Từ “Luận cương” đến “Bò dát vàng”
Con đường máu của Đảng CSVN
Trần Trung Đạo
Ngày 24 tháng 9 năm 2017, ông Nguyễn Trung, cựu đại sứ CSVN tại Thái Lan phổ biến một “thư kiến nghị” mà ông gọi là “kiến nghị tâm huyết” gởi trung ương đảng CSVN.
“Tâm huyết” vì trong “kiến nghị” khá dài đó ông đã trình bày một cách chi tiết các lý do lịch sử, các yếu tố khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng đất nước đầy dẫy những thất bại và kết luận bằng những điểm cần phải làm ngay.
Trong khoa học xã hội, có hai phương pháp để trình bày ra một luận cứ. Phương pháp thứ nhất nhằm chứng minh mình đúng và mọi quan điểm khác sai, và phương pháp thứ hai nhằm phân tích tình trạng bế tắc trước khi đưa ra một giải pháp dung hòa. Ông Nguyễn Trung chọn phương pháp thứ hai khi viết “thư kiến nghị”.
Thất bại lớn nhất của đảng theo ông Nguyễn Trung là thất bại “của 42 năm đầu tiên độc lập thống nhất đất nước phải hứng chịu về nhiều mặt chính là thất bại của việc lấy chủ nghĩa chà đạp trí tuệ và các giá trị của tự do – dân chủ - quyền con người, là do người nắm quyền giành được một số lợi ích phe nhóm nhưng phải hủy hoại nhiều lợi ích quốc gia và lợi ích của dân tộc, là thất bại của xây dựng chủ nghĩa xã hội - với kết quả gặt hái được là để mọc lên trên đất nước ta hôm nay một chế độ toàn trị khắc nghiệt, nhưng đối với bên ngoài độc lập 42 năm mà vẫn chưa độc lập! “
Kết luận, ông cựu đại sứ đề nghị thẳng cho Nguyễn Phú Trọng, “với trách nhiệm là người giữ cương vị cao nhất trong đảng” chuyển đổi đảng CSVN thành “đảng của dân tộc”.
Trước hết người viết công nhận ông Nguyễn Trung đã dành hết tâm huyết để viết bản kiến nghị dài. Độc giả có thể đọc “thư kiến nghị” của ông bằng cách google tựa đề “Cùng nhau mở con đường cải cách, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới.“
Trước khi bàn đến chuyện đúng hay sai, phải thừa nhận ông Nguyễn Trung, 82 tuổi khi viết “thư kiến nghị”, là một người đáng kính trọng. Trong lúc hàng vạn “tiến sĩ”, “trí thức”, “giáo sư”, “nhà văn”, “nhà thơ”, “nhà báo” nằm im như hến trong rổ của mấy bà ngoài chợ, ông Trung đã cất lên tiếng nói bằng tâm huyết của một người ưu tư đến vận nước.
Rất tiếc ông Trung sai về cả lý luận lẫn thực tế.
Về lý luận, sự ra đời của các nhà nước CS trên thế giới không phải là kết quả của một tiến trình chuyển hóa xã hội theo lý luận “năm hình thái sản xuất”.
Theo Mác, cách mạng bùng nổ do các mâu thuẫn đối kháng trong xã hội không còn có thể khoan nhượng mà chỉ còn cách triệt tiêu nhau. Friedrich Engels gọi đó là “quy luật lượng chất” trong triết học duy vật lịch sử. Tuy nhiên, chưa có một nhà nước CS nào, kể cả Nga, ra đời như kết quả của cách mạng vô sản trong đó giai cấp vô sản tiên tiến chiếm số đông và một nền kinh tế tư sản phát triển đạt đến một mức xã hội hóa cao chín muồi cho cách mạng vô sản.
Chính bản thân ông tổ của chủ nghĩa Lenin, một tháng trước “Cách Mạng Tháng Mười” còn chưa biết “cách mạng” sẽ bùng nổ tại Nga. Milovan Djilas viết trong Giai Cấp Mới trích dẫn từ Lenin Toàn Tập, Lenin nói như trối trước các đảng viên đảng Xã Hội Thụy Sĩ vào tháng Giêng, 1917 như sau: “Những người già cả như tôi sẽ không được nhìn thấy những trận chiến quyết định của cuộc cách mạng tương lai”.
Nhưng sự thất bại của Nga Hoàng trong Thế Chiến Thứ Nhất, khủng hoảng chính trị sau “Cách Mạng Tháng Hai” dựng nên “chính phủ lâm thời” do Aleksandr Kerenskii lãnh đạo, đã giúp Lenin nhiều cơ hội và ông ta chụp lấy cơ hội một cách nhanh chóng để làm nên “Cách Mạng Tháng Mười” theo lịch Julian tức tháng 11, 1917 Dương Lịch.
Như vậy có thể nói, sự thành công của “Cách Mạng Tháng Mười” là kết quả của cơ hội chủ nghĩa, bộ máy tuyên truyền tinh vi và chính sách khủng bố không nhân tính theo sau.
Về mặt thực tế, chưa có một đảng CS nào tự nguyện thay tên đổi họ thành “đảng dân tộc” một cách hòa bình để “cùng với nhân dân mở ra trang sử mới đổi đời này của đất nước” như ông Nguyễn Trung mong muốn.
CS Đông Đức sụp theo “Bức tường Berlin”, CS Ba Lan sụp nhờ cuộc đấu tranh bền bĩ của Công Đoàn Đoàn Kết, CS ba nước vùng Baltic sụp do phong trào độc lập “thoát Liên Xô”, CS Tiệp sụp nhờ Cách Mạng Nhung, CS Hungary, CS Bulgary và CS Albany sụp vì sức đẩy của phe đối lập mạnh hơn khả năng bám vào quyền lực của đảng CS, CS Romania sụp sau cái chết của vợ chồng Nicolae Ceaușescu, CS Mông Cổ sụp do các cuộc biểu tình của các bạn trẻ trong phong trào dân chủ, CS Ethiopia sụp sau khi nhà độc tài Haile Mariam Mengistu bị lực lượng của Mặt Trận Dân Chủ Ethiopia đánh bại và phải bỏ trốn khỏi thủ đô Addis Ababa.
Tóm lại, các chế độ CS chỉ có thể bị lật đổ bằng cách này hay cách khác chứ chưa có một lãnh đạo CS nào tự nguyên bước xuống khi họ đang trong thế mạnh.
Ngay cả Mikhail Gorbachev, một lãnh đạo có đầu óc tiến bộ được cả thế giới ca ngợi nhưng khi còn là tổng bí thư CS Liên Xô cũng tìm nhiều cách để bảo vệ Liên Xô chứ không nghĩ đến việc từ chức sớm, thay đổi tên đảng hay giải tán đảng CS để thành lập một đảng khác. Ông ta chỉ từ chức khi Liên Xô, một liên bang rộng nhất thế giới đã không còn một tấc đất cắm dùi. Ngay cả căn phòng, chiếc bàn, cái ghế nơi ông ngồi tuyên bố từ chức hôm đó cũng đã thuộc vào Cộng Hòa Nga.
Trong buổi phỏng vấn dành cho ký giả Jonathan Steele của báo The Guardian nhân dịp đánh dấu 20 năm sụp đổ của Liên Xô, khi được hỏi điều gì đã làm ông hối tiếc nhất Gorbachev trả lời lẽ ra ông nên rời bỏ đảng CS sớm hơn.
Cũng theo báo The Guardian “Gorbachev nói, lẽ ra ông nên từ chức vào tháng 4 năm 1991 và thành lập một đảng dân chủ cải cách.”
Sau hai mươi năm suy nghĩ Gorbachev mới biết chọn lựa ông đã nên làm. Trong hồi ký xuất bản năm 1996, Gorbachev không viết về điểm này.
Một lãnh đạo tiến bộ và có tầm nhìn rộng như Gorbachev đã không nghĩ ra lúc đó. Lý do là quyền lực. Con sâu quyền lực đục vào tận xương tủy của các lãnh đạo CS dù người đó là ai. Gorbachev chỉ là con người và hơn ai hết ông biết có quyền lực là có tất cả. Trong thời điểm Liên Xô đang dầu sôi lửa bỏng mà Gorbachev vẫn dắt gia đình đi nghỉ mát để rồi sự nghiệp suýt tan thành mây khói nếu không có Boris Yeltsin cứu vãn. Sau này ông cũng hối hận về chuyến đi nghỉ mát này.
Trong các đảng CS trên toàn thế giới, đảng CSVN là đảng chịu đựng nhiều thiệt hại nhất để chiếm được quyền lực trên phạm vi cả nước Việt Nam ngày 30 tháng 4, 1975.
Con đường của đảng CSVN bắt đầu từ luận cương của Lenin và luận cương Trần Phú cho đến thời kỳ hưởng thụ như Tô Lâm và giới CS cai trị tại Việt Nam đang làm đã được tưới bằng máu không chỉ của các thế hệ đảng viên CS mà cả máu của nhiều triệu người Việt do bùa mê “chống Mỹ cứu nước” gây ra.
Dù trải qua con đường máu rất dài, từ 1975 giang sơn Việt Nam này đã thuộc vào đảng và dân tộc Việt Nam này đã thuộc vào quyền sinh sát của đảng.
Ngày nay, các thế hệ lãnh đạo CSVN đang sống trong thời kỳ hưởng thụ. Những người như Tô Lâm, 18 tuổi vào năm 1975 và có cha là “anh hùng các lực lượng võ trang nhân dân”, thừa hưởng gia sản của các lớp CS đi trước.
Các lãnh đạo CSVN ngày nay chẳng quan tâm và chưa chắc đã biết gì nhiều về những vấn đề thuộc phạm vi ý thức hệ. Với họ Mác, Lenin, Mao, Hồ đều chết hết chỉ những ông chủ, bà chủ ngân hàng là còn sống.
Trách nhiệm của ban tuyên giáo là để tẩy não các em nhỏ như hoa hậu Đỗ Thị Hà chứ không phải họ. Họ có thể đọc, có thể xem bất cứ sách vở, nguồn tin, báo chí, phim ảnh nào họ muốn. Vợ con họ đi Mỹ, đi Pháp như đi chợ và mua sắm tại những tiệm đắt giá nhất thế giới.
Việc đặt vòng hoa trên mộ Mác của Tô Lâm chỉ là đóng kịch. Cách ăn uống tối hôm sau mới là đời sống thật của giai cấp chủ nô đỏ tại Việt Nam. Do đó, nói chuyện “buông đao thành Phật” với họ chẳng khác chi “nước đổ đầu vịt”.
Một thành phần không nhỏ trong 97 triệu dân Việt ngày nay là nô lệ sống nhờ sự bố thí của đảng. Thời nô lệ ở Mỹ có “Luật Đen” (Black Codes), thời CSVN có “Luật Hình Sự”. Cả hai đều do giới cai trị đặt ra để trừng phạt những người bị trị.
Nhìn cảnh hàng trăm ngàn người Việt thất tha thất thểu trên đường tay ẵm em bé mới sinh còn đau lòng hơn nhìn những bức ảnh của người nô lệ da đen ở Mỹ 400 năm trước đây. Người nô lệ ở Mỹ mất quê hương và người Việt cũng thế, khác chăng người Việt mất quê hương ngay trên chính quê hương mình.
Trong mùa dịch, trên thế giới có hàng trăm chính khách, nghị sĩ, bộ trưởng, thứ trưởng bị mất chức, bị phê bình hay phải từ chức chỉ vì mắc phải những lỗi lầm rất nhẹ như dắt con cái đi tắm biển vào ngày các con được nghỉ học. Việt Nam thì khác. Tô Lâm ăn “thịt bò dát vàng” với hóa đơn lên đến hàng chục ngàn bảng Anh xong về lại Việt Nam tỉnh bơ như không có chuyện gì xảy ra.
Càng mỉa mai hơn vài hôm sau chính Tô Lâm lại đăng đàn hô hào chống tham nhũng. Một người có thể tự chửi mình một cách công khai như thế chỉ có ở Việt Nam.
Sở dĩ Tô Lâm nói không ngượng miệng bởi vì đám “cán bộ chống tham nhũng” ngồi nghe bên dưới cũng đều là những diễn viên trong các vai phụ trên sấu khấu chính trị đầy chất bi hài, băng hoại và thối nát của Việt Nam thời CS.
Cung đình của tổng bí thư gốc thợ rừng Nông Đức Mạnh, biệt thự của tổng bí thư gốc nông dân Lê Khả Phiêu, khu mộ 55 ngàn mét vuông của Trần Đại Quang là những điều dễ thấy, dễ chứng minh cho tội ác của đảng CS. Rất nhiều thứ khác như bất động sản giấu tên hay những con số trong ngân hàng ở ngoại quốc chỉ có thể được công khai hóa sau khi chế độ cáo chung.
Dù sao người viết cũng cám ơn ông Tô Lâm đã xát muối vào vết thương của những người Việt còn chút lương tâm, còn biết đau cho số phận của đồng bào bất hạnh, còn quan tâm đến tương lai dân tộc để hy vọng từ đó họ sẽ có một thái độ dứt khoát, một hướng đi phù hợp với thời đại và nhất là đừng kỳ vọng gì vào sự thay đổi của đảng CSVN.
04/12/2021
Trần Trung Đạo
https://www.facebook.com/trantrungdao
Số phận một loài chim
Trần Trung Đạo
Giới thiệu: Sự kiện bài hát chống Mỹ Cô Gái Vót Chông được Hoa Hậu Việt Nam Đỗ Thị Hà biểu diễn tại Puerto Rico gây nhiều phản ứng. Định chế của Puerto Rico trong quan hệ với Mỹ được đặt dưới dạng đặc biệt sau chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha 1898, chưa sáp nhập hẳn thành một tiểu bang của Mỹ nhưng không có chủ quyền của một quốc gia độc lập. Dĩ nhiên trong hệ thống tuyên truyền của đảng CS, việc chọn một bài hát để trình diễn trước một chương trình quốc tế phải bị kiểm duyệt kỹ càng. Đỗ Thị Hà và phái đoàn Việt Nam chọn bài hát và bộ máy kiểm duyệt chấp thuận bài hát. Với mức độ phổ biến do bầy vẹt và hàng triệu chiếc loa phường hét the thé suốt 46 năm qua, Cô Gái Vót Chông dù có lời hay không lời cũng không khác gì nhau. Trong thời điểm Mỹ đang cứu sống Việt Nam với 17 triệu liều vắc xin chống Covid-19, việc trình diễn những bài hát chống Mỹ là hành động ngu xuẩn ngoài tự điển. Nhưng đừng quên vẹt là một loài chim. Mỗi sáng vẹt vẫn hát mừng vui chào đón một ngày mới như được luyện tập từ nhiều năm và không thể biết hôm đó gia đình chủ đang có đại tang. Điều đó cho thấy, dù hiện tượng xã hội có khác nhau giữa Bắc Hàn và Việt Nam, bản chất chuyên chính của hai chế độ vẫn giống nhau. Một em bé Bắc Hàn được huấn luyện để trở thành vẹt và em bé Việt Nam cũng thế. Khác chăng chiếc lồng sắt của em bé Việt Nam rộng và thưa hơn để được nhìn thấy nhiều nét đẹp bên ngoài. Bài viết này viết 16 năm trước trên diễn đàn Talawas nhưng nội dung vẫn không thay đổi vì giống như bầy chim Bắc Hàn, cho tới nay bầy chim Việt Nam vẫn còn hót trong lồng sắt.
***
Cách đây không lâu, anh chủ nhiệm của một tờ báo địa phương đến thăm và nghe các con tôi nói chúng thích nuôi thú vật kiểng (pet). Lần sau anh trở lại với một chiếc lồng và hai con chim nhỏ để tặng các cháu. Anh dặn kỹ: "Chim này chỉ nuôi trong nhà, đem ra ngoài gió chúng sẽ chết". Tôi thật không tin. Chim là phải bay nhảy chứ làm gì ngay cả gió cũng sợ. Tôi đến một tiệm bán chim hỏi lại. Bà chủ tiệm cũng đồng ý với anh chủ nhiệm: "Đây là loại chim được sản xuất theo lối công nghiệp chứ không phải chim sinh nở tự nhiên. Nếu đem ra ngoài trời, chúng sẽ chết vì không thích hợp với môi trường".
Tôi đành giữ kỹ chim trong nhà. Vài hôm sau, một người bạn cùng quê của tôi tới thăm. Anh nghiêm chỉnh khiển trách: "Mày là Phật tử mà bỏ tù sinh vật. Người ta chẳng ví cảnh tù đày như cá chậu chim lồng đó sao. Phải thả chúng bay đi". Tôi thật khó xử, vừa cảm thấy việc "bỏ tù sinh vật" là không nên làm nhưng thả bay đi chúng sẽ chết. Tôi phân trần với anh: "Đây là chim công nghiệp, đem ra ngoài chúng sẽ chết, và thả bay đi chúng càng chết nhanh hơn". Anh bạn Quảng Nam đáp: "Nếu chúng chết thì chúng sẽ trọn nghiệp vì biết đâu kiếp sau chúng sẽ là những con chim tự do".
Tôi chưa hẳn đồng ý với cách cãi của anh ta nhưng phải công nhận việc tôn trọng tự do của mọi sinh vật là đúng, nên viết thư về Việt Nam hỏi ý một vị Đại Đức ở Hội An. Thầy trả lời theo lối "vạn sự do tâm": "Chim công nghiệp vẫn là chim. Nếu môi trường xấu làm cho chúng xấu đi thì môi trường tốt sẽ làm cho chúng tốt trở lại. Hãy tập cho chúng quen dần, từng bước và khi chúng hoàn toàn quen thuộc với môi trường bên ngoài thì phóng sinh chúng đi".
Tôi cho đó là giải pháp hợp lý. Rất tiếc tôi lại quá bận để tập cho chim quen với thiên nhiên, bèn tặng chúng cho người em và dặn chú ấy tập cho chúng quen dần với đời sống bên ngoài, định bụng khi chúng hoàn toàn làm quen sẽ bàn với chú em làm lễ phóng sinh.
Tháng sau tôi trở lại nhà người em nhưng không thấy chim. Chưa kịp hỏi, chú em trả lời: "Chẳng giấu gì anh, ngày nào em cũng đem chim ra vườn tập. Chúng tiến bộ lắm. Chúng rất thích cảnh thiên nhiên. Vừa thấy cảnh cây lá sum sê là chúng kêu ríu rít lên ngay. Tuần trước, trong lúc em để chúng trên sân sau, chạy vào nhà trả lời điện thoại, khi trở ra thì chỉ còn mấy cái lông rơi rớt bên cạnh chiếc lồng vỡ nát và con mèo của hàng xóm đang nhảy sang bên kia hàng rào".
Tôi an ủi chú em theo lý luận của anh bạn Quảng Nam: "Hai con chim đó đã trọn nghiệp trong kiếp này, hy vọng đời sống sau, chúng sẽ làm chim của núi rừng tự do thay vì làm kiếp chim công nghiệp".
Mỗi khi nhớ đến câu chuyện hai con chim, tôi lại ngậm ngùi nghĩ đến số phận của các em bé Bắc Hàn. Cuộc đời của các em không khác gì những con chim công nghiệp kia. Ngay khi các em ra đời, các cơ chế chính trị và xã hội đã được chuẩn bị sẵn để các em sống, suy nghĩ và hành động một cách thích nghi.
Tương tự như môi trường dành cho loại chim công nghiệp, cơ chế chính trị Bắc Hàn được xây dựng và tồn tại bằng niềm tin tuyệt đối nơi lãnh tụ của họ. Trong cơ chế đó sự nhầm lẫn, hoài nghi dù hợp lý đều không được cho phép tồn tại.
Trong buổi phỏng vấn dành cho tuần báo Time, người cận vệ của Kim Chính Nhật đào thoát nhắc lại câu chuyện của một người lái xe vô tình chạy lạc vào khu vực dinh thự của Kim Chính Nhật. Sau khi thẩm vấn anh tài xế, đám cận vệ của Kim Chính Nhật đều đồng ý rằng anh ta thật sự đi lạc. Tuy nhiên cách giải quyết họ chọn trong trường hợp đó là bắn chết anh ta ngay tại chỗ. Gia đình anh tài xế được thông báo rằng anh đã "đền nợ nước" và thưởng công cho gia đình một cái tủ lạnh.
Nhiều câu chuyện, đối với người sống bên ngoài bán đảo Bắc Hàn, có thể là chuyện hoang đường đến độ buồn cười, nhưng với người dân Bắc Hàn lại là chân lý, đúng như một nhà thơ Việt Nam có lần đã định nghĩa: "Chân lý là đường đảng đã vạch ra và sự thật là gì đảng đã dạy ta".
Giờ sinh của Kim Chính Nhật, con trai Kim Nhật Thành và là đương kim lãnh tụ Bắc Hàn, được mô tả trong giáo trình tiểu học: "Lãnh Tụ Kính Yêu sinh ra trong một căn cứ quân sự bí mật bên rặng núi thánh Paektu-san (Bạch Đầu Sơn), lúc Người ra đời một có hai cầu vồng rực rỡ và một ngôi sao sáng hiện ra trên nền trời" (Người dân Bắc Hàn gọi Kim cha là Lãnh Tụ Vĩ Đại hay Lãnh Tụ Vĩnh Cửu và Kim con là Lãnh Tụ Kính Yêu).
Thật ra làm gì có căn cứ quân sự nào, chẳng trên núi thánh nào và lại càng không có chuyện thần thoại như hai vòng cầu vồng ngũ sắc hiện ra trong giờ Kim Chính Nhật giáng trần. Theo sử liệu của Sô-Viết cũ, anh chàng Kim Chính Nhật sinh ra trong một đồn lính nhỏ hẻo lánh ở Siberia vì cha anh ta, Kim Nhật Thành, làm lính cho Stalin sau khi trốn khỏi Mãn Châu.
Một mẩu chuyện khác về Kim Chính Nhật: "Mặc dù trước kia chưa bao giờ chơi gôn (golf), khi cầm cây gôn lần đầu Lãnh Tụ Kính Yêu đã đánh trúng ngay 5 lỗ một lần". Và nữa, "Một lần nọ, Lãnh Tụ Kính Yêu đến kiểm tra súng của một đơn vi quân đội và trước mặt binh sĩ Người đã rút súng bắn trúng ngay mắt trái của mười con bò rừng". Kim Chính Nhật không phải là người thường, trong ý thức của người dân Bắc Hàn, anh chàng là hiện thân của một thiên thần.
Chàng ta tuy chưa bao giờ đi lính một ngày nhưng được gọi trong sách là "Tướng Trời". Tại Bắc Hàn, ngay cả chiếc khăn để lau tấm ảnh của hai cha con họ Kim cũng không được phép dùng để lau các đồ vật khác trong nhà. Giống như những con chim công nghiệp, các em bé Bắc Hàn cũng líu lo mỗi sáng, nhưng nếu ai lắng tai nghe, bài hát các em hát trong giờ vào lớp luôn bắt đầu bằng câu: "Hoa nở nhờ có không khí và các em cười nhờ ơn của Kim Lãnh Tụ Vĩ Đại".
Học sinh Bắc Hàn được dạy phải "yêu tổ quốc và yêu đồng bào" nhưng tổ quốc của em được mô tả trong sách vở không phải là một quốc gia nghèo đói, cô lập với thế giới bên ngoài mà một thiên đường trên trái đất dưới sự lãnh đạo anh minh của Kim Lãnh Tụ.
Trong các ví dụ được dùng ở trường học, từ văn chương đến toán học, cuộc đời và sự nghiệp của hai cha con họ Kim luôn được dùng để ví những điều tốt đẹp và "đế quốc Mỹ xâm lược" luôn được dùng để ám chỉ những điều xấu xa tội lỗi nhất trên đời.
Sinh viên học sinh Bắc Hàn rất kiêu căng khi nói về lịch sử và dân tộc Triều Tiên vì một lý do đơn giản, ngoài những câu chuyện tuyên truyền được dạy ở trường, họ không biết gì về lịch sử loài người và cũng không biết đúng về lịch sử của tổ tiên họ. Và với một môi trường như thế, nhiều thế hệ người dân Bắc Hàn, hơn nửa thế kỷ qua đã tiếp tục sinh ra, lớn lên trong số phận một loài chim công nghiệp.
Mặc dù những mẩu chuyện trên có thể gợi lại trong ký ức của những người Việt lớn tuổi những hình ảnh, những tiếng thì thầm nghe rất quen quen, tuổi thơ Việt Nam ngày nay dù sao cũng may mắn hơn những người cùng tuổi với họ ở Bắc Hàn.
Trong lúc nhiều nơi vẫn còn khó khăn, thiếu thốn, đa số tuổi thơ Việt Nam đang có một đời sống tinh thần dễ chịu hơn tuổi thơ Bắc Hàn. Bài học của thiếu nhi Việt Nam học hôm nay không đến nỗi hoang đường như của thiếu nhi Bắc Hàn và bài hát của các em bé Việt Nam hát không trơ trẽn khó nghe như những câu mà thiếu nhi Bắc Hàn dùng để ca tụng cha con họ Kim. Ánh sáng bên ngoài đã theo những khe hở của "chính sách đổi mới" rọi vào căn nhà Việt Nam mang theo kiến thức mới lạ từ những phương trời khác. Qua những khe hở đó, chúng ta cũng được nghe nhiều tiếng nói chân thành vọng ra từ trong nước tương tự như chúng ta đang nghe những ưu tư trăn trở của những người Việt đang sống ở ngoài nước dù họ đã một thời lớn lên bên này hay bên kia sông Bến Hải.
Như vậy có gì giống nhau trong hoàn cảnh của hai em thiếu nhi Bắc Hàn và Việt Nam không?
Có chứ. Hai cơ chế chính trị ảnh hưởng đến đời sống của các em bé Bắc Hàn và Việt Nam về căn bản vẫn giống nhau. Hai con nước đều bắt nguồn từ thượng lưu sông Volga trong những thập niên năm đầu của thế kỷ 20 và vẫn còn đang chảy xiết.
Cả hai cơ chế chính trị đều nhằm ngặn chặn mọi suy nghĩ độc lập và hủy diệt mọi khả năng phản kháng của con người. Quyền căn bản đầu tiên trong nghiên cứu khoa học là quyền đặt vấn đề, thế nhưng quyền đó không đươc tôn trọng trong hai xã hội Bắc Hàn và Việt Nam.
Hiện nay, nhiều quốc gia và hàng trăm tổ chức thiện nguyện, tôn giáo, nhân đạo khắp thế giới đang tìm mọi cách để cứu giúp thiếu nhi Bắc Hàn, nhưng đồng thời, mọi người cũng đồng ý rằng, tất cả những gì họ đang làm chỉ là những biện pháp vá víu trong lúc chờ đợi một sự thay đổi toàn diện và căn bản.
Đúng vậy, sinh mệnh của một quốc gia không thể thay đổi bằng vài bao bột mì, hướng đi của một đất nước không thể được lót bằng dăm ba lon sữa và hạnh phúc của một dân tộc không bao giờ đến bằng sự vuốt ve an ủi từ những bàn tay thương xót bên ngoài.
Số phận của một dân tộc phải được quyết định bằng mồ hôi nước mắt, bằng những tấm lòng tận tụy với tương lai dân tộc, bằng đức tính kiên nhẫn làm việc vì đất nước của chính người dân nước đó. Và dù diễn ra dưới bất cứ hình thức nào, nhẹ nhàng hay cứng rắn, xói mòn hay cường tập, thay đổi cơ chế chính trị vẫn là mục tiêu quyết định của mọi cuộc cách mạng xã hội.
01/12/2021
Trần Trung Đạo
https://www.facebook.com/trantrungdao
Đăng ngày 09 tháng 12.2021