo, đeo rứa tụi nó nói dị chết. Mi đi lấy chồng còn học không? Diễm buồn buồn: Không biết nữa chị, ba anh Phan nói em cứ đi học. – Học con khỉ, ở đó mà học. Diễm lật cái nón đội lên đầu: Thôi em về chị, má đợi. Hôm ni ở nhà cũng cúng.
Diễm xoay ghi đông, cua vòng ra sân rồi leo lên. Diễm sửa lại hai vạt áo dài, vạt sau giắt vào sợi dây thun nơi cái bót ba ga, vạt trước phủ trên hai đùi. Theo thói quen, Diễm ngẩng đầu lên hất cho hết tóc ra đằng sau, rồi đạp xe, đi thong thả. Diễm phải vất vả lắm mới lách xe qua khỏi được con đường Trần Hưng Ðạo dọc theo vườn hoa Nguyễn Hoàng, phía gần cầu là chợ hoạ Diễm nhìn chỉ thấy những cánh hoa mai vàng giơ cao lên khỏi đầu người. Diễm đạp xe qua cầu Tràng Tiền, đi rẽ ngả bưu điện, rồi đạp qua vài con đường nhỏ, đến hàng Ðoát. Diễm biết chắc thế nào đi trên con đường này, giờ này cũng gặp Phan. Con đường hàng Ðoát này vắng nhất và cũng đẹp nhất. Diễm không thể nào quên được những buổi trời chạng vạng. Phan và nàng, hai người hai chiếc xe đạp, đạp song song vừa đi vừa nói chuyện. Diễm cũng không quên được vẻ hốt hoảng vụng về của cả hai đứa khi dang hai ghi đông xe ra cho xa nhau, một đứa đạp chậm một tí, một đứa đạp nhanh lên, khi có người từ đằng xa đi ngược chiều tới. Và lịch sử mối tình của hai đứa cũng đầy di tích trên con đường ngắn này. Hình như hôm đó Diễm đi xe đạp, cũng trên con đường này, chiếc sên xe bị sút ra. Diễm dựng xe lên loay hoay sửa mãi mà không được. May nhà Phan gần đó, và phút làm quen không mấy khó khăn. Nửa giờ sau, Diễm lên xe đi về, trời chiều, những ngọn điện đường đã bật. Phan đạp xe đi hộ tống đằng sau. Khi tới gần nhà Diễm chậm lại một chút, quay mặt lại giấu trong nón: Cám ơn anh, Diễm vô nhà. Và Diễm đạp xe rẽ vào ngõ chè tàu. Về sau, nghe Phan nói lại là Phan bắt đầu yêu Diễm ngay buổi tối hôm đó, khi hai vạt áo trắng cùng chiếc xe đạp ghi đông chữ U khuất sau hai dãy chè tàu xanh, cắt bằng phẳng.
Ngang qua nhà Phan, Diễm không dám nhìn vào nhưng nàng biết Phan sẽ trông thấy nàng. Một lát Diễm nghe tiếng xe đạp lách cách đằng sau, rồi tới sát bên. Diễm cúi mặt, chiếc nón che kín chỉ chừa hai mớ tóc buông xõa phía trước vai. Nhưng Diễm đợi chờ, hai má nàng nóng bừng.
– Diễm.
– Dạ.
– Em đi mô về đó?
– Em đi sang nhà bác đưa trái cây cúng. Má sai em đi.
– Chừ em đi mô?
– Em về nhà.
Câu chuyện thật nhạt nhẽo, nhưng Diễm thấy quá quen thuộc, nàng đoán trước những câu hỏi của Phan. Lần nào cũng chừng đó câu hỏi, rồi hai đứa đưa nhau trên đoạn đường từ hàng Ðoát, nghẹo qua đường Nguyễn Huệ, đi ngang qua Ty Công Chánh rồi về đường Trần Thúc Nhẫn. Nhưng lần này thì không, Phan nói tiếp:
– Anh đưa Diễm tới vườn bông Bến Ngự thôi nghe, lên cầu về túi lắm. Hôm ni anh cúng ba mươi.
– Em cũng cúng ba mươi.
– Sáng mồng hai anh sang hí. Mồng một anh về Truồi, ông nội dưới nớ.
– Dạ.
Phan nhìn thấy ngón tay của Diễm đang bấu trên ghi đông:
– Diễm.
– Dạ.
– Diễm đeo nhẫn à?
Diễm liếc nhìn Phan rồi háy một cái:
– Ðeo dị òm.
Phan cười, mặt hơi cúi xuống
– Ừ, mai anh đeo luôn hí.
– Dị òm, bắt chước người ta chi lạ rứa.
– Dị chi mà dị.
– Dị quá, anh đi xê ra, rủi gặp ai…
Phan vừa bẻ ghi đông quẹo ra và nói nhỏ:
– Kệ họ, mình sắp cưới rồi mà…
Diễm đưa tay trật nón ra đằng sau, nàng nhìn con đường hàng Ðoát sắp nhập vào con đường thẳng Nguyễn Huệ:
– Má nói khi mô cưới hẳn hay.
– Chán mấy bà già.
– Anh không thấy à, khi mô anh tới má cũng bắt em đi rót nước, sai gọi em lăng xăng. À, hay bữa ni anh lên nhà em ăn cúng ba mươi.
– Không được, ông rốp chửi chết. Hôm ni lạy bàn thờ. Dưới chú anh cúng buổi trưa, nhà anh cúng túi.
– Mệt hỉ.
– Ừ.
Bàn tay Phan thả ghi đông, đưa sang chụp tay Diễm. Diễm để yên nhưng lắc đầu quầy quậy:
– Anh làm rứa té chết. Dị chết.
Ngón tay Phan đã vuốt trên ngón tay đeo nhẫn của Diễm:
– Em hỉ?
– Dạ chi anh.
– Thương anh không?
– Thương anh hoài. Khi mô cái nhẫn này rời khỏi tay em thì em chết.
– Chớ không phải em tháo ra, em vất dưới sông Hương hay liệng trên núi Ngự à?
– Mần chi có.
– Em hỉ?
– Chi anh.
– Nói thiệt nghe!
– Anh dị òm. Còn có mấy ngày mà lo chi cho mệt.
– Biết răng mà noái. Khi sáng anh tới má em noái cho cưới tháng Giêng để anh còn đi Thủ Ðức. Còn chưa đầy mười ngày.
– Em chưa nói chi cho tụi bạn em biết hết. Tụi bạn noái em bí mật quân sự.
– Ðầu năm em với anh đi thăm tụi nó, nói cho tụi nó biết.
Diễm lắc mạnh cánh tay:
– Anh, gần tới cầu, anh về đi.
– Em sợ túi không?
– Không, khoảng đường ni sáng rồi, qua khỏi cầu, đi lên dốc một tí, có ông cảnh sát gác nơi cầu anh tề.
– Anh về hỉ.
– Dạ, anh về.
Diễm trả lời xong cúi đầu đi thẳng. Hàng chè tàu đã lấp ló đằng xa, nơi cột điện. Khi Diễm re vào nhà, ngọn điện đường cũng vừa bật lên. Má nàng đang gội đầu trước hiên. Diễm dựng xe dưới gốc cây khế. Má nàng ngẩng lên:
– Ðưa đồ cúng cho bác chưa, Diễm.
– Dạ rồi.
– Con thay áo, đi gội đầu bồ kết nì. Má có để sẵn phần cho con. Ra vườn hái trái chanh mà gội cho trơn tóc. À con ơi, con lau lại cho má cá sập gụ nghe. Tối ni rảnh đánh tứ sắc chơi.
Diễm vừa đi vào nhà đã nghe tiếng mẹ vọng theo:
– Chút xíu nữa con dặn bác Bảy mang xích lô tới bác Thị đón ông nội về. Ra sau hè mà gọi qua cũng được, đừng đi ra ngõ chi cho xa con hí.
Diễm đi vào phòng, thay quần áo rồi nằm duỗi ra giường. Chút nữa hãy đi hái chanh, đi gội đầu. Diễm nhìn bình bông nhỏ cắm mấy bông tường vi của Phan mang sang cho hồi sáng. Mấy đóa tường vi màu hồng sáng lạng, nhưng lòng Diễm chợt vui chợt buồn. Nàng nghĩ tới những mùa xuân cũ, những mùa xuân cũ khác hẳn xuân này. Năm nay Diễm không thấy nô nức đón xuân như mọi hôm, mà Diễm thấy mình bắt đầu lớn, bắt đầu thay đổi. Thay đổi cả một đoạn đời cũ. Ði lấy chồng, lấy chồng đối với Diễm như bước vào một đoạn đời dài lắm và đầy xa lạ, bỡ ngỡ. Ở với một người cho tới già, tới chết, dù đó là người yêu, Diễm cũng thấy trong lòng sôi động bao lo sợ, nghi ngờ. Dĩ vãng của Diễm yên lặng quá, hiện tại, Diễm không một điểm nhỏ phàn nàn, còn tương lai nữa. Diễm như một đứa bé con đang đứng trước một ngôi nhà quá lớn và hiểu được rằng không bao giờ mình khám phá hết nổi nó. Diễm nhìn ngón tay đeo nhẫn của mình, nàng đưa lên môi, chà chà cạnh nhẫn lên làn da môi mềm mát. Thôi thế cũng xong, một ước mộng bình thường, cứ thế, ta sẽ sung sướng. Diễm cắn chặt ngón tay đeo nhẫn: Anh Phan, răng em có sắc mấy cũng không cắt nổi ngón tay đeo nhẫn.
Diễm mở cái rương nhỏ, ngắm nghía chiếc áo phin trắng nõn. Chiếc áo này Diễm sẽ mặc để tiếp Phan vào ngày mồng hai. Phan sẽ hỏi: Ai may áo đó. Diễm sẽ sung sướng mà cho Phan biết là chính nàng đã cắt và may lấy. Em sẽ là một bà nội trợ giỏi.
Chắc chắn mà, không tin thì thôi. Diễm mỉm cười một mình.
Sau đó, Diễm nhớ là mình phải ra vườn hái chanh gội đầu, nhân tiện đó Diễm sẽ gọi luôn bác Bảy. Diễm vừa đi vừa nhảy ra vườn. Chiếc áo trắng vải phin nõn còn lung linh trong trí tưởng tượng của nàng. Hình ảnh Diễm đang ở trong đó cùng áo cánh trắng thêu hoa hồng đỏ trên ngực và mái tóc chảy dài. Nhưng ơ kìa, làm gì có cánh hoa hồng đỏ tựa như trái tim thêu trên ngực? Diễm bật cười: Thêu như vậy cũng đẹp, nhưng chiếc áo đó đã không thêu. Màu đỏ không hợp với sở thích của nàng. Nàng coi màu đỏ như sự bất trắc, sự hung bạo. Bởi thế, Diễm thích đi lấy chồng hơn là đi học nghề cô mụ. Tụi bạn Diễm đã nạp đơn xin học nghành này gần hết.
Cây chanh đã hiện ra trước mặt Diễm.. Diễm chỉ cần nhìn lên, chỉ cần với một cành ví xuống, tha hồ mà nàng lựa chọn. Hạnh phúc của nàng cũng giản dị quá, mọi lúc đều như vừa vặn trong tầm tay của nàng. Diễm nghĩ đêm nay, sau khi ngồi chầu rìa coi cả nhà đánh tứ sắc, Diễm sẽ nằm lăn nơi cái sập gụ, trước khi ngủ, nàng sẽ ăn hết những cánh hoa tường vi cuối năm của Phan gửi tặng.
* * *
Anh Phan,
Rứa là anh kẹt dưới Truồi không lên được rồi. Anh ơi, em cũng đã kiệt lực. Em ngồi viết thư cho anh lúc đang sống trong một căn hầm hết sức chật. Một cái hầm nổi, làm sát góc nhà với mười bốn mạng người. Ngày nào cũng chừng đó tiếng động, chừng đó nỗi kinh hoàng. Từ đêm mồng một rạng ngày mồng hai, cả nhà bị mắc kẹt không còn tản cư vào đâu được nữa. Em viết thư này cho anh là ngày mười bốn, và gia đình em đã chịu sống mười ba ngày trong chiếc hầm nhỏ hẹp này. Xung quanh, Thạch bạn em đã trúng đạn chết, xác lấp vội vã ngoài vườn. Ngay trong nhà mình, phòng bên cạnh cũng có một gia đình hàng xóm xin làm hầm, mang sang hai người bị thương, đêm nào họ cũng la hét khóc lóc ghê quá. Mấy ngày đầu, mấy anh ngoài nớ còn cho thuốc băng bó, mấy ngày nay họ bỏ liều rồi. Chắc mấy người đó chết quá anh ơi, mà họ chết là thành ma trong nhà mình rồi.
Em có bị bắt đi khiêng đạn và chở người bị thương bằng xe ba bánh lên phía Tây Thiên mấy lần, lần nào đi cũng sợ muốn chết giấc vì những quả bom dưới Phú Bài câu lên. Những người đi với em chết nhiều lắm. Em đi khiêng đạn được năm hôm, khiêng người bị thương được hai hôm thì khiếp quá ngất xỉu mấy lần. Em theo mấy người trốn về lại bị nạn kiểm soát. Họ tới tận nhà. Má phải xoa nghệ lên mặt em, vả vào mắt em cho sưng húp để xưng bệnh cho họ khỏi bắt đi. Mà em muốn bệnh thật, em bệnh vì lo sợ, vì buồn phiền, vì thương cảm. Má đã rơi nước mắt ròng khi đưa bàn tay tát vào mắt em cho sưng vù. Em cũng không cầm được giọt lệ khi nhìn thấy anh Văn trốn trên trần nhà mười mấy hôm, khi ăn khi nhịn, sợ tới chết điếng người vì những trái mọt-chê rơi đều đều dội tứ tung trên miệt bến Ngự, Từ Ðàm.
Mấy hôm nay thì đạn đại bác bắn quá lắm. Em nằm ép mình sát đất, cứ bị dội người lên vì đất đai nhà cửa rung chuyển, ngực em cơ hồ như đã vỡ vụn bên trong nhưng lạ em không thấy đau đớn và tắt thở. Em vẫn thở được nhưng hơi thở nặng nề, em vẫn nhai được bát cơm nấu vội vã, đôi khi chưa kịp ăn đã vất bát cơm, nằm sát xuống mặt hầm, hoặc ôm cứng lấy nhau, và khi dứt tiếng nổ, thấy mắt mình hết nổ đom đóm, ngắt vào da thịt thấy đau, em mới biết rằng mình còn sống. Anh Phan, chắc em chết không gặp anh. Chắc chết quá anh ơi, súng vẫn bắn như mưa trên đầu những người chờ đợi. Nhưng anh ơi, trong những phút kinh hoàng như thế này, trong những phút nằm chờ một quả bom canh đúng rơi trúng miệng hầm đôi lúc em vẫn còn đầy tư tưởng lãng mạn. Em nhớ anh hơn, nao nức hơn, và thấy mối tình mình trở nên quan trọng hơn. Em nhớ buổi chiều cuối năm đi với anh trên con đường hàng Ðoát. Thơ mộng quá, đẹp quá phải không anh? Và em đã thề thốt gì với anh, anh còn nhớ không? Anh ơi nếu em chết, anh tìm cho được xác em, nhìn ngón tay em đeo nhẫn nhé. Nhưng em sợ chết quá, em chết đi rồi anh sẽ còn ai để thương, còn ai để cưới làm vợ… mà anh lấy người khác em ghen, em chết không nhắm mắt. Con gái Huế ghen dễ sợ lắm, ghen cay như ớt. Anh ơi, ớt đầy một vườn mà bữa ăn nào em cũng thèm tới rớt nước miếng. Em muốn được ăn trái ớt trước khi chết để thành một con ma ghen kinh khủng, em nói bậy quá rồi. Lại bắt đầu bắn đó anh. Làm sao đưa cơm lên cho anh Văn, làm sao cho anh ấy trốn đi được. Ngọn đèn cầy đặt trong hầm lại sắp hết. Phải tiết kiệm, thôi em tắt. Nằm xuống khoảng tối em sẽ nhớ anh, nhớ anh như điên để rủi có chết đêm nay còn tưởng tượng ra anh, anh nghe. Ngọn đèn lụi quá rồi, chữ em viết không biết đang lên dốc Nam Giao hay xuống dốc bến Ngự…
Anh Phan,
Tai nạn đã xảy ra rồi. Sáng hôm nay chị Tư ra khỏi miệng hầm thật sớm để đưa vắt cơm lên trần nhà cho anh Văn, sợ lát nữa mấy ổng vào kiểm soát, chị vừa ra khỏi miệng hầm thì bị mảnh bom chơm. Máu ra nhiều quá. Em phải xé chiếc áo dài mới để băng bó cho chị. Bây giờ chị đang nằm lịm nơi chân em đây này. Còn anh Văn, anh ấy đã chết. Anh Phan, anh Văn khg^ bị bom không bị đạn, anh đói lả và rơi từ trên trần nhà xuống, chết liền tại chỗ. Xác anh Văn đang nằm nơi chiếc sập gụ của ông nội, nằm chung với ông nội em còn sống. Má đã khóc lóc xin mấy anh ngoài nớ ra vườn chôn tạm anh Văn nhưng họ nói ra ngoài đó máy bay thấy đào đất rồi bắn xuống. Trưa nay mấy ổng họ lại rút lên phía trên nữa rồi. Má nói có thể trốn được. Nhưng trước khi trốn đi tản cư, Phải tìm cách chôn anh Văn đã. Cách tốt nhất là đặt anh Văn trong hầm này, khi về hãy hay. Nhưng lại gặp chuyện phiền phức khác là chị Tư và ông nộị Chị Tư bị thương, khó khiêng đi, ông nội thì nhất định ở nhà. Cả nhà khóc mãi, ông vẫn không đổi ý. Chị nói thà chết ở nhà, và năn nỉ cả nhà nên tìm cách trốn đi.
Anh ơi, gia đình em sao thê thảm thế này. Không, đâu phải chỉ gia đình em. Nhà chú Bảy xích lô đã chết hết, cả một cái hầm sụp xuống. Ðứa cháu bên đó chạy sang cho hay vậy. Ngoài đường còn những xác người chưa chôn. Chị Thọ cho biết là bây giờ chỉ có hai lối đi, một là xuống cầu bến Ngự, rồi băng về bên kia sông, nghe nói có Mỹ, một là đi ngược lên Tây Thiên. Nhưng lên Tây Thiên thì gặp họ cũng không sống được. Bà Minh, anh Vỹ, anh Cao, bác Hịch đã bị họ bắt theo lên Tây Thiên hết rồi. Nhà mình có anh Văn đã chết. Còn bà già, con nít. Có em thì họ chưa bắt đi, vì vậy má nói phải trốn. Ðêm qua họ đem mấy cậu sinh viên vào xử tại sau vườn nhà. Em nghe thấy tiếng súng bắn, tiếng người hét, họ vào nhà xin chiếu, chiếu hết rồi. Em nghe họ đào sau vườn. Họ lấp đất, rồi họ kéo nhau đi. Ðại bác vẫn câu lên đều đều. Má nói đến chiều tối, khi bớt tiếng đại bác, sẽ tìm cách trốn ra khỏi nhà. Ở đây thì thế nào cũng chết. Nhưng ông nội thì sợ chết đường. Em không chịu ý kiến ông nội. Thà mình cứ đi tìm lối thoát còn hơn ở nhà chịu chết. Phía dưới dốc cầu người ta đi cũng nhiều, chết cũng nhiều, buổi sáng khi khóc anh Văn, em nhìn ra cửa ngõ thấy một bà mẹ đang nhét một đứa nhỏ vào bụi chè tàu trước cổng rồi vừa khóc vừa chạy. Em chưa kịp la thì phải vào hầm vì những tiếng nổ gần quá, con Mẹo có ra coi, hắn nói thằng nhỏ chết rồi, đang bị kiến đỏ bu đầy người, có con chó Mực đang rình rập vào ăn thịt. Lũ chó đói quá, chúng cứ xông vào nhà. Trên sập của ông nội có một đống gạch thật lớn. Ông lấy ném để canh xác anh Văn. Từ sáng đến giờ, ông nội vừa khóc vừa đọc kinh, đôi khi ông chửi bới lung tung. Có một trái đạn rớt giữa sân, mảnh bay đầy sân nhà mà chỗ ông nằm vẫn yên lành, ông nói đạn sợ ông rồi, ông chỉ sợ bầy chó đói.
Anh ơi! chắc em chết, gia đình em chết hết. Em khóc ròng đây, em khóc muốn ngất khi nghĩ rằng, khi yên, anh sẽ tới tìm em nơi này, anh sẽ không thấy xác em đâu nữa. Tay em nằm trong bụng con chó này, mặt em ở trong bụng con chó khác. Anh ơi, em tội tình chi mà không được một nấm mồ. Anh Văn em, ông nội em… Em thèm cúng giỗ, thèm được người ta cúng giỗ quá. Bây giờ em mới hiểu tại sao mọi nhà đều cúng chiều ba mươi, tại sao có trầm hương, có cô hồn, có ác quỉ.
Anh Phan, em vừa nghe cả nhà bàn sáu giờ chiều nay sẽ trốn đi vùng khác, ông nội ở lại, chị Tư ở lại, xác anh Văn đặt trong hầm, má em với Út, với Tây, với Bằng sẽ trốn đi. Mẹo đi theo. Bác Chắc ở lại canh chừng ông nội và rửa vết thương cho chị Tư. Ông nội, chị Tư sẽ vào hầm nằm chung với anh Văn để khỏi đuổi chó. Em sẽ đặt lá thư này dưới chiếc sập gụ, chiếc sập gụ lát nữa đây sẽ được đem tới kê trước miệng hầm. Nếu em chết, má sẽ chỉ cho anh thấy lá thư này. Em nghĩ là má sẽ sống, cả em cũng phải sống. Chiếc nhẫn mấy ngày nay đã lỏng lẻo, nhưng em vẫn đeo, coi như một thẻ bùa may mắn. Anh ơi, anh đang ở Truồi hay ở đâu. Em lo sợ quá… Chiều tối em sẽ đi, chưa biết là tìm thấy sự sống hay sự chết.
Ðến hôm nay đèn cầy hết, thực phẩm chỉ đủ cho hai người ăn trong mười lăm hôm. Cầu mong sẽ yên sớm hơn. Nghe nói Mỹ đã chiếm được Công-chánh, phía hữa ngạn. Anh có về đến đó chưa?
Em đã ăn hết những bông hoa tường vi của anh đêm ba mươi Tết, thuốc trường sinh, thuốc tình yêu. Anh ơi, em phải sửa soạn để đi, lá thư này xin gửi lại dưới sập gụ…
* * *
Từ trường Kiểu-mẫu, Phan đã mấy lần kiếm cách đi lên mạn Bến Ngự, nhưng mấy ngày nay, súng nhỏ súng lớn nổ ran về miệt đó. Phan đi lần được tới bờ sông, người Mỹ đuổi Phan trở lui lại, Phan đứng dọc đường đón mọi người tản cư đi qua, hỏi thăm tin tức, nhưng chàng cũng không nhận được một tin tức nào. Cho tới khi gặp được một người từ bến Ngự chạy về lánh nạn ở Tân-lăng, Phan đến hỏi tin tức, được biết gia đình Diễm một nửa còn mắc kẹt ở lại, một nửa đã trốn theo đường rầy về An Cựu, nhưng tới nửa đường thì Diễm bị một trái bom rơi trúng, cả thân thể Diễm bay kẹt vào một bụi cây. Chỉ nghe chừng đó Phan đã bụm mặt khóc òa, chàng không còn đủ sức hỏi thăm thêm gia đình Diễm nữa. Mười mấy ngày sau, khi Bến Ngự đã dẹp xong, Phan là người trước nhất đi dọc theo đường rầy xe hỏa về Bến Ngự. Dọc đường, Phan đã nhận ra xác Diễm. Diễm chỉ còn lại đầu tóc, chiếc mặt đã bầm dập, cả người đã sình thối, nàng kẹt vào giữa bụi cây, và những dòng nước vàng đã chảy xuống. Cánh áo phin trắng của Diễm đã rách nát, nhưng nơi ngực áo, hai chữ P D lồng nhau thêu bằng chỉ trắng vẫn chưa bị mục, và nhờ đó Phan nhìn ra xác Diễm... Diễm mất một cánh tay, và nơi bàn tay còn lại, Phan không nhìn thấy ngón đeo nhẫn đâu hết. Ngón tay đeo nhẫn của Diễm đã bị cắt lìa. Phan tìm cùng khắp không thấy vết tích đốt tay và chiếc nhẫn đó nữa.
Khi đem xác Diễm về tẩm liệm, mọi người phát giác ngón tay đeo nhẫn của nàng đã nằm gọn trong đám ruột bầy nhầy, không ai hiểu tại sao, và chiếc nhẫn cũng không tìm thấy.
Chôn cất Diễm xong, Phan đi tìm mẹ Diễm, bà đang nằm tại một bệnh viện của Mỹ. Phan tìm tới ngôi nhà cũ của Diễm, ông nội nàng đã chết, chị Tư cũng đã chết, xác của Văn, của ông nội, của chị Tư bị chó chui vào gặm nát, người mất tay, người mất chân. Khi dở cái gập sụ ra để lôi những xác chết, Phan đã tìm thấy bức thư của Diễm.
Chiếc xe của Diễm vẫn còn nguyên, dựng ở một góc tường chưa bị sập. Phan dắt chiếc xe đạp ra khỏi nhà, chàng dắt đi bộ chớ không ngồi lên đạp.
Căn nhà của Phan chỉ bị thủng mấy lỗ đạn.
* * *
Những ngày sau đó, bạn bè của Diễm còn sống sót, chiều đi ngang qua con đường hàng Ðoát thấy Phan ngồi trên chiếc xe đạp, dắt theo một chiếc xe đạp, và bên ghi đông chiếc xe không người, lủng lẳng cột một chiếc nhẫn vàng. Bạn bè không ai dám hỏi thăm, dám an ủi, vì Phan không bao giờ trả lời, không bao giờ đứng lại nghe ai nhắc tới tên Diễm.
Con đường hàng Ðoát đến bây giờ vẫn còn đẹp, và chiều chiều vẫn còn những đôi tình nhân song song đạp xe đi trên đó. Bóng dáng của Diễm cũng như những đống gạch vụn, những dấu bom đạn đã lùi dần trong trí nhớ bạn bè. Người ta bắt đầu quen dần với cảnh Phan vừa đi vừa dắt thêm một chiếc xe đạp bên cạnh. Không ai còn thì giờ nhắc tới mối tình của họ.
Nhã Ca
SỢ HÃI BIẾN TA THÀNH NÔ LỆ
Lê Đức Minh
Năm 1968, mặc dầu đất nước đang chiến tranh, gia đình tôi, nhất là đám trẻ con như tôi, vẫn rộn ràng chuẩn bị đón Tết trong không khí đầm ấm, đậm đà truyền thống dân tộc.
Cậu tôi làm việc tại phòng Chiến Tranh Chính Trị Quân đoàn 1, vì có phiên trực nên không thể về Huế đón Tết với gia đình được. Cậu tôi ở lại ăn Tết với gia đình tôi ở Đà Nẵng. Nhà tôi ở gần cây xăng Shell. Từ đây lên Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 1, chỉ cần chạy xe Honda 15 phút là đến. Cậu tôi nói phía Việt Cộng đã đồng ý hưu chiến để người dân mọi nơi có thể đón Tết dân tộc an lành.
Tôi còn nhớ đêm giao thừa năm đó cậu tôi đã cho nổ những viên pháo của quân đội dùng làm lựu đạn tập trên thao trường. Tiếng nổ của những viên pháo này “ác liệt” gấp mấy lần những viên pháo tống ba tôi mua trên phố.
Tuy nhiên khi chúng tôi vừa chuẩn bị vào giường ngủ thì cậu tôi và ba tôi phát hiện những tiếng nổ lạ vẫn kéo dài sau khi dứt tiếng pháo giao thừa. Sau khi nghe ngóng một lúc cậu tôi bảo với ba tôi chắc chắn Việt Cộng đã tấn công vào Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 1. Cậu tôi hấp tấp mặc quân phục và phóng xe Honda ra khỏi nhà. Tuy nhiên khoảng 1 tiếng đồng hồ sau cậu tôi quay lại và báo cho ba tôi biết là đang đánh lớn chung quanh vành đai Bộ Tư Lệnh. Cả phi trường Đà Nẵng cũng bị tấn công. Đêm hôm đó ba tôi thức với cậu tôi cho đến sáng.
Sáng ngày mồng một Việt Cộng rút chạy khỏi khu vực Bộ Tư Lệnh, cậu tôi vào trình diện đơn vị. Thế là không còn Tết nhứt gì nữa. Không liên lạc gì được với đại gia đình ở Huế.
Ngày mồng hai Tết chúng tôi nhận được tin thành phố Huế đã bị Việt Cộng tràn ngập. Bên nội và bên ngoại của tôi đều sống ở Huế. Ba mẹ và cậu tôi như ngồi trên đống lửa.
Ngày mồng ba Tết tôi thức dậy và phát hiện một người cậu khác của tôi cũng là sĩ quan quân đội đang nằm ngủ như chết trong nhà. Mẹ tôi nói, Việt Cộng đã chiếm Huế, nhưng cậu tôi may mắn giả dạng phụ nữ, chạy bộ dọc theo bờ biển vào đến được Đà Nẵng an toàn..
Lúc đó tôi chỉ là một đứa con nít. Tuy nhiên thái độ âu lo của ba tôi, cậu tôi và việc cậu tôi phải chạy trốn bỏ lại cả gia đình ngoài Huế, chứng tỏ Việt Cộng phải là những con người ác độc ghê gớm lắm mới làm cho mọi người lo sợ đến như vậy.
Không lâu sau đó tôi đã hiểu được lý do vì sao người ta sợ Việt Cộng.
Khi thành phố Huế được “giải phóng”, thì cũng là lúc tiếng khóc than thảm thiết của người dân Huế có thể nghe ở khắp mọi nơi.. Hầu như gia đình nào ở Huế cũng có người thân bị “cách mạng” mời đi họp rồi mất tích luôn. Có người biết thân nhân của mình đã bị giết, mà không dám khóc lóc, than thở gì. Khi thấy lính quốc gia vô, lúc đó mới được tự do mà than khóc.
Nhà dì tôi, vợ góa của cố trung tá thiết giáp HĐH, bị Việt Cộng đột nhập. Trong hơn ba tuần dì tôi phải sống chung nhà với một toán Việt Cộng. Ba lần dì tôi bị bọn Việt Cộng mang ra trói vào gốc cây trong vườn định bắn, nhưng không hiểu vì sao cuối cùng chúng tha dì tôi. Tuy nhiên dì tôi tuy sống mà đã chết. Sau đó dì tôi bị những chấn thương tinh thần nặng nề không bao giờ hồi phục được nữa.
Một người cậu khác của tôi sống ở Gia Hội bị Việt Cộng đến nhà mời đi họp. Người cậu này chỉ là họa sĩ, chứ không phải sĩ quan quân đội như các cậu khác. Đêm mồng mười Tết, một toán Việt Cộng đến nhà mời cậu tôi đi họp với “ủy ban nhân dân cách mạng.” Cậu tôi mạnh dạn từ biệt vợ con ra đi vì tin rằng mình không phải là bên quân đội hay cảnh sát gì. Cậu tôi ra đi và không bao giờ quay trở lại.
Khi những mồ chôn tập thể các nạn nhân của Việt Cộng được khai quật, mợ tôi cùng con cái chỗ nào cũng tới tìm, may ra có nhận dạng được thi hài của cậu không. Tuy nhiên trong thâm tâm mợ tôi vẫn hy vọng rằng cậu tôi chưa chết.
Mãi đến khi người ta phát hiện thi hài của mấy ông bác sĩ người Đức của trường Đại học Y khoa Huế, thì mợ tôi mới thất kinh. Mấy ông bác sĩ người Đức đến Việt Nam giảng dạy cho sinh viên mà còn bị Việt Cộng giết, huống chi cậu có nhiều anh em là sĩ quan quân đội. Nhưng xác cậu tôi vẫn chưa tìm thấy.
Cuối tháng tư năm đó, mợ tôi không biết linh tính thế nào, một hôm đang ngồi trong nhà bỗng nhiên đứng dậy đi ra sau vườn. Cậu mợ tôi có một khu vườn cây ăn trái rất rộng. Chăm sóc khu vườn một tay cậu lo. Mợ ít khi nào đi quá đám rau xanh gần sát hông nhà.
Hôm đó khi thủng thỉnh đi ra vườn sau, bỗng nhiên mợ nhìn thấy một chiếc dép của cậu. Mợ tôi nhớ rõ đêm hôm bị ‘cách mạng’ mời đi họp, cậu mang đôi dép đó. Tuy nhiên nếu cách mạng mời đi họp thì cậu phải đi ra phía cổng nhà chứ làm sao lại có chiếc dép ở cuối vườn. Mợ tôi la thất thanh. Mọi người chạy đến và bắt đầu đào bới. Chỉ năm phút sau người ta tìm thấy xác cậu bên cạnh gốc mấy cây chuối cau. Xương sọ của cậu bị đập vỡ nát, xác nằm úp sấp xuống mặt đất, vùi sơ sài trong một hố đất nông.
Cậu tôi chỉ là một trong số hơn 5000 người dân Huế bị chính những người đồng bào của mình, nhân danh ‘cách mạng’ trói ké bằng đủ mọi loại giây dợ, giết chết bằng đủ loại vũ khí, vùi lấp trong đủ mọi tư thế, còn tệ hơn người ta giết và chôn gia súc.
Trả lời một cuộc phỏng vấn tại Pháp vào năm 1997, một nhà văn Việt Nam là Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nói về vụ thảm sát đồng bào Huế như sau: “Mậu Thân đã xẩy ra cách đây gần 30 năm. Sách vở, tài liệu đã được công bố từ nhiều phía của cuộc chiến, khá đầy đủ, có thể làm cơ sở cho những phân tích khoa học để giải phẫu một cuộc chiến mà thật ra, không thể đơn giản tách riêng ra trong biến cố Mậu Thân. Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng. Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế, chứ không phải một chính sách toàn cục của cách mạng.. Bởi vì tình trạng giết chóc bừa bãi như vậy, đã không xẩy ra ở những địa phương khác trong Mậu Thân, ngay cả trên một địa bàn rộng lớn với tình trạng xen kẽ giữa những lực lượng đối địch rất phức tạp như ở Sài Gòn thời ấy.”
Ông Tường đã đưa ra lời nhận định nói trên sau khi tìm cách trích dẫn những bằng chứng cho thấy rằng ông không có mặt trong đoàn quân Việt Cộng chiếm đóng thành phố Huế năm 1968. Ông Tường khẳng định là ông không hề giết ai ở Huế với lý do lúc đó ông đang ở trên núi!
Tuy nhiên trong cuốn phim tài liệu “Việt Nam Thiên Lịch Sử Truyền Hình” chính ông Tường đã nói rằng: “Quân đội cách mạng phải làm như vậy để những phần tử có nợ máu với nhân dân không còn thực hiện được tội ác nữa.”
Tôi tin rằng những lời ông Tường trả lời phỏng vấn ở Pháp là hoàn toàn giả dối. Có lẽ ông Tường đã nói như trên khi trên đầu đã hai thứ tóc, và có thời gian để suy gẫm lại về con đường cách mạng ông đi qua, về những tội ác mà ông đã nhúng tay vào, nhân danh một người con xứ Huế yêu nước thương nòi.
Hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan và Hoàng Phủ Ngọc Tường là bạn văn chương của ba tôi, khi họ đang học trung học với nhau ở Huế. Ba tôi nói giai đoạn từ 1945 đến 1955 ở Huế phong trào âm nhạc, văn chương phát triển rất mạnh trong giới sinh viên học sinh Huế. Theo đó là tinh thần chống Pháp cũng rất mạnh. Ba tôi nói ông quen hai anh em Phan và Tường qua các sinh hoạt văn nghệ và hướng đạo. Tuy nhiên từ khi ba tôi quyết định theo học sư phạm và vào Quảng Nam làm nghề gõ đầu trẻ thì họ không còn liên lạc với nhau nữa.
Sau này khi tôi hỏi ba tôi rằng liệu những người như Phan và Tường, những học sinh sinh viên yêu văn chương âm nhạc thời đó có thể trở thành những kẻ giết người không gớm tay như lịch sử cáo buộc hay không. Ba tôi suy nghĩ một lúc lâu, rồi trả lời: “Ba tin rằng người Cộng Sản có thể làm tất cả mọi điều. Nếu người cuồng tín có thể giết người vì lý do tôn giáo và tin rằng họ được Thượng đế tha tội, thì những người Cộng Sản cũng vậy. Cách mạng đối với những người Cộng Sản còn thiêng liêng hơn tôn giáo nhiều.”
Ba tôi bảo tôi hãy hỏi thêm ông ngoại và ông nội của tôi về những kinh nghiệm của họ đối với bản chất sắt máu của Cộng Sản. Nhớ lại những gì tôi nghe được từ ông nội và ông ngoại của tôi, tôi tin lời phát biểu của ông Tường trong cuốn phim tài liệu Việt Nam Thiên Lịch Sử Truyền Hình là đường lối chính thống của những người Cộng Sản Việt Nam.
Trước năm 1945, ông ngoại tôi là một nhà giáo nổi tiếng đức độ ở làng Sịa, một làng quê không xa thành phố Huế lắm. Ông ngoại tôi nói tiếng Pháp như người Pháp. Nhưng ông tôi cũng nói rằng người Pháp rất ác độc với người Việt kể từ khi họ đến xâm lược và chiếm đóng Việt Nam. Do đó việc người Việt giết người Pháp là không có gì để hối hận. Tuy nhiên những người Cộng Sản cũng không hề chùn tay khi phải hạ sát những người cùng dòng máu đỏ da vàng nếu họ cho rằng những người này theo Tây và chống lại cách mạng..
Vào những năm 1945 trình độ dân trí của người Việt rất thấp do chính sách cai trị của người Pháp, đặc biệt là tại vùng nông thôn. Thêm vào đó là đời sống cực kỳ nghèo khó của nông dân khiến Cộng Sản phát triển ở vùng nông thôn như nấm độc gặp đất lành.
Ông tôi nói để hạn chế đến mức tối đa việc những người Việt Nam hợp tác với Pháp, Việt Minh đã áp dụng chính sách giết chóc thật tàn bạo những người mà họ gọi là Việt gian để làm cho mọi người đều sợ không dám bắt tay với Pháp.
Ban ngày thì Việt Minh ở trên núi, nhưng ban đêm thì mò về làng để kiếm thức ăn, để vận động quần chúng và để sát hại kẻ thù. Vì thế nhà nào có nuôi chó đều bị Việt minh bắt và ăn thịt hết, hay khuyến cáo gia chủ giết thịt nếu không muốn bị mang họa vào nhà. Thời đó, theo ông ngoại tôi kể, thì làng nào cũng có một mõ làng để báo động mỗi khi có biến.
Không có chó, ban đêm ở các làng quê Việt Nam đắm chìm trong bóng tối và sự im lặng đến nghẹt thở. Mỗi khi có tiếng mõ làng vang lên thất thanh, người nào trong làng cũng sợ đến tím người. Việt Minh về làng! Sáng hôm sau thế nào cũng có vài ba cái xác người bị chặt đầu lìa khỏi cổ, hay bị chặt làm ba khúc bằng mã tấu, xác nằm phơi trên những vồng khoai hay sắn.
Cứ như thế những cảnh tượng giết chóc kinh khủng như thế ăn sâu vào tâm khảm của người dân, khiến họ có một nỗi sợ đến tê liệt khi nói đến Việt Minh không phân biệt Việt Gian hay người dân vô tội.
Ngay trước ngày toàn quốc kháng chiến 20/12/1946, ông tôi kể trước khi rút vào các chiến khu Việt Minh đã có những đợt tàn sát kinh khủng tại những vùng mà họ kiểm soát. Tất cả những người mà họ cho là Việt gian, hay không có cảm tình với Việt Minh đều bị các cán bộ răng hô mã tấu của Việt Minh giết hết. Cán bộ được học tập rằng không thể nương tay với kẻ thù của cách mạng. Việc giết chóc vừa làm tiêu hao sinh lực của kẻ thù vừa làm người dân sợ hãi không dám hợp tác với Pháp.
Ông ngoại tôi kể thời đó ở Sịa có một tên đầu trộm đuôi cướp tên là Bía*. Nhà nào cũng bị hắn trộm cắp thứ này hay thứ khác. Ông ngoại tôi có một người em gái. Bà này có người chồng làm an ninh trong ngành đường sắt của Việt Minh ở Quảng Bình. Trước ngày rút đi kháng chiến, ông em rể đưa cho ông ngoại tôi một khẩu súng lục. Có lẽ biết trước sẽ có biến, cho nên ông này bảo ông ngoại tôi phải giữ lấy để phòng thân. (Ông em rể này sau bị giết trong đợt thanh trừng năm 1953 ở miền Bắc, và em gái của ông ngoại tôi được Đảng gả cho một cán bộ công an khác).
Ông ngoại tôi cả đời chưa hề cầm khẩu súng, chỉ cười và nhận cho ông em rể vui lòng. Tuy nhiên nghe lời ông em rể, ông ngoại tôi cũng để khẩu súng không có đạn dưới gối khi đi ngủ. Ngay trong đêm Hồ Chí Minh đưa ra lời kêu gọi Toàn quốc Kháng chiến, thằng Bía nhảy hàng rào và xách mã tấu lẻn vào nhà ông ngoại tôi và mon men đến gần tấm phản nơi ông ngoại tôi nằm. Không ngờ ông tôi vẫn đang thức giấc. Biết thằng Bía có ý định giết ông, ông ngoại tôi đưa thẳng khẩu súng nhắm vào người thằng Bía và bảo hắn phải rời khỏi nhà ông ngay nếu không sẽ bị bắn vỡ sọ.
Thằng Bía hoảng hồn chạy biến ra khỏi nhà ông ngoại tôi và đi theo kháng chiến luôn từ đó. Nghe đồn hắn đã chết trong chiến khu.
Trong khi đó bà ngoại tôi mắc kẹt ở Quảng Bình.Gia đình ông ngoại tôi có một đồn điền. Tất cả mọi người đều sống ngoài đó, chỉ có ông tôi ở Huế đi dạy học. Mẹ tôi kể rằng khi Hồ Chí Minh tuyên bố toàn quốc kháng chiến, quân Pháp tại một số vùng có lực lượng Việt Minh mạnh đã rút về Huế. Buổi chiều một sĩ quan Pháp đi ngang qua làng thấy bà ngoại tôi có bầu sắp sinh đã nói với bà ngoại rằng quân đội Pháp sắp rút về Huế vì Việt Minh sắp đến vùng này. Nếu bà ngoại tôi muốn ông ta sẽ cho xe đưa cả gia đình về Huế. Tuy nhiên bà ngoại giải thích với mẹ tôi rằng bà không muốn trả lời ông sĩ quan Pháp vì sợ tai mắt của Việt Minh. Nếu ông sĩ quan không đến đúng đêm hôm đó, thì Việt Minh có thể sẽ giết bà vì thấy bà nói chuyện với lính Pháp.
Bà ngoại tôi ở lại và mất sau đó ít lâu vì sinh khó mà không có bà đỡ. Mẹ tôi cùng mấy anh chị em khác được người làng giúp đỡ thuê thuyền ngược đường vào Huế đoàn tụ với ông ngoại. Dân làng chôn bà ngoại tôi dưới gốc một cây đa lớn đầu làng. Năm 1977 ông ngoại tôi ra Quảng Bình tìm mộ bà ngoại, đem nắm xương tàn của bà ngoại về ngồi lau chùi cẩn thận để an táng lại. Nhìn cảnh đó mọi người không ai cầm được nước mắt.
Ông nội của tôi người ở làng Hà trữ, Thừa Thiên.. Ông tôi là một thợ máy xe hơi rất giỏi vào thời đó và lại giỏi võ nên được tuyển vào làm tài xế trong hoàng cung của vua Bảo đại. Ông nội tôi đã nhiều lần lái xe cho vua Bảo Đại và có khi còn theo vua Bảo Đại đi săn voi ở Ban Mê Thuộc. Bà nội tôi thì làm người giúp việc trong bếp của hoàng cung.
Ông nội tôi kể vào thời điểm đó ông nội tôi từ Huế về thăm làng ở Hà trữ, và không về lại Huế kịp trước ngày toàn quốc kháng chiến. Trong đêm toàn quốc kháng chiến đó rất nhiều người trong làng ông tôi đã bị Việt Minh giết dã man. Có người còn bị đóng cọc tre xuyên từ hậu môn lên tới cổ. Đa số bị giết bằng cách chặt đầu hay chém đứt thân thể thành hai hay ba khúc. Ông tôi nói rằng vào thời đó vũ khí thông dụng của cán bộ Việt Minh ở làng quê là những cây mã tấu to và bén ngọt. Họ chém người không biết gớm!
May nhờ có người em họ theo Việt Minh nhưng không đến nỗi đoạn tình anh em báo cho biết, ông nội tôi kịp thời giả làm phụ nữ thuê người chèo một chiếc ghe theo sông Hương ngược đường trong đêm tối về lại Huế. Trên đường đi nhiều lần bị cán bộ Việt Minh đi tuần phát hiện, nhưng nhờ người chèo ghe lanh trí nên ông nội tôi thoát. Ông nội tôi nói rằng nếu không nhờ người bà con báo trước thì ông đã chết không toàn thây trong cái đêm toàn quốc kháng chiến đó.
Những hành vi tàn sát thiếu nhân tính của những người Cộng Sản Việt Nam không chỉ đơn thuần là những việc bắt buộc phải làm trong hoàn cảnh chiến tranh. Trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn vừa qua những người Cộng Sản đã chiến đấu với một ý thức hệ Cộng Sản chứ không phải chỉ đơn thuần là một cuộc chiến chống ngoại xâm để thống nhất đất nước. Họ muốn đất nước được thống nhất thì ít mà mơ xây dựng thiên đường Cộng Sản thì nhiều. Do đó những hận thù giai cấp cũng đã được thể hiện trong những hành vi giết người dã man của họ.
Không có một dân tộc nào trên thế giới có một truyền thuyết đầy ý nghĩa về sự hình thành của dân tộc mình như người Việt Nam. Huyền thoại Lạc Long Quân và Âu cơ, sinh trăm trứng đẻ trăm con khẳng định rằng người Việt dù ở nơi đâu, dù xuất xứ thế nào, đều là anh em ruột thịt.
Nhưng nếu là anh em ruột thịt, dù xung đột đến mức nào, người ta cũng không thể nào giết nhau dã man như đã giết nhau từ những năm 1945 đến năm 1968 và đày đọa nhau đến tận cùng như sau năm 1975. Phải chăng kể từ khi tuyên thệ dưới lá cờ búa liềm của đảng Cộng Sản, một số người đã hoàn toàn không còn là “đồng bào” của chúng ta?
Nếu ai đã từng ở lại Việt Nam sau ngày 30/4/1975 hẳn còn nhớ những đêm ngay sau ngày “cách mạng” vào thành phố. Không điện, không đèn, cả thành phố đắm chìm trong bóng tối và một sự im lặng đến kinh khủng. Không có hát hò, diễn hành mừng “giải phóng” như những lời mô tả dối trá trong sách báo Cộng Sản.
Tôi còn nhớ đêm 29/3 khi Đà Nẵng rơi vào tay Cộng Sản. Một đêm tối và im lặng đến ghê người. Tôi đã đủ lớn để chia xẻ cùng ba mẹ tôi những nỗi lo âu. Tôi nghe ba tôi thì thầm căn dặn mẹ tôi những điều phải làm nếu không may ngày mai ông bị chính quyền cách mạng đến mời ‘đi họp’.
Không có một cuộc tắm máu như người ta đã dự đoán khi Cộng Sản vào thành phố. Vì sao? Vì họ đã toàn thắng. Giờ đây cả một dân tộc đã nằm trong tay họ, và họ không còn mối lo người dân sẽ hợp tác với kẻ thù nữa. Do đó không cần phải giết chóc như năm 1968 khi phải vội vã rút đi vì chiến bại. Nhưng những người Cộng Sản đã cấy được nỗi sợ hãi kinh khủng vào trí óc của những người dân Việt. Nỗi sợ hãi bị giết, bị ngược đãi đã làm cho cả một dân tộc tê liệt vì sợ, mất hoàn toàn sức đề kháng dù biết rằng mình đang bị cai trị bởi một chế độ vô nhân.
Sau này tôi biết có một nhân vật ở miền Nam mà Việt Cộng rất căm thù. Đó là vị chỉ huy của nhà tù Côn đảo. Theo Cộng Sản thì vị này tội đáng tru di tam tộc. Tuy nhiên sau ngày 30/4 họ vẫn để người này sống cuộc đời còn lại trong bình yên. Một người họa sĩ như cậu tôi mà bị đập vỡ sọ chết, trong khi vị chúa đảo nói trên thì lại được sống. Quý vị có nghĩ ra được sự đểu cáng đến tận cùng của những người Cộng Sản hay không?
Ngày 17/05/1991 chiếc thuyền nhỏ chở 53 người tị nạn Cộng Sản, trong đó có tôi, cập bến Hongkong. Sau đó tất cả được đưa về giam giữ tại trại tị nạn Shek Kong. Hai ngày sau tôi có giấy gọi lên gặp trại trưởng là một viên đại úy cảnh sát.. Tôi sợ đến tái mặt. Mọi người trong lều của tôi cũng sợ dùm cho tôi. Ai đã từng sống dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam mà không sợ chính quyền, sợ công an và cảnh sát?
Đón tôi trong văn phòng là một viên đại úy người Anh cao lớn trong bộ đồng phục cảnh sát Hongkong. Viên đại úy có khuôn mặt phúc hậu và nụ cười tươi mời tôi ngồi và cám ơn tôi đã giúp cảnh sát Hongkong trong tư cách một người phiên dịch cách đó 2 ngày. Hôm đó Hongkong bị tràn ngập bởi người tị nạn từ Việt Nam và trong hơn 600 thuyền nhân đó không ai nói được cả tiếng Anh và tiếng Hoa. Tôi đã giơ tay tự nguyện làm phiên dịch cho một viên trung úy người Anh. Sau khi hoàn tất công việc, viên trung úy đã ghi họ tên tôi vào một cuốn sổ tay. Tôi không ngờ anh ta đã báo lại cho viên đại úy trại trưởng.
Kết thúc buổi nói chuyện, Chirstopher Nowell, viên đại úy người Anh đã tặng tôi một món quà. Đó là tập thơ Hoa Địa Ngục của nhà thơ bất khuất Nguyễn Chí Thiện. Đó là bản tiếng Anh “Flowers from Hell” do Huỳnh Sanh Thông dịch. Lúc đó tôi hoàn toàn không biết Nguyễn Chí Thiện là ai. Viên đại úy giải thích rằng tập thơ đó đã được một giáo sư người Anh mang về từ Hà Nội, và tác giả thì đang ở tù.
Lần đầu tiên tôi đọc thơ của Nguyễn Chí Thiện. Tôi đọc và tôi khóc ngon lành như một đứa trẻ thơ. Lần đầu tiên tôi biết có một người Việt Nam không biết sợ Cộng Sản. Lần đầu tiên tôi biết có một người sống dưới chế độ Cộng Sản nhưng thật sự là một con người tự do. Bởi lẽ sự sợ hãi biến ta thành nô lệ!
* Tôi không nhớ chính xác tên của nhân vật này
Tài liệu tham khảo:
Tư liệu gia đình
Bài phỏng vấn HPNT của Thụy Khê ở Pháp năm 1997
Tài liệu từ bộ phim “Việt Nam Thiên Lịch sử Truyền hình”
http://ykhoahuehaingoai.com/99do/SoHai-NoLe_LDMinh.html
Bs Lê Đức Minh
Y Khoa Huế Khóa 1983
Đăng ngày 17 tháng 02.2018