Tâm tình bên tách cà phê

Châu Tiến Khương

Tháng 11 năm 1978 gia đình tôi và một số thuyền nhân đồng vượt biển trên ghe máy VT 72 tấp vào một làng Mã lai. Sau khi công nhận chúng tôi chính là người tỵ nạn chánh trị, Cao Ủy Tị Nạn Liên Hợp Quốc (UNHCR) đưa chúng tôi vào tạm trú tại trại Cherating thuộc Kuantan (Malaysia) Thân nhơn hay tin đứng ra bảo lãnh nên gia đình tôi được đưa sang Pháp vào đầu tháng 7 năm 1979.
Do anh bạn giới thiệu, tôi vào tòng sự với tư cách nhơn viên khế ước tại Pháp Đình Paris rồi trở thành công chức tại Toà Phá Án (Cour de Cassation) Pháp. Được ông thẩm phán Chánh Văn phòng Chánh Nhứt Toà Phá Án ân cần giới thiệu nên các hội thẩm đối xử với tôi rất tốt, có người coi tôi như bạn, vì hỏi ra chúng tôi, tuy năm học có khác, nhưng cùng thầy cùng môn học.
Tuy an thân nhưng tâm trí vẫn chưa ổn định. Tôi không quên Việt Nam, luyến nhớ nơi sanh thành, buồn với cảnh nước mất nhà tan, bi thương với tình trạng các bạn đồng sự – đồng nghiệp thân đang bị giam lao tù, trong “cái” mà nhà văn Nga Alexandre Soljenitsine gọi là ”bẫy lưới sắt” đã sập xuống nhốt trọn 90 triệu người dân Việt vào rọ Xã Hội Chủ Nghĩa. Guồng máy ” Vô Sản Chuyên Chính” này do Lénine lập theo mưu lược ghi trong quyển ”Le Prince”(Vương Tử) mà tác giả, ”lý thuyết gia” Machiavel ngay vào đầu thế kỷ XVI, đã dâng bày mưu thuật tạo dựng và bảo vệ quyền lực chánh trị vào thuở Ý Đại Lợi hãy còn trong chế độ ”phong kiến vương hầu”
Từng du học gần 1O năm tại Pháp, từng quen với sanh hoạt Paris, dù may mắn có việc hợp khả năng, tôi vẫn tủi phận tha hương buồn với tấm thân viễn xứ.

*
Một hôm từ nhà ăn của Pháp đình Paris bước ra, tôi gặp ông bạn, đúng hơn là ”xếp” vì ông là Chánh án phòng (Président de chambre) thuộc ngạch trật thẩm phán cấp cao, ông mời tôi đi uống cà phê và khi cả hai cùng ngồi vào bàn, ông cho tôi biết ông vừa về Pháp sau một chuyến tham quan Việt Nam. Tôi hơi khó chịu, ông hiểu ngay nên chậm rãi giải thích:
Ông biết không? Nói là tham quan Việt Nam, thâm ý của tôi là tìm về Sài-Gòn để viếng thăm khuôn viên nhỏ tại đường Catinat (Tự do) nằm giao góc với đường Lagrandière (Gia Long). Tôi thích ngồi trên ghế đá ngắm tòa cao ốc trước mặt nhứt là từng lầu 2 của một khu phòng có hai cửa sổ nhìn thẳng ra vườn này.
Có lẽ thấy vẻ ngơ ngác của tôi, ông tiếp tục giải thích:
…… Ở từng lầu, chổ khu phòng ấy là nơi tôi chào đời… Vậy Nam Việt nam (Cochinchine) là quê hương tôi, nơi tôi sanh thành và sống quãng đời niên thiếu. Đã lâu rồi tôi nhớ Sài-gòn. Nhớ Sài-gòn tôi đâu quên được người Việt-nam mà thật lòng, tôi coi như đồng hương. Tôi không sao quên tấm lòng người Việt đối xử với tôi trong đêm 9 tháng 3 năm 1945, Nhựt đảo chánh Pháp. Thuở ấy tôi lối 14 tuổi, học nội trú tại trường Yersin Đà Lạt. Nghe súng nổ rồi biết Nhựt đảo chánh nên khi nghe tiếng xe quân đội Nhựt chạy hướng về trường Yersin, tôi cùng một vài bạn học hoảng hốt bỏ trường chạy tán loạn vào rừng. Tôi lạc lõng bơ vơ suốt mấy ngày, rét lạnh, đói khát. May sao, tôi lạc vào một xóm nhỏ người Việt. Họ tiếp đãi tôi rất nồng hậu, cho ăn, cho uống, cho tắm rừa, cho mượn quần áo để thay, rồi lại giặt phơi quần áo cho tôi nữa. Tôi một người Pháp thất thế, đang sợ bị bắt bị giam, thế mà họ tỉnh bơ chứa chấp tôi không tỏ vẻ lo âu gì cả… Tôi ở trong xóm nhưng biết tin hằng ngày do họ đi chợ về thuật lại; rồi một hôm một người đàn ông cho hay Nhựt tập trung các Pháp kiều để đưa về Sài gòn và theo ông không ai bị hành hạ bắn giết gì cả. Họ cho tôi biết tin nhưng không hề biểu tôi đi; mấy bà còn khuyên tôi nấn ná chờ xem. Vài hôm sau họ xác nhận sự việc và do quyết định của tôi, họ đưa tôi về trường Yersin, để người có trách nhiệm dẫn tôi ra trình diện với quân Nhựt. Tôi không quên được những dòng nước mắt của các bà khi tiễn tôi đi trong lưu luyến lo âu. Phải ở trong hoàn cảnh đó mới thấu đáo tình người; trong lòng họ tuyệt không có chút thù hận, chỉ xót thương tôi… một kẻ khốn cùng.
Ngừng một chút để uống cạn nửa ly cà phê đã nguội và trước khi chia tay ông nói thêm:
Tôi biết nỗi khổ của dân miền Nam nhứt là dân Sài gòn đồng hương của chính tôi. Tôi cũng biết người Cộng sản không ưa dân Nam. Tôi biết họ đày đoạ dân Nam, cướp đoạt đất đai nhà cửa tài sản của dân Nam. Nhưng tôi phân biệt chế độ và nhân dân. Tôi không ưa chế độ với bộ máy cầm quyền vô cảm nhưng tôi thương dân miền Nam, rất chân thật và giàu tình người. Làm sao tôi trả ơn xưa với những người đã giúp đỡ tôi? Chắc họ đã chết hay đã quên tôi rồi; bây giờ nhớ đến họ tôi cảm thấy bùi ngùi và cố làm những việc có thể làm giúp dân Việt mà tôi coi như đồng hương. À, ông có biết cô ca sï Chantal Goya không? Cô ta sanh tại Sài-gòn đấy. Ngày về Pháp cũng như bao người Pháp sanh tại Sài-gòn, cô khóc nhiều. Chúng tôi rời Sài-gòn với ngậm ngùi luyến tiếc. Chúng tôi không quên được tình người và tấm lòng dân Sài-gòn. Cho đến giờ nghe đâu cứ đến đêm Trừ tịch một số người Pháp sanh tại miền Nam Việt Nam hiện sống ở Paris vẫn thích hợp cùng nhau tại vùng ”Opera” trang phục khăn đóng áo dài cổ truyền, đốt nến thắp nhang thành tâm khấn vái rước ông bà theo cổ tục Việt nam, mừng ông bà về chơi với con cháu trong ba ngày Tết ….

*
Chúng tôi chia tay. Ông bạn đi rồi. Tôi vẫn thừ người nghĩ đến việc bỏ xứ ra đi, sống đời tỵ nạn, bồi hồi nhớ Làng nhớ Nước. Những lời tha thiết của ông khiến tôi xúc động.
Đảng Cộng sản Việt Nam thường hãnh diện tự cho đã “cướp” quyền bằng bạo lực cách mạng noi theo học thuyết và chính sách “Staline – Mao trạch Đông” để, nhơn danh Đảng, xây dựng chuyên chính nắm độc quyền chánh trị, dùng quyền lực chỉ huy kinh tế qua sự hình thành hệ thống kế hoạch ngược hẳn khuynh hướng thị trường tự do… Hậu quả tất yếu là mở rộng cửa cho các đảng viên có quyền chức tham ô, kết “băng”, lập “nhóm” tranh nhau nhũng lạm và cứ thế mỗi lúc mỗi lây lan ra khắp xứ. Họ làm giàu cực to, cực nhanh trong khi nhân dân vì sanh sống phải xa lần phong cách đạo đức văn hoá cổ truyền. Phải lo cho bản thân cho gia đình nên dân phải tranh sống bằng mánh mung, làm quen với mua chuộc, hối lộ để trở thành con người “thực tế” của Xã hội chủ nghĩa sử dụng thành thạo “luật chơi” sinh hoạt ”thức thời” theo phương châm “Nhứt ngân Nhì thế…” Thế là, chánh trị tham ô áp bức, kinh tế lũng đoạn, suy đồi, văn hoá thoái hoá suy vy, con người sa lún vào hố sâu trụy lạc, bung tỏa… sống buông thả qua ngày không còn ý chí tự lập thân, không còn gì để hãnh diện tự trọng, cũng không còn nghĩa đồng bào tình dân tộc khi mà kẻ cầm quyền ngồi trên đỉnh cao của Thế Lực chỉ nghĩ đến chiếm đất đoạt nhà cướp của, miệng nói vì dân nhưng hành động vì bản thân và gia đình. Mở miệng nói vì Đảng vì giai cấp nhưng thừa biết Đảng chỉ là phạm trù, một pháp nhơn, một kỷ thuật văn phong pháp lý được một số ít người nép mình, núp bóng trong thể loại từ ngữ trừu tượng “hư hư ảo ảo” ấy bao che quyền lực tập thể toàn trị. Nói là vì tập thể nhưng thực tế họ phân chia từng “nhóm quyền lực”, đấu đá nhau, tranh chức vụ chánh trị, chia quyền lực kinh tế, giành lợi ích tiền tài …..không ngần ngại cậy nhờ thế lực ngoại bang, cường quốc chủ nhơn,quan thầy quốc tế… khép nép thần phục để được bảo trợ… nắm vững và củng cố quyền hành.
Có hay không việc Lê Duẩn xác nhận “Ta đánh Mỹ là đánh cho Trung quốc cho Liên Xô”?
Quen với cuộc sống tự do người Việt miền Nam đủ mọi thành phần, mọi giới, mọi sắc tộc, mọi bộ lạc không thể hay chưa thể vong thân vào những tập đoàn chánh trị phi nhơn, kiếm tìm phương cách thoát vòng kìm tỏa, xa lánh chế độ “độc đoán trị vì”, tìm đường sang xứ tự do dù phải trả giá bằng những “cây vàng”, lắm khi đắt hơn, bằng tù đày hay chết thảm trong rừng núi hoang vu, trên biển cả cuồng phong bão tố.
Gia đình tôi cũng theo chân dân Việt yêu tự do, mạo hiểm vượt biển và nhờ Ơn Trên thực hiện được ước mơ sống lại đời tự-do ở Pháp, lần hồi tạo dựng cơ ngơi vì “có chi quý hơn được làm người tự do trong xã hội pháp trị dân chủ”?

*
Tôi không quên được nơi sanh thành, nơi giòng họ tôi đã hơn ba đời gắn bó. Thuở bé, cô tôi, Châu thị Phấn, thường bảo tôi hát câu nằm lòng: ”Xứ Nam kỳ tỉnh Gia định quận Gò vấp tổng Bình trị Thượng làng An nhơn xã ấp Trung Nhứt xóm Bến đình”. Sống đời lưu vong, cũng như mọi người Việt khác, tôi nhớ làng nhớ quê, nơi tôi từng sống hồn nhiên thoải mái trong tình người. Tuy đất nước thuở ấy có bị Thực dân quản chế thống trị nhưng dân quê lại được sống trong cảnh thanh bình an lạc.
Thuở ấy, làng tôi có chế độ gì? Tôi chả biết. Tôi chỉ luôn gặp và giao tiếp với “người” cùng làng. Ông già bà cả ăn mặc sang trọng, hay nghèo hèn, quần đen áo vải, tôi không phân biệt. Người nào là nông dân thợ nhuộm, buôn gánh bán rong… tôi chẳng lưu tâm. Trẻ nít chúng tôi thường quần cụt, áo thun ba lỗ, tụ hợp quây quần nhau, nay chỗ nầy mai chỗ khác tùy theo trò chơi mà cả bọn bày ra tùy hứng.
Một hôm bọn chúng tôi đi chơi gặp một ông ”làm làng”. Ông ta căn dặn:
Đi chơi coi chừng lùm cây ở ngã ba xuống ”Bến Đình” có ổ rắn lớn lắm!
Khi ông đi cách một khoảng xa, một thằng trong bọn nói nhỏ:
Ông làng này có cây súng!
Cả bọn nhao nhao lên:
- Sao mầy biết?
- Hôm trước tao đi với ba tao gặp ổng mang súng trên vai, tao hỏi ”ông Hương Quản đi tuần à?” ổng “ừ”
Lần lần tôi ý thức làng tôi có hương chức hội tề. Họ đều là dân làng nên ai cũng biết ai. Ngoài chức vụ ”làm làng” – một trách vụ không lương – họ có cơ sở làm ăn sanh sống như mọi người dân, có khác chăng là họ biết đọc biết viết. Họ là ”trí thức” trong làng. Không nghe ai nói họ dùng chức vụ để nhũng lạm làm giàu thị uy hiếp đáp dân lành. Người lớn gặp nhau cùng chào hỏi. Bọn trẻ nít chúng tôi khỏi phải khoanh tay cúi đầu, chỉ lễ phép nép bên nhường đường cho mấy “ổng” đi. Làng không có cảnh sát nhưng rất an bình, ai lo phận nấy. Rủi có biến cố hay tai nạn bất thường như trộm cướp, nhà cháy, đánh lộn té sông, ngả bệnh bất ngờ… chỉ cần to tiếng kêu la cầu cứu “làng xóm ơi!” là cả làng náo động, dù lúc đó là đêm khuya đi nữa, người người cũng đốt đuốc chạy tới ân cần can thiệp giúp đỡ. Nếu biến cố là “băng đảng ăn cướp” trang bị khí giới thì “nhà làng” nổi trống liên hồi, cả làng hợp nhau lại, trai trẻ có võ nghệ, người có súng (dù là súng bắn chim săn chồn thỏ…) đều đem ra sử dụng thị uy, tụ hợp tùy cơ can thiệp… nhưng thông thường khi trống đánh liên thinh đám đông hợp lại đèn đuốc sáng choang, cướp tự động rút lui, phân tán tháo chạy.
Trật tự trong làng xuất phát từ tương thân tương kính, bắt nguồn từ tự giác theo phương cách xử thế liên đới của người trong thôn xóm. Kẻ làm điều sai quấy thường tự cô lập không dám ra đường ra chợ gặp ai, lắm khi tự động bỏ làng ra đi. Phải chăng đó là cách xử thế tự trọng, tự xử trong quan hệ "Nhân Trị" do ý thức tự giác đương nhiên của dân? Phải chăng đó là tình liên đới của dân Việt, đăc biệt của thế hệ cha ông đã, từng đàn, từng nhóm, kéo nhau vào Nam cùng khai hoang, khẩn đất, phá rừng cày bừa nơi ao vũng, nước đọng sình lầy. Phải trú ngụ nơi chốn lạ quê người, hoang vắng “khỉ ho cò gáy” “chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng kinh”, nên sớm biết cần phải đoàn kết khi hoạn nạn, giúp đỡ nhau lúc khốn cùng, vì những vùng lầy lội dẩy đầy sương lam chướng khí, cọp beo, trăn rắn, nếu không cùng nhau trợ lực thể chất tinh thần khó có thể an cư lạc nghiệp.

*
Làng tôi thuộc xứ Nam kỳ.
Nam Kỳ là lãnh thổ mà bao lớp người ”Việt” đã hơn ba trăm năm trời bỏ công khẩn hoang khai thác để rồi qua những biến thiên lịch sử ráp nối lần hồi với Bắc Kỳ hình thành nước Việt Nam ngày nay.
Sống và lớn lên trong làng với rất nhiều bạn bè cùng lứa tuổi chúng tôi gặp nhau hằng ngày, cùng nô đùa, chạy nhảy, gây gổ, đập lộn nhau. Học cùng trường, chúng tôi cùng đi hớt cá lia thia dưới triền, bắt dế ở những ruộng chạy dài dọc theo “ngôi mộ cổ” hoặc tắm sông ở bến “Đình” hay bến “Đồng Miên”.
Quê tôi, như tên nó (An nhơn), rất hiền hòa. Xóm làng thân thiết, dân tình chất phác. Đó là một xã hội nho nhỏ mộc mạc, với một số dân cư chân chất, rất chân thành trong tình thương, nơi có khung cảnh thiên nhiên, ruộng lúa bờ đê, con sông lặng lẽ, bến vắng êm đềm, đường tre kẽo kẹt, vài ngọn xoài ngả bóng ở đầu làng, tiếng chim chíu chít trong tàn cây rậm lá, thấp thoáng cánh cò bay lượn trên ruộng lúa, mạ mướt xanh tươi.
Tôi yêu làng tôi bằng một thứ “tình cảm tự nhiên”, và dù ngày nay, ngàn trùng xa cách, tôi vẫn thương, vẫn nhớ. Cái tình ấy như có ma lực khiến tôi không thể quên, dù làng tôi từ năm 1945 về sau là bãi chiến trường giữa quân đội Pháp đóng tại Gò Vấp và lực lượng giải phóng quân có mật khu tại An Phú Đông. Làng tôi tan nát với bao lần đụng độ giữa lực lượng quân sự đôi bên. Những thanh niên, bạn cũ của tôi, quay cuồng trong cơn lốc chiến tranh, nửa theo bên này, nửa theo bên kia, trực chiến với nhau, tàn sát nhau đến độ chết gần hết, thi hài trôi sông, hay vùi sâu dưới lớp bùn, bờ sông bãi sậy.
Ngày nay, làng tôi mất tên hành chánh. Sát nhập vào thành phố, làng trở thành một phường của quận Gò Vấp, dân làng hầu hết đã bỏ ra đi hay bán đất bán nhà rút về sống ở vùng hẻo lánh; dân cố cựu không còn bao nhiêu người. Xã hội ngày xưa đã mất, khung cảnh ngày xưa biến cải. Trước xu hướng đô thị hoá, làng đã biến thành khu xây cất hỗn loạn ngổn ngang. Lớp người mới, từ đâu đến đây sanh sống trong khi dân làng cũ, lớp chết, lớp tản cư, để rồi không về nữa.
Hình ảnh làng xưa, chỉ còn lưu lại trong trí nhớ của một số người và chắc chắn sẽ vĩnh viễn mất đi khi lớp người nầy không còn trên đời.

*
Làng tôi với môi sinh và dân tình biến đổi vẫn còn trong Đất Nước tôi.
Đất nước là gì? Tại sao tôi cũng yêu Đất Nước như tôi yêu làng tôi?
Đó là một mảnh đất chạy dài trên bán đảo Đông Dương, nằm giữa biển Đông và dãy núi Hoành Sơn. Biển bao la, núi chớn chở, rừng thâm u, nhiều con sông lớn nhỏ chằng chịt liên tiếp cung cấp phù sa, chất sống cho đồng cỏ, ruộng lúa; Việt Nam có hai đông bằng phì nhiêu cung cấp lương thực cho toàn dân: đồng bằng sông Hồng ngoài Bắc và đồng bằng sông Cửu Long trong Nam.
Tôi chỉ có một ý niệm đơn sơ như thế về Đất Nước. Thật sự tôi chưa biết dãy Hoành Sơn, sông Hồng, Việt Bắc, đường biên giới chập chùng với ngọn Hoàng liên Sơn cao ngất. Tôi chưa hề đặt chân trên đất Hà Nội, chưa thấy Trung du và Thượng du miền Bắc, chưa ngắm vịnh Hạ Long, chưa trầm mình trên bãi biển Đồ Sơn, Sầm Sơn… Nhưng sao trước đây và bây giờ tôi vẫn hãnh diện tự nhận là người Việt Nam, khi phần lớn lãnh thổ trong xứ hãy còn xa lạ với tôi. Tôi chưa uống nước sông Lô, chưa ăn gạo Nam Định, chưa có kỷ niệm đậm đà về những vùng gọi là cái nôi của dân tộc. Vậy mà tôi vẫn yêu Việt Nam, như yêu làng An Nhơn của tôi.
Tại sao vậy? Chưa biết mà đã yêu, và vì yêu mà từ bầu trời xa lạ vẫn vọng về cố quốc để nhớ thương!
Nếu tôi yêu làng tôi bằng “tình cảm tự nhiên”, tôi yêu tổ quốc do “tri thức”.
Tình yêu tổ quốc đến với tôi qua giáo dục. Nhờ có đi học tôi mới biết sự hình thành đất nước công nghiệp tiền nhân qua mấy ngàn năm lịch sử. Những truyền thuyết giai thoại thần kỳ… khiến tôi cảm nhận hồn thiêng đất nước. Những mẩu chuyện hoang đường dã sử qua những bài học ở trường gợi khơi mạch máu Lac Hồng. Tôi cám ơn “tiền nhân” những người tiên phong đến mảnh đất này đem tài năng trí tuệ mồ hôi nước mắt xây dựng, đem máu đào xương trắng chống ngoại xâm gìn gìữ để…. trao lại cho chúng tôi giang sơn gấm vóc nầy.
Nghĩ đến là xúc động.Tôi thấy yêu đất nước yêu nòi giống. Có cái gì linh thiêng bí ẩn gắn liền tôi vào tổ quốc vào đồng bào vào nhân dân đủ mọi sắc tộc, mọi bộ lạc trải qua bao biến thiên lắm khi đẫm máu nhưng cuối cùng chấp nhận sống chung nhau trên đất nước này.
Nhưng quá yêu thường thì phải khổ! Non sông dù có hùng vỹ mỹ lệ đến đâu cũng vô nghĩa nếu chỉ có cảnh trí thiên nhiên mà không có con người đã và đang sống trên đó chăm lo canh tác từ chòm cây bụi cỏ, gắn bó mật thiết với thiên nhiên bồi đấp cho thiên nhiên. Nhân dân và Thiên nhiên nương tựa vào nhau tác động qua lại với nhau… để rồi, qua nhiều thế hệ hình thành TỔ QUỐC. Tổ quốc có NƠI, nơi mà Tổ quốc có HỒN.
Nhân dân sanh và sống trong lòng đất nước tất nhiên yêu tổ quốc. Nhân dân là số đông, hàng chục triệu người, mỗi người là một “thực thể sống” có suy tư riêng, tình cảm riêng, khả năng riêng, tài trí riêng… nhưng, qua cuộc sống chung nhiều đời, tất ý thức tình liên đới nghĩa đệ huynh; mỗi cá nhân có quyển lợi riêng nhưng toàn dân có quyền lợi chung. Tổ Quốc là tối thượng. Để bảo vệ Tổ quốc người dân chẳng nề hà hy sanh tài sản tánh mạng. Lịch sử đã từng lưu lại biết bao hy sanh biết bao nghĩa cử.
Những gì mà lịch sử vô tình hay cố ý bỏ sót nhân dân lại nhớ và bổ sung bằng truyền thuyết giai thoại hư hư thực thực, liên tục truyền lại cho người đời lớp nầy sang lớp khác, lưu giữ những bóng mờ của anh hùng tử sĩ vô danh, những vóc dáng anh thư tiết nghĩa hay những nạn nhân chết thảm trong oan ức. Khó phân biệt “chánh”, “tà” vì lắm khi dã sử rõ nét hơn chánh sử. Dã sử là công trình của nhân dân “trăm tai ngàn mắt” gom góp sự việc mắt thấy tai nghe trong khi chánh sử lắm khi do nịnh thần “a dua” tận dụng kiến thức tài năng chọn lọc sắp xếp sự việc ghi chép ca ngợi kẻ thành công trong sự nghiệp Bá Vương…. dù kẻ ấy đã sử dụng mưu thâm chước độc, gian manh xảo trá, ngược xuôi phỉnh gạt, nói một đường làm một nẻo, dụng ý tô điểm hoành tráng, biến “ác quỷ” thành “thánh nhơn”, kẻ gian hùng ném đá giấu tay thành anh hùng hào kiệt chánh khí đằng đằng… dù trên tay kẻ ấy còn tanh mùi máu dân oan, mái tóc còn vương hồn phách bao nạn nhân uổn tử…, dù kẻ ấy đã từng lợi dụng tình yêu tổ quốc của dân đẩy dân ra chiến trường, kích thích tinh thần “vị quốc vong thân” “trung nước hiếu dân” bốc cao nghĩa khí vì “độc lập đất nước” vì “tự do nhân dân” nhưng tự thâm tâm là cướp và xây dựng quyền bính cho mình và để giữ vững quyền đó sẵn sàng nhượng bán xứ cho ngoại bang miễn sao, ích lợi, quyền lực luôn nằm trong tay mình.
Có chi thiêng liêng bằng “hy sinh cho đất nước”? Có gì quý hơn được làm dân tự do trong quốc gia độc lập? Bao lớp người vì đại nghĩa, chiến đấu ngoan cường chấp nhận hy sinh sanh mạng không hối tiếc.
Họ đã hy sinh, chết vùi thây nơi núi cao rừng rậm, bên bờ sông bãi sậy dưới sình lầy.

Họ chết cho Độc lập Đất Nước?
Chết mà vẫn nghĩ đã hy sinh thân thế cho Tổ quốc, đâu ngờ lãnh đạo tối cao lại nhập nhoà khẳng định “Yêu Tổ Quốc là yêu Xã Hội Chủ Nghĩa” và Tổng bí thư Lê Duẩn thẳng thừng tuyên bố ”Ta đánh Mỹ là đánh cho Nga cho Tàu”!
Đã chết, họ đâu biết khi chiến tranh chấm dứt:
a.  Nga đòi nợ! Lãnh đạo Miền Bắc truất một phần 16 tấn vàng cướp của nhân dân Miền Nam để trả nợ và mong được Liên xô chịu coi như nợ đã dứt khi liên tục gởi sang Nga 500.000 công nhơn Việt Nam lao động trong mấy năm dài với đồng lương rẻ mạt mà còn bị truất phần trả nợ chiến tranh cho đồng chí Liên xô.
b.  Tàu đòi nợ! Thủ tướng Phạm văn Đồng ký công hàm nhượng lãnh hải trong hải phận, chuyển nhượng đó có quần đảo Hoảng Sa. Trung Cộng lại nhơn đà tiến chiếm luôn một số đảo trong quần đảo Trường Sa lấy các đảo này nới rộng hải phận bằng đường “lưỡi bò” tự coi, trong thực tại, như là chủ nhơn Biển Đông. Tàu lại áp lực đòi duyệt xét cắm cột móc lại vùng biên giới Việt Trung. Việt Nam mất ải Nam Quan, suối Bản Giốc, đỉnh Lão Sơn và bao nhiêu cây số vuông núi rừng hiểm trở đã từng là thành lũy thiên nhiên nhờ đó mà ngày xưa dân quân tổ tiên ta đã ngăn chận được giặc phương Bắc luôn hướng mắt nhìn đất nước ta muốn cưỡng đoạt làm của họ. Lãnh đạo Nguyễn văn Linh, Đổ Mười, Phặm văn Đồng đã ký những cam kết gì tại Thành Đô đến nay vẫn chưa công bố, khiến có dư luận trong nước và ngay cả bên Tàu, đồn đãi loan truyền đến năm 2020 Việt Nam sẽ sát nhập vào Trung Quốc để trở thành một vùng ”tự trị” trực thuộc hành chánh tỉnh Quâng Tây? Tại sao Dương Kiết Trì vừa đến Hà Nội đã lấy giọng kẻ cả khuyên “con hoang hãy trở về Nước Mẹ”?

Họ chết cho Tự do Nhân dân?
Hy sinh nơi chiến trận họ ngỡ chết để cho nhân dân được tự do vì cả tin vào tuyên ngôn Độc lập mà Hồ chí Minh, tại Ba Đình, ngày 2 tháng 9 năm 1945, đã long trọng nhắc đến quyền Tự do trong Hiến Pháp Mỹ, cơ bản là ai ai cũng có “quyền mưu cầu hạnh phúc”
Họ có ngờ đâu khi Việt Nam vừa độc lập, lãnh thổ chưa kịp thống nhứt chánh quyền Cộng Sản đã nhứt quyết theo học thuyết “Staline Mao trạch Đông” xây dựng vô sản chuyên chính, khước từ “tự do nhân quyền”. Từ khi chuyên chính với chủ trương dù là thực thể sống, cá nhân phải vong thân vào “phạm trù tập thể” họ làm như không biết phạm trù chỉ là ”thuật ngữ” được tạo bởi lý trí và dùng để chỉ đám đông, nhóm đông, số đông, tập đoàn…. rồi đem “thực thể nhơn sinh” tha hoá vào “từ ngữ hư ảo” để núp ẩn trong cái “hư ảo” đó, hiếp đáp khuất phục cái ”Có” cái “Thực”; đề cao tập thể, tha hóa cá nhân, thống trị con người. Họ vịn vào lập thuyết chủ trương ”Nhân dân là tập thể “, ”giai cấp là tập thể “…và vì là tập thể được tự do thao túng qua chỉ đạo của Đảng (cũng là tập thể) coi xứ sở như tài sản của Đảng. Họ có độc quyền chuyên chế, nhơn danh Đảng, lãnh đạo nhơn dân, lãnh đạo giai cấp lao động tiền phong mà họ thuộc giai tầng ưu tú (?) vừa làm luật, vừa chấp hành luật, vừa xử lý luật. Đảng là tập thể chỉ huy dân; dân từng người chỉ là một cá nhân chỉ được tự do đi trong “lề phải” quy định bởi Đảng. Bầu cử phải theo thể thức dân bầu người Đảng chọn, cho ghi tên vào danh sách do Đảng lập và giới thiệu. Cách bầu cử đó lại được thuyết gia Cộng sản xưng tụng như triệu lần hơn tự do dân chủ Tư bản!? Nắm toàn quyền chánh trị, Tổng Bí Thư là “Hoàng Đế”. Bộ Chánh Trị là “Cơ Mật Viện” triều đình. Trong guồng máy vận hành như vậy làm gì có tự do cho con người cho cá nhân? Chế độ xây dựng trên nguyên lý khắc nghiệt triệu lần hơn “Đế quyền Phong kiến” tiêu biểu là “triều đại Tần Thủy Hoàng” ông vua ác ôn từng diệt trí thức “đốt sách chôn sống học trò”.

Đài BBC có trích đoạn Tổng bí thơ Nguyễn văn Linh thân mật bảo các quân nhân làm báo rằng ”Tụi bây nằm trong tay tao, tao mở tay tụi bây sống tao siết lại tụi bây chết.” Lời nói này (nếu có) phản ảnh tâm tư và hành động ác nghiệt hơn cả Tần thủy Hoàng.
Chiến thắng Điện Biên Phủ dẫn đến Hiệp Định Genève làm nổi bật vai trò của Trung Cộng. Ai cũng biết trong chiến thắng đó, Hồ Chí Minh “cung cấp người”, Mao trạch Đông cung cấp “vũ khí” trang bị, “tướng Tàu” trong đó có Trần Canh đảm nhiệm chỉ huy chiến trường, áp dụng chiến thuật biển người mà Mao yêu thích… để dứt điểm kháng cự của tướng Pháp De Castries. Sau đó, qua Châu Ân Lai, Trung Quốc tham dự Hội Đàm Genève giải toả bế tắc bằng đề nghị chia đôi nước Việt Nam ở vỹ tuyến 17. Từ đó mọi quyết định quan trọng của Việt cộng miền Bắc tất phải có ý kiến Trung Cộng. Bà Dương thu Hương từng nghĩ rằng Hồ chí Minh đã trở thành “tay sai” luôn theo chỉ đạo của Mao trach Đông “vỹ đại” trong công tác xây dựng chế độ kinh tế ”bao cấp” và phương cách “cải cách ruộng đất.” Vì vậy khi nhận lãnh nhiệm vụ cải tổ kinh tế miền Bắc, Đỗ Mười rập khuôn đường lối Tàu, phá nát kinh tế thị trường bằng quốc hữu hoá công kỹ nghệ, cướp cơ sở tiểu thương gom vào “hợp tác xã” ban hành chế độ tem phiếu trong ý đồ sản xuất để tiêu thụ, giảm thiểu vai trò tiền tệ; đề cao lao động sản xuất của cải vật chất coi lao động dich vụ là ăn bám, đày thương nhân lên miền hoang du học tập lao động sản xuất của cải vật chất…
Sau này khi cưỡng chiếm miền Nam, vào năm 1975, cũng Đổ Mười được đưa vào cải tổ kinh tế. Dưới sự chỉ đạo của ông ta, nền sản xuất đang sung túc miền Nam trở nên thê thảm. Dân Sài gòn ăn bo bo khi mà tiềm lực sản xuất lúa gạo miền Nam đủ sức nuôi dân và xuất khẩu ra ngoài. Sự thất bại hiển nhiên lại tạo hậu quả bất ngờ là… ông được nâng lên cương vị Tổng bí Thư. Phải chăng đường lối của ông chính là đường lối học thuyết Xít-Mao? Phải chăng với sự phá nát kinh tế miền Nam ông đã tạo cơ hội cho giai tầng lãnh đạo trở nên giàu có nhờ chuyển chiến lợi phẩm về cho họ như vàng bạc quý kim của cải đủ loại từ máy móc xe hơi bàn ghế tủ lạnh đến máy lạnh truyền hình truyền thanh…. để từ đó gia đình họ có vốn đầu tư? Thế lực tư bản hợp với thế lực chánh trị giúp họ thao túng thị trường và trong cái xứ gọi là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã có mầm móng để hình thành một giai cấp mới… giai cấp TƯ BẢN ĐỎ khi kinh tế Việt nam chuyển mình “ĐỔI MỚI?”

Dưới sự chỉ đạo và giám sát của các quan thầy Trung Quốc, “tai mắt” của Mao trạch Đông, Trường Chinh, lãnh vai trò “Cải Cách Ruộng Đất”, đã “phóng tay” tàn sát địa chủ: gần ba trăm ngàn người bị đem ra đấu tố hành quyết trong đó có chính cha của Trường Chinh. Ông ta nghĩ sao khi Hồ chí Minh “sụt sùi“ khóc trước nhân dân cho rằng cuộc Cải cách ruộng đất quá tàn bạo đã diễn ra trong lúc ông ta vắng mặt. Ông ta xin lổi nhơn dân và cách chức Trường Chinh. Ông Trần Đỉnh trong quyển ”Đèn Cù” tiết lộ đó là cách “chạy tội gian manh động trời” của cha già dân tộc vì chính ông Hồ dưới bút danh C.B. (để được hiểu bài viết là Của Bác) tố cáo “Địa chủ ác ghê” và đã cải trang làm một cụ già âm thầm đến dự cuộc “đấu tố” bà Cát Long Nguyễn thị Năm, một phụ nữ yêu nước từng nuôi ăn ở các đảng viên Cộng sản cấp cao. Phải chăng để tưởng thưởng sự “nín khe” của Trường Chinh nhằm bao che ”Bác” nên ông ta được “cụ Hồ” phục chức mau lẹ?

Hồ chí Minh từng thú thật không có tư tưởng gì khác hơn học thuyết Marx-Lénine và đường lối cách mạng của ông rập theo đúng chính sách Staline-Mao trạch Đông. Là tín đồ Cộng sản thuần thành tất ông tin vào “Thế giới đại đồng”; đã phá bỏ ranh giới quốc gia… thì làm gì còn có tổ quốc Việt nam? Con đường tất yếu đi đến cứu cánh Cộng sản Thế giới là “Vô sản chuyên chính” mà đã “chuyên chính” thì đâu thể có ”Tự do cho dân” đâu thể có “Nhơn quyền cho người”? Những thanh niên tử sĩ hy sinh vì độc lập của đất nước vì tự do của nhân dân đã thực sự chết cho một mưu đồ rất độc thâm nhưng cũng rất tinh vi.

*
Ông bạn đồng hương người Pháp còn giữ trong tâm tư chút tình người muôn thuở. Sau mấy mươi năm sống trong lòng tổ quốc của chính mình, ông vẫn còn nhớ xứ Nam kỳ, thành phố Sài-Gòn, con đường Catinat…nơi ông sanh thành và sống quãng đời niên thiếu. Ông lại có cơ hội biết “tình người” của thôn dân miền Nam rất hồn nhiên trong thương cảm, đã mở vòng tay đón rước che chở ông trong hoàn cảnh khốn cùng, không hề phân biệt bạn thù, địch ta. Tôi cảm ơn ông còn nhớ miền Nam Việt và cảm thông mối u tình của ông khi ý thức rằng sẽ không còn có dịp bắt tay cám ơn các người Việt đã từng giúp đỡ ông và nỗi buồn của ông khi nghĩ rằng họ đã chết hay đang lạc lõng ở chân trời góc biển nào.
Dù sao nỗi buồn của ông cũng chỉ bâng khuâng man mác thôi. Ông vẫn sống tự do trong lòng đất nước mà ông đã tận tâm phục vụ. Tồ quốc ông đã thầm lặng cám ơn ông và tôi nghĩ ông cũng đã lặng lẽ cảm nhận như thế! Tôi tin ông đã nằm lòng lời nói của TT quá cố J.Kennedy cựu Tổng thống Mỹ “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải tự hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc”

Ông bạn Pháp đồng hương ơi! Năm nay chúng ta cùng sấp sỉ chín mươi tuổi đời. Cũng như tôi ông đã hưu và đã từ lâu vui với cảnh “Vườn xưa khép cổng thảnh thơi hưởng nhàn.” Thú thiệt với ông tôi vẫn còn đau lòng với bao trăn trở. Nỗi buồn của tôi sâu đậm lắm! Ông còn nơi sanh thành để sống đời an lành nhàn nhã. Nhớ Sài gòn ông còn có thể về đó, đến đường Catinat, ngồi trên ghế đá tại vườn xưa nhìn căn phòng nơi ông chào đời. Ông thử đặt mình vào hoàn cảnh tôi, kẻ đã mất nơi sanh thành dưỡng dục: làng tôi đã mất tên. Cánh đồng hoang, thửa ruộng vắng, ngày nay đã trở thành nơi xây cất ngổn ngang hỗn độn, bến sông bờ rạch bị lấp bằng, người cố cựu thưa thớt tản mát trong số hàng chục ngàn dân tứ xứ đến đây lập nghiệp. Tôi không còn làng để về thăm và chắc chắn tôi sẽ là người xa lạ, lạ cảnh lạ người trên vùng đất mà cha ông đã hơn ba đời sanh sống. Đó là chưa nói họ có cho tôi về không, khi mà họ không chấp nhận lòng yêu Tự do của con người. Họ cho đó là tự do theo kiểu Tây Phương.
Ông hiện sống êm ả trong vòng tay tổ quốc của chính ông. Nếu ông còn lo lắng cho đất nước thì đó là niềm vui của ông “người yêu nước” và Tổ quốc ông chấp nhận ông có quyền tự do theo quan niệm của ông. Tôi vốn gốc người tỵ nạn đào thoát khỏi nơi bạo lực chiếm cứ, xứ bạo quyền thống trị. Họ hợp nhau thành giai tầng sống trong giàu sang trong khi người dân thiếu ăn thiếu mặc và lắm kẻ tỵ nạn như tôi đâu phải muốn về là được về.

Nước Pháp khi nhận tôi vào tỵ nạn đã cho tôi cơ hội sống lại đời thật sự tự do trong chế dộ thật sự dân chủ tiến bộ với quyền làm người đã bị Chuyên chính độc đảng tước đoạt trên tôi, trên nhân dân tôi. Dù rất thoải mái ngay trong thủ đô Paris tôi luôn nhớ đến làng An Nhơn, nơi tôi sanh thành, nơi giòng họ tôi đã gắn bó qua bao thế hệ.Tôi cũng tha thiết nhớ quê hương đất nước núi cao rừng rậm, biển rộng sông dài trên đó ngay từ xa xưa, đã có hơn 50 sắc tộc, tổng hợp mấy chục triệu người, đã từng… xuyên dòng lịch sử chung sống với nhau, cùng ước ao Tự do Hoà bình; nhưng… rồi vẫn phải lao đao lận đận bởi tham vọng quyền bính của vài “tập đoàn cá nhơn” đã dùng cường lực đoạt lấy quyền uy, ngạo nghễ áp đảo, ngự trị nhân dân. Họ nghêng ngang sống trên sang giàu với tài sản nguyên thủy là của chiếm đoạt bằng bạo lực bạo quyền, nhũng lạm tham ô… ung dung hưởng thụ… trên ấm ức tủi hờn của dân đen thiếu ăn thiếu mặc đêm đêm, trằn trọc khắc khoải, tự hỏi vì đâu nên nỗi? Công bình xã hội là thế này sao?

Miền "đất hứa” của Thiên đường “mạc xít” sẽ ra sao? có hư ảo không? khi mà bất bình đẳng kinh tế và bạo lực hung ác của quyền lực chánh trị cứ mãi gia tăng, đào sâu thêm hận thù oán ghét trong lòng của từng từng lớp lớp người bị trị đang sống trong tủi hờn, ngậm đắng nuốt cay, đau khổ nhìn con em, rách rưới, bửa đói bửa no – với tuổi đời mới độ trên mười – đã phải mò cua bên bờ sông, bắt ốc trong mương rạch, lang thang bên những núi rác khỗng lồ moi kiếm trong đồ phế thải, một vài vật dụng còn đôi chút giá trị tiêu dùng hay trao đổi, để rồi…quặn thắt cả lòng khi ngước mắt nhìn…. con em các gia đình cán bộ đương quyền hay đại gia tư bản đỏ, mổi ngày, mỗi đêm, nhởn nhơ sống đời vương giả trong một quốc gia mà họ đã từng hãnh diện cam kết và khẳng định… đang ở trong xu hướng… tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên “xã hội chủ nghĩa”!

BÓNG NGƯỜI TỴ NẠN
Người đi, mặt cúi….dáng bơ phờ
đôi mắt u buồn… tóc bạc phơ.
Đất khách tự do! Nhờ tỵ nạn.
Quê hương bạo lực! Thoát cơn mơ.
Mây ngàn hạc nội, đời phiêu bạt
Bìm nổi bèo trôi, kiếp vẩn vơ
Vương vấn trong tâm… hồn cố quốc
Đi trong thực tại… ngỡ mình mơ!
(Trọng Khang – Lan Châu)

Ls Châu Tiên Khương

(Bài đã đăng trong Đặc san Petrus Ký - Pháp,  Hè 2017)


 

Noi gương lãnh đạo Trường Chinh đấu tố Cha cho đến chết. Thu Tứ, con trai của nhà văn Võ Phiến cũng đã đem Cha mình ra xử tội trên văn đàn qua bài viết "Trường hợp Võ Phiến".

 

Những sai lầm trong bài

“Trường hợp Võ Phiến” của Thu Tứ (1)


Kiều Phong


bai_truong_hop_vo_phien

Thu Tứ là bút hiệu của Đoàn Thế Phúc, con trai thứ nhà văn Võ Phiến. Anh được cha mẹ và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho đi du học từ nhỏ, trở thành một khoa học gia ở Mỹ. Anh là nhà văn có tài. Nhưng, như một số sinh viên du học của miền Nam, Thu Tứ đền đáp lại cho miền đất đã nuôi dưỡng mình bằng một quả “thân Cộng” to đùng. Tháng 8 – 2014, cái tâm địa phản phúc, vô ơn, “ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản” của Thu Tứ tràn ra đầu ngọn bút, trút lên chính thân phụ của anh. Thu Tứ viết một bài dài mạt sát nhà văn Võ Phiến về tội “chống Cộng”, “làm hại nước”. Sau đây là những lá thư tác giả viết cho Thu Tứ.

Cháu Thu Tứ,
Đây là những sai lầm trong bài: “Trường hợp Võ Phiến”:

1 - Cháu lên án những người chống Cộng ở miền Nam là: rước ngoại bang Mỹ về để giữ cho đất nước tiếp tục bị chia đôi! và “nhà văn Võ Phiến đặt việc chống Cộng lên trên việc thống nhất đất nước”.
Không có dân miền nào ngu dại thích chuyện “đất nước bị chia đôi” đến độ hy sinh máu xương để giữ cái “chia đôi” cho bằng được. Quân dân miền Nam và bố cháu đặt việc chống Cộng lên trên hết là để bảo vệ vùng đất cuối cùng của Việt Nam nơi con người còn được sống như nguời, không lọt vào gông cùm của một loại chế độ bị cả loài người kinh tởm.
Tóm tắt vài chi tiết lịch sử mà vì đọc toàn sách báo Cộng sản, cháu không biết:
Kháng chiến chống Tây là việc của toàn dân. Đảng Cộng sản chỉ là một trong những đảng tham gia vào cuộc chiến đấu chung. Nhờ tổ chức giỏi, mưu mô xảo quyệt và tàn bạo – nhất là tàn bạo – vừa gặp cơ hội là đảng cướp chính quyền làm của riêng, đẩy các “đồng minh sát cánh chiến đấu” ra rìa. Rồi sợ họ bất mãn thì phiền, Đảng Cộng sản ra tay tiêu diệt các đảng khác. Việt Nam Quốc dân Đảng đóng góp cho kháng chiến 13 nguời liệt sĩ ở Yên Bái thành tích kháng chiến lẫy lừng, đảng viên cao cấp vẫn bị CS thủ tiêu, đảng viên cắc ké nhiều người bị giam cầm tới chết.
Thanh toán những đảng phái quốc gia cùng chiến đấu với mình vì sợ phải chia quyền lực cho họ, ta hiểu được. Nhưng bác Hồ còn thanh toán chính các đồng chí của mình, hung hãn không thua bác Staline, rồi thừa thắng xông lên, thanh toán luôn… nhân dân, Bác “cải cách ruộng đất” một phát long trời lở đất, biến những ngôi làng hiền hòa muôn thủa của dân tộc thành những pháp trường đẫm máu, rùng rợn chả kém gì làng quê của bác Mao, ông thầy dậy và bắt Bác phải giở trò man rợ này với chính đồng bào ruột thịt.
Mà khi đó, Bác mới làm vua nửa nước!
Trong bài, có chỗ cháu bào chữa cho Bác và Đảng là: bác Hồ đã sửa sai rồi! Chú cũng biết chuyện ấy, khi nghe bác Hồ hối hận, rơm rớm nước mắt, chú cũng mềm lòng, bùi ngùi cảm động.
Nhưng cảm thông với kẻ giết người hàng loạt xong biết tuyên bố sửa sai, thì ta cũng phải thông cảm với những người vì cái sai ấy mà chịu cảnh tang thương, nuôi lòng oán hận, và hàng triệu người sau khi chứng kiến cảnh đồng bào mình bị tàn sát, hoảng kinh co giò chạy thục mạng cho thật xa Bác và Đảng. Nếu Bác tiếp tục xông tới đòi chiếm luôn mảnh đất sống cuối cùng của họ thì nhất định họ phải chống cự. Bởi vì lúc đó họ không tiên đoán được là có lúc Bác hối hận. Mà biết thì cũng không ai ham làm nắm xương tàn trong mộ chờ ngày được Bác ban cho vài giọt lệ sửa sai lâm ly.
Mà đâu phải sau khi sửa sai, hối hận, Bác trở nên hiền như ma sơ. Tết Mậu Thân, có “thời cơ tốt”, Đảng Cộng sản quang vinh và Bác Hồ muôn vàn kính yêu ra tay chôn sống hàng ngàn đồng bào Huế tỉnh bơ. Rồi ở “một thời cơ tốt” khác, có đám đông đồng bào, đa số đàn bà con trẻ, khóc mếu bồng bế dắt díu nhau chạy loạn, các đồng chí dùng hỏa tiễn súng cối Nga Tầu phát cho, pháo kích chết la liệt hàng cây số trên đại lộ kinh hoàng. Khi không gặp thời cơ tốt, các đồng chí vẫn tạo ra thật nhiều “thời cơ hơi hơi tốt” bằng cách pháo kích đều đều vào thành phố, thịt xương con cháu đám Ngụy Dân lâu lâu lại tan nát, rải khắp sân trường.
Cháu có thể theo đúng kinh sách Cộng sản, lý luận rằng “cứu cánh biện minh cho phượng tiện” các đồng chí phải tàn sát không gớm tay để cứu nước, giúp cho những đứa may mắn sống sót được hưởng cuộc đời hạnh phúc phồn vinh trên thiên đường xã hội chủ nghĩa.
Cháu tin thế là quyền của cháu, nhưng đừng đòi hỏi nhà văn Võ Phiến và những người văn minh, nhân bản ở miền Nam phải buông súng, dâng mảnh đất tự do cuối cùng cho bọn người cuồng tín, bất nhân, và hung bạo như thế, để “nước khỏi bị chia hai”.

Bố cháu theo kháng chiến, dạy học, giúp những cán bộ cao cấp mở mang kiến thức (nhờ vậy mà được một người học trò cứu mạng). Trông thấy đảng Cộng sản tàn ác, bất nhân quá, ông bất bình, can ngăn. Thế là bị tù, suýt bị tử hình.
Thoát gông cùm, về được miền tự do, ông đặt chuyện chống Cộng lên trên hết, coi đó là vấn đề sinh tử của mình, gia đình mình, và toàn dân trên phần quê hương chưa bị cộng sản cưỡng chiếm. Muốn ghép hai chuyện chống Cộng và “thống nhất đất nước” vào với nhau thì phải viết rõ: “Nhà văn Võ Phiến quyết tâm chống Cộng vì không muốn để miền Nam bị bọn Bắc Cộng chiếm nốt, đất nước bị thống nhất dưới một chế độ độc tài, sắt máu nhất trong lịch sử loài người.”
Cháu viết lửng lơ: “nhà văn Võ Phiến đặt việc chống Cộng lên trên việc thống nhất đất nước.”… rồi ngửa mặt nhìn trời, tuôn ra một tràng những lời trách than ảo não, bi ai, nghe kêu boong boong: “Tổ tiên ta bao nhiêu công phu, xương máu, qua bao nhiêu đời mới mở được chừng này đất, để bây giờ đất chia hai sao? Dân tộc Việt Nam mấy ngàn năm trải bao lượt thử thách vẫn là một để bây giờ thôi là một sao?” ngụ ý rằng bố cháu quên công ơn dựng nước của tổ tiên, coi trọng việc chống Cộng hơn việc vẹn toàn lãnh thổ, còn cháu thì yêu nước, biết ơn tổ tiên, biết đau lòng vì đất nước chia hai v.v…
Viết như thế là gian lận, kiêu căng và xấc láo.
Chú tin cháu là người ngay thật, không cố tình dùng chữ nghĩa để bày trò gian vặt, cốt thủ thắng trong tranh luận. Chú cũng không tin cháu kiêu căng đến độ nghĩ mình khôn ngoan, yêu nước, biết ơn tiền nhân hơn cả các bậc cha chú và hàng triệu người chống Cộng ở miền Nam. Cháu cũng không là người ngu.
Chỉ mù quáng hết thuốc chữa thôi!

Bây giờ, ta xét xem chọn lựa “chống Cộng” đúng hay sai.
Nhờ chọn “chống Cộng”, bố cháu có chỗ dung thân, tạo sự nghiệp văn chương lừng lẫy, nuôi dưỡng các cháu thành tài, riêng cháu được du học để trở thành khoa học gia. Nếu ở lại với CS, với tội danh “phản động” sợ rằng tính mạng cũng không giữ được, số phận các cháu, con cái của một “tên phản động” chắc cũng không khá.
Nhờ hàng triệu người miền Nam chọn lựa chống Cộng giống bố cháu, cố chiến đấu giữ cho “nước chia đôi’ hai thập niên mà người dân miền Nam có đời sống khác xa thiên đường xã hội chủ nghĩa miền Bắc như thế nào, chẳng lẽ cháu không biết.
Nếu thật không biết thì hãy nhìn kỹ vào đất nước Nam Hàn. Như bố cháu, như miền Nam Việt Nam, Nam Hàn cũng chọn lựa quyết liệt chống Cộng, giữ cho chuyện “đất nước chia đôi” kéo dài. Họ may mắn hơn ta, thành công. Nhờ thế giờ này thành một quốc gia giầu mạnh, văn minh, khoa học kỹ thuật tiến bộ ngang với Nhật, và không bị cậu chủ tịch nhóc tì Kim Chính Vân lãnh đạo.
Nếu Việt Nam bây giờ còn chia đôi thì cháu và bộ máy tuyên truyền ở Hà nội tha hồ tưởng tượng ra cảnh một Việt Nam thống nhất được Bác và Đảng lãnh đạo cho lên phi thuyền, xuất phát từ đỉnh cao trí tuệ loài người, bay vù vù vượt xa Nam Hàn. Nhưng nước ta thống nhất bốn thập niên rồi, Việt Nam tiến tới đâu, khác nam Hàn ra sao, người khiếm thị cũng thấy. Mới đây, trên báo Tuổi Trẻ ở trong nước, tác giả Nguyễn Hoa Lư trong bài “Ngậm ngùi rơi lệ” có đoạn rất hay nói sơ sơ về sự “khác biệt” giữa hai quốc gia:
“Một quan chức cao cấp của Ban Tuyên giáo T.Ư, ông Vũ Ngọc Hoàng, đã có một phát biểu gây ấn tượng mạnh: “Cách đây bốn, năm mươi năm, VN và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, tôi rà lại tư liệu thì thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại VN và VN cũng có 90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại VN làm ông chủ, làm quản lý, còn người VN ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ôsin. Nghe mà xót lòng”.
VN và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương cách đây bốn, năm mươi năm, nghĩa là vào thời điểm chưa “bị” thống nhất, Việt (miền Nam thôi, các đồng chí đừng có nhận vơ!) chẳng kém Hàn. Thế mà giờ đây…
Nhà văn Võ Phiến, miền Nam VN, Nam Hàn chọn chống Cộng mà nhân loại hôm nay cũng chọn lựa giống hệt như thế.
Do đó, chủ nghĩa Cộng sản đã từng chinh phục một nửa thế giới bây giờ co cụm lại còn sót có bốn mống. Trong bốn mống đó thì Trung Cộng đã thành tư bản Đỏ, chỉ còn xứng danh Cộng sản dỏm. Cộng sản Việt Nam thì đang chạy theo hai con voi Tư bản xanh và Tư bản đỏ để hít bã mía cho đỡ đói, chả thấy còn giống con Giáp Cộng sản nào. Gia tài Cộng sản còn rơi rớt lại, nguyên con, không sứt mẻ là hệ thống công an cảnh sát đàn áp, hành hạ đối lập và bắt nạt, áp bức dân lành.
Và chính trên quê hương, nơi lý thuyết chủ nghĩa Cộng sản chào đời, dân tộc Nga cũng chọn lựa giống hệt nhân loại. Họ đem cái chủ nghĩa đáng ghê tởm ấy cùng những tượng lớn bé của các đấng sinh thành ra nó vứt hết vào bãi rác.
Bây giờ mà chống Cộng hăng quá thì có thể… sai thật. Vì mang tiếng tàn nhẫn, đánh đập những kẻ đã hấp hối, đang ngáp ngáp!
Về chuyện “thống nhất đất nước” thì nhà văn Võ Phiến, như hàng triệu người ở miền Nam, ở Nam Hàn có khi nào ngưng thiết tha mong ước ngày đất nước thôi bị chia hai đâu! Nhưng trái với đảng Cộng sản và cháu, họ chỉ muốn Việt Nam được thống nhất như Đông Tây Đức, nghĩa là chế độ Cộng sản Đức hết chỗ dung thân, dân Đông Đức từ nay không phải tìm tự do bằng cách vượt ngục, rồi bị lính Đức Cộng bắn chết gục dưới chân tường Bá Linh. Toàn dân Đông Đức được chung hưởng phúc lợi và niềm hãnh diện của những công dân một nước Đức tự do, văn minh, giầu mạnh.
Mơ ước không thành, nhưng chọn lựa “chống Cộng” thì thật đúng, theo phán quyết của chính quan tòa lịch sử nhân loại.

2 – Đoạn văn sau đây khiến người đọc, nhất là những người từng đọc Thu Tứ, bàng hoàng:
“Cách nhìn là quan trọng nhất. Nhưng nhìn đâu cũng có đóng góp vào cái thấy của người nhìn.
Có thể đặt vấn đề, hay là quê hương nhỏ của nhà văn Võ Phiến là huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định nó đã “ngoại lệ” khiến ông đâm ra dễ nghĩ lệch về chuyện đất nước? Quả thực, ở Phù Mỹ thời Pháp thuộc gần như không thấy bóng giặc Pháp mà chênh lệch giàu nghèo cũng không đáng kể.”

Người đọc kinh ngạc sững sờ, không thể ngờ một cây bút luôn có những suy tư chín chắn, sâu sắc lại viết ra những lý luận, nhận định ngây ngô, nhảm nhí đến thế.
Ở đây, cháu mô tả Võ Phiến giống hệt một ông nông dân mù chữ, không biết viết, biết đọc, và suốt đời – suốt đời – quẩn quanh ở huyện Phù Mỹ nên không biết Tây nó ác, xã hội Việt Nam ngoài huyện Phù Mỹ có chênh lệch, bất công, có khi còn chả biết mặt mũi thằng Tây thế nào vì “ Phù Mỹ gần như không thấy bóng giặc Pháp” … thành ra ông nhà văn mù chữ quanh quẩn ở huyện Phù Mỹ nghĩ chuyện đất nước lệch lạc hết trơn!
Nào, bây giờ theo đúng cách lập luận của cháu, chú viết thế này: “Thủa nhỏ Thu Tứ sống ở Sài gòn, rồi đi du học, quanh quẩn ở Úc ở Mỹ nên không biết chế độ Cộng sản tác hại cho dân tộc đến thế nào, nên dễ nghĩ lệch về Bác và Đảng”.
Chắc chắn cháu sẽ “phản biện” nhận xét hồ đồ, ngây ngô này ngay: “Tôi biết tường tận chuyện đất nước quê hương chớ, nhờ đọc sách báo”
Cháu đọc để biết thiên hạ sự thì cũng phải để ông nhà văn không mù chữ Võ Phiến đọc để biết những chuyện xảy ra khắp trên quê hương của ông chứ!
Nói chuyện đọc, chắc cháu đọc không nhiều bằng bố. Chú lại nghi cháu tập trung đọc toàn những sách ca ngợi, tâng bốc Cộng sản. Thành ra bắt chước cháu, chú cũng: “Có thể đặt vấn đề, hay là kho sách nhỏ của Thu Tứ chỉ toàn một giống tác phẩm tuyên truyền, ngợi ca Bác Đảng, khiến Thu Tứ đâm ra dễ nghĩ lệch về chuyện đất nước?”
Áp dụng suy luận này vào trường hợp cháu, nghe lại có vẻ rất… chí lý!
Kết luận Võ Phiến chỉ là một người mù chữ, vốn hiểu biết nghèo nàn gồm một mớ chuyện mắt thấy tai nghe quanh quẩn trong phạm vi huyện Phù Mỹ xong, cháu lên tiếng mắng mỏ, chê trách ông:
“Nhưng ngay ở Phù Mỹ, chắc chắn cũng đã có rất nhiều người yêu nước, chẳng qua nhà văn không chú ý đến họ”. (Ông nhà văn này đáng trách thật, có mớ kiến thức cỏn con lượm lặt ở huyện Phù Mỹ mà lại còn bỏ sót một kiến thức quan trọng như thế!)
Mắng mỏ chê trách xong là đến màn dậy dỗ thân phụ:
“Hơn nữa, dù chỉ nhìn tình hình Phù Mỹ mà thôi khó thấy được đại cục nước Việt Nam, thì thiết tưởng một người lên tiếng về đại cục như nhà văn Võ Phiến có trách nhiệm phải nhìn cho thật rộng, nhìn khắp cả nước, chứ đâu được nhận định về toàn quốc trên cơ sở tình hình ở chỉ địa phương mình!”
Ngoài kiến thức do đọc, ông Võ còn vốn sống. Tham gia kháng chiến, sống và làm việc với Cộng sản, ở tù, bị xử truớc tòa án nhân dân… rồi sau đó là hai thập niên đối đầu với Cộng sản hàng ngày, bắt buộc phải tìm hiểu chiến thuật, chiến lược của địch, phải theo dõi sát nút tình hình thế giới để biết chuyện gì sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia. Còn Thu Tứ vốn đọc hạn hẹp, vốn sống thì chỉ có mấy chuyến về thăm quê hương theo kiểu Tây ba lô! Vậy mà con nguời vốn đọc nghèo nàn, hẹp hòi, vốn sống là con số không to tướng lại lên mặt dậy dỗ chủ nhân một kho tàng kiến thức mênh mông! Lại vu cáo cho ông là: … nhận định về toàn quốc trên cơ sở tình hình ở chỉ địa phương mình!”
Sao cháu có thể u mê đến độ dám viết ra những lời quàng xiên, ngớ ngẩn, hỗn xược đến thế?
Đoạn văn ấy không làm giảm uy danh nhà văn Võ Phiến để “phục vụ tốt” cho Bác Đảng đâu, mà chỉ biểu lộ tác phong, nhân cách của chính tác giả: kiêu căng, xấc láo và ngu muội đến mức không ngờ.
Trong bài, có đoạn cháu khoe đã về Việt Nam du lịch nhiều lần, tìm mãi không thấy “cái ảnh hưởng cực xấu của chủ nghĩa cộng sản đối với văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam,”. Chuyện ấy bàn sau, bây giờ hãy nói đến ảnh hưởng cực xấu của những tác phẩm do cơ quan tuyên truyền của Cộng sản sáng tác.
Những cuốn sách đã mốc meo, chính những người Cộng sản hiếm hoi cuối cùng còn sót lại cũng chán lè, không thèm đọc, vẫn thu hút được một nhà văn thông minh có tài, đang sống trên đất tự do. Thu hút và thôi miên, biến anh ta thành một con người ngây ngô, ngớ ngẩn, khả năng xét đoán đúng sai bị tê liệt, rồi tự biến mình thành một cán bộ tuyên truyền hạng bét.
Tệ hơn nữa, ngoài công tác tuyên truyền, tâng bốc, bào chữa cho một chủ nghĩa đã bị nhân loại ghê tởm, anh ta còn lợi dụng cơ hội được làm con nhà văn Võ Phiến để ở ngay trong nhà rình rập những lời nói “phản động”, moi móc các sáng tác của ông, kiếm tìm những câu văn chê Bác Đảng để viết báo cáo trình công an, xúi chúng nó cấm in sách của thân phụ mình.
Cháu luôn luôn tỏ ra tha thiết muốn bảo tồn văn minh, văn hóa Việt Nam. Hầu như bài viết nào cũng toát ra tấm lòng thiết tha đẹp đẽ ấy.
Nhưng cháu đang nỗ lực bảo tồn một nền văn hóa, văn minh Cộng sản mới đẻ ra từ thời “cải cách ruộng đất”, thứ văn minh “ đấu cha, tố mẹ” đã từng làm một con người khắc nghiệt, tàn nhẫn như Hồ Chí Minh phải ân hận, rơi lệ.

3 - Những sai lầm văn chương, lý luận, suy diễn trong bài viết của cháu còn nhiều, chú bận quá, lại không hứng thú gì khi phải ngồi đọc đi đọc lại một bài mạt sát Võ Phiến ngây ngô, non nớt, thua xa văn chương của đám bồi bút tác giả cuốn: “Những tên biệt kích văn nghệ”, ấn hành ngay sau 75.
Hơn nữa, sau khi đọc phần1 và 2, được chỉ dậy cho những sai lầm có thể làm một tác giả sáng suốt giật mình tỉnh ngộ, cháu vẫn nhất định ôm khư khư cái quái thai văn chương ấy… có giảng giải thêm cũng chẳng ích gì.
Vậy tạm gác cái sai văn chương, xét qua cái sai trong hành động.
Hành động lâu nay, được cháu tả rất rõ:
“Số là, trong hai năm qua, do nhà nước Việt Nam nới lỏng qui định về xuất bản, nhà xuất bản Nhã Nam ở Hà Nội có in lại hai tác phẩm của nhà văn Võ Phiến là Quê hương tôi và Tạp văn. Cả hai tác phẩm này đều do chúng tôi chọn lựa và biên tập, theo sự ủy quyền từ lâu của thân phụ. Chúng tôi cố chọn những tác phẩm vửa giá trị nhất vừa hoặc không chứa hoặc chứa rất ít nội dung chính trị. Nếu có nội dung chính trị, khi biên tập chúng tôi loại bỏ hết. Mục đích của việc chọn và bỏ như thế là đưa những thành tựu văn học đỉnh điểm của văn nghiệp Võ Phiến đến với người đọc mà không gây hại cho nước. Chúng tôi đã tưởng mình thế là chu đáo với nhà với nước!”
Trước hết, chú tin cháu không cố tình gian lận, lươn lẹo trong việc sử dụng từ ngữ, nhưng cháu dùng toàn những từ gian lận Cộng sản cung cấp: “Người yêu nước” thay cho “Người Cộng sản” “tổ quốc, nước”  thay cho “Bác và đảng Cộng sản”, “nội dung chính trị”  thay cho “nội dung chống Cộng”.
Dùng từ ngữ một cách ngay thẳng, có thể tóm tắt sinh hoạt của Thu Tứ như sau: Được cha già ủy quyền quản thủ gia tài văn chương của ông, Thu Tứ tự biến mình thành công an văn hóa, ngồi chọn lựa tác phẩm không chứa nội dung chống Cộng, nếu có tí chống Cộng nào thì kiểm duyệt, cắt bỏ ngay, rồi mới cho phổ biến. Và Thu Tứ tin mình làm thế là chu đáo với nhà và với (Đảng Cộng sản đang cai trị cả) nước.
Sinh hoạt trước đây là thế, sinh hoạt mới nhất, sôi nổi nhất thể hiện trong bài này là hô hoán báo động về cái hại trong văn chương Võ Phiến để nhà nước Cộng sản kịp thời có biện pháp đối phó. Thành tích đi báo Công an đó được nêu ra ngay từ đoạn mở bài:
“Chúng tôi vô cùng bất đắc dĩ mới lên tiếng. Chẳng ai muốn đi chỉ ra cái sai của người đẻ ra mình!
Chúng tôi làm việc này vì vừa được biết một tổ chức phi chính quyền trong nước đang có kế hoạch tích cực phổ biến những tác phẩm Võ Phiến chứa nội dung chính trị sai lầm. E rằng việc làm của họ có thể khiến một số người đọc hoang mang, hại đoàn kết dân tộc, chúng tôi quyết định tự mình phản bác nội dung này.”
Nghĩa là Võ Phiến được độc giả trong nước chào mừng, nhiều nhà xuất bản tư nhân (phi chính phủ!) muốn ấn hành các tác phẩm khác, có thể mang nội dung chống Cộng mà Thu Tứ đã loại bỏ, hoặc chưa kiểm duyệt. Thành ra anh công an văn hóa tình nguyện này phải gào lên kể tội chống Cộng của bố, để cứu đảng và nhà nước ta khỏi bị quân phản động hãm hại.
Nhiều lúc chú băn khoăn: hay là có biến cố gì làm cháu bị chấn động, hoang mang, rồi nẩy sinh những ý nghĩ, hành động bất thường? Nhưng hiện tại, trước mắt, thấy một người, dù điên hay tỉnh, đang cầm vũ khí, hoặc dao, hoặc bút, đâm chém loạn xạ, kể cả người đẻ ra mình, miệng gào thét kết tội các vị ấy “làm hại nước” v.v… thì cần có biện pháp đối phó ngay. Nguyên cớ tìm hiểu sau.
Bài viết của cháu không thuyết phục được ai, như con dao cùn, người bị đâm không thấy đau, chỉ tức cười. Nhưng vị thế hiện nay của cháu – con trai nhà văn Võ Phiến, được ủy quyền quản thủ gia tài văn chương – cho phép cháu tha hồ phá hoại. Thành tích đã có rồi: kiểm duyệt hết những bài, những đoạn văn chống Cộng của nhà văn Võ Phiến để lập công với Đảng và nhà nước.
Do đó, qua điện thoại, chú đã yêu cầu mẹ cháu giúp bố làm thủ tục truất quyền “thừa hưởng và quản thủ tài sản văn chương Võ Phiến” của cháu.
Nếu vì thương con, bà không chịu làm việc ấy, chú sẽ đoạn giao.
Dù rất thương kính ông bà, chú không thể ngồi yên chứng kiến cảnh một tên công an văn hóa được ông bà dung dưỡng, che chở, tiếp tục tàn phá, hủy diệt những di sản tinh thần quý giá của dân tộc.

4 - Trong phần “Tại sao chúng tôi trở nên bất đồng”  cháu khoe đã mở cuộc điều tra về tình cảnh đồng bào sống dưới chế độ Cộng Sản, và kết luận: không thấy chuyện gì chứng tỏ chủ nghĩa Cộng sản ảnh hưởng cực xấu vào văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam.
Nào, để xem thám tử Thu Tứ đi truy tầm “cái ảnh hưởng cực xấu” ra sao.
Cháu kể: Chúng tôi về nước rất nhiều lần, mỗi lần rất lâu, thăm thân rất ít, coi như toàn bộ thời gian ở trong nước dành cho việc đi tham quan, chủ yếu miền Bắc. Chúng tôi không ở khách sạn sang trọng, không đi tua, mà ở những nhà khách rẻ tiền, đi xe khách, xe ôm, xe xích-lô, có lần mua xe đạp đạp dạo quanh vùng ngoại ô Hà Nội kia thường xuyên đến nỗi có người ngồi chợ tưởng nhầm là dân buôn! (Chúng tôi vẫn có lối du lịch “bụi” như vậy từ trước chứ không phải đến khi về nước mới thế.)
“Không ở khách sạn sang trọng, không đi tua, mà ở những nhà khách rẻ tiền, đi xe khách, xe ôm, xe xích-lô v.v…” kể lể hơi dài dòng, cứ nói gọn: du lịch kiểu Tây Ba Lô, bà con hiểu liền. Cháu còn hơn Tây Ba Lô một bậc, biết mua xe đạp, đạp vòng vòng, khiến giữa nơi chợ búa đông đúc như thế mà có tới một đứa mắt mũi kèm nhèm tưởng nhầm là dân buôn. Ngụy trang khéo léo kín đáo cỡ đó là nhất rồi, James Bond Thu Tứ tha hồ điều tra sâu rộng mà không lộ tung tích.
Sau khi mở cuộc điều tra ở miền Bắc thì “thấy người Việt Nam ngoài Bắc vui vẻ, bình thản, vừa giữ được phần lớn nền nếp cũ, lại vừa có thêm cái phong cách “cách mạng”, mọi người bình đẳng, cũng rất hay.”
Cháu không nói đã gặp mấy chục, mấy trăm người Bắc?
Mà tại sao lại “mọi người bình đẳng, cũng rất hay?”. Văn quá bí hiểm, ý tứ không rõ. Dân bình đẳng với dân là chuyện thường, có gì đáng nói? Dân đen mà được bình đẳng với ông công an phường mới quý hóa, mới rất hay chứ?
Điều tra sâu rộng chỉ ở miền Bắc, quan sát tính tình, sinh hoạt của tối đa là vài trăm người dân xong, Thu Tứ lập tức dõng dạc kết luận: “Đâu là cái ảnh hưởng cực xấu của chủ nghĩa Cộng sản đối với văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam!…”
Dựa vào sự quan sát một vùng đất, một nhóm người, để đưa ra kết luận về toàn thể gần một trăm triệu dân, một đất nước trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu… cháu có thấy mình quá vội vàng không?
Sự vội vàng ấy, chính cháu đã lên án gay gắt ở một đoạn khác. Cháu chỉ trích tất cả những người chống Cộng là dựa vào một số hiện tượng tiêu cực để chê Cộng Sản xấu, ngụ ý họ bất công, xuyên tạc vì thiên kiến, nhìn cục bộ suy ra đại thể. (Cháu cũng lớn tiếng dậy dỗ thân phụ: “thiết tưởng một người lên tiếng về đại cục như nhà văn Võ Phiến có trách nhiệm phải nhìn cho thật rộng, nhìn khắp cả nước…”. Quên rồi sao!)
Thế những đứa không nhìn khắp cả nước, chỉ dựa vào vài ba chuyện tích cực ở mấy địa phương nhỏ để hít hà, tâng bốc rằng chủ nghĩa Cộng sản trên toàn quốc hay lắm, đẹp lắm thì sao?
Câu này mới ngộ nghĩnh: “Bấy giờ miền Bắc cũng như cả nước, đang có một số hiện tượng xã hội tiêu cực do kinh tế trì trệ kéo dài, vật chất rất thiếu thốn, nhưng nhìn chung người tuy nghèo mà văn hóa tinh thần rất đáng hãnh diện.”
Ấy, chỗ này phải từ từ, không nói liến thoắng để lấp liếm được. Cho chú ngắt lời cháu, nêu tí thắc mắc: Đứa nào làm cho kinh tế trì trệ kéo dài, vật chất rất thiếu thốn? Lúc đó là 1991, 16 năm sau “thống nhất đất nước” rồi, tàn dư Mỹ Ngụy không thể sống dai đến thế.
Lãnh đạo bất tài, làm kinh tế trì trệ, chủ nghĩa Cộng Sản tạo ảnh hưởng vào bát cơm, manh áo, cuộc sống của người dân, làm nẩy sinh thứ văn minh, văn hóa mánh mung, vật lộn, tranh sống khốc liệt, hiện ra lù lù trên nét mặt lo âu, trong sinh hoạt ngược xuôi, tất tả hàng ngày của những con người Việt Nam đói khổ, cùng quẫn… Thế là “cực xấu” hay chỉ hơi hơi xấu thôi?
Lại còn: “nghèo mà văn hóa tinh thần rất đáng hãnh diện”.
Những món văn hóa tinh thần (?) nào mà hay ho thế? Sao không kể ra cho độc giả nhờ. Một câu văn với những từ ngữ hoa hòe hoa sói nhưng mơ hồ không thực chất, không cơ sở, làm bà con nghĩ bể đầu chả hiểu tác giả định ngợi ca, tâng bốc cái gì! Lần sau, nên theo cách nói giản dị của tiền nhân, thí dụ như: “nghèo đói mà sạch sẽ, rách rưới mà thơm tho.” Đã có chữ là có nghĩa, ai cũng hiểu liền. Khỏi bị ngờ là bí quá, không biết khen cái gì cụ thể, đành “văn hóa tinh thần” một phát, cho nó kêu boong boong. Nó rỗng tuếch mặc xác nó!
Viết một đoạn văn ca tụng tài cai trị dân của Đảng loe ngoe có mấy dòng mà chỗ thì vô tình tố cáo Đảng bất tài, bất lực, chỗ thì ấp úng như âm thanh không thoát ra được từ cái miệng đầy bột của một con chó vừa ăn vụng. Thê thảm!
Đừng buồn, lỗi không phải ở cháu. Cháu rất thông minh, nghệ thuật nâng bi cũng khá rồi đấy, nhưng thất bại vì lỗi ở… mấy hòn bi.
Chúng nó nặng quá, khó nâng quá!
Nâng bi Cộng sản bây giờ là một công tác cực kỳ khó khăn, gian khổ, một loại mission impossible. Đội ngũ bồi bút của Đảng, tài nghệ siêu quần bạt chúng, kinh nghiệm đầy mình, cả đời nỗ lực nâng đến nỗi lưng còng xuống, rồi gẫy gập, khiến việc di chuyển khó khăn, phải dùng thêm cả hai tay… mà giờ này cũng ê càng hết rồi. Cháu đừng dại dột tranh nghề của họ.
“Người Việt Nam ngoài Bắc … bình thản” Lại mơ hồ, bình thản theo kiểu gì, trong hoàn cảnh nào? Bình tĩnh trước nghịch cảnh? Thản nhiên trước những đau thương của đồng loại? Hay chỉ là bình thản khi gặp một Việt Kiều?
Nếu cái “bình thản” thứ ba đúng thì chú đồng ý hoàn toàn. Năm 1991 phong trào du lịch Việt Nam chưa rầm rộ, đồng bào chưa biết vồn vã, tưng bừng chào mừng du khách. Bây giờ khác rồi, nhiều đồng bào ta gặp du khách mừng như bắt được đô la.
Muốn tìm lại những nét mặt bình thản thân thương thủa nào, cháu chỉ có cách tiếp tục làm Tây Ba lô vừa nghèo, vừa kẹo. Bớt tưng bừng tíu tít ngay, bình thản ra rít, có khi còn tiu nghỉu nữa.
“vừa giữ được phần lớn nền nếp cũ, lại vừa có thêm cái phong cách “cách mạng”.
Câu khen người Bắc này khiến chú cảm động, và hãnh diện, vì mình dân Bắc kỳ. Mặc dầu là Bắc kỳ Chín nút (54= 5 + 4 = Chín nút – theo cách nói hiện nay của đồng bào miền Nam), nghe ai khen Bắc kỳ Hai nút (75= 7 + 5 = Hai nút ) cũng phổng mũi. Nhất là được khen có “phong cách Cách mạng”, vừa đẹp vừa hùng.
Đó là nhóm từ ngữ cao quý dành cho những con người bất khuất, sẵn sàng vùng lên chống lại cường quyền, dẹp bất công xã hội, thay đổi thế giới, làm nó đẹp hơn. Dân Bắc kỳ không di cư, ai cũng có cái phong cách, cái tinh thần cao quý ấy, Thu Tứ đã nức nở khen như thế.
Vừa cảm động vừa hãnh diện, chú nghĩ tới những bà mẹ liệt sĩ, những người xứng đáng nhất với lời ca ngợi của cháu.
Các bà mẹ Gio Linh, mang nặng đẻ đau sinh ra những chiến sĩ can trường, tất nhiên trong tim đã luân lưu dòng máu anh hùng, những mầm “phong cách cách mạng.” Khi con thành liệt sĩ, để lại cho mẹ lũ cháu mồ côi, tất nhiên mẹ lại tất tả ngược xuôi bán buôn nuôi lũ cháu, đã cách mạng lại còn rất kiên cường.
Các bà thường có những gánh quà rong, thơm ngào ngạt những món quốc hồn quốc túy. Những món quà do mẹ nấu đã từng đi vào văn học sử. Đám du khách nặng lòng với quê hương như cháu đã từng viết hàng trăm, hàng ngàn bài tùy bút ngợi ca từng cọng rau, sợi bún, miếng cá, con cua v.v…
Thế mà cái vỉa hè thơm lừng, tràn ngập hương vị quê hương, thắm đượm tình tự dân tộc ấy thỉnh thoảng, trong chớp mắt, bị náo loạn, teng beng vì bóng của một chú Công an.
Tin lời ngợi ca của cháu, độc giả sẽ hình dung một cảnh tượng hào hùng: bà mẹ liệt sĩ, đúng phong cách cách mạng truyền thống, hiên ngang đứng lên, giơ cao đòn gánh, sẵn sàng nghênh chiến, đánh đuổi thằng phá thối. Và khách hàng của mẹ, cũng phong cách Cách mạng cùng mình, chắc chắn có người lập tức xăn tay áo trợ chiến, bênh vực mẹ chống kẻ ác!
Nhưng “ôi chỉ là giấc mơ thôi”, giống hệt những người nghèo khổ bán quà rong, bà mẹ liệt sĩ cũng đành vắt giò lên cổ chạy tóe khói. Nhiều khi cuống quýt gánh gồng xiêu đổ, bát đĩa rơi vỡ, guốc dép và phong cách cách mạng văng hết ra đường, mỗi cái mỗi nơi! Tội nghiệp vô cùng!
Quen thói đùa cợt, mô tả thảm cảnh của các bà mẹ liệt sĩ bằng văn chương chữ nghĩa thiếu nghiêm trang , khiến có độc giả tuy ứa lệ mà vẫn phì cười, chú thấy mình thật cũng không phải.
Nhưng so với những đứa vừa phát bằng khen cho mẹ, vừa sai công an tịch thu cơ nghiệp, nguồn sống của cả bà lẫn cháu, hay những đứa về thăm quê hương, có mắt như mù, trút lên đầu mẹ những danh từ hào nhoáng, đao to búa lớn, xát muối vào vết thương trong tim mẹ, làm mẹ thêm đau đớn, nhục nhã, tủi thân… thì tội của chú chẳng có kí lô nào.
Độc ác, tàn nhẫn do cố tình, hay vì ngu dốt, ngớ ngẩn, tội ấy mới to. Kết quả như nhau, cùng dẫn tới những hành vi bất nhân, bất nghĩa.
Với đồng bào, với đồng loại.

Đi tìm hiểu về sự hà khắc của một chế độ mà không bén mảng tới những cơ quan, bộ phận của guồng máy đang đè đầu, bóp cổ dân, không “tham quan” nơi dân bị nhà nước cưỡng chiếm đất đai, nhà cửa ruộng vườn… mà lại cứ đạp xe vòng vòng nơi chợ búa, đè lũ dân đen ra nghiên cứu, xét nghiệm… cuộc điều tra của cháu khôi hài!
Hãy tưởng tượng: một ông thanh tra của Liên Hiệp Quốc được phái đi điều tra tình trạng hành hạ tù nhân trong trại cải tạo, và ông ta “tác nghiệp” giống hệt Thu Tứ.
Ông ta không thăm viếng phòng “làm việc” vào giờ cao điểm của đấm đá, không tham quan hầm biệt giam để thấy những thân người dở sống dở chết, ngay cả nơi tù nhân lao động nhọc nhằn, với cái bụng lép kẹp, cũng bỏ qua luôn…
Rồi ngài thanh tra kết luận: “Tù nhân khi buồn, khi vui, thậm chí có lúc còn cười toe toét. Ở tù lâu cũng quen, nghe cán bộ quản giáo bốc phét hay chửi mắng, sỉ nhục, nét mặt vẫn bình thản. Vì nghĩ cùng chung thân phận tù, sĩ quan Ngụy quên hết cấp bậc, đối xử với nhau bình đẳng, cũng rất hay v.v… Không thấy bằng cớ tù nhân bị hành hạ”!
Không điều tra tội ác đã hoặc đang xảy ra, không tìm hiểu tính tình, tác phong, hành động, thói quen độc ác của cai tù mà nhất định chỉ nghiên cứu tính tình, tâm trạng tù nhân… nếu ngừng lại ở đó, cuộc điều tra hài hước, tiếu lâm này chỉ phản ảnh sự thiếu khả năng, kém thông minh của viên thanh tra.
Nhưng nếu anh ta thêm vào bản báo cáo một câu đại khái thế này: “Tù nhân đã thấm nhuần chủ nghĩa Cộng Sản, đã một lòng trung với Đảng, hiếu với Bác Hồ…” thì anh ta bịa chuyện để nói tốt cho bọn cai tù, nêu cao một thành tích “cải tạo thành công” chúng không hề có.
Anh thanh tra, ngoài bất tài, bất lực, thêm tội bất lương.
Bản tường trình của cháu cũng có sự thêm thắt không lương thiện kiểu ấy: cái món “phong cách cách mạng.”
Món ấy, nếu có, ít nhất cũng thể hiện trong hai tập thể: chiến sĩ và mẹ chiến sĩ, những người gián tiếp hoặc trực tiếp đóng góp máu xương cho cuộc chiến.
Ở mẹ liệt sĩ – hay kém vinh quang một tí nhưng may mắn hơn: mẹ chiến sĩ – tinh thần, phong cách cách mạng e rằng đã biến mất từ lâu.
Các ông bố giữ tinh thần cách mạng bền hơn, cao hơn, tương đối ít khó khăn, nhờ bản chất cứng rắn, hoàn cảnh sống thường khác xa các bà mẹ. Bản thân nhiều ông cũng đang giang hồ, phiêu bạt, có dịp về thăm nhà, nhiều khi thấy con mà tưởng trẻ hàng xóm. Tình đồng đội, đồng chí nặng hơn tình gia đình…
Các bà khác hẳn. Đứa con từ lúc lọt lòng cho đến tuổi bị gọi đi làm “nghĩa vụ” thường quanh quẩn bên bà. Mất nó, đau hơn mất một phần thân thể. Cũng có bà nghe tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, thấy cái vẫy tay ưu ái của bác Hồ nhắm vào con mình thì hãnh diện, cảm động, mà quên đau. Nhưng như thuốc tê, chỉ hiệu nghiệm một thời gian ngắn. Muốn hết đau lâu dài, phải có ý chí sắt đá của những bậc anh hùng hào kiệt, đủ sức tự hủy diệt một phần nhân tính của mình.
Thế nên, thuốc tê người ta bơm vào tâm trí các bà mẹ tiêu tan nhanh lắm.
Thủa xa xưa lúc khởi đầu cuộc chiến, Bác Đảng còn tổ chức lễ tiễn đưa chiến sĩ lên đường khá xôm tụ. Lớn thì kèn trống ỏm tỏi, nghi lễ hoành tráng, nhỏ thì cũng có nhi đồng quàng khăn đỏ ca múa, có những thanh nữ nhìn các anh thiết tha ngưỡng mộ, ngầm hứa hẹn sẽ chờ ngày các anh chiến thắng trở về.
Và trong “lễ hội” kiểu này, dù lớn hay nhỏ, đều có lời phủ dụ của Bác và diễn văn “động viên” hùng tráng, nẩy lửa của các quan chức. Vừa bơm thật nhiều “tiết vịt” vào con, vừa tống thêm thuốc tê cho mẹ.
Nhưng ngay cả trong giờ phút vinh quang “đỉnh điểm” ấy, đại đa số các bà mẹ vẫn đứt ruột, nát gan, chịu đựng niềm đau không thuốc nào làm dịu được. Và trong lúc lũ con hồ hởi, phấn khởi, tinh thần cách mạng, yêu nước cao vút, nhai ngấu nghiến đống bánh vẽ Bác Đảng ban cho, thì các bà mẹ cũng âm thầm nuốt những giọt lệ. Phải kín đáo, giả bộ tươi tỉnh để sau cái họa mất con, khỏi lãnh thêm búa rìu kiểm thảo của làng xóm, khóm phường.
Nhưng những buổi lễ long trọng đầy tiết vịt và thuốc tê biến lâu rồi, đã thành cổ tích rồi. Lò lửa chiến tranh lan rộng, cần cung cấp nhiên liệu nhiều và nhanh. Ném bao nhiêu nhân mạng vào cũng không đủ.
Đảng và nhà nước quá bận rộn, lễ tiễn đưa long trọng không còn mà lời “động viên” của Bác Đảng cũng hết văn hoa, bay bướm. Không có quan chức nào đến gặp mẹ con các chuẩn chiến sĩ để đọc diễn văn. Trọng trách “động viên” giao hết cho Công an phường.
Nhiều khi Công an phường lười biếng, sai anh dân phòng đi thay. Phẩm chất cuộc động viên cũng không suy giảm mấy. Bởi vì bài diễn văn tiễn đưa chiến sĩ chỉ ngắn ngủn, cộc lốc thế này:
“Chị kia! Thằng con chị mà trốn nghĩa vụ là cả nhà chị mất hộ khẩu. Đói nhăn răng ra cả lũ.”
Dòng lệ thương con, thương thân của các bà mẹ miền Bắc chảy dài suốt thời binh lửa, hòa bình đến, nếu chẳng may lên chức mẹ liệt sĩ, sẽ tiếp tục chảy hoài tới phút lâm chung. Lời phủ dụ đường mật, ngọt ngào của Bác, những khẩu hiệu cách mạng, yêu nước hùng hồn, tinh thần này, phong cách nọ… Đảng tống vào tai bà chỉ như những cọng rơm, cọng rác rơi trên dòng nước lũ, vừa chạm mặt nước là trôi tuột đi biền biệt, mất tăm.
Khó thấy phong cách cách mạng ở các bà mẹ, ta tìm cái phong cách quý hóa ấy nơi các cựu chiến sĩ xem sao.
Chuyện này dễ ợt. Sẵn xe đạp, cháu đạp ra đầu đường là thấy ngay một vị cựu Đại Tá, chủ nhân một cơ sở thương mại chuyên ngành công nghệ vá xe. Nếu khó tính, muốn gặp một cựu chiến sĩ chủ nhân một cơ xưởng sản xuất hoành tráng hơn thì quá bộ tới cuối đường, vừa truy tầm “phong cách cách mạng” vừa thưởng thức món chè đậu đen của ông Trung Tá.
Bảo rằng hồi xưa, trong chiến tranh, Đại Tá tác phong cách mạng cùng mình thì đúng rồi, nhưng giờ ngồi vá lốp xe độ nhật ở đầu đường, chỉ cần kiên cường bào mỏng cao su và bôi keo, rồi dán rồi ép, thì cần gì tới cái món oai phong lẫm liệt ấy.
Nếu cháu nói: Đại Tá thường rất “phấn khởi” thì bà con chịu liền. Đang ế khách, ngồi vêu ra mà thấy một đứa mồ hôi mồ kê nhễ nhại, thất thểu dắt cái xe xì lốp đến nộp mạng, thì phấn khởi quá đi chớ. Một ngày cần phấn khởi năm bảy phát như thế thì mới đỡ đói.
Không phải Đại Tá nào cũng hành nghề vá xe đẹp và thơ mộng như trong ca dao. Không phải mẹ liệt sĩ, chiến sĩ nào cũng buôn thúng bán mẹt, hay xui xẻo “tác nghiệp” trên những đường phố đang được giải tỏa, làm sạch, nên thường bị đuổi chạy có cờ. Nhưng trong tình trạng cả nước “kinh tế trì trệ kéo dài, vật chất rất thiếu thốn” thì đại đa số cựu chiến binh cũng phải sinh nhai bằng những nghề phẩm chất ngang tầm nghề của Đại Tá. Thiếu tá bán kem, Đại úy thổi kèn đám ma, Thượng úy buôn gà, Trung úy về nhà bám đít con trâu v.v…
Những bà mẹ liệt sĩ tất tả ngược xuôi trên đường phố hay dầm mưa dãi nắng trên ruộng đồng… mức nhọc nhằn gian khổ chẳng khác gì nhau.
Trong tình cảnh ấy mà có đứa xuất hiện giữa chợ, đánh trống thổi kèn om xòm ca tụng họ giầu “phong cách cách mạng” thì họ tưởng thằng ấy đang mỉa mai, xỏ xiên mình. Ông Đại Tá vá xe có thể nổi đóa.
Vậy ta nên dẹp bỏ cuộc điều tra chiến sĩ và mẹ chiến sĩ, vừa vô duyên, vừa nguy hiểm. Ta nhắm vào một mục tiêu lớn hơn: toàn dân.
Ta chọn một ngày đẹp trời, toàn dân Việt từ Bắc chí Nam đều no ấm, nhất là no. Người nào ra đường cũng đầy một bụng bo bo, no lâu ghê lắm.
Rồi cháu mở cuộc điều tra sâu rộng xem có thấy ai lộ ra “phong cách cách mạng” thì chỉ cho chú, ta chụp hình, quay video làm bằng cớ cho những người chống Cộng trắng mắt ra.
Chú thì bi quan, không tin cái món quý hóa đó còn tồn tại nơi những người dân khốn khổ. Nó cũng biến mất trong giới lãnh đạo. Nhìn đám quan chức Việt Nam bây giờ thấy nhan nhản những phong cách tư bản đỏ, phong cách cửa quyền, đại gia, phong cách tôn thờ thủ tục “đầu tiên”!
Vậy ta hãy tìm một loại phong cách khác, thực sự do chủ nghĩa Cộng Sản đem đến cho dân tộc, cái phong cách đặc biệt khác hẳn phong cách của người Việt Nam xưa nay: đó là phong cách của những người thấm nhuần chủ nghĩa Cộng Sản. Nói gọn là “phong cách Cộng Sản”. Món này rất dễ kiếm.

Chắc cháu nhớ nhà văn Vũ Hạnh.
Sống giữa thủ đô Việt Nam Cộng Hòa, ông Vũ thân Cộng ra mặt, ông công khai biểu lộ lập trường yêu kính Bác, ủng hộ Đảng trong lời nói, trong văn chương. Ông viết truyện cổ tích, truyền kỳ dùng rất nhiều ẩn dụ trong truyện ngắn, truyện dài để tôn vinh chủ nghĩa xã hội, con người Cộng sản. Những viên chức kiểm duyệt ngu gì mà không biết, nhưng họ không làm phiền ông. Sáng tác Vũ Hạnh được đăng báo, in thành sách lu bù.
Còn các văn hữu? Họ chỉ thấy ông là một nhà văn. Võ Phiến, Vũ Hạnh là hai người có lập trường trái ngược, như nước với lửa. Nhưng gặp nhau ở tòa soạn tạp chí Bách Khoa, hai ông vẫn chuyện trò thân mật vui vẻ.
Hãy tưởng tượng có một Vũ Hạnh ở miền Bắc, giữ lập trường “thân Quốc gia”. Số phận ông ta sẽ ra sao? Đời ông sẽ khốn khổ khốn nạn hơn những người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. “Nhân Văn” chỉ mới phạm tội chê Bác Đảng, muốn xin tí ti tự do. Họ không ca tụng, hợp tác với kẻ thù, như Vũ Hạnh.
Sẽ có hàng hàng lớp lớp những Thu Tứ xông lên, lôi văn chương ông ra phân tích để buộc tội “làm hại nước”, nói nôm na là “phản quốc”. Bạn văn của ông sẽ đua nhau đấu tố ông. Những bạn thân nhất, dù thương ông cách mấy, cũng sẽ cắt đứt “liên hệ” để khỏi bị vạ lây.
Nhưng Vũ Hạnh không ở miền Bắc, dưới chế độ ông mơ tưởng, mà đang tạm gồng mình sống trong cái chế độ mà ông chê bai, thù ghét nên gia đình ông được an toàn, và bản thân ông được hưởng sự nể trọng xã hội dành cho những nhà văn, nhà thơ.
Cho đến khi Vũ Hạnh thừa thắng xông lên, nhảy vọt từ văn chương sang hành động, ông mới bị bắt. (Sau này, theo chính những bài báo kể công trạng của “chiến sĩ hoạt động trong vùng địch” thì ông chỉ huy một cái “thành đoàn” gì đó có liên quan đến những vụ khủng bố, ám sát – không nghe ông cải chính.)
Đến nước ấy thì các nhà văn, nhà thơ miền Nam đã nhìn rõ chân dung một người – nói theo kiểu Thu Tứ – “làm hại nước” và nên mặc cho cơ quan công lực đối phó với tên phản nghịch.
Nhưng không, văn giới miền Nam, vì không có tí tẹo phong cách Cộng sản nào, cứ xúm xít bênh Vũ Hạnh. Linh mục Thanh Lãng, chủ tịch Trung Tâm văn bút, dẫn đầu một phái đoàn vào tận dinh Độc Lập nói chuyện với Tổng Thống. Và thế là kẻ không những chỉ viết mà còn hành động “làm hại nước” được ra về thư thới hân hoan để tiếp tục nằm vùng, “hoạt động nội thành”.
Sau 75, như tất cả những người miền Nam có công phục vụ Bác Đảng, Vũ Hạnh cũng được hưởng ân huệ, được ban cho tí quyền hành để vênh váo, bắt nạt văn giới, mạt sát những đứa xưa kia đã khờ khạo cứu ông… nghĩa là thể hiện phong cách Cộng Sản một cách bình thường thôi.
Phải gần bốn thập niên sau, cái phong cách quý hóa ấy mới bùng nở rực rỡ, to tướng, vượt lên cao vút, ngang tầm những đỉnh cao trí tuệ loài người khác của đất nước Việt Nam hôm nay. Dù muộn, loài hoa “phong cách” có cơ hội vẫn nở được. Thời cơ vừa đến, cụ Vũ Hạnh chớp liền.
Số là mới đây, một nhà xuất bản trong nước được cho phép tái bản sách của các nhà văn của miền Nam xưa, trong số có một cuốn của Dương Nghiễm Mậu.
Sách của văn hữu DNM vừa trình làng, cụ Vũ Hạnh viết bài đánh liền, đại khái thì cũng là nội dung sách phản động, thiếu phẩm chất cách mạng, có hại cho tinh thần độc giả trẻ v.v… giống hệt những bài bọn bồi bút của Đảng sỉ vả văn chương văn hóa miền Nam cách đây gần nửa thế kỷ.
“Chỉ điểm” “mách bu” để mong Đảng ra tay triệt hạ sự nghiệp văn chương của một văn hữu đã từng ký tên vào kiến nghị cứu mình thoát cảnh tù tội, phong cách Cộng Sản của cụ Vũ to quá. Chắc chắn to hơn những nhà văn nhà thơ miền Bắc thời đấu tố Nhân Văn Giai Phẩm. Mấy vị này phải sỉ vả, chửi bới các văn hữu nạn nhân vì con dao đao phủ của Bác Đảng kề vào cổ họ, dọa chặt đứt luôn nguồn sống của gia đình họ. Còn Vũ Hạnh không bị ai đe dọa, xúi dục. Cụ tự nguyện làm việc ấy để tỏ lòng trung thành với Đảng chơi vậy thôi.
Phong cách Cộng Sản của Vũ Hạnh, như bông hoa nở muộn lúc cuối đời, như thế là to lắm, nhưng không to nhất.
Muốn thấy cái nhất, cháu chỉ việc đứng trước gương, chiêm ngưỡng phong cách Cộng sản của chàng Thu Tứ.
Thoạt nhìn, tưởng phong cách hai người to đẹp bằng nhau. Cũng lôi văn hữu ra đấu tố, cũng muốn chôn văn nghiệp của kẻ dám xúc phạm Bác Đảng. Một già một trẻ, mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. Rất xứng đôi vừa lứa. Lại tiếc cháu sinh lầm nhà, bị mang tiếng bất hiếu. Nếu thuộc dòng dõi cụ Vũ Hạnh mà viết bài mạt sát Võ Phiến hay ho, uyên bác thế này thì hai bố con đã được đời trầm trồ khen ngợi: “Cha nào con nấy”.
Riêng cháu lại được khen thêm: “Hậu sinh khả úy” vì nhìn kỹ, thấy phong cách Cộng sản của Thu Tứ vượt xa Vũ Hạnh. Ngày trước, trong CCRĐ, con đấu tố cha mẹ, đều do cán bộ mớm, hoặc “ép tố”. Nay Thu Tứ không có ai mớm hay ép, đúng là khá hơn người xưa. Hơn tiền bối lại hơn cả tiền nhân, “khả úy” dễ sợ.

Cụ Vũ, nếu lời nói còn được Đảng coi trọng, thì chỉ làm nhà văn Dương Nghiễm Mậu từ nay mất toi cơ hội kiếm tí tiền còm nhờ sách tái bản. Thu Tứ “đánh” nhà văn Võ Phiến ác hơn, hiểm độc hơn. Cậu nghiên cứu “tội lỗi” của cha hàng mấy năm trời, từ tội lỗi trong văn chương đến tinh thần phản động trong lời nói riêng tư giữa cha con, Thu Tứ thành khẩn khai báo tuốt luốt.
Sợ Công an không tin, cậu còn luôn luôn nhấn mạnh: “Tôi ở cùng nhà với VP, tôi hiểu (tội phản động của) Võ Phiến hơn ai hết”. Thu Tứ kết tội thẳng thừng: văn chương Võ Phiến làm hại tình đoàn kết dân tộc (tội đại hình, vi phạm điều 87 luật hình sự), đả kích, nói xấu Cách Mạng, “làm hại nước” nghĩa là “chống nhà nước” (tội đại hình, vi phạm điều 88).
Cụ Võ mà kẹt ở Việt Nam như Dương Nghiễm Mậu thì phen này ngồi tù mút mùa.
Việt Cộng già Vũ Hạnh thua xa Việt Cộng trẻ Thu Tứ. Sự thật ấy có thể làm cụ Vũ Hạnh khó chịu. Những con người bạc ác, tâm địa phản phúc, thường hay có thêm tật xấu là ganh ghét kẻ tài giỏi hơn mình, nhất là trên địa hạt nâng bi kiếm điểm. Cháu nên coi chừng chuyện bị cụ Vũ ghen tức.
Bị Vũ Hạnh ghen mà chắc chắn cũng bị Bác Hồ ghen tị luôn.
Thành tích đấu tố thời Cải Cách Ruộng đất của Bác cũng siêu lắm. Bác đeo râu, ngụy trang (Trần Đĩnh) đi xem lũ lâu la hành hạ, sát hại một đại ân nhân của mình. Nhưng thành tích vĩ đại này vẫn có vài chỗ hơi yếu, khiến nó mất chức vô địch. Bài văn đánh địa chủ của Bác ngắn ngủn, lại có cái tiêu đề không giầu “tính văn chương” là: “Địa chủ ác ghê!”, so thế nào được với bài văn tố cha tràng giang đại hải, đầy công phu nghiên cứu của Thu Tứ.
Nhất là thêm cái chỗ nhược làm Bác kém điểm Thu Tứ, thua bét tỉ: Bà Cát Hanh Long không đẻ ra Bác!

***
Chú thắc mắc và hẳn cháu cũng ưu tư: Hành động của Vũ Hạnh có được đồng bào trong nước “hoan nghênh” không?
Ngay sau khi bài đánh Dương Nghiễm Mậu xuất hiện, chú đọc báo, đọc mạng để xem phản ứng. Kết quả không mấy vui. Giới văn chương, báo chí, đa số là những cây viết trẻ, phản đối, sỉ vả cụ ghê quá. Coi bộ hành động “chỉ điểm”, “mách bu” không được nhiều người ái mộ, nhất là những người sống dưới chế độ độc tài, đang là nạn nhân của guồng máy đàn áp vĩ đại, tinh vi.
Có một độc giả trẻ nhận xét: “Tố cáo một nhà văn khác để nhà nước trù dập người ta, Vũ Hạnh không giữ đúng tư cách của một nhà văn!”
Hóa ra văn giới ở Việt Nam bây giờ, cả già lẫn trẻ, đã hiểu rất rõ về cái chế độ ngồi trên đầu họ. Những hoang mang kinh hãi đã hết, những ảo vọng, kỳ vọng lúc đầu đã tan, người Việt miền Nam chê phong cách Cộng Sản và, như người Bắc, nhất định “giữ lại phần lớn nền nếp cũ”, nghĩa là sống có luân thường đạo lý, hành xử có ơn trả, nghĩa đền, suốt đời mang nặng nghĩa mẹ, công cha. Họ lại tiếp tục truyền cho các thế hệ sau câu ca dao bình dị mà họ đã học từ tiền nhân: “Công cha như núi Thái Sơn…”
Được thêm phong cách Cộng sản, cụ Vũ Hạnh mất tư cách nhà văn!
Cháu có thể lý luận: “tư cách” của Vũ Hạnh to, còn “tư cách nhà văn” của mình bé xíu, mất thì thôi nhằm nhò gì.
Cháu lầm, không chỉ mất ít thế đâu. Cái phong cách Cộng Sản to lớn cồng kềnh trên người cháu đã chiếm hết chỗ của những phong cách, tư cách rất cần thiết cho một con người.
Những phong cách làm nổi bật những khác biệt giữa ta và loài muông thú.

Kiều Phong

https://sangtao.org

Quý vị có thể đọc bài Trường hợp Võ Phiến trên trang Góc Nhìn của Thu Tứ. (Thư viện Sáng Tạo)

 

Đăng ngày 04 tháng 10.2017